Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Pháp luật về định giá tài sản nhà nước khi cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN CÔNG DUY

PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN NHÀ NƯỚC
KHI CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Chuyên ngành: Luật Kinh tế định hướng ứng dụng
Mã số: CH23UD014

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Thị Giang Thu

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này./.
Hà Nội, ngày 01 tháng 8 năm 2017
Tác giả Luận văn

Nguyễn Công Duy



LỜI CẢM ƠN
Trong suố t quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, em đã nhận
được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ quý báu của thầ y cô, gia đình và bạn bè.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới:
PGS.TS Phạm Thị Giang Thu, người thầy đã nhiệt tình hướng dẫn,
giảng dạy và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình thực hiện
và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Quý thầy, cô giáo công tác, giảng dạy tại Trường Đại học Luật Hà Nội
đã tận tình giảng dạy, giúp em có thêm nhiều kiến thức mới.
Em xin được gửi lời cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, động viên em
trong suốt quá trình thực hiện luận văn!
Hà Nội, ngày 01 tháng 8 năm 2017
Tác giả Luận văn

Nguyễn Công Duy


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CPH
DNNN

: Cổ phần hóa
: Doanh nghiệp nhà nước


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài .........................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài........................................................3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................................6
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................6
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................7
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn ........................................................7
7. Bố cục của Luận văn ..............................................................................................8
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐỊNH GIÁ
TÀI SẢN KHI CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC ....................9
1.1. Khái niệm định giá tài sản ...................................................................................9
1.2. Tài sản của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa ............................................ 10
1.3. Pháp luật về định giá tài sản khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ............ 12
1.4. Một số nguyên tắc định giá tài sản khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước.......................................................................................................................... 13
Kết luận chương 1 ................................................................................................ 18
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN KHI
CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC ................................. 19
2.1. Những thành tựu của pháp luật về định giá tài sản khi cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước ........................................................................................... 19
2.2. Những bất cập, hạn chế của pháp luật về định giá tài sản khi cổ phần hóa
các doanh nghiệp nhà nước ..................................................................................... 25
2.2.1. Quy định về phương pháp định giá tài sản ................................................25
2.2.2. Quy định về định giá quyền sử dụng đất....................................................30
2.2.3. Quy định về xác định giá trị lợi thế kinh doanh.........................................36
2.2.3.1. Giá trị thương hiệu ..................................................................................37
2.2.3.2. Giá trị tiềm năng phát triển .....................................................................40


2.2.4. Quy định về thuê tổ chức có chức năng định giá .......................................42
2.2.5. Quy định về Kiểm toán nhà nước đối với cổ phần hóa .............................45
Kết luận Chương 2................................................................................................... 47
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH GIÁ

TÀI SẢN NHÀ NƯỚC KHI CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC ........................................................................................................... 49
3.1. Hoàn thiện và sử dụng đồng thời phương pháp tài sản và phương pháp
dòng tiền chiết khấu để định giá tài sản .................................................................. 49
3.2. Hoàn thiện các quy định về định giá quyền sử dụng đất phù hợp với giá
thị trường nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của Nhà nước ..................................... 53
3.3. Đưa ra các nguyên tắc để xác định giá trị lợi thế kinh doanh theo giá thị
trường thay vì đưa ra một cách tính cụ thể ............................................................. 55
3.4. Cần có ít nhất hai tổ chức có chức năng định giá tham gia định giá tài
sản Nhà nước khi cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước .................................. 58
3.5. Nâng cao vai trò của Kiểm toán nhà nước đối với hoạt động định giá tài
sản Nhà nước khi cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước .................................. 59
Kết luận Chương 3................................................................................................... 62
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 64


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới hiện nay, bất kỳ quốc gia nào cũng tồn tại thành phần kinh tế
nhà nước. Ở Việt Nam, Nhà nước thừa nhận nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo. Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” 1.
Với sự phát triển của kinh tế thị trường, hầu hết các quốc gia đều muốn
giảm bớt sự can thiệp sâu của nhà nước vào nền kinh tế nhằm tạo ra một nền kinh
tế phát triển năng động. Ở Việt Nam, đổi mới tư duy về quản lý kinh tế bắt đầu
diễn ra mạnh sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam diễn ra vào tháng 12 năm 1986. Một trong những tư duy quản lý được thay

đổi đó là cải cách khu vực DNNN, bao gồm tăng quyền tự chủ cho các doanh
nghiệp, yêu cầu phải chuyển sang hình thức kinh doanh hạch toán kinh tế, lời ăn
lỗ chịu. Tháng 8 năm 2001, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam khóa IX đã họp và ra Nghị quyết của Trung ương Đảng về
việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Trong đó,
quan điểm chỉ đạo là: “Chuyển DNNN sang hoạt động theo chế độ công ty; đẩy
mạnh CPH những DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu
quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN” 2. Để
triển khai Nghị quyết, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 04/2002/CT-TTg ngày
08/02/2002 về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
DNNN và Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002
về chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Các văn kiện pháp lý này đã mở ra một
giai đoạn tiến hành CPH các DNNN mạnh mẽ ở Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện CPH các DNNN, vấn đề luôn nhận được sự
Điều 51, Hiến pháp năm 2013.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước, Mục 1 Phần II.
1
2


