Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

đánh giá thực trạng và nghiên cứu một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai tại tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.64 KB, 88 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
2.1. Mục tiêu tổng quát 2
2.2. Mục tiêu cụ thể 2
2.3. Yêu cầu 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 3
3.1. Ý nghĩa khoa học 3
3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3
Chương 1 4
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4
1.1.1. Cơ sở lý luận của đề tài 4
1.1.2. Cơ sở pháp lý của đề tài 4
1.2. Khái quát về vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai 5
1.2.1. Khái niệm VPHC trong lĩnh vực đất đai 5
1.2.2. Phân loại VPHC trong lĩnh vực đất đai 7
1.2.3. Các hành vi VPHC trong lĩnh vực đất đai 9
1.3. Khái quát pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực đất đai hiện hành.16
1.3.1. Khái quát xử lý VPHC trong lĩnh vực đất đai 16
1.3.2. Chủ thể VPHC trong lĩnh vực đất đai 18
1.3.3. Nguyên tắc xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai 19
1.3.4. Thời hiệu xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai 20
1.3.5. Hình thức xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai 21
1.3.6. Mức xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai 24
1.3.7. Thẩm quyền xử lý VPHC trong lĩnh vực đất đai 30
1.3.8. Thủ tục xử lý VPHC trong lĩnh vực đất đai 33
1.3.9. Vai trò của pháp luật xử lý VPHC trong lĩnh vực đất đai 34
i
1.4. Các nghiên cứu trong nước liên quan đến hệ thống văn bản pháp luật


xử lý VPHC về đất đai 34
1.4.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước năm 1980 34
1.4.2. Thời kỳ từ năm 1980 đến năm 1993 36
1.4.3. Thời kỳ từ năm 1993 đến năm 2003 37
1.4.4. Thời kỳ từ năm 2003 đến nay 38
Chương 2 40
ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG 40
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 40
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 40
2.1.1. Địa điểm nghiên cứu 40
2.1.2. Thời gian nghiên cứu 40
2.2. Đối tượng nghiên cứu 40
2.3. Nội dung nghiên cứu 40
2.4. Phương pháp nghiên cứu 41
2.4.1. Phương pháp điều tra cơ bản 41
2.4.2. Phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích số liệu điều tra 42
2.4.3. Phương pháp đánh giá, đối chiếu, so sánh, diễn giải 42
2.4.4. Phương pháp tham khảo, kế thừa các tài liệu liên quan đến đề tài
42
2.4.5. Phương pháp tổng hợp, quy nạp 42
2.4.6. Phương pháp chuyên gia 42
Chương 3 43
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 43
3.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội ảnh hưởng tới đề tài
nghiên cứu 43
3.1.1. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên và cảnh quan môi trường 43
3.1.2. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội 47
3.1.3. Dân số, lao động 50
ii
3.2. Đánh giá thực trạng về tình hình VPHC trong lĩnh vực đất đai tại tỉnh

Vĩnh Phúc 52
3.2.1. Đánh giá thực trạng VPHC trong việc SDĐ của hộ gia đình cá
nhân theo đơn vị hành chính cấp huyện 52
3.2.2. Đánh giá thực trạng VPHC trong việc SDĐ của hộ gia đình, cá
nhân theo hình thức vi phạm 55
3.3. Đánh giá kết quả xử lý VPHC trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc 57
3.3.1. Đánh giá kết quả xử lý VPHC trong việc SDĐ của hộ gia đình cá
nhân theo đơn vị hành chính cấp huyện 57
3.3.2. Đánh giá kết quả xử lý VPHC trong việc SDĐ của hộ gia đình cá
nhân theo hình thức vi phạm 59
3.3.3. Đánh giá kết quả xử lý VPHC trong việc SDĐ của hộ gia đình cá
nhân theo hình thức xử lý 61
3.3.4. Đánh giá sự hiểu biết của hộ gia đình, cá nhân về vi phạm hành
chính và xử lý vi phạm hành chính trong sử dụng đất theo vùng 62
3.4. Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai tại tỉnh Vĩnh Phúc 65
3.4.1. Đề xuất một số nội dung nhằm hoàn thiện pháp luật đất đai 65
3.4.2. Hoàn thiện việc xử lý VPHC trong lĩnh vực đất đai 66
3.4.3. Một số giải pháp nhằm bảo đảm việc xử lý VPHC trong lĩnh vực
đất đai 66
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 68
1. Kết luận 68
2. Kiến nghị 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu Chú giải
LĐĐ : Luật Đất đai
VPHC : Vi phạm hành chính

TNMT : Tài nguyên và môi trường
UBND : Uỷ ban nhân dân
SDĐ : Sử dụng đất
TP : Thành phố
TX : Thị xã
STT : Số thứ tự
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 3.1: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2001- 2010 48
Bảng 3.2: Một số chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001- 2010 49
Bảng 3.3: Thống kê các trường hợp VPHC của hộ gia đình, cá nhân trong việc
SDĐ theo đơn vị hành chính từ 2003 đến nay 52
Bảng 3.4: Thống kê các trường hợp VPHC của hộ gia đình, cá nhân trong việc
SDĐ theo vùng từ năm 2003 đến nay 53
Bảng 3.5: Thống kê các trường hợp VPHC trong việc SDĐ của hộ gia đình, cá
nhân theo hình thức vi phạm từ năm 2003 đến nay 55
Bảng 3.6: Thống kê kết quả xử lý VPHC trong việc SDĐ của hộ gia đình cá
nhân theo đơn vị hành chính cấp huyện từ năm 2003 đến nay 57
Bảng 3.7: Thống kê kết quả xử lý VPHC trong việc SDĐ của hộ gia đình, cá
nhân theo vùng từ năm 2003 đến nay 58
Bảng 3.8: Thống kê kết quả xử lý VPHC trong việc SDĐ của hộ gia đình cá
nhân theo hình thức vi phạm từ năm 2003 đến nay 59
Bảng 3.9: Thống kê kết quả xử lý VPHC trong việc SDĐ của hộ gia đình cá
nhân theo hình thức xử lý 61
Bảng 3.10: Đánh giá sự nhận biết của người dân về tình trạng xảy ra VPHC
trong SDĐ tại địa phương 62
Bảng 3.11: Đánh giá sự nhận biết của người dân về việc xử lý VPHC trong
SDĐ tại địa phương 62
Bảng 3.12: Đánh giá sự hiểu biết của người dân về một số hành vi vi phạm,
hình thức xử lý và thẩm quyền xử lý VPHC trong SDĐ 63

