Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước dưới góc độ so sánh pháp luật của lào và việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (828.89 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

SENGDEUANE VANSILALOM

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH GIỮA PHÁP LUẬT
LÀO VÀ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành

: Luật Kinh tế

Mã số

: 60.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ THỊ HỒNG VÂN

HÀ NỘI- NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo Trường
Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa
Luật Kinh tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu chương trình thạc sĩ luật học tại trường.


Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến người
hướng dẫn khoa học TS. Vũ Thị Hồng Vân, người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ
bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động
viên, quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

SENGDEUANE VANSILALOM


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá
nhân tôi. Mọi tài liệu, số liệu trong luận văn là khách quan, trung thực.
Những kết quả, những đánh giá trong luận văn chưa được ai công bố ở bất kỳ
một công trình nghiên cứu khoa học nào.
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

SENGDEUANE VANSILALOM


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHNCND


: Cộng hòa dân chủ nhân dân

DN

: Doanh nghiệp

DNNN

: Doanh nghiệp nhà nước

Đảng NDCM Lào

: Đảng nhân dân cách mạng Lào

HĐQT

: Hội đồng quản trị

HĐTV

: Hội đồng thành viên

KTTT

: Kinh tế Thị trường

NSNN

: Ngân sách nhà nước


TBCN

: Tư bản chủ nghĩa

TGĐ

: Tổng Giám đốc

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

UBND

: Uỷ ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4. Mục tiêu nghiên cứu luận văn
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn

6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
8. Bố cục (các chương) của luận văn

1
1
1
3
3
3
3
4
4

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ

5
1.1. Những vấn đề cơ bản về doanh nghiệp nhà nước
5
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước
5
1.1.2. Quá trình hình thành, phát triển và vai trò của doanh nghiệp nhà nước
10
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và các yếu tố chi phối đến địa vị pháp lý
của doanh nghiệp nhà nước
16
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung về địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà
nước
16
1.2.2. Các yếu tố chi phối đến địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước

19
26
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

CHƯƠNG 2. SO SÁNH ĐỊA CÁC QUY ĐỊNH VỀ VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP HIỆN HÀNH CỦA
LÀO VÀ VIỆT NAM

2.1. Về thành lập doanh nghiệp nhà nước
2.1.1. Về điều kiện để thành lập doanh nghiệp Nhà nước
2.1.2. Về thủ tục thành lập doanh nghiệp Nhà nước
2.1.3. Quy định về đăng ký kinh doanh DNNN
2.2. Về cơ cấu, tổ chức và quản lý doanh nghiệp nhà nước
2.2.1. Về điểm giống nhau
2.2.2. Về điểm khác nhau
2.3. Về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước
2.3.1. Quyền tổ chức, quản lý tổ chức kinh doanh
2.3.2. Quyền quản lý và sử dụng vốn, tài sản của Doanh nghiệp Nhà nước
2.3.3. Quyền phân phối lợi nhuận

27
27
27
29
36
39
39
40

50
50
52
60


2.3.4. Về nghĩa vụ công bố thông tin
2.4. Về tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp nhà nước
2.4.1. Tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước
2.4.2. Về giải thể doanh nghiệp Nhà nước
2.4.3. Về phá sản doanh nghiệp nhà nước
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

64
65
65
72
76
79

CHƯƠNG 3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC

80
3.1. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc so sánh địa vị pháp lý của
doanh nghiệp nhà nước theo pháp luật doanh nghiệp hiện hành của Lào và
Việt Nam
80
3.2. Định hướng và giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà
nước ở nước CHDCND Lào

83
3.2.1. Định hướng hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước theo
quan điểm của Đảng và Nhà nước Lào
83
3.2.2. Các giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước ở
nước CHDCND Lào
84
89
KẾT LUẬN
91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CHDCND LÀO


7

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Với quyết tâm xây dựng nền hàng hóa nhiều thành phần, định hướng XHCN có
đặc trưng là đa dạng hóa các loại hình sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò
chủ đạo được Đại hội lần thứ V Đảng NDCM Lào năm 1986 đưa ra nền kinh tế - xã
hội Lào đã chuyển mình mạnh mẽ. Sau hơn 20 năm thực hiện chủ trương này, nền
kinh tế Lào đã có nhiều thay đổi vượt bậc, từ một nền kinh tế tập trung, quan liên bao
cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; kinh tế nhà nước giữ vị trí chủ
đạo, là công cụ điều tiết và quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô; vị trí và vai trò của các thành
phần kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân được khẳng định và không ngừng đóng
góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước CHDCND Lào.
Từ thực tiễn xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
định hướng XHCN của nước CHDCND Lào thời gian qua đã cho thấy: Các doanh
nghiệp nhà nước hiện nay đang nắm giữ những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế,

đóng góp tỷ lệ không nhỏ vào ngân sách quốc gia, tạo công ăn việc làm cho nhiều
người lao động. Các doanh nghiệp này, ngoài việc hướng tới mục tiêu lợi nhuận, còn
thể hiện vai trò trong việc phục vụ lợi ích công cộng, điều tiết nền kinh tế vĩ mô, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần đưa nền kinh tế Lào phát triển theo định hướng đã
đề ra. Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng này mà việc quy định về địa vị pháp lý
của doanh nghiệp nhà nước được đặt ra đối với khoa học pháp lý nước CHDCND Lào.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc nghiên cứu về địa vị pháp lý của DNNN, xuất phát từ
những nguyên nhân chủ quan và khách quan, vẫn chưa được chú trọng.
Từ thực tiễn cấp thiết trên và vốn kiến thức có được trong quá trình học tập,
làm việc, tác giả nhận thấy cần tiếp tục nghiên cứu về địa vị pháp lý của DNNN, trên
cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước, trong đó có Việt Nam. Đó cũng chính là
lý do mà tác giả chọn đề tài: “Địa vị pháp lý của Doanh nghiệp nhà nước dưới góc độ
so sánh pháp luật của Lào và Việt Nam” để hoàn thành luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật
học tại Trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về địa vị pháp lý của DNNN không phải là vấn đề
mới, có thể kể đến một số công trình sau: Cao Đăng Vân (1997), Một số vấn đề về địa
vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội; Dương Hồng
Hạnh (1997), Tìm hiểu địa vị pháp lý của doanh nghiệp Nhà nước độc lập hoạt động
kinh doanh, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội; Lê Bảo Trang (1996), Một số vấn đề cơ
bản về địa vị pháp lý của doanh nghiệp Nhà nước độc lập hoạt động kinh doanh, Khóa
luận tốt nghiệp, Hà Nội; Nguyễn Trung Nghĩa (1996), Địa vị pháp lý của doanh
nghiệp Nhà nước theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà


8

Nội; Lê Danh Tuy (2003), Địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước hoạt động công
ích phục vụ quốc phòng an ninh, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội; Nguyễn Phước
Thọ (1997), Địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước trong hoạt động kinh doanh,

Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội. Tuy nhiên, các công trình này đã quá lâu, và không
còn phù hợp với điều kiện pháp luật Việt Nam hiện nay. Các công trình mới nhất hiện
nay, được nghiên cứu sau khi Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2014 ra đời, lại chưa
nghiên cứu trực tiếp về vấn đề địa vị pháp lý DNNN, các công trình này nghiên cứu về
các khía cạnh như cổ phần hóa DNNN (ví dụ: Phạm Việt Dũng, Góp phần khắc phục
một số biểu hiện lệch lạc trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, Tạp chí Cộng
sản, Số 5/2016, tr. 78 - 83, bình đẳng giữa các doanh nghiệp (ví dụ như Lê Na, Luật
Doanh nghiệp 2014 và vấn đề bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước với các loại
hình doanh nghiệp khác, Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 4/2016, tr. 28 – 31), công bố
thông tin hay giám sát vốn nhà nước trong các DNNN (ví dụ: Vũ Thị Nhung, Quy định
pháp luật về giám sát vốn nhà nước trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện
nay, Tạp chí Nghề Luật, Số 3/2016, tr. 59 – 63) v.v...
Trong khi đó, khi nghiên cứu về địa vị pháp lý DNNN ở Lào, các tác giả chủ
yếu tập trung nghiên cứu dưới góc độ nghiên cứu các quy định chính sách của Lào.
Còn việc nghiên cứu địa vị pháp lý DNNN ở Lào dưới góc độ so sánh với pháp luật
các nước trong đó có Việt Nam thì chưa thực sự nhiều. Tuy nhiên, có thể liệt kê một số
công trình nghiên cứu về địa vị pháp lý DNNN ở Lào dưới góc độ lý sau đây: Daochay
Haophommaseng (2013), Tổ chức quản lý công ty nhà nước theo pháp luật Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào, Luận văn thạc sĩ luật học; Si Vi Xay Pa San Phonne (2009),
Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước theo pháp luật của nước Cộng hoà dân chủ
nhân dân Lào - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học,
Hà Nội. Những công trình này mới chỉ đề cập đến khía cạnh nhỏ của địa vị pháp lý
DNNN ở Lào.
Đặc biệt, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu, so sánh một cách
toàn diện về địa vị pháp lý của DNNN ở Lào và Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu về địa vị pháp lý của DNNN dưới góc độ so sánh giữa pháp luật Lào và pháp luật
Việt Nam vẫn còn là một lỗ hổng khoa học lớn, cần các nhà nghiên cứu pháp lý tiếp
tục khai thác, nghiên cứu và luận văn này với việc nghiên cứu tổng thể về cả pháp luật
và thực thực thi pháp luật về địa vị pháp lý của DNNN dưới góc độ so sánh giữa các
quy định pháp luật hiện hành của CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam với hy

vọng sẽ lấp đầy lỗ hổng khoa học pháp lý đó.


9

3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật hiện hành của
CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam về địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà
nước dưới góc độ luật học so sánh.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của
pháp luật Việt Nam và pháp luật Lào trong mối tương quan so sánh các quy định về
địa vị pháp lý DNNN, trong đó, trọng tâm là nghiên cứu các quy định của Luật Doanh
nghiệp 2014 và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành của Việt Nam và Luật
Doanh nghiệp 2013 của Lào. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ rõ những khác biệt cơ bản
trong quy định của pháp luật Việt Nam về loại hình Doanh nghiệp này này để rút ra
bài học kinh nghiệm cho Lào trong quá trình hoàn thiện pháp luật liên quan tới thành
phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân này.
4. Mục tiêu nghiên cứu luận văn
Vấn đề hoàn thiện quy định pháp luật của nước CHDCND Lào về DNNN đang
là nhu cầu cấp thiết. Do đó, nghiên cứu đề tài này, trên cơ sở so sánh và rút ra những
bài học kinh nghiệm từ những quy định của pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của
DNNN, tác giả muốn đóng góp một số kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định
pháp luật Lào liên quan đến địa vị pháp lý DNNN trong thời gian tới.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện mục tiêu của đề tài, nội dung luận văn trả lời những câu hỏi sau:
(1) Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về DNNN bao gồm những nội dung như
khái niệm, đặc điểm, phân loại DNNN, quá trình hình thành phát triển của DNNN trên
bình diện thế giới và tại nước CHDCND Lào. Từ đó, luận văn có nhiệm vụ tập trung
nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về địa vị pháp lý của DNNN trên các
phương diện khái niệm, đặc điểm, nội dung, các yếu tố chi phối địa vị pháp lý DNNN;

(2) Nghiên cứu, so sánh những điểm tương đồng và khác biệt về địa vị pháp lý
của DNNN theo pháp luật hai nước trên các khía cạnh: thành lập DNNN; quyền và
nghĩa vụ của DNNN; cơ cấu, tổ chức, quản lý DNNN; vấn đề tổ chức lại, giải thể, phá
sản DNNN;
(3) Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc so sánh các quy định
pháp luật Lào và Việt Nam về địa vị pháp lý DNNN, đề xuất một số giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp Lào về địa vị pháp lý DNNN xứng đáng với vai trò
nòng cốt của mình.
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng rất nhiều các phương pháp nghiên
cứu khoa học, cũng như kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học với nhau. Đó
là: Phương pháp biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu đề tài


10

có tính tiến trình lịch sử quy định về địa vị pháp lý của DNNN tại nước CHDCND
Lào. Phương pháp so sánh để so sánh quy định pháp luật về địa vị pháp lý về DNNN
của Lào với Việt Nam. Bên cạnh đó còn là các phương pháp như: Phương pháp phân
tích để phân tích, đánh giá các quy định pháp luật; phương pháp tổng hợp để tổng hợp
các kết quả của thực tiễn thi hành pháp luật; phương pháp diễn giải - quy nạp để trình
bày các nội dung cụ thể.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở kế thừa những nội dung nghiên cứu về địa vị pháp lý của DNNN
của pháp luật Việt Nam và Lào, Luận văn đã triển khai nghiên cứu so sánh về địa vị
phá lý của DNNN theo pháp luật hiện hành của Lào và Việt Nam và đưa ra được
những đóng góp mới như sau:
- Luận văn đã tìm hiểu và khái lược được quá trình hình thành, phát triển của
pháp luật về DNNN trên bình diện thế giới và Lào, đây là tiền đề cơ sở cho nội dung
quy định pháp luật về địa vị pháp lý DNNN ở Lào.

- Luận văn đã triển khai nghiên cứu và đưa ra cái nhìn sâu sắc về những điểm
tương đồng và khác biệt trong các quy định của pháp luật hiện hành giữa hai nước về
địa vị pháp lý DNNN trên các phương diện: Thành lập DNNN; Cơ cấu, tổ chức và quản
lý DNNN; Quyền và nghĩa vụ của DNNN; Tổ chức lại, giải thể, phá sản DNNN. Đây là
công trình nghiên cứu địa vị pháp lý của DNNN dưới góc nhìn luật học so sánh, nhưng vẫn
đảm bảo việc nghiên cứu địa vị pháp lý của DNNN một cách toàn diện nhất.
- Luận văn đã rút ra những bài học kinh nghiệm từ việc so sánh địa vị pháp lý của
DNNN theo pháp luật hiện hành giữa hai nước. Từ đó, luận văn đã xác định được những
định hướng hoàn thiện địa vị pháp lý của DNNN theo quan điểm của Đảng và Nhà nước
Lào. Trên cơ sở đó, luận văn đã đưa ra được một số giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý
của DNNN ở nước CHDCND Lào.
Đây là những đóng góp mới của luận văn mà chưa có một công trình khoa học
nào làm được.
8. Bố cục (các chương) của luận văn
Bên cạnh phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo. Để bảo
đảm về kết cấu, tính hợp lý, liên tục của nội dung, luận văn được chia làm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Doanh nghiệp Nhà nước và địa vị pháp lý
của Doanh nghiệp nhà nước;
Chương 2: So sánh địa các quy định về vị pháp lý của Doanh nghiệp Nhà nước
theo pháp luật doanh nghiệp hiện hành của Lào và Việt Nam.
Chương 3: Bài học kinh nghiệm và giải pháp hoàn thiện các quy định về địa vị
pháp lý của Doanh nghiệp Nhà nước ở nước CHDCND Lào.


