Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Nhân thân người phạm tội trong pháp luật hình sự việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (859.78 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM VIỆT NGHĨA

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRONG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM VIỆT NGHĨA

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60380104


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Hương

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào khác.

Hà Nội, ngày 23 tháng 11 năm 2016
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

TS. Nguyễn Văn Hương

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Việt Nghĩa


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật hình sự

: BLHS

Bộ luật tố tụng hình sự

: BLTTHS


Cấu thành tội phạm

: CTTP

Toà án nhân dân tối cao

: TANDTC

Trách nhiệm hình sự

: TNHS

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

: VKSNDTC


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN
NGƯỜI PHẠM TỘI

9

1.1.


Khái niệm nhân thân người phạm tội

9

1.2.

Đặc điểm của nhân thân người phạm tội

16

1.3.

Ý nghĩa của nhân thân người phạm tội

18

1.4.

Phân loại nhân thân người phạm tội

21

Chương 2. CÁC DẤU HIỆU VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI

2.1.

PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999

25


Nhân thân người phạm tội được quy định là dấu hiệu định tội

25

2.1.1. Đặc điểm liên quan đến nghề nghiệp, tính chất công việc của
người phạm tội

25

2.1.2. Đặc điểm liên quan đến chức vụ, quyền hạn của người phạm tội

26

2.1.3. Đặc điểm về độ tuổi của người phạm tội

27

2.1.4. Đặc điểm về tình trạng bệnh của người phạm tội

28

2.1.5. Một số đặc điểm khác của người phạm tội

28

2.2.

Nhân thân người phạm tội được quy định là dấu hiệu định
khung hình phạt


31

2.2.1. Đặc điểm về thái độ chấp hành pháp luật của người phạm tội

32

2.2.2. Đặc điểm liên quan đến chức vụ, quyền hạn của người phạm tội

36

2.2.3. Đặc điểm liên quan đến nghề nghiệp, tính chất công việc của
người phạm tội
2.2.4. Đặc điểm về tình trạng bệnh của người phạm tội
2.3.

37
39

Nhân thân người phạm tội được quy định là tình tiết giảm
nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự

40


2.3.1. Các đặc điểm nhân thân người phạm tội là tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự

41


2.3.2. Các đặc điểm nhân thân người phạm tội là tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự
2.4.

49

Nhân thân người phạm tội trong một số quy định khác của Bộ
luật hình sự

55

Chương 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
3.1.

64

Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về nhân
thân người phạm tội

64

3.1.1. Một số bất cập trong các quy định của Bộ luật hình sự về nhân
thân người phạm tội

64

3.1.2. Một số khó khăn, vướng mắc, hạn chế trong việc áp dụng các quy
định của Bộ luật hình sự về nhân thân người phạm tội

3.2.

66

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự về nhân thân người phạm tội

3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự

77
77

3.2.2. Tăng cường công tác hướng dẫn thi hành pháp luật và tổng kết
công tác thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử

78

KẾT LUẬN

81


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân thân con người là một trong những đề tài được nhiều ngành khoa
học quan tâm nghiên cứu như xã hội học, tâm lý học, tội phạm học, khoa học
luật hình sự, khoa học điều tra tội phạm... Nghiên cứu nhân thân con người
nói chung và từ đó, đi sâu nghiên cứu nhân thân người phạm tội nói riêng

không chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội, pháp lý mà còn có ý nghĩa
khoa học thực tiễn trên nhiều bình diện.
Dưới góc độ luật hình sự, nhân thân người phạm tội là một trong những
căn cứ của việc quy định trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt. Trong
thực tiễn truy cứu trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt, việc áp dụng các
quy định của pháp luật liên quan đến nhân thân người phạm tội đòi hỏi phải
chính xác mới đảm bảo cho việc phân hoá, cá thể hoá trách nhiệm hình sự,
hình phạt một cách chính xác. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội không
chỉ góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận chung về nhân thân
người phạm tội, mà còn làm rõ thêm ảnh hưởng của nhân thân người phạm tội
trong việc đề ra chính sách hình sự ở nước ta cũng như vai trò của nhân thân
người phạm tội trong việc giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự của người
phạm tội. Tuy nhiên, những yêu cầu, đòi hỏi này lại chưa được quan tâm đúng
mức trong công tác nghiên cứu khoa học.
Ở Việt Nam, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định những dấu hiệu nhân
thân người phạm tội ở những cấp độ khác nhau: Có thể là dấu hiệu trong cấu
thành tội phạm hoặc có thể là dấu hiệu định khung hình phạt hoặc là dấu hiệu
xác định mức độ giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm
tội. Những quy định này đã tạo ra cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm hình
sự, giúp các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giải quyết đúng đắn vấn
đề trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong quá trình giải quyết vụ
án. Tuy nhiên, thực tiễn cũng chỉ ra những bất cập khi áp dụng những dấu
hiệu nhân thân người phạm tội của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố


2

tụng, thể hiện ở một số khía cạnh như: Do nhận thức chưa đầy đủ về nội
dung, vị trí pháp lý của các dấu hiệu nhân thân người phạm tội nên đã áp
dụng sai theo hai chiều hướng, làm giảm nhẹ mức độ trách nhiệm hình sự

hoặc làm tăng nặng mức độ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, dẫn đến
những hậu quả đáng tiếc trong việc xử lý tội phạm; những quy định về dấu
hiệu nhân thân người phạm tội còn chưa được xem xét đúng mức hoặc bị lạm
dụng trong quá trình xử lý tội phạm của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng, dẫn đến việc xử lý, áp dụng hình phạt không phù hợp với tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội...
Tất cả những vấn đề trên đây cho thấy, việc tiếp tục nghiên cứu nhân
thân người phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam, nhất là tại thời điểm
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 sắp có hiệu lực thi hành, có ý nghĩa to
lớn về khoa học cũng như về thực tiễn. Nghiên cứu những vấn đề này không
những góp phần làm phong phú thêm lý luận về nhân thân người phạm tội,
mà còn có ý nghĩa trong công tác lập pháp và trong việc áp dụng, thi hành
pháp luật. Đây cũng là lý do để tác giả lựa chọn đề tài: “Nhân thân người
phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong những năm qua, việc nghiên cứu về
nhân thân người phạm tội đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu lý luận, hình sự và cán bộ thực tiễn. Đến nay, đã có nhiều công trình
nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, phương
diện khác nhau về nhân thân người phạm tội được công bố, thể hiện ở một số
luận án, luận văn, giáo trình, sách chuyên khảo, cụ thể là:
- Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự
(Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;
- Lê Cảm (chủ biên, 2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần
chung), (Phần các tội phạm), Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;


3


- Chu Thanh Hà (2015), Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
thuộc về nhân thân người phạm tội, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;
- Nguyễn Ngọc Hoà (chủ biên, 2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(tập 1), (tập 2), Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội;
- Nguyễn Ngọc Hoà (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội;
- Nguyễn Hoàng Lâm (2003), Nhân thân người phạm tội dưới góc độ
khoa học luật hình sự và tội phạm học, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học
Cần Thơ, Cần Thơ;
- Dương Tuyết Miên (2003), Quyết định hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội;
- Phan Hồng Thuỷ (2010), Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
trong luật hình sự Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn
Thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;
- Nguyễn Thị Thanh Thủy (2005), Nhân thân người phạm tội trong luật
hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật,
Viện Khoa học xã hội Việt Nam;
- Chu Thị Quỳnh (2015), Vai trò nhân thân người phạm tội – Dấu hiệu
quy định trách nhiệm hình sự, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Bên cạnh đó, vấn đề này cũng được đề cập ở nhiều công trình nghiên
cứu, bài viết của nhiều tác giả như:
- Lê Cảm (2001), “Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ
bản”, Toà án nhân dân, (10-11);
- Đỗ Đức Hồng Hà (2006), “Các tình tiết định khung tăng nặng của tội
giết người phản ánh đặc điểm về nhân thân người phạm tội”, Toà án nhân
dân, (8);
- Nguyễn Ngọc Hoà (2001), “Bộ luật hình sự năm 1999 với việc quy

định đặc điểm về nhân thân là dấu hiệu định tội”, Luật học, (6);


4

- Nguyễn Tuyết Mai (2006), “Một số đặc điểm cần chú ý về nhân thân
của người phạm tội về ma tuý ở Việt Nam”, Luật học, (11);
- Nguyễn Thị Thanh Thủy (2001), “Một số vấn đề về nhân thân người
phạm tội”, Nhà nước và pháp luật, (5);
- Đinh Văn Quế (2007), “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội”, Kiểm sát, (6);
- Trường Đại học luật Hà Nội (2015), “Tài liệu hội thảo khoa học: Góp ý
dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi)”;
- Trường Đại học luật Hà Nội (2016), “Tài liệu hội thảo khoa học:
Những điểm mới trong Phần chung của Bộ luật hình sự năm 2015 so sánh với
quy định của Bộ luật hình sự năm 1999”.
Nhìn chung, các công trình, bài viết trên tuy có đề cập đến vấn đề nhân
thân người phạm tội nhưng mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu khái quát nội
dung của vấn đề xem xét nhân thân người phạm tội ở các cấp độ khác nhau
trong tội phạm học và trong luật hình sự nói chung hoặc các phương diện
khác nhau trong một nhóm chủ thể nhất định như người chưa thành niên
phạm tội hoặc một nhóm tội nhất định như nhóm tội phạm về ma tuý... Trong
khoa học luật hình sự Việt Nam, vẫn chưa có nhiều công trình tập trung
nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu về nhân thân người phạm tội.
Trước đây, có một công trình khoa học cũng có đề cập đến vấn đề này,
đó là Luận án Tiến sĩ luật học “Nhân thân người phạm tội trong luật hình sự
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2005). Tuy nhiên, những nội
dung triển khai trong Luận án này lại dựa trên ba góc độ đồng thời, đó là luật
hình sự, luật tố tụng hình sự và tội phạm học; bên cạnh đó, thời điểm mà Luận
án được nghiên cứu và công bố cũng đã được hơn mười năm.