2
quan tâm của Nhà nước, các doanh nghiệp, nhà đầu tư… và người dân chính là
việc xác định giá trị của DNNN được CPH cũng như phần vốn của Nhà nước tại
doanh nghiệp. Bởi lẽ, nếu việc định giá tài sản của doanh nghiệp CPH không
được thực hiện một cách đúng đắn, phù hợp sẽ làm thất thoát tài sản Nhà nước,
không thu hút được các nhà đầu tư, đồng thời là cơ hội để cá nhân lợi dụng làm
giàu bất chính, gây bức xúc dư luận. Hiện nay, Nhà nước đã ban hành nhiều quy
định pháp luật nhằm tạo nền tảng pháp lý cho việc CPH DNNN; xử lý tài chính,

xác định giá trị của doanh nghiệp và giá trị thực tế vốn góp của Nhà nước khi
thực hiện CPH các DNNN. Trong quá trình thực hiện, mặc dù đã đạt được
những thành tựu nhất định nhưng pháp luật cũng bộc lộ những bất cập, hạn chế.
Những kẽ hở của pháp luật đã tạo điều kiện để các cá nhân trục lợi, gây thất
thoát tài sản của Nhà nước, đồng thời chưa đảm bảo sự uy tín trong việc xác định
giá trị doanh nghiệp để thu hút các nhà đầu tư… Do đó, nghiên cứu hoàn thiện
các quy định của pháp luật về định giá tài sản khi CPH các DNNN là một nhiệm
vụ vô cùng cấp thiết.
Ngày 03/06/2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị
quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiế p tu ̣c cơ
cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN (Nghị quyết số 12-NQ/TW) với
quan điểm chỉ đạo: DNNN tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu;
những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; không đầu tư những lĩnh vực
mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác; DNNN hoạt động theo cơ
chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu
trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế khác theo quy định của pháp luật… Nghị Quyết cũng đưa ra mục tiêu cụ thể
đó là “cơ cấu lại, đổi mới DNNN giai đoạn 2017 - 2020 trên cơ sở các tiêu chí
phân loại DNNN, doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc các ngành, lĩnh vực.
Phấn đấu hoàn thành thoái vốn tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không cầ n
nắ m giữ, tham gia góp vốn…”. Trong thời gian tới, Nhà nước tiến hành tái cơ
cấu và CPH mạnh mẽ nhiều DNNN rất lớn như: Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam (TKV); Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn


3
(AGRIBANK); Tập đoàn Hóa chất Việt Nam - Công ty mẹ (VINACHEM);
Tổng công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí (PVEP) 3… Đặc biệt, Bộ Quốc phòng
cũng đã có chủ trương CPH, thoái vốn ở hầu hết doanh nghiệp do quân đội quản
lý như Tập đoàn Viễn thông Quân đội (VIETTEL)… chỉ giữ lại những doanh
nghiệp phục vụ cho an ninh, quốc phòng 4. Nhận thức được tầm quan trọng của

việc hoàn thiện các quy định pháp luật về định giá tài sản khi CPH các DNNN
để đảm bảo các quyền và lợi ích của Nhà nước và nhân dân, tránh việc thất thoát
tài sản Nhà nước, gây bức xúc trong dư luận như trong thời gian vừa qua, cũng
như mong muốn được tìm hiểu về lĩnh vực này, em đã lựa chọn đề tài “Pháp
luật về định giá tài sản Nhà nước khi cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà
nước. Thực trạng và giải pháp” làm đề tài Luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
CPH là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, được thực hiện trong
một khoảng thời gian tương đối dài và ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế.
Những vấn đề liên quan đến CPH cũng nhận được rất nhiều sự quan tâm từ
những nhà nghiên cứu, nhà đầu tư, cơ quan có thẩm quyền xây dựng và thực thi
pháp luật, báo chí… Do đó, có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến pháp
luật về định giá tài sản doanh nghiệp và CPH các DNNN, đồng thời đưa ra các
giải pháp để hoàn thiện. Một số các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
luận văn có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu là tạp chí, bài báo khoa học. Hiện
nay, các tạp chí chuyên ngành như Luật học, Nghiên cứu Lập pháp, Thanh Tra,
Tài chính… đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến vấn đề CPH
và định giá tài sản khi CPH DNNN. Một trong số bài viết tiêu biểu có thể kể đến
như: “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước - Thách thức và giải pháp” của tác
giả Nguyễn Đại Lai (Tạp chí Cộng sản, số chuyên đề 6/2016). Trong bài viết, tác
Quyết định số 58/2016/QĐ-TTg ngày 28/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí phân loại
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước và danh mục doanh nghiệp nhà nước thực hiện sắp
xếp giai đoạn 2016-2020.
4
Công Quang, Quốc Anh (2017), Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng: Quân đội sẽ thôi làm kinh tế, Báo Dân
Trí, tại địa chỉ: ngày truy cập 15/7/2017.
3