11

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
VÀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1. Những vấn đề cơ bản về doanh nghiệp nhà nước

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
Trong lĩnh vực kinh tế, Nhà nước tham gia vào lĩnh vực này với tư cách khác
nhau: (i) Tư cách nhà quản lý kinh tế; (ii) Tư cách là nhà đầu tư. Ở tư cách nhà quản lý
kinh tế, Nhà nước sẽ hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, ban hành pháp luật điều
chỉnh các hoạt động kinh tế, tạo dựng môi trường đầu tư, điều tiết các hoạt động kinh
tế theo đúng định hướng, chiến lược để bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng ổn định và
bền vững. Trong việc thực hiện chức năng quản lý kinh tế, Nhà nước sử dụng rất nhiều
công cụ khác nhau như: Mệnh lệnh, quyết định hành chính; pháp luật… Trong tư cách
là nhà đầu tư, Nhà nước có thể trực tiếp đầu tư và tiến hành các hoạt động kinh doanh.
Để thực hiện được việc này, Nhà nước có thể sử dụng ngân sách để thành lập các
DNNN hoặc đầu tư vốn vào các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân để thực hiện các
mục tiêu chính trị - xã hội bên cạnh mục tiêu lợi nhuận1.
Để thực hiện tốt các chức năng của mình, bất kỳ quốc gia nào cũng duy trì một
số lượng nhất định các DNNN. Tuy nhiên, quan niệm về DNNN ở các nước có sự
khác nhau. Một số nước quan niệm DNNN là doanh nghiệp mà toàn bộ vốn thuộc sở
hữu hoàn toàn của Nhà nước. Nhiều nước lại quan niệm rằng DNNN là những doanh
nghiệp trong đó Nhà nước chỉ có thể sở hữu phần vốn khống chế nào đó mà thôi. Vậy
thực chất DNNN là gì? Có thể hiểu DNNN là những cơ sở kinh tế (sản xuất, kinh doanh
hàng hóa; cung ứng dịch vụ) do Nhà nước sở hữu hoàn toàn hoặc sở hữu một phần đủ để
chi phối trong quản lý, điều hành. Như vậy, quyền sở hữu là yếu tố quyết định để phân
biệt DNNN với các doanh nghiệp khác ở khu vực kinh tế tư nhân. Nhưng DNNN không
phải là cơ quan hành chính nhà nước, bởi DNNN được thành lập là để hoạt động vì mục
đích lợi nhuận hay vì mục tiêu chính trị - xã hội khác. Ngoài ra, quyền chi phối về quản
lý, điều hành của Nhà nước trong DNNN là đặc điểm để phân biệt loại hình doanh nghiệp
này với các loại hình doanh nghiệp khác mà Nhà nước chỉ góp một lượng vốn nhỏ không
đủ để chi phối, điều hành doanh nghiệp đó.
Trong một báo cáo của Đại hội đồng Liên hợp quốc được đưa ra vào năm 1985,
đã định nghĩa về DNNN như sau: “Doanh nghiệp nhà nước là những doanh nghiệp do
Nhà nước nắm toàn bộ hoặc một phần sở hữu và Nhà nước kiểm soát tới một mức độ

1 Si Vi Xay Pa San Phonne (2009), Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước theo pháp luật của nước Cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật
Hà Nội, Hà Nội., tr.8.


12

nhất định quá trình ra quyết định của doanh nghiệp”. Ở định nghĩa này, Liên hợp
quốc đã sử dụng hai tiêu chí để định nghĩa về DNNN đó là: (i) Tiêu chí về sở hữu của
Nhà nước trong doanh nghiệp đó là sở toàn phần hoặc một phần; (ii) Tiêu chí về sự
kiểm soát hay nói cách khác là Nhà nước có vị trí quyết định trong quá trình quản lý,
điều hành doanh nghiệp đó2. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia lại có sự khác nhau trong việc
sử dụng các tiêu chí để định nghĩa về DNNN. Có quốc gia lựa chọn tiêu chí về mục đích,
hình thức; có quốc gia lại lựa chọn tiêu chí về lý do thành lập, cơ cấu tổ chức; có quốc gia
lại lựa chọn tiêu chí quyền sở hữu của Nhà nước để định nghĩa về DNNN.
Ở nước CHDCND Lào, DNNN hình thành khá sớm và giữ vai trò quan trọng
trong các giai đoạn lịch sử của đất nước. Theo quan niệm của Luật doanh nghiệp hiện
hành, Lào có bốn loại hình doanh nghiệp là doanh nghiệp tư nhân, DNNN, doanh
nghiệp hỗn hợp và doanh nghiệp tập thể. Định nghĩa DNNN được đề cập đến lần đầu
tiên trong trong Sắc lệnh số 92/SL năm 1954 của Chủ tịch nước. Trong Sắc lệnh này,
DNNN ở Lào được gọi tên là “Xí nghiệp quốc doanh” và được định nghĩa: “Xí nghiệp
quốc doanh là xí nghiệp thuộc quyền sở hữu của quốc gia, do Chính phủ quản lý. Sau
đó, định nghĩa về DNNN được quy định tại Điều 191 của Luật Doanh nghiệp do Quốc
hội Lào ban hành ngày 09/ 11/2005 và được kế thừa tại Điều 196 Luật Doanh nghiệp do
Quốc hội Lào ban hành ngày 26/12/ 2013: “Doanh nghiệp nhà nước là một đơn vị kinh
doanh của Nhà nước được thành lập và đầu tư hoặc liên doanh với các thành phần kinh
tế khác, với số vốn của Nhà nước trên 50% trở lên”. Định nghĩa này đã có sự thay đổi
rất lớn và cụ thể so với định nghĩa về DNNN trong Sắc lệnh số 92/SL năm 1954 của
Chủ tịch nước. Sự thay đổi ở đây là định nghĩa về DNNN trong Luật Doanh nghiệp
2013 đã liệt kê hai hình thức tồn tại của DNNN dựa vào tiêu chí về quyền sở hữu vốn

của Nhà nước trong doanh nghiệp đó: (i) Hình thức Nhà nước sở hữu 100% phần vốn
góp trong DNNN; (ii) Hình thức Nhà nước sở hữu từ 50% trở lên phần vốn góp trong
DNNN3. Tuy nhiên, việc Luật Doanh nghiệp Lào 2013 định nghĩa về DNNN bằng việc
sử dụng tiêu chí về quyền sở hữu vốn trong DNNN đó chưa phản ánh được một trong
những đặc trưng cơ bản nhất của DNNN là quyền quản lý, điều hành của Nhà nước đối
với DNNN đó. Hiện nay, định nghĩa về DNNN đã có sự thay đổi trong Điều 196 Luật
Doanh nghiệp Lào 2013: “Doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước thành
lập và có vốn điều lệ hơn 50% trở lên hoặc từ việc chuyển đổi doanh nghiệp khác thành
doanh nghiệp nhà nước theo sự thống nhất đồng ý với nhau”.

2 Đặng Hồng Hoa (2007), Cổ phần hóa công ty nhà nước- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 15.
3 Daochay Haophommaseng (2013), Tổ chức quản lý công ty nhà nước theo pháp luật Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 7-8.


13

Ở Việt Nam, định nghĩa về DNNN được quy định trong Điều 1 Luật số
14/2003/QH11 ngày 26/11/ 2003 về DNNN: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh
tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối; được tổ
chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”.
Tuy nhiên, đến Luật số 68/2014/QH13 ngày 26/ 11/ 2014 về doanh nghiệp thì định
nghĩa DNNN được xây dựng đơn giản hơn. Tại khoản 8 Điều 4 Luật này quy định:
“Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ”. Sự
thay đổi ở đây là DNNN ở Việt Nam là doanh nghiệp do Nhà nước nắm 100% vốn điều
lệ, chứ không còn là doanh nghiệp do mà Nhà nước có cổ phần, vốn góp chi phối. Ngoài
ra, trong định nghĩa mới này cũng không liệt kê các hình thức tồn tại của DNNN như
Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003.
Như vậy, so với định nghĩa về DNNN trong Luật Doanh nghiệp Lào 2013 thì

