Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư từ thực tiễn tại tỉnh hưng yên (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.21 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

MAI THỊ ANH THƯ

HOẠT ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH TRONG
LĨNH VỰC KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ TỪ THỰC TIỄN
TẠI TỈNH HƯNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thủy

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành được Luận văn thạc sĩ, lời đầu tiên, em xin chân
thành cảm ơn tới:
Ban giám hiệu, Khoa sau đại học và thư viện Trường Đại học Luật Hà
Nội đã tạo điều kiện giúp cho em trong suốt quá trình học tập và làm luận văn.
Em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo trong Khoa Luật hiến
pháp và Luật hành chính nói chung và các thầy, cô giáo trong tổ bộ môn
Luật hành chính nói riêng, những người đã giảng dạy và giúp đỡ em trong
quá trình học tập.


Đặc biệt, em xin cảm ơn cô giáo TS. Nguyễn Thị Thủy, người đã tận tình
hướng dẫn, tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành Luận văn thạc sĩ.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày.......tháng......năm 2016
Học viên

Mai Thị Anh Thư


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Hoạt động thanh tra chuyên ngành trong
lĩnh vực kế hoạch và đầu tư từ thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên” là do bản thân tự
thực hiện và không sao chép các công trình nghiên cứu của người khác để làm
sản phẩm của riêng mình. Những nội dung trong luận văn này là do tôi thực
hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo TS. Nguyễn Thị Thủy. Những
phần sử dụng tài liệu tham khảo trong luận văn đã được trích dẫn và nêu rõ
nguồn trong phần tài liệu tham khảo. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính
xác thực và nguyên bản của luận văn này.
Hà Nội, ngày ..... tháng .... năm 2016
NGƯỜI CAM ĐOAN
Học viên

Mai Thị Anh Thư


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1


1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu

3

3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn 6
4. Phương pháp nghiên cứu

6

5. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
6. Những điểm mới của luận văn

7

7

7. Cơ cấu của luận văn 8
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH
TRA CHUYÊN NGÀNH TRONG LĨNH VỰC KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU
TƯ 9
1.1. Khái niệm hoạt động thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra
chuyên ngành trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
9
1.1.1. Khái niệm hoạt động thanh tra chuyên ngành

9


1.1.2. Khái niệm hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực kế hoạch
và đầu tư 16
1.2. Vai trò của thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư trong
quản lý nhà nước về lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
18
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

23

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT
ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH TRONG LĨNH VỰC KẾ
HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ TẠI TỈNH HƯNG YÊN 24
2.1. Đánh giá pháp luật hiện hành về hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh
vực kế hoạch và đầu tư
24
2.1.1. Xây dựng và phê duyệt kế hoạch thanh tra

26

2.1.2. Thời hạn thanh tra

28

2.1.3. Thẩm quyền của các chủ thể tiến hành hoạt động thanh tra chuyên
ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
30
2.1.4. Nghĩa vụ của đối tượng thanh tra

39


2.1.5. Nội dung của hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và
đầu tư
40


2.1.6. Trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực
kế hoạch và đầu tư
43
2.1.7. Về xử lý sau thanh tra

45

2.2. Thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
tại tỉnh Hưng Yên
47
2.2.1. Những kết quả đạt được của hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh
vực kế hoạch và đầu tư tại tỉnh Hưng Yên từ năm 2010 đến nay 47
2.2.2. Các hạn chế, vướng mắc của hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh
vực kế hoạch và đầu tư tại tỉnh Hưng Yên từ năm 2010 đến nay và nguyên
nhân 63
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

69

Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
70
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH LĨNH
VỰC KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
70

3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh
vực kế hoạch và đầu tư
70
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về hoạt động thanh tra chuyên ngành

70

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và
đầu tư
77
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh tra chuyên ngành
kế hoạch và đầu tư
80
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN

83

TÀI LIỆU THAM KHẢO

82


6

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm gần đây, trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
trên thế giới có những diễn biến phức tạp, Việt Nam phải đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức, theo đó nhiều yêu cầu đòi hỏi mới được đặt ra đối với

hoạt động quản lý nhà nước. Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã kịp thời ban hành
nhiều Nghị quyết, chính sách cùng các giải pháp cụ thể nên trong năm 2015,
nước ta vẫn có những chuyển biến tích cực và rõ nét, đạt nhiều kết quả so với
mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 trên các
mặt: Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung tháo gỡ khó khăn cho hoạt
động sản xuất, kinh doanh; Thực hiện mạnh mẽ các đột phá chiến lược, tái cơ
cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả
và năng lực cạnh tranh, phấn đấu tăng trưởng cao hơn năm 2014; Nâng cao
hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và hợp tác quốc tế.
Hoạt động quản lý nhà nước có phạm vi rộng lớn, bao trùm tất cả các
mặt hoạt động của đời sống xã hội, theo nhiều ngành, nhiều cấp. Với những
thành tựu trên, không thể không kể đến những đóng góp quan trọng của
ngành kế hoạch và đầu tư thông qua các hoạt động chính bao gồm: tham mưu
tổng hợp về chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; quy
hoạch phát triển, cơ chế, chính sách quản lý kinh tế chung và một số lĩnh vực
cụ thể; đầu tư trong nước, đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam và đầu tư của
Việt Nam ra nước ngoài; khu kinh tế; quản lý nguồn vốn ODA và viện trợ phi
chính phủ nước ngoài; đấu thầu; thành lập, phát triển doanh nghiệp và khu
vực kinh tế tập thể, hợp tác xã; các dịch vụ công có liên quan.
Tỉnh Hưng Yên là tỉnh giáp ranh thủ đô Hà Nội, nằm trong vùng kinh
tế trọng điểm Bắc Bộ nên có thể đón nhận và tận dụng những cơ hội phát triển
của vùng, đặc biệt là các kết cấu hạ tầng như hệ thống đường bộ, đường cao
tốc, sân bay, cảng biển đã được đầu tư xây dựng. Tốc độ tăng trưởng hàng
năm đạt mức tăng trưởng khá, bình quân 5 năm 2010 - 2015 đạt 7,85% và cao
hơn mức bình quân của cả nước. Công nghiệp, xây dựng tăng mạnh, chiếm tỉ
trọng cao trong cơ cấu kinh tế: Công nghiệp – xây dựng 48,98%; Nông