v
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1 Bản đồ hành chính tỉnh Vĩnh Phúc 43
Hình 3.2. Cơ cấu SDĐ của tỉnh Vĩnh Phúc năm 2012 46
Hình 3.3. Số các trường hợp vi phạm theo vùng 54
Hình 3.4. Diện tích đất vi phạm theo vùng 54
Hình 3.5. Số các trường hợp vi phạm theo hình thức vi phạm 56
Hình 3.6. Diện tích đất vi phạm theo hình thức vi phạm 56
Hình 3.7. Số trường hợp vi phạm theo vùng 58
Hình 3.8. Diện tích đất vi phạm đã xử lý theo vùng 59
Hình 3.9. Số trường hợp đã xử lý vi phạm theo hình thức xử lý 60
60
Hình 3.10. Diện tích đất vi phạm đã xử lý theo hình thức vi phạm 60
vi
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá; là tư liệu sản xuất đặc
biệt trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp; là thành phần quan trọng hàng
đầu của môi trường sống; là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ
sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng [28]. Đất đai là nguồn tài
nguyên thiên nhiên có hạn về diện tích và số lượng; cố định về vị trí địa lý và
không thể di dời được; đây chính là nguyên nhân chủ yếu tạo ra sự khác biệt
về giá trị giữa các diện tích đất có vị trí địa lý khác nhau với các tài sản khác.
Dưới góc độ chính trị pháp lý, đất đai là yếu tố cơ bản nhất của chủ quyền
lãnh thổ quốc gia [17].
Chính sách đất đai luôn được coi là một trong những chính sách lớn của
Đảng và Nhà nước. Hiến pháp năm 1980 đã xác lập chế độ sở hữu toàn dân
về đất đai. Chế độ này được xác lập, duy trì, củng cố hoàn thiện qua các Luật
Đất đai (LĐĐ) năm 1987, LĐĐ năm 1993 và LĐĐ năm 2003. Đồng thời, Nhà
nước ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan

hệ pháp luật đất đai nhằm quản lý chặt chẽ, khai thác tiềm năng của đất đai
một cách hợp lý và sử dụng có hiệu quả, triệt để tiết kiệm đất, ngăn ngừa và
xử lý các vi phạm pháp luật về đất đai [17].
Thực tế nhiều năm qua cho thấy tình trạng vi phạm trong quản lý và
SDĐ đai của các đối tượng xảy ra nhiều và phổ biến ở nhiều cấp, nhiều
ngành; điều này thể hiện số lượng đơn khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực đất đai
hàng năm chiếm tỷ lệ cao (trên 80% tổng lượng đơn thư hàng năm của tỉnh
Vĩnh Phúc) [38]. Xảy ra thực trạng trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân cơ bản là: các VPHC chưa được phát hiện kịp thời, đầy đủ và việc
xử lý chưa nghiêm minh; việc chấp hành và thực thi các quyết định xử phạt
VPHC chưa kiên quyết, triệt để; quy định của pháp luật đất đai về xử phạt
1
VPHC còn có nhiều vướng mắc, bất cập, có quy định chưa có tính khả thi.
Vĩnh Phúc là một tỉnh đang phát triển mạnh mẽ cả về kinh tế lẫn phát triển
về cơ sở hạ tầng, công tác quản lý về đất đai gặp nhiều khó khăn. Nhiều hành vi
VPHC về đất đai vẫn xảy ra, đòi hỏi cần phải có nghiên cứu tổng thể hệ thống
pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về đất đai nói
chung và về việc xử lý VPHC trong lĩnh vực đất đai nói riêng.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Đánh giá thực trạng và nghiên cứu
một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai tại tỉnh Vĩnh Phúc” là rất cần thiết và cấp bách nhằm góp
phần hoàn thiện về công tác quản lý nhà nước về đất đai của tỉnh Vĩnh Phúc
nói chung và các quy định về xử lý VPHC trong lĩnh vực đất đai nói riêng,
đặc biệt trong bối cảnh Nhà nước ta đang sửa đổi LĐĐ năm 2003.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá được thực trạng vi phạm, kết quả xử lý VPHC trong việc SDĐ
của hộ gia đình, cá nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc xử
lý VPHC về đất đai trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2003 đến nay.
2.2. Mục tiêu cụ thể