định nghĩa về DNNN của pháp luật Việt Nam cũng sử dụng tiêu chí về quyền sở hữu
của Nhà nước để định nghĩa về DNNN. Tuy nhiên, định nghĩa về DNNN theo pháp luật
hiện hành của Việt Nam chỉ thừa nhận là DNNN khi Nhà nước năm 100% vốn điều lệ
trong doanh nghiệp đó. Trong khi đó, pháp luật hiện hành của nước CHDCND Lào coi
DNNN là doanh nghiệp mà Nhà nước nắm từ trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp
đó. Ngoài ra, định nghĩa về DNNN của cả hai quốc gia đều không đề cập đến các vấn đề
về mục đích hoạt động, lý do thành lập, quyền quản lý và điều hành của Nhà nước trong
DNNN do hai định nghĩa này chỉ sử dụng tiêu chí về sở hữu vốn của Nhà nước để định
nghĩa về DNNN4.
Như vậy, ta có thể hiểu DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ
vốn điều lệ hoặc toàn bộ số cổ phần, được tổ chức dưới hình thức công ty TNHH. Đây
là một điểm mới trong quy định pháp luật DNNN so với Luật DNNN 2003. Ở Luật
DNNN 2003, một doanh nghiệp được gọi là DNNN khi sở hữu 50% vốn điều lệ trở lên,
do đó, DNNN có thể được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần. Tuy nhiên, đến Luật
doanh nghiệp 2014 đã có sự thay đổi, DNNN phải nắm giữ 100% vốn điều lệ của công
ty. DNNN sẽ chỉ do Nhà nước nắm giữ quyền sở hữu, DNNN chỉ có thể được tổ chức
dưới dạng công ty TNHH.
Nhà nước giao vốn cho DNNN và DNNN phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước
về việc bảo toàn và phát triển số vốn mà Nhà nước giao cho để duy trì khả năng kinh
doanh của doanh nghiệp. Tất cả các DNNN đều chịu sự quản lý trực tiếp của một cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền theo sự phân cấp của Chính phủ. Vấn đề vốn và việc sử
dụng vốn của DNNN, vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng là vốn
ngân sách cấp, vốn có nguồn gốc NSNN và vốn của DNNN tự tích luỹ.
4 Võ Thị Thùy Dương (2003), Cổ phần hóa- Hình thức chủ đạo trong việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 11.


14

1.1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước

Từ định nghĩa về DNNN theo quy định của Luật Doanh nghiệp Lào 2013 có thể
chỉ ra một số đặc điểm của DNNN ở CHDCND Lào như sau:
Thứ nhất, DNNN là một tổ chức kinh tế do Nhà nước trực tiếp thành lập.
Nhà nước thành lập DNNN bằng một quyết định – Quyết định thành lập DNNN, trong
khi đối với các doanh nghiệp khác như công ty TNHH, CTCP, doanh nghiệp hợp
danh… thì Nhà nước không trực tiếp thành lập mà chỉ tiến hành đăng ký kinh doanh
và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Thứ hai, về hình thức sở hữu. DNNN là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu
toàn bộ hoặc một phần số vốn điều lệ dưới dạng cổ phần hoặc phần vốn chi phối tại
các liên doanh với các thành phần kinh tế tư nhân khác. Đối với DNNN do Nhà nước
thành lập thì Nhà nước sẽ nắm 100% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó. Đối với các
liên doanh thì Nhà nước sẽ góp vốn bằng cách mua cổ phần, góp vốn chi phối trên
50% vốn điều lệ để nắm quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp đó. Do vậy, đây vẫn
được xếp vào loại hình DNNN theo quy định của pháp luật nước CHDCND Lào. Đây
là đặc điểm nổi bật giúp phân biệt DNNN với các doanh nghiệp khác theo quy định
của pháp luật doanh nghiệp hiện hành của nước CHDCND Lào hiện nay5.
Thứ ba, về phương thức quản lý – thông qua người đại diện vốn. DNNN
theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2013 nước CHDCND Lào có đặc điểm là Nhà
nước thông qua các đại diện của mình, có thể là tổ chức hoặc cá nhân do Nhà nước chỉ
định làm đại diện sẽ thay mặt Nhà nước trong DNNN đó để nắm quyền quyết định,
quyền chi phối hoạt động quản lý, sản xuất, kinh doanh của DNNN đó. Đó là quyền
quyết định trong các vấn đề như: Tăng, giảm vốn điều lệ; bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi
nhiệm các chức danh quan trọng của DNNN; quyền tổ chức quản lý; quyền đưa ra các
quyết định liên quan đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh của DNNN6.
Thứ tư, về tư cách pháp lý và trách nhiệm tài sản của DNNN. Theo quy định
của Luật Doanh nghiệp 2013 nước CHDCND Lào thì DNNN có tư cách pháp nhân.
Tức là, DNNN có thể nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật. DNNN có tài
sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình - chế độ chịu trách
nhiệm hữu hạn. Ngoài ra, DNNN thực hiện chế độ hoạch toán độc lập, lấy thu bù chi.
Tất cả những nội dung trên đều thể hiện một đặc điểm là DNNN có tư cách độc lập và

độc lập về kinh tế đối với Nhà nước.

5 Daochay Haophommaseng (2013), Tổ chức quản lý công ty nhà nước theo pháp luật Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 9.
6 Hữu Hạnh (1998), Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước - Những vấn đề đặt ra, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr. 10.


15

Thứ năm, về hình thức tồn tại của DNNN. DNNN theo quy định của Luật
Doanh nghiệp 2013 nước CHDCND Lào được tổ chức dưới nhiều hình thức khác
nhau, trong đó, trường hợp DNNN được thành lập và hoạt động kinh doanh theo
nguyên tắc lọai hình công ty gọi là “công ty nhà nước”. Theo đó, DNNN đó có thể là
Công ty cổ phần nhà nước; Công ty TNHH nhà nước một thành viên; Công ty TNHH
nhà nước hai thành viên trở lên.
Trên đây là những đặc điểm nổi bật nhất của DNNN theo quy định của Luật
Doanh nghiệp 2013 nước CHDCND Lào. Trong đó, đặc điểm về hình thức sở hữu là
đặc điểm quan trọng nhất giúp phân biệt DNNN với các loại hình doanh nghiệp khác ở
khu vực kinh tế tư nhân.
1.1.1.3. Phân loại doanh nghiệp nhà nước
Việc phân loại DNNN ở các quốc gia được thực hiện dựa trên rất nhiều các tiêu
chí khác nhau. Nếu xét ở cơ cấu thành phần sở hữu thì có: (i) DNNN một chủ sở hữu DNNN do Nhà nước làm chủ sở hữu duy nhất; (ii) DNNN đa chủ sở hữu - DNNN có
nhiều chủ sở hữu, trong đó Nhà nước là chủ sở hữu nắm quyền chi phối về quản lý, điều
hành dựa trên cơ sở vốn góp của Nhà nước vượt trội hơn các chủ sở hữu khác;…
Ở nước CHDCND Lào, các nhà làm luật thường sử dụng tiêu chí về tính chất
của sở hữu, trách nhiệm pháp lý, quy mô, ngành nghề và tính chất sản phẩm để phân
loại DNNN. Cụ thể như sau:
- Thứ nhất, dựa theo tính chất sở hữu. Theo tính chất này thì DNNN được chia làm
hai loại là: (i) DNNN đơn chủ, tức là Nhà nước là chủ sở hữu duy nhất, nắm 100% số vốn

điều lệ của DNNN đó; (ii) DNNN đa chủ, tức là Nhà nước sẽ liên doanh với các cá nhân,
tổ chức khác để thành lập DNNN nhưng trong đó, vốn góp của Nhà nước là chủ yếu
(thường là trên 50% vốn điều lệ) để hình thành nên DNNN đó7.
- Thứ hai, theo tính chất pháp lý của DNNN. Theo quy định của Luật Doanh
nghiệp 2013 nước CHDCND Lào thì DNNN tồn tại dưới các hình thức sau: Công ty
cổ phần nhà nước, Công ty TNHH nhà nước một thành viên, công ty TNHH nhà nước
hai thành viên trở lên.
- Thứ ba, theo quy mô của DNNN. Dựa vào các tiêu chí như số vốn điều lệ,
doanh số kinh doanh, số lượng lao động, DNNN được chia thành: DNNN có quy mô
lớn, DNNN có quy vừa và DNNN có quy mô nhỏ.
- Thứ tư, dựa vào ngành nghề và tính chất sản phẩm. Dựa vào tiêu chí này,
DNNN được chia thành: DNNN là doanh nghiệp sản xuất hàng hóa; DNNN là doanh
nghiệp cung ứng dịch vụ; DNNN hỗn hợp, tức là vừa sản xuất hàng hóa vừa cung ứng
dịch vụ.
7 Đặng Hồng Hoa (2007), Cổ phần hóa công ty nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr 17.