7


nghiệp 13,54%; Thương mại – dịch vụ 37,47%. Năm 2015, GDP bình quân
đầu người 40,4 triệu đồng/năm; tổng thu ngân sách đạt 7,859 tỉ đồng1, vượt
kế hoạch Trung ương giao. Tuy nhiên, Hưng Yên còn phải đối mặt với không
ít khó khăn cho quá trình phát triển như thực trạng nền kinh tế còn yếu, GDP
bình quân đầu người thấp so với một số tỉnh trong vùng, số lao động qua đào
tạo thấp, thiếu kinh nghiệm hội nhập... Vì vậy, trong thời gian tới, tỉnh Hưng
Yên nói chung và cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
nói riêng phải nỗ lực hơn nữa, phát huy những tiềm năng sẵn có, xây dựng
định hướng và giải pháp đúng đắn để phát triển nhanh, bền vững, hội nhập
với xu thế phát triển của khu vực và toàn quốc.
Hiện nay, Nhà nước chuyển dần từ phương thức quản lý can thiệp trực
tiếp bằng mệnh lệnh hành chính sang quản lý xã hội bằng pháp luật, thông
qua các công cụ quản lý vĩ mô điều chỉnh cho mọi thành phần kinh tế hoạt
động, phát triển và thực hiện chức năng kiểm tra, thanh tra, kiểm soát là chủ
yếu. Hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư tại
tỉnh Hưng Yên theo phương hướng, nhiệm vụ công tác chủ yếu của ngành
thanh tra thường chú trọng đến thanh tra việc chấp hành Luật Doanh nghiệp,
pháp luật về đầu tư, việc thực hiện Luật Đấu thầu, Luật Ngân sách nhà nước...
Kết quả của công tác thanh tra là phát hiện những bất cập, hạn chế nảy sinh
trong cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, xử lý các vi phạm hành chính trong
phạm vi thẩm quyền, trên cơ sở đó kịp thời ngăn chặn vi phạm, thu hồi tiền,
tài sản về cho Nhà nước đồng thời đưa ra các kiến nghị phù hợp với các cơ
quan có thẩm quyền khác, qua đó hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về lĩnh
vực kế hoạch và đầu tư.
Tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Hoạt động thanh tra chuyên ngành
trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư từ thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên” với mong
muốn hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
ngày càng được coi trọng đúng mức, đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả, từ đó

1 Nghị quyết số 12/2016/NQ-HĐND “Về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020”của HĐND tỉnh Hưng

Yên.


8

góp phần giúp tỉnh Hưng Yên có thêm ưu thế về trình độ quản lý so với các
địa phương khác trong cả nước để thu hút đầu tư và phát triển về mọi mặt.
Kế hoạch và đầu tư là lĩnh vực khá rộng và bao gồm nhiều vấn đề
chuyên sâu, vì vậy trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn thạc sỹ, tác giả
không tham vọng làm rõ, nghiên cứu sâu sắc tất cả các vấn đề. Dựa trên
những cơ sở lý luận của hoạt động thanh tra chuyên ngành, những quy định
của pháp luật hiện hành về hoạt động thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu
tư, tác giả sẽ phân tích, đánh giá thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành
kế hoạch và đầu tư tại tỉnh Hưng Yên mà cụ thể là qua hoạt động thanh tra
chuyên ngành của Thanh tra Sở Kế hoạch và Đầu tư để từ đó rút ra những bài
học kinh nghiệm, đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật trong
lĩnh vực này và các giải pháp để tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, trước hết vấn đề hoạt động thanh tra chuyên
ngành được tìm hiểu qua các giáo trình chuyên ngành hành chính. Trong đó:
- Giáo trình Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2009 của
Trường Đại học Luật Hà Nội có trình bày Chương II về hoạt động thanh tra,
tuy nhiên hoạt động thanh tra chuyên ngành chỉ được trình bày hết sức sơ
lược, bao gồm định nghĩa thanh tra chuyên ngành theo Luật Thanh tra năm
2004 và một số đặc điểm của thanh tra chuyên ngành.
- Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam năm 2012 của Trường Đại học
Luật Hà Nội nhắc đến hoạt động của thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân
nói chung với tư cách là một biện pháp pháp lý bảo đảm pháp chế trong quản
lý hành chính nhà nước, hoạt động thanh tra chuyên ngành nói riêng không
được đề cập.

- Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam năm 2013 của PGS.TS Nguyễn
Cửu Việt đã dành riêng Chương XX để nói về vấn đề thanh tra nhà nước.
Trong đó nhắc đến thanh tra chuyên ngành là một loại hoạt động thanh tra nhà
nước và trình bày về thủ tục thanh tra chuyên ngành theo quy định của Luật
Thanh tra năm 2010.