Vào thời điểm hiện tại, khi các ngành luật đang được phân chia ngày
càng cụ thể, cũng như Bộ luật hình sự năm 2015 vẫn đang được sửa đổi, bổ
sung thì việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về nhân thân người phạm tội cũng như đề xuất các giải


5

pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này vẫn còn có nhiều ý nghĩa
về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung về
nhân thân người phạm tội; các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, bao
gồm những quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) và Bộ luật hình sự năm 2015 về nhân thân người phạm tội;
thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về nhân thân người
phạm tội.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung giải quyết một số vấn đề lý
luận về nhân thân người phạm tội, nghiên cứu nhân thân người phạm tội trong
việc quy định trách nhiệm hình sự, hình phạt và thực tiễn truy cứu trách
nhiệm hình sự, quyết định hình phạt, những vấn đề còn tồn tại trong các quy
định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và các văn
bản hướng dẫn thi hành, những vướng mắc, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng
pháp luật. Bên cạnh đó, luận văn cũng đưa ra những so sánh những quy định
về nhân thân người phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) với những quy định tương ứng trong Bộ luật hình sự năm
2015. Từ đó, luận văn đưa ra một số giải pháp sửa đổi và nâng cao hiệu quả
thi hành các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 có liên quan đến nhân
thân người phạm tội, cũng như góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tội phạm trong thời gian tới.

4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống
về mặt lý luận những nội dung cơ bản của nhân thân người phạm tội, các quy
định liên quan đến nhân thân người phạm tội trong pháp luật hình sự Việt
Nam, xác định những tồn tại trong các quy định của pháp luật cũng như thực
tiễn áp dụng các quy định này, từ đó, đề xuất những giải pháp cụ thể, góp
phần hoàn thiện những quy định này trong thời gian tới.


6

Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
trong nghiên cứu khoa học. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho
việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công
tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong quá trình áp dụng và
thực thi pháp luật.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ, trả lời các câu hỏi:
- Nhân thân người phạm tội là gì?
- Nhân thân người phạm tội có những đặc điểm gì?
- Nhân thân người phạm tội có ý nghĩa như thế nào?
- Nhân thân người phạm tội được phân loại như thế nào?
- Nhân thân người phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự như thế
nào?
- Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về nhân thân người
phạm tội trong những năm qua như thế nào?
- Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình
sự về nhân thân người phạm tội được đưa ra là gì?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy

vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, những quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính
sách hình sự, về cải cách tư pháp...
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả đã sử dụng các phương
pháp cụ thể là: Phương pháp nghiên cứu lịch sử - cụ thể, phương pháp phân
tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có những đóng góp mới và có ý nghĩa
trên cả hai phương diện khoa học và thực tiễn:
Về phương diện khoa học:


7

Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề nhân thân người
phạm tội một cách toàn diện, có hệ thống trên cơ sở những tài liệu tham khảo
cũng như những kinh nghiệm thực tiễn tích luỹ được trong quá trình học tập
và công tác. Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về nhân thân
người phạm tội, những quy định của Bộ luật hình sự về nhân thân người
phạm tội trong việc quy định trách nhiệm hình sự, hình phạt, qua đó, đưa ra
những đóng góp hoàn thiện về mặt pháp luật.
Về phương diện thực tiễn:
Luận văn đã chỉ ra một số khó khăn, vướng mắc, hạn chế trong công tác
áp dụng pháp luật liên quan đến nhân thân người phạm tội, từ đó, đưa ra một
số giải pháp nâng cao chất lượng truy cứu trách nhiệm hình sự và quyết định
hình phạt trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Bên cạnh
đó, luận văn còn là một tài liệu tham khảo bổ ích và cần thiết cho các nhà
nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các học viên, sinh viên chuyên
ngành hình sự tại các cơ sở đào tạo luật, các cán bộ thực tiễn đang công tác tại
các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong quá trình áp dụng và thực

thi pháp luật.
8. Bố cục của luận văn
Xuất phát từ nội dung, yêu cầu của luận văn, ngoài phần Mở đầu và Kết
luận, luận văn được kết cấu thành ba chương lớn:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội.
Chương 2: Các dấu hiệu về nhân thân người phạm tội trong Bộ luật hình
sự năm 1999.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của Bộ luật hình sự về nhân thân người phạm tội.


8

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM
TỘI
1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội
Trong lịch sử triết học đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau về con người.
Triết học duy tâm đưa ra giải thích con người được hình thành từ sự sáng tạo
của Đấng tối cao và bị chi phối bởi thần thánh hoặc của ý thức trừu tượng.
Theo cách giải thích này, dấu hiệu của con người là có xương, có thịt, có ham
muốn, có bản năng sinh tồn như một động vật thuần túy, chịu sự chi phối của
một sức mạnh vô hình.
Triết học Mác – Lênin đã bác bỏ quan niệm siêu hình về con người của
triết học duy tâm. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, “con người là
sản phẩm của tự nhiên và xã hội. Con người được tự nhiên sinh ra cho nên
trước tiên mang các đặc tính của sinh vật. Cái sinh học trong con người quy
định sự hình thành những hiện tượng và quá trình tâm lý trong con người” (1).
Như vậy, theo quan điểm này, con người trước tiên phải mang những đặc
điểm của tự nhiên, phản ánh thông qua đặc điểm sinh học như giới tính, tuổi,

môi trường sống… bảo đảm cho con người có thể tồn tại được. Tuy nhiên,
con người không thể tồn tại được một cách độc lập. Để duy trì sự tồn tại của
mình, con người phải liên kết, hợp tác với nhau trong quá trình lao động để
sản xuất ra của cải vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh học của mình cũng
như chống lại kẻ thù để tồn tại và phát triển. Chính lao động và sự hợp tác là
yếu tố quyết định sự hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời, lao
động là nền tảng tạo ra văn hóa vật chất, tinh thần của con người. Những đặc
điểm xã hội được thể hiện ở con người, trước tiên là việc “tự phân biệt với
súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cho
mình”(2). Con người hoạt động sản xuất không chỉ là phương tiện duy trì cuộc
(1)

Tập thể tác giả (1983), Triết học Mác – Lênin – Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Nxb. Sách giáo khoa Mác
– Lênin, Hà Nội, tr. 255.
(2)
C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập (1995), Tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 29.