16

* Các hình thức tổ chức DNNN
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2013 nước CHDCND Lào thì DNNN
tồn tại dưới các hình thức tổ chức như: Công ty cổ phần nhà nước, Công ty TNHH nhà
nước một thành viên, Công ty TNHH nhà nước hai thành viên trở lên.
- Công ty cổ phần nhà nước. Hiện tại, pháp luật nước CHDCND Lào hiện hành
chưa có định nghĩa về Công ty cổ phần nhà nước. Do vậy, dựa theo khái niệm về Công
ty cổ phần của Luật Doanh nghiệp 2013 nước CHDCND Lào và đặc điểm của DNNN,
có thể định nghĩa về Công ty cổ phần nhà nước như sau: Công ty cổ phần nhà nước là
công ty mà cổ đông bao gồm Nhà nước, các cá nhân, tổ chức khác. Trong đó, Nhà
nước nắm phần lớn cổ phần của công ty, cũng như nắm quyền quản lý và điều hành

công ty8.
- Công ty TNHH nhà nước một thành viên. Cũng như Công ty cổ phần nhà nước
thì Công ty TNHH nhà nước một thành viên chưa được định nghĩa. Dựa vào quy định
của Luật Doanh nghiệp 2013 về Công ty TNHH một thành viên có thể định nghĩa về
Công ty TNHH nhà nước một thành viên như sau: Công ty TNHH do Nhà nước nắm
toàn bộ vốn điều lệ, tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
- Công ty TNHH nhà nước hai thành viên trở lên. Hiện tại vẫn chưa có định
nghĩa về Công ty TNHH nhà nước hai thành viên trong các văn bản pháp luật hiện
hành của CHDCND Lào. Do vậy, dựa vào quy định của Luật Doanh nghiệp 2013 của
nước CHDCND Lào về Công ty TNHH hai thành viên trở lên có thể định nghĩa về
Công ty TNHH nhà nước hai thành viên như sau: Công ty TNHH có số lượng từ hai
đến không quá năm mươi thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu. Ngoài Nhà nước,
thành viên của công ty là các tổ chức, cá nhân. Công ty TNHH nhà nước hai thành
viên được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
1.1.2. Quá trình hình thành, phát triển và vai trò của doanh nghiệp nhà nước
1.1.2.1. Quá trình hình thành, phát triển và vai trò của doanh nghiệp nhà nước
trên bình diện thế giới
Mặc dù, khu vực kinh tế Nhà nước được hầu hết các quốc gia trên thế giới thừa
nhận nhưng DNNN là loại hình doanh nghiệp đặc trưng của nền kinh tế các nước
XHCN. Tuy nhiên, lịch sử hình thành và phát triển của DNNN không xuất phát từ nền
kinh tế của các nước XHCN mà nó là sản phẩm của nền kinh tế các nước TBCN. Do
vậy, DNNN là loại hình doanh nghiệp tồn tại một cách khách quan trong nền kinh tế
của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, việc nhìn nhận về vị trí, vai trò của loại hình DNNN ở các quốc gia
là hoàn toàn khác nhau. Điều đó dẫn đến tỷ trọng của DNNN trong nền kinh tế các
8 Daochay Haophommaseng (2013), Tổ chức quản lý công ty nhà nước theo pháp luật Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 16.


17


quốc gia là hoàn toàn không giống nhau. Trong năm 2010, tỷ trọng của DNNN trong
tổng sản phẩm quốc nội của các quốc gia như sau: Hoa Kỳ là 1,1%, Trung Quốc là
46%, Vương quốc Anh là 9,3%, Pháp là 12,1%, Nhật Bản là 10,7%, Thái Lan là
20,3%.... Khác với những loại hình doanh nghiệp ở khu vực kinh tế tư nhân, việc phát
triển DNNN gần như không phụ thuộc vào các quy luật kinh tế khách quan mà nó phụ
thuộc rất lớn vào đường lối chính trị, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của một
quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể. Do đó, không thể lấy tiêu chí về lợi ích kinh tế để
làm thước đo cho hiệu quả hoạt động của DNNN9.
Trong quá trình phát triển của khu vực kinh tế nhà nước ở các quốc gia trên thế
giới trong thời gian gần đây, thì vị trí và vai trò của DNNN đang dần dần được củng
cố. Sự củng cố này không đến từ việc gia tăng số lượng DNNN trong nền kinh tế quốc
gia mà từ hiệu quả hoạt động của DNNN sau quá trình cổ phần hóa DNNN. Do vậy,
có thể chia quá trình hình thành và phát triển của DNNN trên bình diện thế giới thành
hai giai đoạn như sau: (i) Giai đoạn các DNNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân về cả số lượng và hiệu quả hoạt động; (ii) Giai đoạn các DNNN hoạt động
hiệu quả sau quá trình cổ phần hóa DNNN.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc là một sự kiện đánh dấu một bước chuyển
mới trong quá trình hình thành và phát triển của DNNN ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Một trong những sự thay đổi đó là các DNNN từ hoạt động không hiệu quả, phục vụ
chủ yếu cho Nhà nước chuyển sang hoạt động hiệu quả, đáp ứng các nhu cầu của xã hội
dân sự, bên cạnh đó DNNN vẫn thực hiện các mục tiêu chính trị - xã hội của Nhà nước.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, xu hướng cổ phần hóa, tư nhân hóa
DNNN ở các quốc gia diễn ra ngày càng mạnh mẽ, với nội dung chính là tăng cường
cơ chế thị trường vào quản lý, điều hành và hoạt động của các DNNN. Tuy đây là một
xu hướng mang tính khách quan nhưng nó không loại bỏ DNNN ra khỏi đời sống kinh
tế - xã hội của quốc gia. Ở các nước tư bản phát triển hiện nay, mặc dù tỉ trọng và số
lượng các DNNN không còn nhiều nhưng DNNN vẫn tồn tại một cách khách quan
trong các loại hình doanh nghiệp, cũng như đóng góp một phần đáng kể cho GDP
cũng như thực hiện các mục tiêu chính trị, kinh tế - xã hội của Nhà nước. Đối với các

quốc gia đang phát triển, thì DNNN lại có một vị trí hết sức quan trọng, bởi lẽ các
DNNN vẫn nắm trong tay hầu hết các lĩnh vực kinh tế then chốt trong nền kinh tế quốc
dân như: Khai thác khoáng sản, năng lượng, nhiên liệu, cơ khí chế tạo… Hoạt động
của DNNN trong các lĩnh vực then chốt này không chỉ đóng góp lớn cho GDP quốc
gia mà còn là công cụ để Nhà nước quản lý các lĩnh vực kinh tế then chốt này.

9 Xaykham Vannaxay (2007), Những vấn đề pháp lý cơ bản về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 21-22.


18

Đối với các nước XHCN, vai trò của DNNN càng đặc biệt quan trọng khi mà ở
các quốc gia này, khu vực kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân. Do vậy, vai trò của DNNN rất quan trọng, nó vừa là trụ cột của nền kinh tế,
quyết định sức mạnh chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của các quốc gia
này, giải quyết các vấn đề xã hội như: an sinh xã hội, giáo dục, y tế, văn hóa… Chính
vì vậy, khi mà các Nhà nước CHDCND Lào được thành lập cũng là thời điểm các
DNNN được thành lập ở nước CHDCND Lào, để đưa khu vực kinh tế nhà nước lên vị
trí chủ đạo trong nền kinh tế của nước CHDCND Lào. Các DNNN được thành lập và
hoạt động ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế then chốt trong nền kinh tế của nước
CHDCND Lào10.
Vậy thì sự hình thành của DNNN trong nền kinh tế quốc dân ở các quốc gia trên
thế giới đến từ những lý do nào? Một điểm chung cho sự ra đời và phát triển của DNNN ở
các quốc gia là đều đến từ những đòi hỏi khách quan trong quá trình thực hiện chức năng
điều tiết nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Tuy nhiên, sự ra đời và phát triển của DNNN
còn xuất phát từ các lý do sau đây:
- Một là, sau chiến tranh nền kinh tế - xã hội của hầu hết các quốc gia đều bị tàn
phá, nguồn lực tư nhân trong xã hội không đủ sức để khôi phục nền kinh tế - xã hội,
chỉ có Nhà nước với tiềm lực vốn lớn, chỉ có Nhà nước mới có chức năng để khôi