- Đánh giá được thực trạng VPHC trong việc SDĐ của hộ gia đình, cá
nhân trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn từ 2003 đến nay;
- Đánh giá được kết quả xử lý VPHC trong việc SDĐ của hộ gia đình, cá
nhân trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn từ 2003 đến nay;
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác xử lý VPHC trong
SDĐ của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
2.3. Yêu cầu
- Nắm vững các quy định của pháp luật về xác định và xử lý VPHC
trong việc SDĐ;
- Các nguồn số liệu, tài liệu điều tra thu thập trên địa bàn nghiên cứu
2
phải phản ánh đúng thực tế, đánh giá đẩy đủ, trung thực, khách quan, khoa
học, đảm bảo lô gíc và hệ thống. Số liệu phải được điều tra thu thập từ 2
nguồn là thứ cấp và sơ cấp;
- Giải pháp đề xuất phải đảm bảo khoa học, đúng với chính sách pháp
luật của nhà nước, phù hợp với thực tế ở địa phương và có tính khả thi.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về xử lý VPHC và pháp luật xử lý
VPHC trong lĩnh vực đất đai ở Việt Nam;
- Tạo lập cơ sở khoa học trong việc đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện việc xử lý VPHC trong lĩnh vực đất đai ở nước ta hiện nay.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Làm tài liệu tham khảo cho các chuyên gia xây dựng pháp luật về xử lý
VPHC trong lĩnh vực đất đai;
- Góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý nói chung và xử lý
VPHC về đất đai nói riêng tại tỉnh Vĩnh Phúc.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
Đất đai ngày càng thể hiện được tầm quan trọng bậc nhất trong việc ảnh
hưởng tới sự phát triển toàn diện của đất nước. Việc làm thế nào để quản lý và
SDĐ một cách tiết kiệm, hiệu quả nhất là vấn đề luôn luôn được nhà nước ta
coi trọng. Nó được thể hiện qua việc nhà nước ta dần hoàn thiện pháp luật đất
đai qua các thời kỳ và giai đoạn gần đây nhất là LĐĐ năm 2003 [17]. Tuy
nhiên, nó chỉ đáp ứng được phần nào trong việc quản lý và SDĐ mà còn
nhiều bất cập trong việc quản lý và xử lý các vi phạm về đất đai. Ngoài việc
pháp luật về đất đai còn nhiều bất cập thì việc quản lý SDĐ ở các địa phương
nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng còn nhiều hạn chế trong việc phát hiện
và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm về đất đai dẫn đến việc vi phạm về
đất đai là khá phổ biến trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Từ khi tái lập tỉnh (năm 1997) đến nay, Vĩnh Phúc đã và đang đạt được
nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Đó là do việc
SDĐ có hiệu quả, tuy nhiên “Tình trạng lấn, chiếm, làm nhà trái phép trên
đất nông nghiệp, vi phạm hành lang, chuyển đổi, chuyển nhượng đất ở, đất
nông nghiệp không đúng pháp luật, không đúng thẩm quyền diễn ra phổ biến
ở các địa phương” [31]. Trong khi đó việc phát hiện còn chưa kịp thời, việc
xử lý còn chưa nghiêm, chưa đủ tính răn đe, gây mất công bằng trong việc
SDĐ. Nhiều trường hợp dẫn tới tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai gây
mất ổn định xã hội tại địa phương.
1.1.2. Cơ sở pháp lý của đề tài
Một số văn bản pháp lý liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài:
4
- Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992; [20]
- Luật Đất đai năm 2003; [22]
- Pháp lệnh xử lý VPHC năm 2002 đã được sửa đổi năm 2007 và năm
2008; [34],[35],[36]
- Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính

phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai; [6]
- Nghị định số 181/2004/ NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính
phủ về thi hành Luật Đất đai; [7]
- Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2008 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý VPHC năm
2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý VPHC
năm 2008; [8]
- Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2009 của Chính
phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai; [9]
- Thông tư số 16/2010/TT-BTNMT ngày 26 tháng 8 năm 2010 của Bộ
Tài nguyên và Môi trường quy định trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành quyết
định xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai; [2]
1.2. Khái quát về vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
1.2.1. Khái niệm VPHC trong lĩnh vực đất đai
1.2.1.1. Khái niệm VPHC
Ở một số nước trên thế giới, VPHC thường được hiểu chung là “các
hành vi vi phạm pháp luật mà không phải là tội phạm, bị xử phạt bằng các
chế tài hành chính” [14].
Ở Việt Nam, định nghĩa VPHC lần đầu tiên được nêu tại Điều 1, Pháp
lệnh xử phạt VPHC ngày 30/11/1989 như sau:
“VPHC là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình
sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.[15]
5
Pháp lệnh xử lý VPHC năm 1995 và sau đó là Pháp lệnh xử lý VPHC
năm 2002, không định nghĩa VPHC trực tiếp mà được quy định một cách gián
tiếp thông qua khái niệm “xử phạt VPHC”:
“Xử phạt VPHC được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức (sau đây gọi
chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô vi phạm các quy định của
pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định

của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.[34]
Hiện nay, có nhiều quan điểm cho rằng VPHC có lẽ còn nguy hiểm hơn
nhiều lần một số tội phạm nặng nhất như giết người, vì chúng giết môi trường
sống của con người, tức là gián tiếp, có khi là trực tiếp giết nhiều người và
hủy hoại môi trường sống của nhiều thế hệ mai sau. Vì vậy, “VPHC ở nước
ta là loại hành vi gây bất ổn cho xã hội rất lớn, gây nguy hiểm cho xã hội rất
lớn so với nhiều nước”. [18]
Tuy nhiên về mặt lý luận chung, các nhà khoa học pháp lý đều thừa nhận:
“VPHC là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý,
vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội
phạm và phải bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật” [30].
1.2.1.2. Khái niệm VPHC trong lĩnh vực đất đai
Các nhà khoa học pháp lý đã đưa ra khái niệm vi phạm pháp luật đất đai
như sau:
Vi phạm pháp luật đất đai là hành vi trái pháp luật, được thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quyền, lợi ích của Nhà nước, với vai trò
là đại diện cho chủ sở hữu, quyền và lợi ích của người SDĐ đai, cũng như
các quy định và chế độ sử dụng các loại đất [33].
Khái niệm VPHC trong lĩnh vực quản lý, SDĐ đai lần đầu tiên được ghi
nhận tại Điểm 1 mục I Thông tư số 278-TT/ĐC ngày 07/3/1997 của Tổng cục
Địa chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 04-CP ngày 10/01/1997 của
6
Chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai: “VPHC trong lĩnh vực
quản lý, SDĐ đai là những hành vi làm trái với quy định về quản lý, SDĐ đai
nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự” [27]. Khái niệm này
mới chỉ phản ánh được mặt khách quan của vi phạm, mà không đề cập đến
mặt chủ quan và chủ thể của VPHC.
Khoản 1 Điều 1 Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của
Chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai (sau đây gọi là Nghị định
số 182/2004/NĐ-CP) đã sửa lại khái niệm trên như sau:

“VPHC trong lĩnh vực đất đai quy định trong Nghị định này là hành vi
cố ý hoặc vô ý của cá nhân, tổ chức vi phạm các quy định của pháp luật về
đất đai mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt
hành chính” [8].
Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm
2009 về xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai (sau đây gọi là Nghị định số
105/2009/NĐ-CP) đã sửa đổi, bổ sung thêm chủ thể VPHC trong lĩnh vực đất đai:
“VPHC trong lĩnh vực đất đai quy định trong Nghị định này là hành vi
cố ý hoặc vô ý của người SDĐ, tổ chức, cá nhân có liên quan, tổ chức hoạt
động dịch vụ về đất đai vi phạm các quy định của pháp luật về đất đai mà
chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp
luật”[9].
1.2.2. Phân loại VPHC trong lĩnh vực đất đai
Căn cứ vào tính chất, mức độ hậu quả của hành vi VPHC, vào khách thể
và chủ thể VPHC trong lĩnh vực đất đai, chúng ta có thể phân loại VPHC về
đất đai thành các nhóm như sau:
a) Căn cứ dấu hiệu khách quan là hành vi và tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi VPHC thì có hành vi bị xử phạt bằng hình thức cảnh cáo, có
hành vi vi phạm bị xử phạt bằng tiền; có hành vi bị xử phạt bằng tiền và bị
buộc phải khắc phục hậu quả, có hành vi không bị buộc phải khắc phục hậu
7
quả. Ví dụ: hành vi SDĐ không đúng mục đích có thể bị phạt cảnh cáo, có thể
phạt tiền từ hai trăm nghìn (200.000) đồng đến năm trăm nghìn (500.000)
đồng nếu hậu quả của hành vi thuộc mức một (1), giá trị quyền SDĐ đối với
diện tích đất vi phạm quy thành tiền dưới ba mươi triệu (30.000.000) đồng đối
với đất nông nghiệp, dưới một trăm năm mươi triệu (150.000.000) đồng đối
với đất phi nông nghiệp (điểm a, khoản 1, Điều 8 Nghị định 105/2009/NĐ-
CP) [9]. Các hành vi VPHC trên Mức 1 nêu trên thì không được phạt cảnh
cáo mà đều phải xử phạt bằng tiền. Các hành vi SDĐ sai mục đích đều bị
buộc khôi phục lại tình trạng của đất như trước khi vi phạm.

b) Căn cứ vào khách thể là các quan hệ pháp luật đất đai để phân
thành 2 nhóm là nhóm hành vi VPHC trong SDĐ và nhóm hành vi VPHC
trong hoạt động dịch vụ về đất đai.
Nghị định số 105/2009/NĐ-CP quy định tổng số có 17 hành vi VPHC, bị
xử phạt, trong đó có 14 hành vi VPHC trong SDĐ và 03 hành vi VPHC trong
hoạt động dịch vụ về đất đai.
c) Căn cứ vào chủ thể là đối tượng VPHC, để phân loại thành nhóm bị
xử phạt VPHC bằng tiền và nhóm bị xử lý kỷ luật theo pháp luật về cán bộ,
công chức hoặc xử lý theo pháp luật hình sự. Ví dụ: Khoản 2 Điều 2 Nghị
định số 105/2009/NĐ-CP quy định: Cán bộ, công chức trong khi thi hành
công vụ có hành vi vi phạm pháp luật về quản lý đất đai sẽ bị xử lý kỷ luật theo
quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; trường hợp hành vi có dấu hiệu
cấu thành tội phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp
luật [9].
d) Căn cứ vào dấu hiệu chủ quan là yếu tố lỗi của VPHC trong lĩnh vực
đất đai, có thể phân loại hành vi vi phạm do lỗi cố ý, hành vi vi phạm do lỗi
vô ý. Ví dụ: khoản 2 Điều 1 Nghị định số 105/2009/NĐ-CP quy định, VPHC
trong lĩnh vực đất đai quy định trong Nghị định này là hành vi cố ý hoặc vô ý
của người SDĐ, tổ chức, cá nhân có liên quan, tổ chức hoạt động dịch vụ về
8
đất đai vi phạm các quy định của pháp luật về đất đai mà chưa đến mức bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật [9].
1.2.3. Các hành vi VPHC trong lĩnh vực đất đai
Nghị định số 105/2009/NĐ-CP quy định tổng số có 17 hành vi vi phạm
và bị xử phạt, trong đó có 14 hành vi VPHC trong sử dụng đất và 03 hành vi
VPHC trong hoạt động dịch vụ về đất đai. So với Nghị định số 182/2004/NĐ-
CP, có một số hành vi bị loại bỏ và một số hành vi được bổ sung, cụ thể:
Nghị định số 105/2009/NĐ-CP loại bỏ 02 hành vi:
- Bỏ hành vi "chậm thực hiện bồi thường và chậm nộp tiền sử dụng đất,
tiền thuê đất mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho

thuê đất cho phép" [8]. Việc bỏ hành vi này vì việc chậm thực hiện bồi
thường là hành vi vi phạm của cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ thực
hiện việc bồi thường, không phải là hành vi của người có đất bị thu hồi; do đó
không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định.
- Bỏ hành vi "chậm nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất mà không được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất cho phép” [8]. Việc
bỏ hành vi này vì đã được xử lý theo quy định của pháp luật về tài chính.
Nghị định số 105/2009/NĐ-CP bổ sung 03 hành vi:
- Nhận chuyển quyền sử dụng đất nhưng không đủ điều kiện nhận
chuyển quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 103 của Nghị định số
181/2004/NĐ-CP;
- Chậm đưa đất vào sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai;
- Chậm hoặc không cung cấp thông tin, giấy tờ, tài liệu có liên quan đến
việc thanh tra, kiểm tra; cản trở việc thanh tra, kiểm tra về đất đai.
Các hành vi VPHC được quy định trong Nghị định số 105/2009/NĐ-
CP, gồm:
Một là, sử dụng đất không đúng mục đích (Điều 8). Hành vi này được
khoản 1 Điều 3 Nghị định số 105/2009/NĐ-CP định nghĩa là hành vi sử dụng
9
đất không đúng với mục đích sử dụng, loại đất ghi trong Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc quyết định giao đất, quyết định
cho thuê đất, quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất hoặc giấy tờ
khác về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của LĐĐ
[9].
Hành vi sử dụng đất không đúng mục đích đối với 04 loại đất là:
- Chuyển đất chuyên trồng lúa nước sang đất phi nông nghiệp, chuyển
đất trồng cây lâu năm sang đất ao, hồ, đầm, nuôi trồng thuỷ sản sử dụng nước
mặn;
- Chuyển đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ sang sử dụng vào mục

đích khác;
- Chuyển từ đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao không thu tiền sử
dụng đất sang đất phi nông nghiệp theo quy định phải nộp tiền sử dụng đất
hoặc chuyển từ đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở;
- Sử dụng đất để xây dựng công trình, đầu tư bất động sản thuộc khu vực
đô thị, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế trái với quy hoạch sử
dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đã được công bố;
Hai là, lấn, chiếm đất (Điều 9). Khoản 2 và khoản 3 Điều 3 Nghị định số
105/2009/NĐ-CP lần lượt định nghĩa:
- Lấn đất là việc người đang sử dụng đất tự chuyển dịch mốc giới hoặc
ranh giới thửa đất để mở rộng diện tích đất [9].
- Chiếm đất là việc sử dụng đất mà không được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền cho phép hoặc không được chủ sử dụng đất cho phép hoặc việc
sử dụng đất do được Nhà nước tạm giao hoặc mượn đất nhưng hết thời hạn
tạm giao, mượn đất mà không trả lại [9].
Ba là, huỷ hoại đất (Điều 10). Hành vi này không được Nghị định số
105/2009/NĐ-CP chính thức định nghĩa. Tuy nhiên căn cứ vào quy định tại
10
Điều 10 của Nghị định số 105/2009/NĐ-CP, chúng ta có thể hiểu hủy hoại đất
là hành vi làm suy giảm chất lượng đất hoặc làm biến dạng địa hình hoặc gây
ô nhiễm đất dẫn đến hậu quả làm cho đất giảm hoặc mất khả năng sử dụng
theo mục đích sử dụng đã được xác định.
Bốn là, gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác (Điều 11).
Khoản 4 Điều 3 Nghị định số 105/2009/NĐ-CP định nghĩa gây cản trở cho
việc sử dụng đất của người khác là hành vi đưa vật liệu xây dựng, chất thải,
chất độc hại hay các vật khác lên thửa đất của người khác hoặc lên thửa đất
của mình hoặc đào bới, xây tường, làm hàng rào và các hành vi khác mà hành
vi này gây cản trở, làm giảm khả năng sử dụng đất của người khác hoặc gây
thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác [9].
Năm là, chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng

cho quyền sử dụng đất hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất
mà không thực hiện đúng thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về đất
đai. Nghị định số 105/2009/NĐ-CP không có giải thích về hành vi này, nhưng
chúng ta có thể hiểu là người sử dụng đất khi thực hiện các quyền của người sử
dụng đất đã không tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật đất đai.
Sáu là, tự ý chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại,
thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với đất
không đủ điều kiện. Hành vi này cũng không được Nghị định số
105/2009/NĐ-CP giải thích, nhưng có thể hiểu là đất không đủ điều kiện để
thực hiện các quyền theo quy định tại Điều 106 LĐĐ năm 2003, cụ thể là:
quyền sử dụng đất được chuyển nhượng phải có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; đất không có
tranh chấp; quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án; trong
thời hạn sử dụng đất.
Bảy là, nhận chuyển quyền sử dụng đất nhưng không đủ điều kiện nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
11
Giống với hai hành vi trên, hành vi này cũng không được định nghĩa rõ ràng
trong Nghị định số 105/2009/NĐ-CP. Tuy nhiên, cơ quan chủ trì soạn thảo
Nghị định cho rằng cần phải quy định hành vi này, bởi vì:
“Tại Điều 103 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP quy định điều kiện
nhận chuyển quyền sử dụng đất là cơ sở để quy định hình thức xử phạt đối
với người có hành vi nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, nhận góp vốn
bằng quyền sử dụng đất nhưng không đủ điều kiện nhận chuyển quyền sử
dụng đất”. [3].
Tám là, không đăng ký quyền sử dụng đất lần đầu, không đăng ký biến
động quyền sử dụng đất, đăng ký không đúng loại đất, không đăng ký khi
chuyển mục đích sử dụng đất, không đăng ký gia hạn sử dụng đất khi hết hạn
sử dụng đất mà vẫn đang sử dụng đất. Đây là hành vi không thực hiện đúng
các quy định về đăng ký quyền sử dụng đất quy định tại Điều 46 của LĐĐ