4
giả đề cập đến một số thách thức của quá trình CPH và một số giải pháp trước
mắt nhằm khắc phục khó khăn. Bài viết cũng có đề cập sơ lược đến định giá tài
sản. Tuy nhiên, trong phạm vi một bài viết tạp chí, những vấn đề được trình bày
một cách rất khái quát và sơ lược. Tác giả Trần Hưng có bài “Kinh nghiệm cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước của một số quốc gia và bài học cho Việt Nam”
(Tạp chí Cộng sản, số chuyên đề 6/2016). Tác giả đề cập đến kinh nghiệm CPH
DNNN của một số quốc gia như Nga, Trung Quốc và rút ra bài học cho Việt
Nam. Tác giả Trịnh Đức Chiều có bài viết “Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa,
thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp” (Tạp chí Tài chính kỳ I tháng 10/2016).
Trong bài viết, tác giả đề cập đến kết quả CPH và thoái vốn nhà nước tại doanh
nghiệp; Những tồn tại, hạn chế; đồng thời đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh
CPH, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong thời gian tới. Tác giả có đề cập
đến giải pháp hoàn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu hình và tài sản vô
hình (tài sản trí tuệ, thương hiệu...) trong CPH các DNNN theo nguyên tắc thị
trường. Tuy nhiên, dưới góc độ một bài viết về kinh tế, tài chính, tác giả không
đưa ra được giải pháp nào để hoàn thiện pháp luật. Bên cạnh đó, có thể kể đến
một số các tác giả, tác phẩm như: Tác giả Nguyễn Võ Linh Giang có bài “Quy
định về định giá tài sản là quyền sở hữu trí tuệ khi góp vốn thành lập doanh
nghiệp theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Cộng hòa Pháp” (Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, số 17/2015); Tác giả Dương Đức Chính có bài “Thực trạng CPH
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và những giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình
CPH doanh nghiệp nhà nước từ nay đến năm 2020” (Tạp chí Thanh tra, số
5/2013)…
Thứ hai, các công trình nghiên cứu là các đề tài luận văn, luận án. Một số
công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài có thể kể đến như: Luận văn thạc sĩ
luật học của tác giả Nguyễn Mai Anh với đề tài “Pháp luật về CPH doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước và đề xuất những giải pháp áp dụng trong quá trình
CPH Tổng Công ty Hàng không Việt Nam” (Trường Đại học Luật Hà Nội,
2014). Công trình đã nêu những vấn đề lý luận về CPH, pháp luật về CPH doanh

nghiệp 100% vốn nhà nước; nêu lên thực trạng và giải pháp áp dụng trong quá


5

trình CPH Tổng công ty Hàng không Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Ngân với đề tài “Hoàn
thiện quy định pháp luật về quản lý đất đai khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước” (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2013). Luận văn đã nêu khái quát chung
về CPH DNNN; đặc thù đất đai và quản lý đất đai khi CPH DNNN; kinh nghiệm
của một số quốc gia trên thế giới và bài học cho Việt Nam; thực trạng pháp luật
và thực thi pháp luật về quản lý đất đai khi CPH DNNN; đồng thời đưa ra định
hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý đất đai khi CPH DNNN.
Tác giả Trần Đình Cường có luận án tiến sĩ với đề tài “Hoàn thiện
phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước trong cổ phần hóa ở Việt
Nam” (Học viện Tài chính, 2010). Luận án đề cập đến tổng quan về xác định giá
trị doanh nghiệp; đưa ra các nhóm phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp;
phân tích và đánh giá thực trạng công tác xác định giá trị doanh nghiệp trong quá
trình CPH DNNN ở Việt Nam, đồng thời đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện các
điều kiện cần thiết để thực hiện công tác này. Luận án đã có sự đề cập đến công
tác xác định giá trị DNNN trong CPH ở Việt Nam. Tuy nhiên, phương pháp tiếp
cận của Luận án dưới góc độ nâng cao hoạt động chuyên môn định giá tài sản
chứ không phải xây dựng, hoàn thiện pháp luật về định giá tài sản.
Bên cạnh đó, còn rất nhiều các công trình nghiên cứu về định giá và CPH
DNNN như: Nguyễn Thanh Minh (2010), Nghiên cứu giải pháp thúc đẩy CPH
doanh nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên, luận án tiến sĩ, Trường Đại học Nông nghiệp
Hà Nội; Phạm Tiến Đạt (2010), Cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp của các tổ
chức có chức năng định giá ở Việt Nam, luận án tiến sĩ, Học viện Tài chính…
Thứ ba, công trình nghiên cứu là đề tài khoa học có thể kể đến công trình
nghiên cứu do tác giả Nguyễn Hữu Chí làm chủ nhiệm đề tài (2007), “Chế độ,

quyền lợi người lao động khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước”. Đây là một
công trình nghiên cứu khoa học cấp Trường Đại học Luật Hà Nội nghiên cứu về
chế độ và quyền lợi của người lao động khi CPH DNNN.
Qua các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài có thể thấy, đã có
nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến các vấn đề liên quan đến CPH DNNN;


6
cũng có công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến vấn đề định giá tài sản hoặc đề cập
đến phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp CPH nhưng tiếp cận ở góc độ tài
chính nhằm nâng cao hiệu quả công tác định giá; cũng có những công trình
nghiên cứu về pháp luật định giá tài sản của doanh nghiệp CPH nhưng chỉ xem
xét trên phương diện tài sản là quyền sử dụng đất. Cho đến nay, chưa có một
công trình nào nghiên cứu có hệ thống về pháp luật định giá tài sản khi CPH
DNNN.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quy định pháp luật về định giá
tài sản khi CPH các DNNN ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu
đề tài trong phạm vi sau đây:
- Nghiên cứu khái quát những vấn đề chung về pháp luật định giá tài sản
khi CPH DNNN.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về định giá tài sản khi CPH DNNN;
những thành tựu, những bất cập, hạn chế của các quy định pháp luật về định giá
tài sản khi CPH DNNN.
- Nghiên cứu các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về
định giá tài sản khi CPH DNNN.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu

- Làm sáng tỏ những vấn đề chung về CPH DNNN, phương pháp định giá
tài sản, các nguyên tắc định giá tài sản khi CPH DNNN;
- Làm rõ thực trạng pháp luật về định giá tài sản khi CPH DNNN;
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về định
giá tài sản khi CPH DNNN.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích những vấn đề chung về CPH DNNN và định giá tài sản khi
CPH DNNN;


7
- Phân tích, đánh giá những thành tựu và những bất cập, hạn chế của pháp
luật về định giá tài sản khi CPH DNNN hiện nay;
- Nghiên cứu giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về định giá
tài sản khi CPH DNNN.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện Luận văn, những phương pháp nghiên cứu cụ
thể được áp dụng gồm có:
- Phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích và tìm hiểu các quy
định của pháp luật, thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật để định giá tài
sản khi CPH DNNN.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tập hợp các số liệu tri thức có
được từ hoạt động phân tích tài liệu, tham khảo ý kiến của các cá nhân, tổ chức,
doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền về định giá tài sản khi CPH
DNNN.
- Phương pháp giải thích được sử dụng để lý giải làm rõ thực trạng pháp
luật về định giá tài sản khi CPH DNNN, đặc biệt là những tồn tại, bất cập, hạn
chế của các quy định pháp luật, từ đó làm cơ sở đề xuất những giải pháp nhằm
hoàn thiện các quy định của pháp luật.
- Phương pháp so sánh được sử dụng nhằm đối chiếu so sánh các phương

pháp định giá tài sản, các quy định của pháp luật… để thấy được thực trạng
trong các quy định của pháp luật về định giá tài sản khi CPH DNNN.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn nhằm đúc kết kinh nghiệm thực tiễn, lý
giải thực trạng pháp luật về định giá tài sản khi CPH DNNN để từ đó đề xuất các
giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Về mặt khoa học: Luận văn là một công trình nghiên cứu một cách có hệ
thống, toàn diện, sâu sắc về thực trạng pháp luật định giá tài sản khi CPH DNNN
ở Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần bổ sung, hoàn
thiện những vấn đề về định giá tài sản khi CPH DNNN, đồng thời đặt nền tảng
cho các công trình nghiên cứu tiếp theo.


8
Về mặt thực tiễn: Những phát hiện trong việc đánh giá thực trạng pháp
luật về định giá tài sản khi CPH DNNN ở Việt Nam hiện nay; những giải pháp
hoàn thiện các quy định của pháp luật về định giá tài sản khi CPH DNNN được
đề xuất trong Luận văn là tài liệu tham khảo đối với các cơ quan có thẩm quyền
và là nguồn tham khảo hữu ích đối với các nhà nghiên cứu, giảng dạy, học viên
và sinh viên.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục của Luận văn gồm có 3 Chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung về pháp luật định giá tài sản khi CPH các
DNNN.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về định giá tài sản khi CPH các DNNN ở
Việt Nam hiện nay.
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về định giá tài
sản khi CPH các DNNN.



9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN
KHI CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm định giá tài sản
Tài sản là đối tượng có giá trị đối với đời sống con người, giá trị của tài
sản thể hiện ở việc tài sản đáp ứng được lợi ích, nhu cầu nào đó của con người
và trị giá được bằng tiền. Trong kinh tế học, tiền là thước đo giá trị của tất cả các
loại tài sản khác, ngược lại tất cả các tài sản đều có thể định giá được bằng tiền.
Định giá tài sản là hoạt động chuyên môn vừa mang tính kinh tế kỹ thuật,
tính pháp lý, vừa mang tính xã hội. Hoạt động định giá tài sản được hình thành,
tồn tại và phát triển gắn liền với sự hình thành, tồn tại và phát triển của thị
trường. Cho đến nay, có nhiều khái niệm khác nhau về định giá tài sản. Tuy
nhiên, các khái niệm đều coi định giá tài sản là việc ước tính giá trị của tài sản
tại một thời điểm nhất định.
Theo Từ điển Luật học, định giá tài sản là việc ấn định, quyết định cuối
cùng về giá cả của một sản phẩm, một tài sản. Người có quyền định giá tài sản
thường là người có quyền sở hữu đối với tài sản, người được chủ sở hữu ủy
quyền một cách hợp pháp. Việc định giá tài sản được thực hiện theo các quy
định của pháp luật. Với nghĩa này, định giá tài sản là quyết định cuối cùng về giá
cả của một tài sản của người có quyền theo quy định của pháp luật.
Theo từ điển Oxford, định giá tài sản được hiểu như sau: “Định
giá (valuation) là sự ước tính giá trị của các quyền sở hữu tài sản bằng hình thái
tiền tệ phù hợp với một thị trường, tại một thời điểm, theo những tiêu chuẩn cho
mục đích nhất định” 5. Khoản 5 Điều 4 Luật giá năm 2012 giải thích về “định
giá” như sau: “Định giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức,
cá nhân sản xuất, kinh doanh quy định giá cho hàng hóa, dịch vụ”.
Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về định giá tài sản được đưa ra, tuy
nhiên những đặc điểm cơ bản của định giá tài sản trong nền kinh tế thị trường có
Từ điển Oxford, tại địa chỉ:

truy cập ngày 15/7/2017
5


10
thể dễ dàng nhận thấy như sau: đó là sự ước tính giá trị của tài sản trong một thời
điểm cụ thể; giá trị của tài sản được định giá biểu hiện dưới hình thái tiền tệ;
định giá tài sản được thực hiện trong một thị trường nhất định với những điều
kiện nhất định (kinh tế, xã hội, khuôn khổ pháp lý, quan hệ cung cầu…); định
giá tài sản được thực hiện theo yêu cầu và mục đích nhất định; việc định giá tài
sản phải tuân thủ theo những nguyên tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực và phương pháp
nhất định.
Như vậy, có thể hiểu định giá tài sản là việc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hoặc tổ chức, cá nhân ước tính giá trị của một tài sản bằng tiền phù hợp
với thị trường tại một thời điểm theo những nguyên tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực
và phương pháp nhất định. Định giá tài sản là một sự ước tính bởi giá trị của tài
sản là không cố định. Giá trị của tài sản có thể thay đổi theo không gian, thời
gian, quan hệ cung cầu, đặc điểm của tài sản… Ví dụ: cùng là quyền sử dụng
đất, nhưng có các đặc điểm khác nhau thì giá trị cũng khác nhau như vị trí địa lý;
hạ tầng cơ sở; mật độ dân cư; loại hình giao đất, thuê đất; chính sách pháp luật…
Do đó, việc xác định giá trị của tài sản là một hoạt động rất phức tạp, nhất là
định giá cho nhiều tài sản trong cùng một thời điểm. Để định giá tài sản, các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có quyền định giá cần dựa trên những nguyên tắc, tiêu
chuẩn, chuẩn mực và phương pháp do Nhà nước ban hành để xác định giá trị của
tài sản phù hợp với thị trường. Khi thực hiện CPH các DNNN, việc định giá tài
sản là một bước quan trọng trong quá trình chuyển đổi các doanh nghiệp 100%
vốn Nhà nước thành công ty cổ phần. Kết quả định giá tài sản là căn cứ để cơ
quan có thẩm quyền quyết định công bố giá trị doanh nghiệp CPH, xác định quy
mô vốn điều lệ, cơ cấu cổ phần phát hành lần đầu và giá khởi điểm để thực hiện
đấu giá bán cổ phần.

1.2. Tài sản của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa
Theo giải thích của Luật doanh nghiệp năm 2015, “Doanh nghiệp nhà
nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ” 6. Khái niệm này
có sự khác biệt so với khái niệm DNNN theo Luật doanh nghiệp năm 2005, đó là
“Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50%
6

Khoản 8 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2015.


11
vốn điều lệ”. Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, chỉ những doanh
nghiệp mà Nhà nước đầu tư, nắm giữ 100% vốn điều lệ mới được coi là DNNN.
Điều 200 Bộ luật dân sự 2015 quy định Nhà nước thực hiện quyền sở hữu
toàn dân đối với tài sản được đầu tư vào các doanh nghiệp như sau:
“1. Khi tài sản thuộc sở hữu toàn dân được đầu tư vào doanh nghiệp thì
Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của
pháp luật về doanh nghiệp, quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất,
kinh doanh tại doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Doanh nghiệp thực hiện việc quản lý, sử dụng vốn, đất đai, tài
nguyên và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư theo quy định của pháp luật
có liên quan”.
Theo Điều 1 Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính phủ
về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần thì “cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước” (hay “cổ phần hóa”) là cách gọi tắt của việc
chuyển đổi những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần. Khi
CPH DNNN, Nhà nước bán một phần hoặc toàn bộ cổ phần cho các chủ sở hữu
khác, do đó cần phải xác định được phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp. Để
xác định được vốn Nhà nước tại DNNN cần phải xác định được giá trị của doanh
nghiệp CPH thông qua định giá tài sản, bao gồm cả tài sản hữu hình và vô hình

của DNNN CPH.
Định giá tài sản khi chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần là hoạt động
cần thiết để Nhà nước xác định quy mô vốn điều lệ, cơ cấu cổ phần phát hành
lần đầu và giá khởi điểm để thực hiện đấu giá bán cổ phần. Định giá tài sản khi
thực hiện CPH DNNN phải nhằm mục đích xác định đúng giá trị tài sản tại thời
điểm định giá, tránh định giá thấp so với giá trị thực tế gây thất thoát tài sản của
Nhà nước, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của nhân dân. Đồng thời, cũng không
định giá doanh nghiệp quá cao nhằm thu hút vốn của các nhà đầu tư vào công ty
sau khi cổ phần hóa. Định giá tài sản phù hợp, nhanh chóng sẽ thúc đẩy quá trình
cổ phần hóa ở nước ta, sớm hoàn thành các mục tiêu do Đảng và Nhà nước đề ra,
nâng cao vai trò của thành phần kinh tế nhà nước đối với sự phát triển của nền


12

kinh tế Việt Nam.
1.3. Pháp luật về định giá tài sản khi cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước
Pháp luật về định giá tài sản khi CPH DNNN là toàn bộ các quy định của
pháp luật liên quan đến hoạt động định giá tài sản của DNNN khi CPH. Cùng
với quá trình CPH DNNN, Nhà nước đã ban hành các quy định pháp luật về định
giá tài sản để xác định giá trị doanh nghiệp và phần vốn của Nhà nước tại doanh
nghiệp. Sau khi Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa IX họp và ra Nghị quyết của Trung ương Đảng về việc tiếp tục
sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 về chuyển DNNN thành
công ty cổ phần, tạo nền tảng pháp lý cho việc định giá tài sản khi CPH các
DNNN. Từ đó cho đến nay, các quy định pháp luật về định giá tài sản liên tục
được thay đổi, bổ sung qua các thời kỳ để phù hợp với tình hình thực tiễn CPH
như Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004; Nghị định số