phục nền kinh tế - xã hội. Do vậy, Nhà nước thành lập các DNNN để thực hiện chức
năng đó.
- Hai là, xuất phát từ tư tưởng chính trị của một số quốc gia trên thế giới. Ở các
quốc gia đa Đảng, khi một Đảng nào đó lên nắm quyền điều hành đất nước thì luôn có
tư tưởng tăng cường vai trò của Nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
đó có lĩnh vực kinh tế. Chính điều này đã làm cho DNNN tồn tại và phát triển nhanh.
- Ba là, một số các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia sau khi giành được độc lập
đã được thừa hưởng một cơ sở vật chất của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc để
lại và các quốc gia này tiến hành quốc hữu hóa để bảo vệ lợi ích đó cho Nhà nước.
Hơn nữa, các nước theo mô hình XHCN luôn có xu hướng tăng cường vai trò của Nhà
nước vào nền kinh tế nên các DNNN ở các quốc gia này phát triển rất nhanh.
- Bốn là, với tiềm năng vốn lớn được hỗ trợ từ Nhà nước, DNNN có nhiều lợi
thế trong các lĩnh vực, đặc biệt là ứng dụng khoa học - kỹ thuật, công nghệ vào sản
xuất, kinh doanh. Ở các nước đang phát triển thì việc thành lập các DNNN đôi khi vì
mục đích để ứng dụng khoa học - kỹ thuật, công nghệ, điều mà các loại hình doanh
nghiệp khu vực kinh tế tư nhân không đủ tiềm lực để thực hiện. Đây cũng chính là một
trong những lý do khiến DNNN gia tăng một cách nhanh chóng.
10 Hoàng Đức Thảo (1993), Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước- kinh nghiệm thế giới, Nxb. Thống kê, Hà
Nội, tr. 20.


19

Như vậy, dù ở bất cứ thời điểm nào thì khu vực kinh tế nhà nước, DNNN vẫn
tồn tại và phát triển một cách khách quan trong nền kinh tế của các quốc gia trên thế
giới. Bên cạnh việc thực hiện chức năng kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, các DNNN
đã và đang đóng góp rất nhiều cho việc hoàn thành các mục tiêu chính trị, kinh tế - xã
hội của Nhà nước.
1.1.2.2. Quá trình thành, phát triển và vai trò của doanh nghiệp nhà nước ở
nước CHDCND Lào

Như đã biết, DNNN là loại hình doanh nghiệp xuất hiện rất sớm trong các loại
hình doanh nghiệp ở nước CHDCND Lào. Sở dĩ DNNN xuất hiện sớm như vậy một
phần là do chế độ chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội của nước CHDCND Lào chi
phối. Là một nước thuộc địa của Pháp trước đây, năm 1945 sau khi giành độc lập dân
tộc, cơ sở vật chất của chính quyền mới hầu như chưa có gì. Để nhanh chóng có lực
lượng vật chất nhằm củng cố và xây dựng chính quyền mới đồng thời xóa bỏ sức
mạnh kinh tế của giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ, Nhà nước đã tiếp quản một loạt các xí
nghiệp của chính quyền cũ, quốc hữu hóa các xí nghiệp của bọn thực dân, tư sản mại
bản, hình thành nên xí nghiệp quốc gia. Những năm 1950-1954 có rất nhiều các
DNNN được thành lập ở Lào. Các DNNN này chủ yếu tập trung hoạt động trong lĩnh
vực khai khoáng, lương thực - thực phẩm, cung ứng nguyên liệu - nhiên liệu… Tuy
nhiên, trong thời điểm đó, các DNNN của Lào hoạt động theo cơ chế quản lý tập
trung, bao cấp, nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế trong lĩnh vực
mà DNNN đó hoạt động. Cũng như thực hiện các chức năng của Nhà nước về kinh tếxã hội. Do vậy, hiệu quả hoạt động của các DNNN ở nước CHDCND Lào trong suốt
một thời gian dài không được thể hiện một cách rõ nét. Bên cạnh đó, còn làm thất
thoát một nguồn lực rất lớn từ NSNN11. Việc phát triển nhanh của các DNNN ở nước
CHDCND Lào thời điểm đó là do đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước Lào khi
coi trọng nền kinh tế quốc doanh, ưu tiên nguồn lực cho việc phát triển các DNNN.
Khi Đảng, Nhà nước Lào đưa ra và thực hiện chủ trương chuyển nền kinh tế tập
trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng XHCN. Đây là cơ hội để cho các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh phát triển. Nhưng xuất phát từ vai trò của DNNN đối với nền kinh tế còn đang
được coi là kém phát triển nên Đảng, Nhà nước Lào vẫn xác định kinh tế nhà nước,
DNNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Lào. Tuy nhiên, nhận thức về kinh tế nhà
nước, DNNN của Đảng, Nhà nước Lào đã có sự thay đổi mạnh mẽ về chất. Đó là quản
lý chặt chẽ và hiệu quả đối với khu vực kinh tế nhà nước, DNNN theo hướng cổ phần
hóa, giảm số lượng DNNN, để các DNNN hoạt động hiệu quả hơn. DNNN bên cạnh
11 Sengnilack Kongchai (chủ biên, 2003), Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào, Nxb. Viêng Chăn, tr. 22-23.



20

việc thực hiện các mục tiêu chính trị, kinh tế - xã hội của Nhà nước thì DNNN cũng
hoạt động vì mục đích lợi nhuận như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khác.
Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường định hướng XHCN thì Đảng và Nhà nước Lào đã thừa nhận sự tồn
tại và phát triển công bằng giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa khu vực kinh
tế nhà nước với khu vực kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, trong quá trình đó, khu vực kinh
tế nhà nước cần phải được củng cố và phát triển trong những lĩnh vực then chốt, cần
có sự can thiệp sâu của Nhà nước. Có như vậy, khu vực kinh tế nhà nước, DNNN ở
nước CHDCND Lào mới tạo điều kiện và cơ hội cho khu vực kinh tế tư nhân ở nước
CHDCND Lào phát triển nhanh và bền vững.
Trong khu vực kinh tế nhà nước ở Lào như hiện nay, DNNN vẫn được Đảng và
Nhà nước Lào xác định là loại hình doanh nghiệp giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế
quốc dân. Do vậy, để tiếp tục phát triển DNNN, chủ trương của Đảng và Nhà nước
Lào là: “Doanh nghiệp nhà nước phải được củng cố, đổi mới và phát triển, nâng cao
hiệu quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế”.
Như vậy, DNNN vẫn giữ vai trò là thiết chế cần thiết để Nhà nước Lào điều tiết
nền kinh tế vĩ mô, khẳng định vì trí, vai trò và chức năng của Nhà nước Lào trong
quản lý trong nền kinh tế thị trường. Đây vừa là vai trò, vừa là yêu cầu cho sự phát
triển chính trị, kinh tế - xã hội ở nước CHDCND Lào hiện nay. Bởi lẽ, việc phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở CHDCND Lào sẽ có những hạn chế, khó
khăn của nền kinh tế thị trường, mà muốn khắc phục thì phải có sự tham gia mạnh mẽ
và tích cực của Nhà nước.
Do đó, DNNN bên cạnh các hoạt động kinh doanh vì mục đích lợi nhuận còn
phục vụ cho các mục tiêu của Nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội.
Thực tế, trong quá trình tồn tại và phát triển các DNNN ở nước CHDCND Lào đã tạo
ra một nền tảng cơ sở hạ tầng quan trọng cho các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế
nước CHDCND Lào. Các DNNN còn tạo ra một nguồn vốn lớn giúp Nhà nước bổ

sung cho NSNN phục vụ cho các mục tiêu kinh tế - xã hội của Nhà nước Lào. Như đã
biết, trong giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh chưa vươn lên để chiếm được vai trò nhất định trong nền
kinh tế. Chính vì thế, đã tạo cho DNNN một sứ mệnh hết sức quan trọng là phát triển
để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng theo đúng định hướng của Nhà nước cũng như tạo
chỗ dựa, tiền để cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển, dựa trên cơ sở hạ tầng mà các
DNNN xây dựng trong quá trình hoạt động của nó.
Vậy thì sứ mệnh đó của DNNN ở nước CHDCND Lào là do những yếu tố nào
chi phối? Trong quá trình tồn tại và phát triển DNNN ở nước CHDCND Lào có thể
thấy sứ mệnh đó của DNNN được chi phối bởi các yếu tố sau đây:


21

Một là, sau thời gian dài là thuộc địa, kinh tế Lào không phát triển; cơ sở hạ
tầng không những không phát triển mà còn bị tàn phá nặng nề. Việc đầu tư cho xây
dựng cơ sở hạ tầng (đầu tư xây dựng cơ bản) tạo tiền đề cho kinh tế - xã hội phát triển
ở nước CHDCND Lào cần một nguồn lực rất lớn mà chỉ Nhà nước mới có thể thực
hiện được. Chính vì vậy, các DNNN ra đời để thực hiện sứ mệnh xây dựng cơ sở vật
chất trong các lĩnh vực kinh tế như: Giao thông vận tải; thông tin - liên lạc; công
nghiệp khai khoáng; cung ứng nguyên, nhiên liệu….
Hai là, để Nhà nước có thể tồn tại và phát triển, Nhà nước luôn luôn phải tiến
hành dựa trữ quốc gia. Việc dự trữ quốc gia, đặc biệt về lương thực - thực phẩm;
nguyên, nhiên liệu được Nhà nước thực hiện thông qua các DNNN mà không thể
chuyển giao nhiệm vụ đó cho các thành phần kinh tế tư nhân vì các thành phần đó
không đủ tiềm lực.
Ba là, một trong những nhiệm vụ quan trọng của DNNN ở gần như tất cả các
quốc gia đều phải thực hiện đó là giải quyết các vấn đề phúc lợi xã hội, nhiệm vụ này
không phát sinh lợi nhuận nên các thành phần kinh tế tư nhân không muốn tham gia
vào. Do vậy, các DNNN ở nước CHDCND Lào ra đời để thực hiện nhiệm vụ đó và thể

hiện sứ mệnh trong lĩnh vực này.
Bốn là, các DNNN với tiềm vực vốn lớn, nắm giữ những lĩnh vực kinh tế then
chốt cộng với đi đầu trong việc phát triển kinh tế - xã hội ở nước CHDCND Lào và
bước đầu thu được những hiệu quả trong kinh doanh là điều kiện để thu hút đầu tư vào
phát triển kinh tế - xã hội ở Lào.
Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo kinh tế thị trường, nhưng trong nền kinh tế
thị trường đó, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, điều tiết nền kinh tế quốc dân
và DNNN là thiết chế quan trọng để Nhà nước quản lý nền kinh tế quốc dân. Đây là
một trong những vai trò xuyên suốt trong quá trình tồn tại và phát triển của khu vực
kinh tế nhà nước và DNNN ở Lào.
Để phát huy được vai trò của mình, DNNN ở nước CHDCND Lào phải thực
hiện các nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, DNNN có nhiệm vụ nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm tài
nguyên, nguyên, nhiên liệu, giảm chi phí sản xuất. Đóng góp của DNNN là cơ sở để
Nhà nước tích lũy và tái đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội trong nền kinh tế
đóng12.

12 Trần Văn Thành (2006), Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào- 20 năm xây dựng và phát triển, Nxb. Viêng Chăn,
Viêng Chăn, tr 15.


22

Thứ hai, DNNN phải sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn nhà nước, thu
hút vốn và các nguồn lực khác bên ngoài nhằm tạo các ra nguồn lực để phát triển nền
kinh tế - xã hội ở nước CHDCND Lào.
Thứ ba, DNNN phải bảo đảm đời sống cho người lao động, lực lượng chủ yếu
tạo ra của cải vật chất, đóng góp cho sự phát triển của DNNN và NSNN của nước
CHDCND Lào.

Thứ tư, DNNN trong quản lý, sản xuất và kinh doanh phải vừa hợp tác, bổ
sung, hỗ trợ nhau, vừa cạnh tranh bình đẳng trên cơ sở pháp luật.
Thứ năm, DNNN trong quá trình sản xuất, kinh doanh phải quan tâm đến vấn
đề bảo vệ môi trường và tích cực đầu tư trang thiết bị để sản xuất giảm thiểu tác động
xấu lên môi trường.
Thứ sáu, DNNN phải coi trọng chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Đây vừa là cơ sở
để bảo đảm sự phát triển của chính DNNN, vừa là cơ sở để tạo dựng uy tín của Nhà
nước đối với xã hội.
Thứ bảy, trong quá trình hoạt động DNNN phải chấp hành nghiêm đường lối,
chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Như vậy, cũng như nhiều quốc gia khác, đặc biệt là các nước XHCN, DNNN ở
Lào có vai trò rất lớn trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN mà Lào đang xây dựng thì DNNN vẫn giữ được những vai trò đó nhưng phải
tiến hành tổ chức, sắp xếp lại DNNN, đặc biệt là cổ phần hóa thì DNNN ở Lào mới
giữ vững và phát huy những vai trò đó.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và các yếu tố chi phối đến địa vị pháp lý
của doanh nghiệp nhà nước
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung về địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước
1.2.1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Doanh nghiệp Nhà nước
Cho đến nay, khoa học pháp lý các nước vẫn chưa có khái niệm thống nhất về
địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật nói chung, của doanh nghiệp và DNNN nói riêng.
Có thể nêu ra đây là một số quan điểm về địa vị pháp lý của doanh nghiệp: (i) Pháp
nhân là khái niệm pháp lý phản ánh địa vị pháp lý của một tổ chức; (ii) Địa vị pháp lý
của DNNN được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm của Doanh nghiệp trong nền kinh tế và trong quản lý Nhà nước; (iii) Địa
vị pháp lý của DNNN là tổng hợp những quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm mà pháp
luật xác định cho nó phù hợp với vị trí vai trò và chức năng mà nó được Nhà nước
giao phó trong quá trình tái sản xuất nền kinh tế quốc dân và những quyền hạn, nghĩa
vụ, trách nhiệm mà nó tự đảm nhận trên cơ sở tận dụng những khả năng mà pháp luật
cho phép khi tham gia vào các quan hệ pháp luật trong quá trình hoạt động. Nhưng dù



23

là quan điểm nào cũng chỉ phản ánh được một phần khái niệm địa vị pháp lý của
doanh nghiệp.
Nói đến địa vị pháp lý của doanh nghiệp là nói đến việc xác định vị trí pháp lý
của các công ty trong hệ thống các doanh nghiệp của nền kinh tế. Xác định địa vị pháp
lý của một doanh nghiệp là xác định năng lực pháp lý và năng lực hành vi của công ty
để trên cơ sở đó công ty có thể tham gia độc lập vào các quan hệ pháp luật. Điều đó
cũng có nghĩa là, địa vị pháp lý của doanh nghiệp là toàn bộ các quy định của pháp
luật về sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp.
Từ định nghĩa về địa vị pháp lý của doanh nghiệp, có thể thấy, địa vị pháp lý của
doanh nghiệp nhà nước là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định sự tồn tại và
hoạt động của doanh nghiệp nhà nước13.
Trải qua các cơ chế quản lý kinh tế khác nhau dẫn tới địa vị pháp lý của DNNN
cũng khác nhau. Giữa cơ chế kinh tế và cơ chế pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh
tế bao giờ cũng tồn tại mối quan hệ biện chứng và lệ thuộc. Sự thay đổi địa vị pháp lý
của DNNN trước hết xuất phát từ sự thay đổi về quan điểm của Đảng và Nhà nước về
vị trí, vai trò của DNNN trong nền kinh tế quốc dân. Từ những quan điểm về vị trí, vai
trò của DNNN dẫn đến những thay đổi về hệ thống thẩm quyền, về quy định dẫn tới sự
ra đời hay chấm sứt của DNNN.
1.2.1.2. Các nội dung cấu thành địa vị pháp lý của Doanh nghiệp nhà nước
Từ định nghĩa chung về địa vị pháp lý của doanh nghiệp, có thể chia địa vị pháp
lý của Doanh nghiệp làm 3 bộ phận:
(1) Các quy định của pháp luật về vai trò, vị trí chức năng của từng loại hình
Doanh nghiệp, các quy định về tính chất, đặc điểm, tổ chức kinh doanh mỗi loại hình
Doanh nghiệp. Vai trò và vị trí của Doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân thể hiện
sự phân công lao động xã hội, là cơ sở khách quan để xây dựng hệ thống thẩm quyền,
là biểu hiện về mặt pháp lý vai trò và vị trí của Doanh nghiệp, năng lực, phạm vi và