9

sống sinh vật, mà còn là phương thức thể hiện nội dung của cuộc sống, đảm
bảo sự tồn tại của xã hội loài người.
Con người phải lao động, phải sản xuất và không ngừng sáng tạo, học
tập trau dồi kiến thức. Thông qua lao động, mỗi cá nhân con người có mối
quan hệ qua lại với các thành viên khác trong xã hội. Trong hoạt động và
trong các mối quan hệ, con người học tập lẫn nhau, chuyển giao cho nhau
những kinh nghiệm xã hội. Mặt khác, tự bản thân bên trong con người cũng
hình thành nên các phẩm chất xã hội và các đặc điểm tâm lý nhất định từ
những kinh nghiệm mà con người rút ra được từ cuộc sống, lao động. Chính
những quan hệ này hình thành nên những đặc điểm tâm lý, đạo đức xã hội của

con người, được đúc kết và được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Quá
trình hình thành con người là quá trình hoàn thiện mà theo C.Mác, bản chất
con người chứa trong tính hiện thực của nó, là tổng hòa các quan hệ xã hội,
tạo nên sự hình thành xã hội. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội, con
người mới bộc lộ được bản chất xã hội của mình. Như vậy, có thể nói, con
người cũng mang bản tính xã hội, là sản phẩm của xã hội và là tổng hoà các
mối quan hệ xã hội. Những phẩm chất cá nhân của con người chỉ được hình
thành và hoàn thiện nếu sau khi sinh ra, con người được sống trong môi
trường xã hội của loài người.
Nếu khái niệm “con người” là một thực thể tự nhiên và mang tính xã hội,
thì khái niệm “nhân thân” chủ yếu là nói đến con người với tính cách là thành
viên của xã hội, tham gia vào các quan hệ xã hội, là thực thể của xã hội. Như
vậy, khái niệm “nhân thân” được sử dụng với nghĩa hẹp hơn khái niệm “con
người”. C.Mác đã khẳng định, thực chất của nhân thân “không phải ở bộ râu,
ở dòng máu, ở các thể chất trừu tượng của nó, mà là ở tính chất xã hội của
nó”(3).
Từ những phân tích trên, có thể thấy: Nhân thân con người chính là tổng
hợp những đặc điểm xã hội, tâm lý, sinh học của con người.

(3)

C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập (1978), Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 242.


10

Các đặc điểm mang tính xã hội của con người có thể bao gồm các đặc
điểm xã hội, các đặc điểm tâm lý, sinh học và một số đặc điểm khác có ý
nghĩa về mặt xã hội thuộc về nhân thân con người, luôn luôn gắn liền với
nhau và tác động qua lại. Con người khi sinh ra vốn là cơ thể sinh vật, trong

quá trình sống, khi tham gia vào hoạt động thực tiễn của xã hội, con người đã
trở thành cá nhân mang nhân cách nhất định. Xử sự của con người trong xã
hội là biểu hiện của sự nhận thức xã hội chứ không phải do tác động cùa bản
năng sinh vật. Do vậy, nghiên cứu nhân thân con người, chúng ta cần tránh
quan điểm tuyệt đối hoá khái niệm nhân thân cho rằng nhân thân là tổng hợp
các đặc điểm tâm lý và không liên quan gì đến chức năng và vai trò xã hội.
Ngược lại, cũng không được tuyệt đối hoá chức năng và vai trò xã hội mà bỏ
qua các đặc điểm tâm lý cũng như các đặc điểm sinh học của con người.
Về khái niệm nhân thân người phạm tội, một số học giả tư sản đã xuất
phát từ lập trường của chủ nghĩa sinh học, của tính chống đối xã hội bẩm sinh,
cho rằng một trong những động lực thúc đẩy con người thực hiện tội phạm là
do ảnh hưởng của di truyền với những tác động của những điều kiện xã hội
của Nhà nước tư sản. Đặc trưng của quan điểm này là trường phái tội phạm
học thực chứng Italia mà đại diện tiêu biểu nhất là Cesare Lombroso.
Trong tác phẩm nổi tiếng “Người phạm tội (Criminal Man)”,
Cesare Lombroso đã đưa ra thuật ngữ “người phạm tội bẩm sinh” thông
qua “thuyết sinh học quyết định”. Quan điểm của ông chỉ ra nguồn gốc
phát sinh tội phạm bắt nguồn từ nguyên nhân loại cơ thể. Qua quá trình
nghiên cứu, ông cho rằng dựa vào hộp sọ, diện mạo khuôn mặt và hình
dáng con người có thể đoán biết được một người có phải là tội phạm
bẩm sinh hay không. Đồng thời, ông cũng chỉ ra những đặc điểm cơ thể
đặc trưng bẩm sinh của những người được coi là tội phạm.
Eanest A. Hooton là nhà nhân loại học, Giáo sư, Tiến sĩ luật của
Đại học Havard. Trên cơ sở nghiên cứu các mẫu như: Những người
phạm tội ở trong tù, người mắc bệnh tâm thần, người có nhược điểm về
thể chất, người không phạm tội và qua so sánh những đặc điểm về thể