năm 2003 và Điều 38, Điều 39 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29
tháng 10 năm 2004 về thi hành LĐĐ. So với quy định về cố ý đăng ký không
đúng loại đất, không đăng ký khi chuyển mục đích sử dụng đất tại Điều 15
Nghị định số 182/2004/NĐ-CP thì Nghị định số 105/2009/NĐ-CP đã quy
định thêm các hành vi không đăng ký quyền sử dụng đất lần đầu, không đăng
ký biến động quyền sử dụng đất, không đăng ký gia hạn sử dụng đất khi hết
hạn sử dụng đất mà vẫn đang sử dụng đất.
- Đối với hành vi không đăng ký biến động quyền sử dụng đất, nội dung
này trùng với nhiều nội dung khác đã được quy định trong Nghị định số
105/2009/NĐ-CP.
- Đối với hành vi không đăng ký khi chuyển mục đích sử dụng đất, nội
dung của nó trùng với quy định về sử dụng đất không đúng mục đích. Bởi vì,
nếu người dân đăng ký khi chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định của
pháp luật tức là họ đã sử dụng đất đúng mục đích và ngược lại nếu họ không
đăng ký mà cứ sử dụng thì là sử dụng đất không đúng mục đích. Trong trường
12
hợp này, cơ quan có thẩm quyền có khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng
điều luật để xử phạt. Quy định không rõ ràng này dễ dẫn đến tình trạng tùy
tiện trong việc áp dụng pháp luật và phát sinh các tiêu cực trong công tác xử
lý vi phạm.
Chín là, hành vi gây cản trở trong việc Nhà nước giao đất, cho thuê đất,
thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng. Trước đây hành vi này được
Điều 18 của Nghị định số 182/2004/NĐ-CP quy định là “Cố ý gây cản trở
cho việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất” [8]. Các dạng cụ thể của hành vi
được quy định rõ tại khoản 1 và khoản 2 Điều 16 của Nghị định số
105/2009/NĐ-CP về cơ bản vẫn giữ nguyên như Điều 18 của Nghị định số
182/2004/NĐ-CP chỉ bổ sung thêm cụm từ “bồi thường, giải phóng mặt
bằng”, bao gồm: hành vi không có mặt tại địa điểm để bàn giao đất theo yêu
cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà không có lý do chính đáng; hành
vi ngăn cản cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành

xác định mốc giới, bàn giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, bồi thường, giải
phóng mặt bằng. Mặc dù, Nghị định số 105/2009/NĐ-CP đã bổ sung thêm
hành vi gây cản trở trong việc bồi thường giải phóng mặt bằng nhưng vẫn
chưa giải quyết được vướng mắc của các địa phương trong việc thực hiện
công tác này đó là: tại điểm a khoản 3 Điều 29 của Nghị định số 69/2009/NĐ-
CP quy định “Chủ đầu tư tiến hành khảo sát, đo đạc lập bản đồ khu vực dự
án ngay sau khi được chấp thuận chủ trương đầu tư” [10]. Tuy nhiên, khi các
chủ đầu tư tiến hành các công việc này, người sử dụng đất cản trở không cho
họ vào thửa đất của mình để đo vẽ, kiểm đếm khiến cho công tác bồi thường
giải phóng mặt bằng không thực hiện được. Nhưng hành vi này của người dân
lại không bị xử phạt do Nghị định số 105/2009/NĐ-CP không quy định hành vi
này. Như vậy, nhà làm luật cần bổ sung hành vi này vào Nghị định quy định về
xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai trong thời gian tới.
Mười là, hành vi không trả lại đất đúng thời hạn theo quyết định thu hồi
13
đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Về cơ bản nội dung Điều 17 của
Nghị định số 105/2009/NĐ-CP vẫn kế thừa quy định tại Điều 19 của Nghị
định số 182/2004/NĐ-CP đối với hành vi này. Tuy nhiên, có sửa một chút
tiêu đề của điều luật đó là đảo cụm từ “Không thực hiện đúng thời hạn trả lại
đất…” thành “Không trả lại đất đúng thời hạn…”.
Mười một là, tự tiện di chuyển làm sai lệch, hư hỏng mốc chỉ giới quy
hoạch sử dụng đất, mốc chỉ giới hành lang an toàn của công trình, mốc địa
giới hành chính. Điều 18 của Nghị định số 105/2009/NĐ-CP giữ nguyên quy
định của Điều 20 của Nghị định số 182/2004/NĐ-CP.
Mười hai là, hành vi làm sai lệch các giấy tờ, chứng từ trong việc sử
dụng đất. Điều 19 của Nghị định số 105/2009/NĐ-CP và Điều 21 của Nghị
định số 182/2004/NĐ-CP đều xác định rõ đây là hành vi tẩy xóa, sửa chữa
giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất dẫn đến việc cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất không đúng quy định; việc chuyển đổi, chuyển nhượng,
cho thuê, thừa kế, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng

đất không đúng thực tế và gây ra những hậu quả phức tạp.
Tuy nhiên, Nghị định 105/2009/NĐ-CP lại bỏ đi cụm từ “mà chưa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự”. Điều này dẫn đến khó khăn cho các cơ
quan có thẩm quyền trong việc áp dụng luật. Bởi vì, Bộ luật Hình sự năm
1999 có một điều quy định về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ
chức (Điều 267) [23]. Như vậy, sẽ khó có cơ sở để cơ quan có thẩm quyền xử
lý VPHC khi phát hiện hành vi phạm sẽ chuyển cho cơ quan điều tra truy cứu
trách nhiệm hình sự.
Mười ba là, hành vi chậm đưa đất vào sử dụng theo các quy định của
pháp luật về đất đai. Đây là hành vi mới được quy định trong Nghị định số
105/2009/NĐ-CP. Hành vi này được hiểu là người sử dụng đất có các hành
vi: không sử dụng đất trồng cây hàng năm quá thời hạn mười hai (12) tháng
liền; không sử dụng đất trồng cây lâu năm quá thời hạn mười tám (18) tháng
14
liền; không sử dụng đất trồng rừng quá thời hạn hai mươi bốn (24) tháng liền;
không sử dụng đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư
quá thời hạn mười hai (12) tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất chậm hơn hai
bốn (24) tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao
đất trên thực địa mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định
giao đất, cho thuê đất đó cho phép.
Mười bốn là, hành vi chậm hoặc không cung cấp thông tin, giấy tờ, tài
liệu có liên quan đến việc thanh tra, kiểm tra; cản trở việc thanh tra, kiểm tra về
đất đai. Đây cũng là hành vi mới được quy định trong Nghị định số
105/2009/NĐ-CP. Tuy nhiên, khoản 6 Điều 3 của Nghị định số 105/2009/NĐ-
CP chỉ định nghĩa về hành vi chậm cung cấp dữ liệu đất đai:
“Là hành vi chậm cung cấp thông tin, giấy tờ, tài liệu có liên quan đến
việc thanh tra, kiểm tra sau mười (10) ngày kể từ ngày công bố quyết định
thanh tra hoặc kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của người có thẩm
quyền, của cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật”[9].
Các hành vi không cung cấp thông tin, giấy tờ, tài liệu có liên quan đến

việc thanh tra, kiểm tra; cản trở việc thanh tra, kiểm tra về đất đai không được
Nghị định giải thích.
Mười lăm là, hành vi hành nghề tư vấn về giá đất mà không thực hiện
đúng nguyên tắc, phương pháp xác định giá đất theo quy định của pháp luật
hoặc không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Nghị định số
105/2009/NĐ-CP không định nghĩa về hành vi này, nhưng chúng ta có thể
hiểu là tổ chức, cá nhân hành nghề nhưng không tuân thủ đúng các nguyên
tắc, phương pháp đã được quy định trong Luật, các Nghị định và Thông tư
hướng dẫn hoặc hành nghề mà không có giấy phép của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp theo quy định của pháp luật.
Mười sáu là, hành nghề tư vấn về lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
mà không đăng ký hoạt động hành nghề, được quy định tại Điều 23 của Nghị
15
định số 105/2009/NĐ-CP. Đây là hành vi hành nghề tư vấn về lập quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất mà không đăng ký hoạt động theo quy định của pháp
luật về đất đai.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay pháp luật đất đai vẫn chưa có quy
định về việc đăng ký hành nghề tư vấn về lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất. Như vậy, quy định này vẫn chưa có cơ sở thực hiện trên thực tế.
Mười bảy là, hành vi cung cấp dữ liệu đất đai không đúng quy định của
pháp luật quy định tại khoản 5 Điều 3 Nghị định số 105/2009/NĐ-CP và được
định nghĩa:
“Là hành vi cung cấp các số liệu, tài liệu về đất đai gồm: số hiệu, kích
thước, hình thể, diện tích, vị trí, người sử dụng thửa đất, nguồn gốc, mục
đích, thời hạn sử dụng đất, giá đất, tài sản gắn liền với đất, nghĩa vụ tài
chính về đất đai đã thực hiện và chưa thực hiện; Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở;
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất; quyền và những hạn chế về quyền của người sử dụng đất, biến
động trong quá trình sử dụng đất và các thông tin khác có liên quan không

đúng với quy định của pháp luật về thu thập, quản lý, khai thác, sử dụng dữ
liệu đất đai”[9].
1.3. Khái quát pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực đất đai hiện hành
1.3.1. Khái quát xử lý VPHC trong lĩnh vực đất đai
Căn cứ vào hành vi, tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi vi phạm pháp
luật đất đai mà người vi phạm sẽ bị xử lý bằng một trong bốn hình thức là:
- Thứ nhất, xử phạt VPHC theo quy định của pháp luật đất đai;
- Thứ hai, xử lý vi phạm bằng hình thức kỷ luật theo pháp luật về cán bộ,
công chức;
- Thứ ba, xử lý vi phạm theo pháp luật dân sự;
- Thứ tư là xử lý vi phạm theo pháp luật hình sự.
16
Trong các hình thức xử lý trên thì xử lý VPHC là chủ yếu và phổ biến
nhất bởi vì đây là biện pháp cơ bản nhằm giáo dục, răn đe, ngăn ngừa những
vi phạm pháp luật đất đai. Theo quy định của pháp luật hiện hành xử lý
VPHC gồm xử phạt hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác.
1.3.1.1. Khái niệm của xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai
Trên cơ sở các quy định của pháp luật về xử phạt VPHC, các nhà khoa
học pháp lý đã đưa ra khái niệm xử phạt VPHC như sau:
“Xử phạt VPHC là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ
vào các quy định pháp luật hiện hành về xử phạt VPHC, quyết định áp dụng
các biện pháp xử phạt hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính
khác (trong trường hợp cần thiết, theo quy định của pháp luật) đối với các tổ
chức, cá nhân VPHC” [35].
1.3.1.2. Đặc điểm của xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai
Xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai có bốn đặc điểm sau:
Thứ nhất, xử phạt VPHC được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức, hộ gia
đình, cơ sở tôn giáo VPHC theo quy định của pháp luật đất đai. Nói cách
khác, VPHC trong lĩnh vực đất đai là cơ sở để tiến hành hoạt động xử phạt
VPHC. Pháp lệnh xử lý VPHC và Nghị định của Chính phủ về xử phạt VPHC