9

Nhìn chung, có thể nói vấn đề hoạt động thanh tra chuyên ngành trong
các giáo trình hiện nay hoặc là không còn cập nhật, hoặc chưa được quan tâm
chú trọng. Nếu có được trình bày thì chủ yếu ở dạng dẫn chiếu lại các quy
định của pháp luật mà chưa nêu được những cơ sở lý luận cho hoạt động
thanh tra chuyên ngành và chưa có nhiều phân tích, bình luận kèm theo.
Luật Thanh tra năm 2010 được Quốc hội thông qua có các quy định về
thanh tra chuyên ngành theo hướng mở rộng, tăng cường hoạt động của thanh
tra chuyên ngành. Quy định trên buộc các cơ quan thanh tra, cơ quan được
giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành phải đổi mới lề lối làm việc,
nâng cao chất lượng, trách nhiệm trong công tác thanh tra, đầu tư hiện đại hóa
hoạt động thanh tra. Sau khi Luật mới có hiệu lực, đã có khá nhiều tác giả đi
vào nghiên cứu về vấn đề tổ chức và hoạt động của thanh tra, trên cả bình
diện lý luận và thực tiễn, có thể kể đến một số công trình:
- Luận văn thạc sỹ luật học “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh
tra chuyên ngành ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” năm 2012 của tác giả
Nguyễn Thị Thục đề cập đến vấn đề lý luận và thực trạng hoạt động của thanh
tra chuyên ngành, từ đó nêu các phương hướng và giải pháp đổi mới hoạt
động của cơ quan thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên do luận văn trình bày cả
vấn đề về tổ chức nên chưa thể tập trung đi sâu vào nghiên cứu về hoạt động
thanh tra chuyên ngành. Hơn nữa, không nhiều thực trạng và giải pháp đổi
mới được đưa ra về hoạt động thanh tra chuyên ngành nói chung phù hợp với

đặc trưng của hoạt động thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu tư.
- Luận văn thạc sỹ luật học “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh
tra xây dựng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” năm 2013 của tác giả Đỗ
Thị Khánh Linh làm rõ khái niệm Thanh tra chuyên ngành xây dựng và đi sâu
phân tích về tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng. Luận văn
thạc sỹ luật học “Hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực quản lý
nhà nước về môi trường của Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội” năm 2015
của tác giả Lê Thị Thu Hiền nghiên cứu về lý luận và thực tiễn công tác thanh
tra chuyên ngành về môi trường, đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả
hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực môi trường của một cơ quan


10

cụ thể trên một địa bàn cụ thể. Hai công trình này nghiên cứu này bước đầu
cũng nêu được một số cơ sở lý luận của hoạt động thanh tra chuyên ngành tuy
nhiên hoạt động thanh tra chuyên ngành ở những lĩnh vực khác nhau lại mang
những đặc trưng rất riêng.
Ngoài ra còn có thể kể đến các bài viết của các tác giả:
- Bài viết “Những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các quy định
pháp luật về hoạt động thanh tra chuyên ngành” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Hải
Yến đăng trên Tạp chí thanh tra số 06/2014 nêu cụ thể 5 vấn đề còn khó khăn,
vướng mắc trong hoạt động thanh tra chuyên ngành: việc lập kế hoạch thanh
tra; việc gửi kế hoạch thanh tra; việc sử dụng con dấu của Đoàn thanh tra
chuyên ngành; về việc thực hiện quyền thanh tra; về trình tự, thủ tục và các
hoạt động khác trong hoạt động thanh tra chuyên ngành. Bài viết từ năm 2014
nên cho đến nay có vấn đề còn nguyên tính thời sự, cũng có vấn đề đã có nghị
định hoặc thông tư mới giải quyết.
- Bài viết “Các yếu tố đảm bảo thực hiện quyền, nghĩa vụ của đối
tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh tra” của hai tác giả

Nguyễn Đình Bính và Trần Thị Bình Minh đăng trên Tạp chí Thanh tra số
03/2015 trình bày về 5 yếu tố có ảnh hưởng chủ yếu đến việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ của đối tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh
tra, bài viết có những định hướng cơ bản nhằm giải quyết khâu yếu nhất trong
hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra chuyên ngành nói riêng hiện nay.
Nói tóm lại, các công trình, bài viết trên đã có những đóng góp nhất
định cả về mặt lý luận và thực tiễn cho công tác nghiên cứu về hoạt động
thanh tra, tuy nhiên phần trình bày về hoạt động thanh tra chuyên ngành gói
gọn trong một phần nhỏ của công trình hay chỉ là những bài viết ngắn, việc
tiếp tục mở rộng nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động thanh tra chuyên ngành
trong một lĩnh vực mới trên một địa bàn cụ thể là cần thiết. Trên cơ sở kế thừa
kết quả nghiên cứu về hoạt động thanh tra chuyên ngành của các công trình
nghiên cứu trước, Luận văn sẽ tập trung phân tích về hoạt động thanh tra
chuyên ngành kế hoạch và đầu tư trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn


11

Theo Nghị định 216/2013/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động thanh tra
ngành kế hoạch đầu tư, các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra ngành Kế
hoạch và Đầu tư gồm: cơ quan thanh tra nhà nước là Thanh tra Bộ Kế hoạch
và Đầu tư; Thanh tra Sở Kế hoạch và Đầu tư; cơ quan được giao thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành Kế hoạch và Đầu tư là Tổng cục Thống kê
và Cục Thống kê. Tuy nhiên do Tổng cục Thống kê và Cục Thống kê có hoạt
động đặc thù riêng về lĩnh vực thống kê, có thể nói các cơ quan này chỉ chủ
yếu phụ thuộc về mặt tổ chức với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nên trong khuôn
khổ của luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật liên
quan đến hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước thực hiện chức năng
thanh tra ngành kế hoạch và đầu tư cũng như hoạt động thanh tra chuyên

ngành của Thanh tra Sở Kế hoạch và Đầu tư trong phạm vi được ủy quyền
hoặc phân cấp quản lý nhà nước của Sở Kế hoạch và Đầu tư tại địa bàn tỉnh
Hưng Yên. Từ đó đưa ra những đánh giá về thực trạng thi hành pháp luật
thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu tư, nguyên nhân của các tồn tại, hạn
chế và đưa ra các đề xuất, biện pháp nhằm đẩy mạnh vai trò của thanh tra
trong lĩnh vực quản lý nhà nước về kế hoạch và đầu tư.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng tổng hợp các phương pháp triết học Mác – Lênin:
- Phương pháp duy vật biện chứng nhằm dẫn dắt nội dung luận văn đi
từ lý luận hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư đến
thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên, qua thực tiễn đánh giá, kiến nghị để bổ sung, sửa
đổi một số quy định của pháp luật.
- Phương pháp lịch sử dùng để phân tích các quy định của pháp luật về
hoạt động thanh tra chuyên ngành nói chung trước khi có Luật Thanh tra
2010, sau khi luật mới có hiệu lực và có các văn bản hướng dẫn luật liên quan
đến hoạt động thanh tra chuyên ngành, quy định pháp luật về tổ chức và hoạt
động của thanh tra chuyên ngành trong một lĩnh vực quản lý nhà nước cụ thể
để thấy sự quan tâm ngày càng đúng mức đến hoạt động này.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp sử dụng để tổng hợp và phân tích
các số liệu kết quả Thanh tra Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hưng Yên từ năm