109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007; Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày
18/7/2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành của Bộ Tài chính.
Hiện nay, Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 về việc chuyển
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần đang có hiệu lực và
được áp dụng để xác định giá trị doanh nghiệp CPH và phần vốn góp của nhà
nước. Nghị định số 59/2011/NĐ-CP đã được thay đổi, bổ sung bởi Nghị định số
189/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 và Nghị định số 116/2015/NĐ-CP ngày
11/11/2015. Ngày 05/9/2014, Bộ Tài chính cũng đã ban hành Thông tư số
127/2014/TT-BTC để hướng dẫn thi hành.
Nghị định số 59/2011/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung và Thông tư số
127/2014/TT-BTC ngày 05/9/2014 đã có những quy định để tổ chức định giá tài
sản, đưa ra các phương pháp cụ thể để xác định giá trị doanh nghiệp và phần vốn
của Nhà nước. So với các quy định trước đây, pháp luật hiện hành về định giá tài
sản khi CPH DNNN ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng được phần nào yêu cầu
của hoạt động CPH DNNN ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, những quy định này
vẫn còn những bất cập, hạn chế dẫn đến khó khăn trong hoạt động định giá tài


13
sản, quá trình CPH còn diễn ra chậm, tài sản Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp
bị thất thoát, xảy ra tình trạng tham ô, tham nhũng gây bức xúc dư luận.
Trong thời gian tới, Đảng và Nhà nước chủ trương tiếp tục đẩy mạnh CPH
với nhiều DNNN có quy mô lớn. Do đó, việc hoàn thiện các quy định của pháp
luật hiện hành về định giá tài sản là một yêu cầu cấp thiết để giảm thiểu thất
thoát tài sản Nhà nước khi CPH DNNN.
1.4. Một số nguyên tắc định giá tài sản khi cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước
Xác định giá trị doanh nghiệp là một hoạt động rất khó khăn và phức tạp
bởi nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan như: phương
pháp định giá tài sản; sự chính xác của thông tin sổ sách kế toán, báo cáo tài

chính; xác thực giá trị, tình trạng của tài sản; quy luật cung cầu của thị trường;
các vấn đề về chính sách, pháp luật; các yếu tố cạnh tranh; lợi thế kinh doanh…
đòi hỏi người có thẩm quyền định giá tài sản phải xem xét một cách kỹ lưỡng; có
chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm… để xác định giá trị doanh nghiệp phù
hợp với giá trị thị trường, đảm bảo quyền và lợi ích của doanh nghiệp. Đặc biệt,
việc xác định giá trị của các DNNN lại càng khó khăn, phức tạp bởi những đặc
thù riêng.
Xác định giá trị doanh nghiệp là một sự ước tính giá trị chứ không thể xác
định một cách chính xác, bởi rất nhiều tài sản, giá trị vô hình mà doanh nghiệp
không thể chiếm hữu, cũng như kiểm soát được. Tuy nhiên, để định giá tài sản
và xác định giá trị DNNN CPH phù hợp với giá thị trường và phản ánh đúng
thực trạng của doanh nghiệp thì cần tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau:
1.4.1. Nguyên tắc sử dụng tốt nhất giá trị của tài sản
Với nguyên tắc này, để định giá tài sản cần phải đặt tài sản vào mục đích
sử dụng đạt được hiệu quả cao nhất và tốt nhất có thể chứ không phải dựa trên
việc sử dụng tài sản ở thời điểm định giá nếu như việc sử dụng tài sản ở thời
điểm định giá chưa phải là cao nhất và tốt nhất.
Khi áp dụng nguyên tắc cần lưu ý một số vấn đề sau: một là, việc sử dụng


14
tài sản không được pháp luật chấp nhận hay không thể thực hiện được về mặt vật
chất thì không được xem là sử dụng tốt nhất; hai là, thị trường luôn biến động và
mất cân bằng giữa cung và cầu nên việc sử dụng tốt nhất giá trị của một tài sản
có thể phục vụ cho mục đích sử dụng trong tương lai; ba là, khi tài sản có nhiều
cách sử dụng tốt nhất tiềm năng thì cần ước tính các khoản chi phí và thu nhập
tương lai, từ đó xác định việc sử dụng tốt nhất giá trị của tài sản. Đây là một
trong những nguyên tắc không thể thiếu khi định giá tài sản và cần thiết trong
quá trình định giá tài sản khi CPH các DNNN. Trên thực tế, có nhiều DNNN do
sự yếu kém trong quản lý dẫn đến việc sử dụng tài sản một cách lãng phí, không