11


chất, tinh thần của những người này, ông rút ra nhận xét: “Thông qua
các số liệu, chúng ta hoàn toàn có thể chứng minh từ yếu tố thấp kém về
thể chất trong cộng đồng dân cư, những tội phạm bẩm sinh di truyền từ
cha mẹ được nảy sinh”(4).
Như vậy, một số học giả tư sản cho rằng, tiền định về con người sinh ra
để trở thành người phạm tội là điều có thực, và nếu giải thích theo những
thuyết của tôn giáo thì đó là số phận của con người mà bản thân con người
không thể cưỡng lại được.
Khác với quan điểm nêu trên, xuất phát từ sự ảnh hưởng của các yếu tố
sinh học và xã hội trong quá trình hình thành nhân cách con người, trường
phái tội phạm học của Liên Xô (cũ), Liên bang Nga hiện nay đã bác bỏ những
quan điểm về “người phạm tội bẩm sinh” và khẳng định, không có các đặc
điểm nào của nhân thân được quy định từ trước và buộc con người phải thực
hiện tội phạm. Trường phái này tập trung nghiên cứu, giải quyết vấn đề nhân
thân người phạm tội dựa trên cơ sở thừa nhận tính xã hội trong đặc trưng của
nhân thân người phạm tội, đồng thời, hướng mục đích nghiên cứu những đặc
điểm của nhân thân người phạm tội vào việc làm sáng tỏ bản chất xã hội, làm
rõ các mối quan hệ xã hội và sự phụ thuộc xã hội đã biến con người bình
thường trở thành người phạm tội. Những đặc điểm đặc trưng của nhân thân
người phạm tội quy định xử sự mang tính chống lại xã hội, đó là kết quả của
những điều kiện sinh hoạt, giáo dục, quan hệ… Chúng dẫn tới việc thực hiện
hành vi phạm tội không phải một cách tự động và bắt buộc, mà do ảnh hưởng
của những điều kiện xã hội bên ngoài, của một hoàn cảnh cụ thể, cùng trong
sự tham gia của lý trí và ý chí con người khi con người đó có khả năng lựa
chọn nhiều phương án xử sự khác nhau.
Trong hầu hết các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến nhân
thân người phạm tội, thì khái niệm nhân thân người phạm tội được nghiên
cứu, làm rõ ở từng mức độ khác nhau tùy vào mục đích, phạm vi và nhiệm vụ
nghiên cứu của mỗi đề tài cụ thể. Từ trước đến nay trong khoa học luật hình
(4)


Dương Tuyết Miên (2013), Tội phạm học đương đại, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr. 59-73.


12

sự ở Liên Xô (cũ), Liên bang Nga hiện nay, có một số quan điểm cơ bản dưới
đây về nhân thân người phạm tội:
Theo quan điểm của các tác giả Kuđriavtxev V.N., Kônđrasôv
N.N., Lâykina N.X., Minkôvxky G.M., Xtepinchôv X.X., Tanaxevich
V.G., Iakôvlév A.M. trong cuốn “Nhân thân người phạm tội” (1976) thì
“nhân thân người phạm tội đó là nhân thân của con người đã thực hiện
một cách có lỗi hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà hành vi đó bị luật cấm
bằng sự đe doạ TNHS”.
Tác giả Bozenkôv G.N. tại Chương IX (Nhân thân người phạm tội)
trong cuốn Giáo trình luật hình sự Phần chung (1993) thì cho rằng:
“Nhân thân người phạm tội theo luật hình sự đó là hệ thống các thuộc
tính có ý nghĩa xã hội của người đã thực hiện tội phạm, phản ánh khả
năng cải tạo người đó bằng các biện pháp về pháp lý hình sự”.
Một khái niệm khác về nhân thân người phạm tội theo quan điểm
của tác giả Ignatkô A.I. tại Chương 8 (Chủ thể của tội phạm) trong cuốn
Luật hình sự Nga, tập I (Phần chung) như sau:“Nhân thân người phạm
tội được hiểu là nhân thân của người đã thực hiện tội phạm”(5).
Như vậy, có thể thấy các nhà khoa học Liên Xô (cũ) cũng có nhiều quan
điểm khác nhau về nhân thân người phạm tội. Tác giả cho rằng, các quan
điểm trên đây hoặc chưa đưa ra được khái niệm về nhân thân người phạm tội
theo hướng giải thích câu hỏi “nhân thân (người phạm tội) là gì?” mà đi theo
hướng giải thích câu hỏi “người phạm tội là gì?” (quan điểm thứ nhất và quan
điểm thứ ba) hoặc có sự giải thích khái niệm chưa đầy đủ (quan điểm thứ hai).
Quan điểm thứ hai về khái niệm nhân thân người phạm tội, tác giả cho rằng,

quan điểm này có sự giải thích rõ ràng hơn khi cho rằng nhân thân người
phạm tội là “hệ thống các thuộc tính có ý nghĩa xã hội của người đã thực hiện
tội phạm…”. Tuy nhiên, khi đề cập đến ý nghĩa của nhân thân người phạm
tội, quan điểm này mới chỉ đề cập đến ý nghĩa trong quyết định hình phạt
(“phản ánh khả năng cải tạo người đó bằng các biện pháp về pháp lý hình sự”)
(5)

Lê Cảm (2001), “Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản”, Toà án nhân dân, (11), tr. 7-8.