12

2010 đến nay, qua đó làm rõ những điểm phù hợp và chưa phù hợp của các
quy định pháp luật trên thực tiễn nhằm đảm bảo hiệu quả, hiệu lực của hoạt
động thanh tra chuyên ngành.
Kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như: thống kê, so sánh,
tổng kết thực tiễn.
5. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

- Mục đích của luận văn:
Một là làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về hoạt động
thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư. Đồng thời, nghiên cứu,
nắm vững chính sách pháp luật, các quy định hiện hành về hoạt động thanh
tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư.
Hai là tìm hiểu, phân tích, tổng kết việc thực hiện hoạt động thanh tra
chuyên ngành kế hoạch và đầu tư trên địa bàn tỉnh Hưng Yên. Đánh giá thực
trạng từ đó làm rõ những hạn chế, bất cập và đề xuất một số giải pháp nhằm
khắc phục hạn chế và nâng cao hiệu quả hoạt động đó.
- Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục tiêu trên, luận văn có các
nhiệm vụ sau đây:
+ Làm rõ quan niệm về hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh
vực kế hoạch đầu tư.
+ Nêu và phân tích thực trạng hoạt động thanh tra chuyên ngành kế
hoạch đầu tư từ thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên.
+ Từ những phân tích, đánh giá đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp
luật, nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra chuyên ngành kế hoạch đầu tư
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên nói riêng và trên cả nước nói chung.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là bước kế thừa và tiếp tục nghiên cứu vấn đề hoạt động
thanh tra chuyên ngành trong một lĩnh vực mới tại một địa bàn cụ thể, do vậy
luận văn có những đóng góp mới sau đây:
- Góp phần làm sáng tỏ cở sở lý luận về hoạt động thanh tra chuyên
ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư.


13

- Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động
thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư.

- Tổng kết thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế
hoạch và đầu tư tại tỉnh Hưng Yên từ khi Luật Thanh tra năm 2010 có hiệu
lực đến nay.
- Đề xuất các giải pháp để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và nâng
cao hơn nữa hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành kế hoạch và đầu tư.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn được kết cấu như sau:
Chương I. Những vấn đề lý luận về hoạt động thanh tra chuyên
ngành trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
Chương II. Thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động thanh tra
chuyên ngành trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư tại tỉnh Hưng Yên
Chương III. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư


14

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA
CHUYÊN NGÀNH TRONG LĨNH VỰC KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
1.1. Khái niệm hoạt động thanh tra chuyên ngành và hoạt động
thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
1.1.1. Khái niệm hoạt động thanh tra chuyên ngành
* Hoạt động thanh tra
“Thanh tra” xuất phát từ nguồn gốc Latinh (Inspectare) có nghĩa là
“nhìn vào bên trong”, chỉ một sự xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của
một số đối tượng nhất định. Theo Từ điển Pháp luật Anh - Việt “thanh tra”
được giải thích là hoạt động kiểm tra, kiểm soát, kiểm kê đối với đối tượng bị
thanh tra. Theo Từ điển Luật học (tiếng Đức) giải thích “thanh tra là sự tác
động của chủ thể đến đối tượng đã và đang thực hiện thẩm quyền được giao

nhằm đạt được mục đích nhất định - sự tác động có tính trực thuộc”. Theo từ
điển tiếng Việt “thanh tra (người thuộc cơ quan có thẩm quyền) là kiểm tra,
xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp2”; thanh tra
thường đi kèm với một chủ thể nhất định: “Người làm nhiệm vụ thanh tra”,
“đoàn thanh tra”, “đặt trong phạm vi quyền hành của một chủ thể nhất định”.
Từ những nghĩa như vậy, thanh tra với ý nghĩa động từ là khái niệm để
chỉ hoạt động kiểm tra, kiểm soát của cơ quan, tổ chức, người được giao
nhiệm vụ, quyền hạn nhằm: “xem xét và phát hiện, ngăn chặn với những gì
trái với quy định3” của các tổ chức, cá nhân là đối tượng của thanh tra.
Theo kết quả nghiên cứu Đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước “Hoàn
thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước” do TS. Trần Đức Lượng, nguyên Phó tổng Thanh tra Chính phủ làm
chủ nhiệm thì khái niệm thanh tra được xác định như sau: Thanh tra là một
chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, là hoạt động kiểm tra, xem xét việc
làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; thường được thực hiện bởi
một cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định,
nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, phát huy nhân tố
2 Từ điển tiếng Việt Viện ngôn ngữ học NXB TP.HCM, TP.HCM 2002, Trang 838
3 Từ điển tiếng Việt NXBKHXH Hà Nội 1994