phát huy được công dụng tốt nhất của tài sản. Do đó, nếu không áp dụng nguyên
tắc sử dụng tốt nhất tài sản để định giá tài sản mà dựa trên việc sử dụng ở thời
điểm định giá sẽ không thể hiện được hết giá trị của tài sản.
1.4.2. Nguyên tắc phù hợp với quy luật cung cầu của thị trường
Giá trị của một tài sản được xác định bởi mối quan hệ cung và cầu của tài
sản đó trên thị trường. Ngược lại, giá trị của tài sản đó cũng tác động đến cung
và cầu của tài sản. Nếu như cung lớn hơn cầu, giá trị của tài sản sẽ giảm. Ngược
lại nếu cầu lớn hơn cung, giá trị của tài sản sẽ tăng. Tuy nhiên, nếu định giá tài
sản cao hơn giá trị trường thì sẽ ít có người mua, thậm chí là không có ai mua tài
sản. Ngược lại, nếu định giá rẻ hơn giá thị trường sẽ thiệt hại cho chủ sở hữu tài
sản. Do vậy, việc định giá tài sản cần phải phù hợp với quy luật cung cầu của thị
trường tại thời điểm định giá, bởi như vậy mới có thể đảm bảo quyền và lợi ích
của các bên mua bán tài sản.
Đây là một nguyên tắc quan trọng để định giá tài sản khi CPH các DNNN,
bởi trên thực tế, khi CPH các DNNN, việc định giá một số tài sản còn dựa trên
khung giá do Nhà nước quy định chứ chưa theo quy luật của thị trường. Trong
khi đó, khung giá của Nhà nước lại chậm thay đổi, không theo kịp và thấp hơn
rất nhiều so với giá thị trường. Ví dụ: khi CPH DNNN, quyền sử dụng đất của
doanh nghiệp hiện nay được định giá dựa trên khung giá đất do Nhà nước ban
hành. Trong khi đó, khung giá đất do Nhà nước ban hành lại thấp hơn nhiều so
với giá thị trường, thậm chí có những nơi giá đất do Nhà nước quy định chỉ bằng


15
20% so với giá của thị trường 7. Điều này đã làm thất thoát tài sản, gây thiệt hại
rất lớn đối với Nhà nước. Do vậy, khi định giá tài sản tại các DNNN CPH cần
phải dựa trên nguyên tắc quy tắc phù hợp với quy luật cung cầu của thị trường để
xác định đúng giá trị của tài sản, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên khi CPH.
1.4.3. Nguyên tắc thay thế
Nguyên tắc thay thế trong định giá được hiểu là việc định giá tài sản dựa

trên sự so sánh với những tài sản cùng loại, có tính hữu ích tương tự nhau. Giá trị
tối đa của một tài sản có xu hướng được thiết lập bởi chi phí tạo ra hoặc mua một
tài sản thay thế cần thiết tương đương. Một người thận trọng sẽ không trả giá cao
hơn chi phí tạo ra một tài sản hoặc mua một tài sản có giá trị sử dụng tương
đương trong cùng một thị trường và cùng một thời điểm.
Với nguyên tắc này, nếu định giá tài sản cao hơn chi phí để tạo ra một tài
sản mới hoặc mua một tài sản cùng loại, có giá trị sử dụng tương đương trên thị
trường thì sẽ rất khó để bán được tài sản đó. Do vậy, khi định giá tài sản cần
phải so sánh với chi phí thực tế để tạo ra một sản phẩm mới hoặc mua một tài
sản tương đương trên thị trường tại thời điểm định giá. Điều này nhằm đảm bảo
việc định giá tài sản đúng với giá thị trường. Khi CPH các DNNN, nguyên tắc
này đảm bảo cho tài sản của doanh nghiệp có thể định giá đúng giá thị trường,
tránh việc định giá tài sản quá thấp hoặc quá cao. Điều đó sẽ gây thất thoát tài
sản Nhà nước hoặc không thu hút được các nhà đầu tư mua cổ phần của doanh
nghiệp CPH.
1.4.4. Nguyên tắc dự báo
Định giá tài sản luôn phải dựa trên triển vọng tương lai của tài sản, bởi giá
trị của tài sản có thể sẽ thay đổi hoặc đem lại lợi nhuận cho chủ sở hữu trong
tương lai. Do vậy, cần dự báo trước các tình huống về kinh tế, chính trị, môi
trường kinh doanh… có thể xảy ra trong tương lai có tác động đến giá trị của tài
sản được định giá. Sự thay đổi về các yếu tố tác động đến tài sản và hoạt động
kinh doanh, đặc biệt là đối với những ngành nghề kinh doanh, những tài sản có
7
Ngọc Tuyên (2013), Khung giá đất chỉ bằng 20% thị trường, Báo VnExpress, tại địa chỉ:
truy
cập ngày 15/7/2017.


16
tính chất chu kỳ có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của doanh nghiệp.

Nguyên tắc dự báo có vai trò quan trọng trong việc định giá tài sản khi
CPH DNNN, bởi dựa trên nguyên tắc này, việc định giá các giá trị tài sản vô
hình như lợi thế kinh doanh, giá trị tiềm năng phát triển, giá trị quyền sử dụng
đất… mới phù hợp với thực tế. Đặc biệt, nếu xác định giá trị doanh nghiệp bằng
phương pháp dòng tiền chiết khấu (DCF), việc dự báo khả năng phát triển của
doanh nghiệp; những ngành nghề kinh doanh có tính chất chu kỳ; những chính
sách của Nhà nước… sẽ giúp định giá doanh nghiệp sát với lợi nhuận phát sinh
trong tương lai, hạn chế các rủi ro cho nhà đầu tư, giúp các nhà đầu tư tin tưởng
hơn khi mua cổ phần của doanh nghiệp.
1.4.5. Nguyên tắc dự kiến lợi ích trong tương lai
Giá trị tài sản có thể được xác định bằng việc dự tính khả năng sinh lợi
trong tương lai. Một tài sản có khả năng sinh lợi cao sẽ có nhiều người muốn
mua và giá trị cao hơn so với tài sản khác cùng loại. Do đó, việc ước tính giá trị
của tài sản luôn dựa trên các triển vọng tương lai, lợi ích dự kiến nhận được từ
quyền sử dụng tài sản của người mua.
Nguyên tắc dự kiến lợi ích trong tương lai là một nguyên tắc quan trọng
khi định giá tài sản của doanh nghiệp CPH, bởi lẽ một tài sản có giá trị sinh lợi
cao sẽ có giá trị cao. Tuy nhiên, những giá trị sinh lợi của tài sản được hình
thành trong tương lai, do đó để dự đoán sát khả năng sinh lợi của bất động sản.
Thực tế CPH các DNNN trong thời gian qua cho thấy, những giá trị về lợi thế
kinh doanh, tiềm năng phát triển của doanh nghiệp bị bỏ qua, không được tính
vào giá trị của doanh nghiệp hoặc được định giá rất thấp so với giá trị trên thị
trường. Điều đó đã làm thất thoát tài sản Nhà nước. Một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng này một phần là do những khó khăn trong việc dự đoán
khả năng sinh lời của tài sản, đồng thời cũng do những quy định của pháp luật
còn nhiều hạn chế, chưa cụ thể.
1.4.6. Nguyên tắc bảo toàn tối đa tài sản Nhà nước
Tài sản được Nhà nước đầu tư tại các DNNN là tài sản thuộc sở hữu toàn
dân, do nhà nước thống nhất quản lý. Khi định giá tài sản tại các DNNN CPH