giới hạn hoạt động của nó trong nền kinh tế mà nó là một bộ phận cấu thành.
(2) Tổng hợp các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của Doanh nghiệp do pháp luật
xác định cho nó phù hợp với vị trí, vai trò và chức năng được Nhà nước giao và những
quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm mà Doanh nghiệp tự đảm nhận trên cơ sở vận
dụng những khả năng mà pháp luật cho phép khi tham gia vào các quan hệ pháp luật
trong quá trình hoạt động.
(3) Quy chế về thành lập, giải thể, tổ chức lại hay phá sản của các loại hình
Doanh nghiệp. Đây là một bộ phận quan trọng thể hiện địa vị pháp lý của Doanh
nghiệp. Nó thể hiện về mặt pháp lý con đường dẫn đến việc xuất hiện hay chấm dứt tư
13 Nguyễn Trung Nghĩa (1996), Địa vị pháp lý của doanh nghiệp Nhà nước theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước,
Luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 14.


24

cách chủ thể pháp luật của các doanh nghiệp, bởi vì trước khi có hệ thống thẩm quyền,
có quy định pháp lý về vị trí, vai trò của Doanh nghiệp, thì Doanh nghiệp phải được
pháp luật khẳng định về sự tồn tại với tư cách là chủ thể pháp lý độc lập.
Từ các nội dung cấu thành địa vị pháp lý của doanh nghiệp, có thể thấy, Địa vị
pháp lý của DNNN được quy định theo pháp luật hiện hành, mà tập trung nhất trong
Luật doanh nghiệp 2013 của CHDCND Lào, gồm những bộ phận chính sau:
Những quy định thể hiện vị trí, vai trò và tính chất đặc thù của DNNN trong nền
kinh tế quốc dân: đó là những quy định liên quan đến việc thành lập, tổ chức lại, giải
thể DNNN;
Những quy định thể hiện cơ cấu, tổ chức, quản lý cuả DNNN. Cơ cấu tổ chức,
quản lý DNNN xuất phát từ chính vai trò, đặc điểm của DNNN trong nền kinh tế quốc
dân, đòi hỏi DNNN phải có một câu cơ tổ chức quản lý phù hợp để thực hiện hiệu quả
các nhiệm vụ, mục tiêu đã đề ra;
Bộ phận chủ yếu trong địa vị pháp lý của DNNN là hệ thống quyền và nghĩa vụ
của DNNN. Bao gồm: Các quyền và nghĩa vụ về quyền về tổ chức, quản lý tổ chức

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; Các quyền và nghĩa vụ trong việc sử dụng,
quản lý tài sản Nhà nước; Các quyền và nghĩa vụ trong việc phân phối lợi nhuận; Các
quyền và nghĩa vụ trong việc công bố thông tin
Hệ thống quyền và nghĩa vụ của DNNN chịu ảnh hưởng quan điểm của Đảng và
Nhà nước đối với DNNN trong mỗi thời kỳ và đặc biệt chịu sự tác động rất lớn của cơ
chế thực hiện quyền sở hữu Nhà nước đối với tài sản của Doanh nghiệp. Một loại các
quy định pháp lý về quyền chủ sở hữu Nhà nước đối với Doanh nghiệp bao gồm các
quyền: Thành lập, sáp nhập, chia tách, chuyển đổi chủ sỡ hữu DNNN, quy định về
mục tiêu, chiến lược phát triển, định hướng kế hoạch phát triển kinh doanh của
DNNN, quyền quy định các định mức chi phí, tiêu chuẩn định mức kỹ thuật, đơn giá,
tiền lương. Địa vị pháp lý của DNNN còn bao gồm các quy định pháp luật về việc
thành lập, giải thể, phá sản doanh ngihệp. Do cơ chế quan lý nhà nước đối với DNNN
và vị trí, chức năng của DNNN khác các loại hình doanh nghiệp khác nên các quy định
này cũng có điểm đặc trưng riêng biệt. Những điểm khác biệt đó sẽ phân tích trong các
phần sau.
Các quy phạm pháp luật về địa vị pháp lý của DNNN trên đây thay đổi qua các
thời kỳ phát triển kinh tế khác nhau ở nước ta và ngày càng được hoàn thiện dần theo
hướng: Ngày càng xác định rõ mối quan hệ giữa tính tự chủ độc lập của DNNN và
những tác động quản lý của Nhà nước với tư cách quản lý Nhà nước và tư cách chủ sở
hữu, đồng thời ngày càng xác định rõ tư cách pháp lý bình đẳng giữa DNNN kinh
doanh với các loại hình doanh nghiệp khác trong cơ chế thị trường.


25

Vậy những yếu tố nào tác động việc xác lập địa vị pháp lý của DNNN? Qua
nghiên cứu, có thể thấy, những yếu tố quyết định đến địa vị pháp lý của DNNN, quyết
định con đường hình thành, bản chất hợp lý, mức độ rộng hẹp trong hệ thống thẩm
quyền của DNNN là quan điểm của Đảng và Nhà nước về vị trí, vai trò DNNN trong
nền kinh tế quốc dân và cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước trong DNNN.

1.2.2. Các yếu tố chi phối đến địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước
1.2.2.1. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Một điểm chung của nền kinh tế quốc dân của Việt Nam và Lào đó là nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, được chuyển đổi từ hình thức kinh tế tự cung tự cấp.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều được khuyến khích để phát
huy tiềm năng, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, hội nhập với kinh tế trong khu vực và thế giới,
góp phần tạo sự ổn định và phát triển liên tục, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân.
Pháp luật của Việt Nam và Lào đều đã khẳng định rõ: mọi thành phần kinh tế
đều bình đẳng trước pháp luật và hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường, vừa cạnh
tranh và vừa hợp tác phát triển sản xuất kinh doanh dưới sự điều chỉnh của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát mà
Đảng và Nhà nước cả hai nước đã lựa chọn trong thời kỳ đổi mới. Nó vừa mang tính
chất chung của kinh tế thị trường, vừa có những đặc thù, được quyết định bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đây là sự vận dụng sáng tạo những kinh
nghiệm trong nước và thế giới về phát triển kinh tế thị trường, là sự kết tinh trí tuệ của
toàn Đảng trong quá trình lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước. Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được nhất quán là nền kinh tế nhiều thành
phần, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Vì vậy, việc xác định một cách
rõ ràng và nhất quán vị trí, vai trò của kinh tế nhà nước trong quá trình hoạch định
đường lối, chính sách phát triển kinh tế đất nước là rất cần thiết.
* Về mặt lý luận
Tất cả các lý thuyết hiện đại về hệ thống kinh tế thị trường đều coi sự có mặt của
khu vực các DNNN cần thiết trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước,
Nhà nước là chủ thể đại diện cho sự vững bền và ổn định của một quốc gia có chức
năng hoạch định “luật chơi” cho toàn hệ thống. Thực hiện chức năng này, ngoài việc
ra các chính sách, thể lệ về thuế, về nguyên tắc cạnh tranh các điều kiện làm ăn… Nhà
nước còn ban hành những chính sách khuyến khích hoặc hạn chế nhằm định hướng

các doanh nghiệp thực hiện chính sách cơ cấu và thực hiện mục tiêu chiến lược của hệ
thống. Mặt khác, Nhà nước với tư cách là chủ thể chính đại diện cho lợi ích toàn xã


×