15

tích cực, phòng ngừa, xử lý vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, các
quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Từ một số khái niệm trên cho thấy thanh tra có những đặc điểm sau:
Một là, thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước.
Với tư cách là một chức năng, là một giai đoạn của chu trình quản lý
nhà nước, thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước.Thanh tra là một phạm trù

lịch sử, thanh tra gắn liền với vai trò của Nhà nước trong kiểm soát nhà nước,
kiểm soát xã hội. Chính bản chất của quá trình lao động xã hội đã đòi hỏi tất
yếu phải có sự quản lý của Nhà nước để điều hoà những hoạt động đơn lẻ và
thực hiện những chức năng chung. Việc xem xét, định hướng, đánh giá kết
quả quản lý là một phương diện của quản lý xã hội. Quản lý nhà nước là một
bộ phận quản lý xã hội và ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó có thanh tra.
Trong mối quan hệ giữa quản lý và thanh tra thì quản lý nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra (đề ra đường lối, chủ trương,
quy định thẩm quyền của cơ quan thanh tra, sử dụng các kết quả, các thông
tin từ phía các cơ quan thanh tra). Mặt khác, hoạt động chấp hành của quản lý
Nhà nước thường bao hàm cả sự điều hành, cho nên trong quá trình thực hiện
các văn bản pháp luật đòi hỏi phải có sự kiểm tra nghiêm ngặt của các cơ
quan có thẩm quyền4. Quản lý Nhà nước và thanh tra có cái chung là nhân
danh quyền lực nhà nước thực hiện sự tác động lên các đối tượng bị quản lý.
Song xem xét theo cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh tra chỉ là những
công cụ, phương tiện để quản lý nhà nước.
Là một khâu trong chu trình quản lý, thanh tra bị ràng buộc, chế ước
bởi quản lý, nhưng đồng thời tác động trở lại, góp phần điều chỉnh cách thức,
phương pháp quản lý của chủ thể quản lý Nhà nước. Trong chu trình đó,
thanh tra phản ánh và bảo vệ mục đích của quản lý. Một thể chế hành chính
và cơ chế quản lý nhà nước sẽ không đầy đủ nếu thiếu thanh tra. Trong tổ
4Thanh tra Chính phủ (2014), Tài liệu phục vụ thi nâng ngạch Thanh tra viên chính, Cổng thông tin điện tử
Thanh tra chính phủ, tr.75.


16

chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, hoạt động có tính hiệu quả của
thanh tra sẽ ngăn chặn được nguy cơ biến dạng, tuỳ tiện, thiếu kỷ cương trong
hoạt động quản lý nhà nước. Lê nin đã nhiều lần nhấn mạnh: Nhà nước xã hội

chủ nghĩa sẽ hạn chế được nguy cơ tham nhũng, tệ quan liêu, tăng cường
được kỷ cương xã hội khi những người cộng sản thực hiện tốt công tác thanh
tra, kiểm soát5.
Hai là, thanh tra luôn mang tính quyền lực nhà nước.
Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra có mối liên hệ chặt
chẽ với tính quyền uy - phục tùng của quản lý nhà nước. Là một chức năng
của quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác động tích cực nhằm
thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Nói về
quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra cũng có nghĩa là xác định về mặt
pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức thanh tra. Vì vậy, thanh tra phải được
Nhà nước sử dụng như một công cụ có hiệu quả trong quá trình quản lý.
Có thể nói, thanh tra là một hoạt động luôn luôn mang tính quyền lực
nhà nước. Chủ thể tiến hành thanh tra luôn luôn là cơ quan nhà nước. Thanh
tra (ở đây được dùng với tính chất là một danh từ chỉ cơ quan có chức năng
này) luôn luôn áp dụng quyền năng của Nhà nước trong quá trình tiến hành
hoạt động của mình và nó nhân danh Nhà nước khi áp dụng các quyền đó.
Khi nhấn mạnh tính quyền lực của các tổ chức thanh tra, Lê nin nói: “Thanh
tra thiếu quyền lực là thanh tra suông”.
Tính quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra được cụ thể hoá
trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra, phương thức
tiến hành thanh tra, xử lý kết quả thanh tra, quan hệ giữa cơ quan thanh tra
với đối tượng bị thanh tra... Nếu chỉ chú trọng đến một mặt nào đó mà không
thực hiện đồng bộ tính quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực trên đều dẫn đến
hạ thấp vai trò và hiệu quả của hoạt động thanh tra, hạn chế hiệu lực thanh tra.
Ba là, thanh tra có tính độc lập tương đối.
5 Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ (2012), “Thanh tra và pháp luật về
thanh tra”, Đặc san tuyên truyền pháp luật, (06), tr.6.


17


Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra. Đặc điểm
này phân biệt thanh tra với các loại hình cơ quan chức năng khác của bộ máy
quản lý nhà nước. Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân các cơ
quan, tổ chức tự thực hiện, hoạt động thanh tra thường được tiến hành bởi một
cơ quan chuyên trách6. Ngoài những nhiệm vụ như những cơ quan quản lý
nhà nước khác, các cơ quan thanh tra có nhiệm vụ chủ yếu là xem xét, đánh
giá một cách khách quan việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của
các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Tính độc lập trong quá trình thanh tra được thể hiện ở các điểm như:
Tự mình tổ chức thực hiện các cuộc thanh tra trong các lĩnh vực kinh tế - xã
hội theo thẩm quyền đã được pháp luật quy định; Ra các kết luận, kiến nghị,
quyết định xử lý theo các quy định của pháp luật về thanh tra, chịu trách
nhiệm về quyết định thanh tra của mình. Tuy nhiên tính độc lập chỉ mang tính
chất tương đối vì các cơ quan thanh tra nhà nước chịu sự chỉ đạo trực tiếp của
Thủ truởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp đồng thời chịu sự chỉ đạo,
hướng dẫn về công tác tổ chức, nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra Chính phủ;
chịu sự hướng dẫn về công tác, nghiệp vụ của cơ quan thanh tra cấp trên.
Hoạt động thanh tra được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, theo đó
được hiểu theo 3 cách như sau:
- Quan điểm thứ nhất, tiếp cận theo nghĩa rộng nhất thì hoạt động thanh
tra như là một bộ phận của hoạt động quản lý nhà nước.
- Quan điểm thứ hai, được tiếp cận dưới góc độ hoạt động chủ yếu của
các cơ quan thanh tra nhà nước.
- Quan điểm thứ ba, hiểu theo nghĩa hẹp thì hoạt động thanh tra chính
là hoạt động thanh tra trực tiếp của các cơ quan thanh tra nhà nước thông qua
Đoàn thanh tra và hoạt động thanh tra phát sinh khi có quyết định thanh tra
đến khi có kết luận thanh tra.7

6Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ (2012), “Thanh tra và pháp luật về

thanh tra”, Đặc san tuyên truyền pháp luật, (06),tr.8.