13

mà chưa đề cập đến các ý nghĩa khác của nhân thân (như ý nghĩa trong việc
định tội cũng như trong việc định khung hình phạt).
Các nhà khoa học luật hình sự Việt Nam cũng đã đưa ra một số quan
điểm cơ bản dưới đây về nhân thân người phạm tội:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, “nhân thân người phạm tội tức là người
có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy
định là tội phạm được hiểu là tổng thể các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về
mặt xã hội, trong sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh
hưởng đến hành vi phạm tội của người đó”(6).
Quan điểm thứ hai cho rằng, “nhân thân người phạm tội trong luật hình
sự được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý
nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề TNHS của họ”(7).
Ngoài hai quan điểm trên, còn có quan điểm khác cho rằng, “nhân thân
người phạm tội là tổng hợp những khía cạnh xã hội đặc trưng của những
người phạm tội tạo thành cá nhân, có ý nghĩa giải quyết đúng đắn vấn đề
TNHS”(8).
Ba quan điểm trên của các nhà khoa học luật hình sự Việt Nam đều giải
quyết được câu hỏi “nhân thân (người phạm tội) là gì?” và đưa ra được một ý

nghĩa chung nhất cho việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội theo pháp
luật hình sự nước ta.
Từ những phân tích, tổng hợp trên, tác giả đưa ra một khái niệm nhân
thân người phạm tội như sau:
Nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm mang tính xã
hội riêng biệt của người phạm tội, có ý nghĩa trong việc giải quyết đúng
đắn vấn đề TNHS của họ.
Những đặc điểm nhân thân này có thể là những đặc điểm xã hội hoặc
những đặc điểm tâm lý, sinh học và một số đặc điểm khác có ý nghĩa về mặt
(6)

Võ Khánh Vinh (1999), Giáo trình Tội phạm học, Đại học Huế, Nxb. Đại học Huế, Huế, tr. 126.
Nguyễn Ngọc Hoà (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, tr. 131.
(8)
Kiều Đình Thụ (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật Trường đại học Quốc gia Hà Nội,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 169.
(7)


14

xã hội của người phạm tội, bao gồm: Độ tuổi, nghề nghiệp, thái độ làm việc,
thái độ trong quan hệ với những người khác, trình độ văn hóa, lối sống, hoàn
cảnh gia đình và đời sống kinh tế, thái độ chính trị, ý thức pháp luật, tôn giáo,
tiền án, tiền sự…
Để hiểu rõ hơn khái niệm nhân thân người phạm tội, cần phải phân biệt
khái niệm này với khái niệm chủ thể của tội phạm. Trong luật hình sự, khái
niệm chủ thể của tội phạm và khái niệm nhân thân người phạm tội tuy đều
gắn với một con người cụ thể đã thực hiện tội phạm nhưng khái niệm chủ thể

của tội phạm và khái niệm nhân thân người phạm tội là hai khái niệm hoàn
toàn khác nhau.
Chủ thể của tội phạm được quy định là một yếu tố bắt buộc của CTTP, là
khái niệm dùng để chỉ con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong luật hình sự và con người đó đòi hỏi phải có năng
lực TNHS cũng như đạt độ tuổi luật định. Đối với những chủ thể đặc biệt,
ngoài những dấu hiệu của chủ thể thường, những chủ thể này đòi hỏi một số
dấu hiệu khác như giới tính, chức vụ, quyền hạn… Tuy nhiên, bên cạnh năng
lực TNHS, độ tuổi chịu TNHS và cả những dấu hiệu thuộc chủ thể đặc biệt,
chủ thể của tội phạm còn có nhiều đặc điểm khác, đó là những đặc điểm về xã
hội, về tâm lý và về sinh học. Nhưng không phải tất cả những đặc điểm đó
đều thuộc nội dung của khái niệm chủ thể của tội phạm.
Nhân thân người phạm tội không phải là một yếu tố bắt buộc của CTTP,
mà là tổng thể các đặc điểm mang tính xã hội riêng biệt của người phạm tội,
nằm ngoài khuôn khổ các dấu hiệu pháp lý của chủ thể tội phạm. Ví dụ: Hoàn
cảnh sống của người phạm tội, trình độ nhận thức của người phạm tội…
Khái niệm chủ thể của tội phạm và khái niệm nhân thân người phạm tội
ngoài khác nhau về nội hàm, còn là những khái niệm mang những ý nghĩa
khác nhau. Chủ thể của tội phạm là một trong những yếu tố cấu thành tội
phạm, là một điều kiện để xem xét một người có phải chịu TNHS về hành vi
phạm tội của mình hay không. Các dấu hiệu thuộc chủ thể của tội phạm như
độ tuổi, năng lực TNHS đóng vai trò là những dấu hiệu bắt buộc của CTTP.


15

Vì vậy, chúng có ý nghĩa như là những điều kiện của TNHS. Còn khái niệm
nhân thân người phạm tội như đã phân tích ở trên, không chỉ có ý nghĩa đối
với việc định tội, mà còn có ý nghĩa cả trong việc định khung hình phạt, trong
quyết định hình phạt và áp dụng các biện pháp xử lý khác.