trong lĩnh vực đất đai quy định hành vi VPHC, hình thức, biện pháp xử phạt
hành chính áp dụng đối với người VPHC là những cơ sở pháp lý quan trọng
để tiến hành hoạt động xử phạt VPHC;
Thứ hai, xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai được tiến hành bởi các
chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về xử lý VPHC và Nghị
định của Chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai. Chủ thể có thẩm
quyền xử phạt gồm có: Chủ tịch UBND các cấp, Chánh thanh tra và thanh tra
viên thuộc các cơ quan có thẩm quyền thanh tra về đất đai.
Thứ ba, xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai được tiến hành theo những
nguyên tắc, trình tự, thủ tục được quy định trong các văn bản pháp luật về xử
17
lý VPHC nói chung và Nghị định của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC
trong lĩnh vực đất đai.
Thứ tư, kết quả của hoạt động xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai thể
hiện ở các quyết định xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai. Trong đó ghi
nhận các hình thức xử phạt áp dụng đối với người VPHC bao gồm hình thức
xử phạt chính (phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền), hình thức xử phạt bổ sung và
các biện pháp khắc phục hậu quả.
1.3.2. Chủ thể VPHC trong lĩnh vực đất đai
Theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 105/2010/NĐ-CP thì đối tượng
áp dụng hay nói cách khác là chủ thể VPHC trong lĩnh vực đất đai gồm có:
Cá nhân trong nước, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài (gọi chung là cá nhân); cơ quan, tổ chức trong nước, tổ chức nước ngoài
(gọi chung là tổ chức); hộ gia đình; cơ sở tôn giáo có hành vi VPHC trong sử
dụng đất đai hoặc trong việc thực hiện các hoạt động dịch vụ về đất đai.
Cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ có hành vi vi phạm pháp
luật về quản lý đất đai sẽ bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật về cán bộ,
công chức và Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của
Chính phủ về thi hành Luật Đất đai; trường hợp hành vi có dấu hiệu cấu thành
tội phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Theo quy định này, các chủ thể là người trực tiếp đang sử dụng đất hoặc
không trực tiếp sử dụng đất mà có hành vi VPHC trong lĩnh vực đất đai thì bị
truy cứu trách nhiệm hành chính và bị xử phạt, các chủ thể này phù hợp với
quy định về "người sử dụng đất" tại Điều 9 của LĐĐ 2003.
Riêng đối với cộng đồng dân cư không phải là chủ thể vi phạm và bị truy
cứu trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Điều này cũng dễ hiểu bởi
vì cộng đồng dân cư được quy định là chủ thể sử dụng đất nhưng lại không
phải là chủ thể của quan hệ pháp luật nói chung. Theo lý luận về nhà nước và
pháp luật:“Chủ thể của quan hệ pháp luật bao gồm cá nhân, pháp nhân và tổ
18
chức” [33]. Mặt khác, khi xử phạt đối với cộng đồng dân cư thì cũng sẽ
không thể thực hiện được bởi, cơ quan xử phạt không thể xác định được ai là
người vi phạm, tài sản của cộng đồng do ai nắm giữ để nộp tiền phạt.
So với Nghị định số 182/2004/NĐ-CP thì Nghị định số 105/2009/NĐ-CP
đã bổ sung thêm ba nhóm chủ thể là: người Việt Nam định cư ở nước ngoài, hộ
gia đình, cơ sở tôn giáo. Việc bổ sung thêm chủ thể là người Việt Nam định cư ở
nước ngoài là hoàn toàn hợp lý bởi vì họ cũng là chủ thể được nhà nước giao
đất, cho thuê đất.
1.3.3. Nguyên tắc xử phạt VPHC trong lĩnh vực đất đai
Điều 6 của Nghị định số 105/2009/NĐ-CP đưa ra sáu nguyên tắc xử phạt
VPHC trong lĩnh vực đất đai, đó là:
- Mọi VPHC phải được phát hiện, đình chỉ, xử lý kịp thời; việc xử phạt
VPHC phải được tiến hành nhanh chóng, công khai, triệt để; mọi hậu quả do
VPHC gây ra phải được khắc phục theo quy định của Nghị định này và quy
định của pháp luật có liên quan.
- Việc xử phạt VPHC phải do người có thẩm quyền quy định tại các
Điều 25, 26 và 27 của Nghị định này thực hiện.
- Một hành vi VPHC chỉ bị xử phạt hành chính một lần. Nhiều người cùng
thực hiện hành vi VPHC thì từng người vi phạm đều bị xử phạt. Một người
thực hiện nhiều hành vi VPHC thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm.

- Hình thức xử phạt chính được áp dụng độc lập; hình thức xử phạt bổ
sung, biện pháp khắc phục hậu quả chỉ được áp dụng kèm theo hình thức xử
phạt chính đối với những hành vi VPHC có quy định hình thức xử phạt bổ
sung, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định trong Nghị định, trừ trường
hợp quy định tại khoản 3 Điều 4 của Nghị định này.
- Hình thức, mức độ xử phạt được xác định căn cứ vào tính chất, mức độ
vi phạm, hậu quả của hành vi VPHC, nhân thân của người có hành vi VPHC,
tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng. Tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng
19

×