18

Mục đích của hoạt động thanh tra là nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật, trong đó: Phòng ngừa là mục đích chủ yếu,
trực tiếp của hoạt động thanh tra; Phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý,
chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các
biện pháp khắc phục là mục đích quan trọng của hoạt động thanh tra; Phát
huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động
quản lý nhà nước; Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân là mục đích gián tiếp nhưng có tác động quan
trọng tới hiệu quả quản lý.
Các yếu tố tác động đến hoạt động thanh tra bao gồm:
- Yếu tố bên trong (chủ quan): Chỉ đạo của người ra quyết định thanh
tra; Tổ chức Đoàn thanh tra; Quy trình thanh tra; Năng lực chuyên môn và
năng lực cảm xúc của cán bộ thanh tra.
- Yếu tố bên ngoài (khách quan): Bối cảnh thực hiện cuộc thanh tra;
Nhận thức và sự phối hợp của đối tượng thanh tra và các bên liên quan; Các
quy định pháp luật do nhà nước ban hành liên quan đến cuộc thanh tra; Các
yếu tố khác phát sinh đặc thù từng cuộc thanh tra; Các yếu tố liên quan đến
công tác xây dựng lực lượng.
Xét trên tổng thể thì kết quả thanh tra bao gồm ba khía cạnh: Đạt mục
tiêu cụ thể của cuộc thanh tra; Tác động đến đối tượng thanh tra và tác động
đến xã hội; Cảm xúc và hành động sau thanh tra của cán bộ thanh tra và đối
tượng thanh tra. Nếu chỉ đạt được một trong ba khía cạnh này thì kết quả
chung của cuộc thanh tra chưa được coi là đã đạt được.
Xuất phát từ quan niệm coi thanh tra là chức năng thiết yếu của Nhà
nước, do đó, hoạt động thanh tra bao gồm:

+ Hoạt động thanh tra hành chính (hướng vào bản thân bộ máy quản lý);

7 ngày truy cập 08/7/2016.


19

+ Hoạt động thanh tra chuyên ngành (hướng vào xã hội, các đối tượng
quản lý);
Bên cạnh đó, hoạt động này cũng bao gồm các hoạt động thanh tra giải
quyết khiếu nại, tố cáo và thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật phòng,
chống tham nhũng.
* Hoạt động thanh tra chuyên ngành
Ngành là khái niệm chỉ tổng thể những đơn vị, tổ chức sản xuất - kinh
doanh có cùng cơ cấu kinh tế - kĩ thuật hay các tổ chức, đơn vị hoạt động có
mục đích giống nhau8. Sự phân chia các mặt hoạt động xã hội thành “ngành”
là kết quả phân công lao động xã hội xảy ra đồng thời với quá trình phát triển
sản xuất và chuyên môn hoá các loại hoạt động khác nhau của con người. Tuỳ
theo các cách phân loại sản phẩm chung - riêng, rộng - hẹp khác nhau mà
người ta chia ra các ngành, phân ngành, ngành chuyên sâu... Sự phân công lao
động xã hội phần nhiều quy định sự phân công lao động quản lý. Các cơ quan
quản lý ngành (Bộ) có chức năng xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển, quản lý phát triển khoa học và công nghệ, xây dựng và thanh tra,
kiểm tra việc thực hiện pháp luật, tức là hoạt động mang tầm vĩ mô nhằm
hướng quản lý nhà nước của Bộ mình đi đúng hướng, đúng mục đích và có
hiệu quả. Thanh tra ngành cũng nằm trong bối cảnh này. Điều đó có nghĩa là,
hoạt động thanh tra chuyên ngành xuất phát từ yêu cầu quản lý đối với toàn
diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, đóng góp vào việc tăng cường trật tự,
kỉ cương, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, là một tất yếu khách quan
trong quản lý nhà nước ở các bộung và đạt được do Thanh tra Sở đã áp dụng

nhiều biện pháp đôn đốc, nhắc nhở linh hoạt tuy nhiên vẫn cho thấy sự thiếu
hiệu quả trong công tác xử lý sau thanh tra.
Ngoài kiến nghị thu hồi, kiến nghị giảm trừ hay quyết định xử phạt vi
phạm hành chính, với việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các nội
dung khác của kết luận, Thanh tra Sở tuy hiểu được tầm quan trọng nhưng
chưa thể dành sự quan tâm đúng mức. Khi ban hành Kết luận thanh tra,
Chánh thanh tra Sở có yêu cầu đối tượng thanh tra phải có báo cáo lại việc
thực hiện kết luận, kiến nghị trước một thời hạn cụ thể, ngoài ra chưa có biện
pháp khác.
Thực trạng này do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, quy định của pháp luật về Thanh tra còn bất cập, thiếu quy
định về các biện pháp cưỡng chế trong xử lý sau thanh tra, chế tài xử lý trong
việc không chấp hành thực hiện kết luận thanh tra.