1.2. Đặc điểm của nhân thân người phạm tội
Thứ nhất, nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm mang
tính xã hội riêng biệt của người phạm tội.
Nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của
người phạm tội có nghĩa là trong nhân thân người phạm tội tập trung những
đặc điểm, phẩm chất mang tính xã hội đặc trưng cụ thể của người phạm tội
này mà không thể có ở người phạm tội khác. Nhân thân không phải do di
truyền mà được hình thành trong quá trình phát triển của người đó trong quá
trình hoạt động xã hội và với tư cách là chủ thể của các mối quan hệ xã hội,
mỗi cá nhân cụ thể lại có một nhân thân riêng biệt được đặc trưng bởi những
đặc điểm, phẩm chất cá nhân đa dạng.
Khi xem xét, cân nhắc để áp dụng chính xác, phù hợp các đặc điểm nhân
thân người phạm tội làm các tình tiết định tội, định khung hình phạt hay quyết
định hình phạt, thì các tình tiết ấy chỉ được phép áp dụng đối với riêng bản
thân người phạm tội này, chứ không được phép áp dụng đối với người phạm
tội khác, ngay cả đối với những người đồng phạm khác tham gia vào cùng vụ
án. Đặc điểm này xuất phát từ nguyên tắc cá thể hoá TNHS. Chức năng giáo
dục của luật hình sự chỉ có thể trở thành hiện thực khi TNHS được xác định
đúng cho từng người phạm tội cụ thể, thông qua hình phạt áp dụng cho từng
người phải tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và phù
hợp với nhân thân người phạm tội. Đây chính là yêu cầu của cá thể hoá TNHS
trong áp dụng luật hình sự.
Thứ hai, nhân thân người phạm tội là những đặc điểm được quy định
trong BLHS.
Nhân thân người phạm tội, đó là những đặc điểm riêng biệt của người có
lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Tội


16


phạm theo luật hình sự Việt Nam phải được quy định trong BLHS, do đó,
những đặc điểm nhân thân của người phạm tội cũng được quy định trong
BLHS là những dấu hiệu định tội, những dấu hiệu định khung hình phạt hoặc
là những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS (kể cả quy định tại khoản 2
Điều 46 BLHS)... trong cả Phần chung và Phần các tội phạm của BLHS.
Trong quá trình làm luật, nhà làm luật đã quy định những dấu hiệu, tình
tiết thuộc về nhân thân người phạm tội có ý nghĩa để định tội, định khung
hình phạt hoặc để quyết định hình phạt và áp dụng các biện pháp xử lý khác.
Khi truy tố, xét xử, chỉ những dấu hiệu, tình tiết nào được quy định trong
BLHS mới được áp dụng đối với người phạm tội, các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng không được suy diễn, coi bất kỳ đặc điểm nào thuộc về nhân
thân con người cũng là đặc điểm của nhân thân người phạm tội.
Thứ ba, nhân thân người phạm tội là những đặc điểm có ý nghĩa đối với
việc giải quyết vấn đề TNHS đối với người phạm tội.
TNHS là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải chịu khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự coi là tội phạm. Nhân thân
người phạm tội được quy định trong BLHS là những dấu hiệu định tội, dấu
hiệu định khung hình phạt hoặc là các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS.
Do đó, việc xem xét nhân thân người phạm tội luôn là rất cần thiết khi truy
cứu và áp dụng TNHS đối với người phạm tội.
Khi quyết định hình phạt cũng như quyết định các biện pháp xử lý khác
đối với người phạm tội, Toà án bao giờ cũng phải căn cứ vào nhân thân người
phạm tội. Việc cân nhắc nhân thân một cách đầy đủ, cụ thể là đã chỉ rõ ra
được các đặc điểm riêng biệt đặc trưng cho mặt tốt, mặt tích cực lẫn mặt xấu,
mặt tiêu cực của người phạm tội có liên quan đến hành vi phạm tội. Các đặc
điểm đó là các đặc điểm có ảnh hưởng đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội, các đặc điểm phản ánh khả năng giáo dục, cải
tạo của họ cũng như các đặc điểm phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của họ...
1.3. Ý nghĩa của nhân thân người phạm tội



17

Nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
TNHS của người phạm tội. Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
muốn giải quyết được đúng đắn bất kỳ vụ án hình sự nào cũng đều đòi hỏi
phải nghiên cứu đầy đủ nhân của người phạm tội. Việc nghiên cứu nhân thân
người phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam có một số ý nghĩa cơ bản
sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa đối với việc
định tội.
Định tội là việc xác định hành vi thực tế phạm tội gì theo quy định của
BLHS. Trong một số trường hợp, một số đặc điểm thuộc về nhân thân người
phạm tội không chỉ phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
mà còn là những dấu hiệu đặc trưng giúp phân biệt tội phạm này với tội phạm
khác, được nhà làm luật xây dựng trở thành những dấu hiệu định tội. Ví dụ:
Đặc điểm người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn được quy định là
dấu hiệu chủ thể đặc biệt của tội phạm tham ô tài sản (Điều 278)…
Bên cạnh đó, một số đặc điểm khác thuộc về nhân thân của người phạm
tội như những đặc điểm về khả năng nhận thức của người phạm tội cũng có ý
nghĩa đối với việc xác định tội danh. Ví dụ: Đặc điểm phạm tội do ảnh hưởng
nặng nề của tư tưởng lạc hậu cũng được nhà làm luật quy định là một dấu
hiệu định tội của tội giết con mới đẻ (Điều 94)…
Trong những trường hợp này, nếu xác định đúng nhân thân người phạm
tội thì việc khởi tố bị can, truy tố bị can, kết tội bị cáo sẽ đúng. Ngược lại, nếu
xác định sai nhân thân người phạm tội, thì việc khởi tố bị can, truy tố bị can,
kết tội bị cáo sẽ sai, hoặc là truy cứu TNHS oan đối với người chưa đáng phải
chịu TNHS, hoặc bỏ sót việc truy cứu TNHS đối với người đáng phải chịu
TNHS.
Thứ hai, nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa đối với việc