73

Thứ hai, pháp luật hiện hành chưa xác định rõ một cơ quan chuyên
trách có trách nhiệm thực hiện, thi hành kết luận thanh tra, tương tự như cơ
quan thi hành án để thi hành các Bản án, quyết định của Tòa án có cơ quan
Thi hành án thi hành…
Thứ ba, do nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của các tổ chức, cá
nhân bị xử lý còn hạn chế. Có những trường hợp cố ý chây ỳ hoặc trốn tránh
việc thực hiện kết luận thanh tra nhưng không được phát hiện và xử lý kịp
thời, nghiêm minh.
Thứ tư, trong thời gian qua, tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu và
những tác động của suy thoái phần nào ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam
mà trực tiếp là hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế (trong đó
có đối tượng được thanh tra), đây cũng là một trong những nguyên nhân
khách quan khiến đối tượng thanh tra chậm hoặc không có khả năng thực hiện

kết luận thanh tra và nộp lại khoản tiền bị cơ quan thanh tra xử phạt vi phạm
hành chính.


74

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong nội dung của Chương 2, tác giả nêu khái quát các cơ sở pháp lý
áp dụng cho hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư,
đánh giá ảnh hưởng tích cực cũng như những khó khăn, vướng mắc từ các cơ
sở pháp lý này đối với việc thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh
vực kế hoạch và đầu tư theo những tiêu chí chủ yếu. Đồng thời tác giả đánh
giá thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
tại tỉnh Hưng Yên trên phương diện các kết quả đạt được và các hạn chế,
vướng mắc của hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
tại tỉnh Hưng Yên từ khi Luật Thanh tra năm 2010 ra đời, tìm ra nguyên nhân
của các hạn chế, vướng mắc đó để tạo cơ sở cho việc tìm ra các biện pháp
khắc phục cũng như giải pháp hoàn thiện hoạt động.


75

Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH
LĨNH VỰC KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
Từ cơ sở lý luận của hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế
hoạch và đầu tư, dựa trên những đánh giá về thực trạng pháp luật và thực tiễn
hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư tại tỉnh Hưng
Yên cho thấy việc đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu

quả hoạt động thanh tra chuyên ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư là yêu cầu
khách quan nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập hiện nay; hướng tới xây
dựng và phát triển ngành Thanh tra trong sạch, vững mạnh, kỷ cương, liêm
chính, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước.
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động thanh tra chuyên
ngành lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về hoạt động thanh tra chuyên ngành
Những hạn chế trong quy định của pháp luật đã phân tích ở trên đòi hỏi
phải đưa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về thanh tra và thanh tra
chuyên ngành.
Một là cần có thêm các quy định cụ thể để đảm bảo Kế hoạch thanh tra
hàng năm không chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh
tra; khả thi, tiết kiệm nguồn lực thực hiện. Bên cạnh việc xây dựng kế hoạch
thanh tra cần phải dựa vào định hướng chương trình thanh tra của Thanh tra
Chính phủ và hướng dẫn của cơ quan thanh tra cấp trên thì trong trình tự, thủ
tục xây dựng kế hoạch thanh tra nên có quy định cứng về việc dự thảo Kế
hoạch thanh tra của các cơ quan thanh tra phải gửi về Thanh tra Chính phủ
hoặc Thanh tra tỉnh để hai cơ quan này giữ vai trò điều phối, kiểm duyệt tránh
trùng lặp, chồng chéo. Hiện nay Thông tư 01/2014/TT-TTCP quy định việc
xây dựng, phê duyệt định hướng chương trình thanh tra, kế hoạch thanh tra
quy định việc lấy ý kiến của cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên trực tiếp, ý
kiến của cơ quan, đơn vị có liên quan vào nội dung dự thảo kế hoạch thanh tra


76

chỉ cần thực hiện khi xét thấy cần thiết. Thực tế, tuy Luật không bắt buộc
nhiều UBND các tỉnh đã có chỉ đạo các cơ quan thanh tra ở địa phương mình
phải thực hiện việc này.

Ví dụ trong Công văn số 1181/UBND-NC ngày 14/7/2015 của UBND
tỉnh Hưng Yên v/v tăng cường công tác quản lý nhà nước về thanh tra, UBND
tỉnh yêu cầu thủ trưởng các sở, ngành tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thành
phố thực hiện các nội dung sau trong công tác xây dựng kế hoạch thanh tra
hàng năm: Chỉ đạo cơ quan thanh tra bám sát định hướng thanh tra hàng năm
của Thanh tra Chính phủ, kế hoạch thanh tra của UBND tỉnh, hướng dẫn của
Thanh tra tỉnh; yêu cầu công tác quản lý chuyên ngành và tình hình thực tế
của từng sở, ngành, địa phương để xây dựng kế hoạch thanh tra hàng năm;
Trước khi phê duyệt kế hoạch thanh tra, cơ quan thanh tra các sở, ngành, địa
phương gửi dự thảo kế hoạch thanh tra về Thanh tra tỉnh để rà soát, tránh
chồng chéo, trùng lắp về nội dung giữa các cuộc thanh tra của các cấp, các
ngành. Giao Thanh tra tỉnh: Hướng dẫn thanh tra các Sở, ngành, địa phương
xây dựng Kế hoạch thanh tra theo đúng quy định; tổ chức việc rà soát và xử lý
chồng chéo giữa các cuộc thanh tra của các cấp, các ngành.
Ngoài ra cần xem xét lại quy định về việc gửi Kế hoạch thanh tra sau
khi ban hành Kế hoạch thanh tra.
Hai là tăng cường tính độc lập cho hoạt động thanh tra chuyên ngành
và phân cấp thẩm quyền trong tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành.
Mặc dù Luật Thanh tra 2010 có rất nhiều điểm mới quan trọng so với thời kì
trước đó nhằm nâng cao địa vị pháp lý của cơ quan thanh tra, xác định tính
độc lập tương đối của các cơ quan thanh tra trong mối quan hệ với cơ quan
quản lý nhà nước cùng cấp. Tuy nhiên trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp
tục làm rõ mối quan hệ giữa Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước và Thủ
trưởng cơ quan thanh theo hướng tăng tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của
các cơ quan thanh tra trong hoạt động của mình nhằm bảo đảm tuân thủ thời
hạn ban hành kết luận thanh tra, cụ thể là chỉ quy định thẩm quyền ra quyết định
thanh tra cho Thủ trưởng cơ quan thanh tra. Tính độc lập tương đối trong hoạt
động thanh tra sẽ được nâng cao khi có được đội ngũ thanh tra viên chuyên