định khung hình phạt.
Định khung hình phạt là việc xác định hành vi phạm tội cần phải áp dụng
ở khung hình phạt tăng nặng hoặc khung hình phạt giảm nhẹ nào trong điều


18

luật về tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS. Ngoài những đặc điểm
đóng vai trò là những dấu hiệu định tội, thì có những đặc điểm thuộc về nhân
thân người phạm tội khác có ảnh hưởng đến việc xác định TNHS và nhà làm
luật đã đưa những đặc điểm này trở thành các dấu hiệu định khung hình phạt
tăng nặng. Trong trường hợp này, xác định nhân thân người phạm tội có ý
nghĩa trong việc xác định khung hình phạt tăng nặng để áp dụng đối với
người phạm tội. Ví dụ: Đặc điểm tái phạm nguy hiểm được quy định là dấu
hiệu của CTTP tăng nặng tội giết người (điểm p khoản 1 Điều 93), đây là dấu
hiệu định khung hình phạt tăng nặng, thể hiện sự nguy hiểm cao hơn so với
trường hợp giết người bình thường và do vậy, phải chịu TNHS nặng hơn.
Thứ ba, nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa đối với việc
quyết định hình phạt.
Ngoài các đặc điểm nhân thân người phạm tội có ý nghĩa đối với việc
định tội, định khung hình phạt, thì một số đặc điểm khác thuộc về nhân thân
người phạm tội còn phản ánh những mức độ nguy hiểm khác nhau của các
trường hợp phạm tội cụ thể, phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục của người
phạm tội... nhưng không được quy định trong các CTTP cụ thể. Các đặc điểm
ấy được các nhà làm luật quy định ở Phần chung của BLHS, thông qua các
tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS tại các điều 46 và 48 BLHS. Điều 46 quy
định về các tình tiết giảm nhẹ TNHS, Điều 48 quy định về các tình tiết tăng
nặng TNHS. Bên cạnh đó, quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS cũng cho phép
Toà án có thể viện dẫn thêm các tình tiết giảm nhẹ TNHS khác nằm ngoài quy
định tại khoản 1 điều này để làm tình tiết giảm nhẹ TNHS cho người phạm

tội. Ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS này là làm tăng
lên hoặc giảm đi mức độ nguy hiểm cho xã hội trong phạm vi một khung hình
phạt, qua đó, không chỉ giúp Toà án đánh giá được khả năng giáo dục, cải tạo
của người phạm tội mà còn giúp đánh giá được tính chất, mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội để có hình phạt phù hợp.
Việc cân nhắc nhân thân người phạm tội một cách đầy đủ là căn cứ có
sức thuyết phục để Toà án quyết định hình phạt này hay hình phạt khác, đảm


19

bảo hình phạt đã tuyên có tính thực tế, phù hợp với các nguyên tắc của luật
hình sự cũng như đáp ứng được mục đích trừng trị và giáo dục, cải tạo người
phạm tội. Ngược lại, nếu có nhận thức sai quy định của pháp luật thì trong
công tác xét xử, Toà án sẽ lựa chọn sai loại hình phạt, hoặc lựa chọn đúng loại
hình phạt nhưng áp dụng sai khung hình phạt, mức hình phạt. Hậu quả của
việc nhận thức sai về nhân thân người phạm tội, áp dụng không đúng loại
hình phạt, mức hình phạt sẽ dẫn đến xử lý quá nặng hoặc quá nhẹ TNHS của
người phạm tội. Điều này vừa không đảm bảo được nguyên tắc công bằng xã
hội trong quyết định hình phạt, vừa không đạt được mục đích của hình phạt.
Do có mối liên hệ giữa hành vi phạm tội và con người thực hiện nên qua
việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội, các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng có thể làm sáng tỏ một số tình tiết về các yếu tố cấu thành tội
phạm như lỗi, mục đích, động cơ của người phạm tội… Bởi vì, các đặc điểm
của nhân thân người phạm tội được thể hiện cụ thể ở lỗi, mục đích, động cơ
của người phạm tội. Mức độ lỗi, mục đích, động cơ phạm tội của những
người phạm tội có những đặc điểm nhân thân như phạm tội nhiều lần, phạm
tội có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm… đương nhiên được thể
hiện cao hơn, rõ ràng hơn so với mức độ lỗi, mục đích, động cơ phạm tội của
người phạm tội lần đầu... Những điều này cũng cần được cân nhắc cụ thể khi

quyết định hình phạt.
Ngoài ra, nhân thân người phạm tội còn ý nghĩa như là một căn cứ để
miễn TNHS; miễn hình phạt đối với người phạm tội, cho người phạm tội
được hưởng án treo; miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt; hoãn, tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù; xoá án tích trong trường hợp đặc biệt.
1.4. Phân loại nhân thân người phạm tội
Căn cứ vào ý nghĩa của nhân thân người phạm tội, có thể phân loại nhân
thân người phạm tội thành ba nhóm: Nhân thân người phạm tội được quy định
là dấu hiệu định tội; nhân thân người phạm tội được quy định là dấu hiệu định
khung hình phạt; nhân thân người phạm tội được quy định là tình tiết giảm
nhẹ, tăng nặng TNHS.


×