77

nghiệp, có chuyên môn nghiệp vụ sâu, bản lĩnh vững vàng nên còn phải chú
trọng vấn đề này. Đồng thời cần làm rõ trong mối quan hệ giữa Người ra
quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra và thành viên Đoàn thanh tra.
Dưới khía cạnh pháp luật, pháp luật thanh tra cần phân định thẩm quyền của
từng chủ thể trong họat động thanh tra, phải có cơ chế rõ ràng để Người ra
quyết định thanh tra kết luận đúng tính chất về những sai phạm do Đoàn
thanh tra phát hiện. Các thành viên Đoàn thanh tra có trách nhiệm báo cáo đầy
đủ, trung thực về những sai phạm được phát hiện trong quá trình tiến hành
thanh tra. Theo đó, nên quy định thẩm quyền ban hành kết luận thanh tra cho
Trưởng Đoàn thanh tra, như vậy mới nâng cao được tính chủ động, tự chịu
trách nhiệm của các thành viên Đoàn thanh tra, từ đó nâng cao chất lượng,
hiệu quả của hoạt động thanh tra.
Ba là đảm bảo việc thực hiện quyền của các chủ thể tiến hành hoạt
động thanh tra chuyên ngành. Việc thực hiện các quyền trong quá trình thanh
tra là một trong những nhân tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả của các cuộc thanh tra nói riêng và hoạt động của ngành thanh tra nói
chung. Tuy nhiên, để thực hiện tốt các quyền này đòi hỏi các chủ thể thanh tra
phải xác định được vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình trong quá
trình thanh tra; trong quá trình thực hiện phải tuân thủ đúng các nguyên tắc và
bảo đảm đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định…Các chủ thể thanh tra
cũng cần chú ý rằng: ngoài những vấn đề bắt buộc nêu trên, trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ thanh tra, việc sử dụng các quyền thanh tra có nhiều yếu
tố có ảnh hưởng đến việc sử dụng các quyền thanh tra và kết quả của cuộc
thanh tra. Trước hết, Nhà nước phải trao cho các chủ thể này những quyền
hạn nhất định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao. Các quyền hạn ấy
phải được pháp luật quy định và có những chế tài để đảm bảo cho các cơ quan
thanh tra, kiểm tra thực hiện tốt được nhiệm vụ của mình. Đây là một yêu cầu
bắt buộc, không thể thiếu đối với hoạt động thanh tra chuyên ngành nói riêng

và các hoạt động quản lý nói chung. Việc sử dụng các quyền này còn phụ
thuộc rất nhiều vào trình độ, năng lực thực hiện quyền của các chủ thể thanh
tra và các quy định trong Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành.


78

Việc chọn đúng người, giao đúng công việc cho từng người, từng vị trí đóng
vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng quyền trong hoạt
động thanh tra. Bên cạnh đó thực tế hoạt động thanh tra cho thấy, ý thức,
trách nhiệm, sự phối hợp, cộng tác của đối tượng thanh tra và các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan cũng có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện
nhiệm vụ và việc sử dụng các quyền của các chủ thể thanh tra. Vì vậy, việc
tuyên truyền về pháp luật nói chung và pháp luật về thanh tra nói riêng là việc
làm hết sức cần thiết và quan trọng đối với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân và
nhất là đối với đối tượng thanh tra. Trước hết làm cho họ có nhận thức đúng
về mục đích, ý nghĩa của công tác thanh tra để từ đó họ xác định được trách
nhiệm, nghĩa vụ của mình và tự nguyện, tự giác phối hợp, cộng tác với Đoàn
thanh tra, thực hiện tốt các yêu cầu, kiến nghị, quyết định thanh tra. Sau là về
sự phối hợp của các cơ quan chức năng trong việc thực hiện quyền thanh tra,
trong quá trình thực hiện các quyền thanh tra, ngoài việc yêu cầu đối tượng
thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến nội dung thanh tra
cung cấp các thông tin, tài liệu… các chủ thể thanh tra phải chủ động yêu cầu
các cơ quan chuyên môn giúp đỡ, phối hợp để hoàn thành được nhiệm vụ.
Việc lựa chọn biện pháp nào, cách thức nào là tuỳ thuộc vào từng điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể, phụ thuộc vào mục đích, yêu cầu, tính chất, mức độ đòi hỏi
đối với từng quyền. Vấn đề mấu chốt là ở chỗ Trưởng đoàn hoặc các thành
viên của Đoàn thanh tra phải là người chủ động nắm bắt tình hình, tìm hiểu
thực tế để xác định phối hợp với cơ quan nào, cách thức phối hợp thế nào và
vào thời gian nào, có như vậy việc sử dụng các quyền trong quá trình thanh

tra mới có hiệu lực, hiệu quả tốt19.
Bốn là có chế tài cụ thể với các vi phạm trong việc thực hiện nghĩa vụ
của đối tượng thanh tra. Tùy từng nhóm đối tượng thanh tra, tùy từng hành vi
thể hiện việc không thực hiện đúng nghĩa vụ mà chúng ta phải có những chế
tài phù hợp20. Ví dụ thanh tra trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, với hành vi
19 ngày truy cập 21/7/2016
20Nguyễn Đình Bính, Trần Thị Bình Minh (2015), “Các yếu tố đảm bảo thực hiện quyền, nghĩa vụ của đối
tượng thanh tra trong việc thực hiện kết luận thanh tra”, Tạp chí Thanh tra, (03), tr.19.


×