17
cần phải bảo toàn tối đa tài sản Nhà nước, tránh thất thoát tài sản. Bảo toàn tối đa
lợi ích của Nhà nước chính là đảm bảo cho lợi ích của quốc gia và người dân.
Lợi ích tối đa ở đây là giá trị lớn nhất của tài sản mà cả người mua và người bán
cổ phần đều chấp nhận được, đồng thời ngăn chặn các hành vi trục lợi cá nhân,
tham ô tài sản Nhà nước. Đây là một nguyên tắc quan trọng trong việc định giá
tài sản khi CPH DNNN.
Trong quá trình CPH, việc thất thoát tài sản Nhà nước là điều khó tránh
khỏi. Kinh nghiệm của một số quốc gia như Nga và Trung Quốc cho thấy, các
quốc gia này cũng đã gặp rất nhiều những khó khăn và thất thoát tài sản khi mới
thực hiện CPH 8. Ở Việt Nam, những bật cập, hạn chế của pháp luật và các sai
phạm của doanh nghiệp trong quá trình xử lý tài chính và định giá tài sản đã làm
thất thoát nghiêm trọng tài sản Nhà nước, làm lợi cho cá nhân, gây bức xúc cho
người dân. Tuy nhiên, pháp luật cũng đã và đang thay đổi nhằm hoàn thiện, tạo
cơ sở pháp lý vững chắc hơn cho việc định giá tài sản khi CPH DNNN. Trong
quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật, nguyên tắc bảo toàn tối đa tài sản Nhà
nước phải được quan tâm hàng đầu nhằm mục đích đem lại lợi ích tối đa cho
Nhà nước, đó cũng là đem lại lợi ích cho quốc gia và dân tộc.
1.4.7. Nguyên tắc công khai, minh bạch
Để định giá tài sản chính xác, các thông tin về tài sản phải được công
khai, minh bạch, bởi chỉ khi các thông tin của tài sản chính xác, rõ ràng thì việc
định giá tài sản mới có thể đảm bảo sự đúng đắn, phù hợp. Đây là một nguyên
tắc rất quan trọng trong định giá tài sản khi CPH các DNNN. Từ trước đến nay,
nguyên tắc công khai minh bạch vẫn được đề cao khi thực hiện CPH các DNNN.
Tuy nhiên, trên thực tế, nguyên tắc này chưa được thực hiện một cách triệt để,
cách doanh nghiệp chưa công khai, minh bạch các thông tin về nhằm mục đích
trục lợi. Do vậy, pháp luật cần quy định cụ thể, đặc biệt là có các chế tài để đảm
bảo thực hiện tốt nguyên tắc này.


Trần Hưng (2016), Kinh nghiệm CPH doanh nghiệp nhà nước của một số quốc gia và bài học cho Việt
Nam, Tạp chí Cộng sản, số chuyên đề 6/2016, trang 91 – 94.
8


18
Kết luận Chương 1
CPH DNNN là điều cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các
DNNN, đồng thời xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để tạo nền tảng pháp lý cho việc định giá tài sản khi CPH DNNN, Nhà nước đã
ban hành nhiều quy định pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các quy
định của pháp luật còn bộc lộ nhiều hạn chế dẫn đến gây khó khăn trong việc
định giá tài sản, gây thất thoát tài sản Nhà nước, làm chậm tiến độ CPH ở nước
ta. Để tạo cơ sở cho việc phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về định giá tài
sản khi CPH DNNN, trong Chương 1, luận văn đã nêu một số vấn đề chung về
pháp luật định giá tài sản khi CPH DNNN như khái niệm định giá tài sản; tài sản
được định giá khi CPH DNNN; pháp luật về định giá tài sản khi CPH DNNN và
một số nguyên tắc định giá tài sản.
Qua các khái niệm và nguyên tắc đã nêu tại Chương 1, người đọc sẽ hiểu rõ
hơn về định giá tài sản khi CPH các DNNN, đồng thời là cơ sở để tác giả đi sâu
phân tích thực trạng các quy định của pháp luật về định giá tài sản khi CPH các
DNNN, từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật.


19
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN
KHI CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
CPH DNNN ở nước ta đã được thực hiện hơn 20 năm và đã đạt được
những thành tựu cơ bản. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn rất nhiều những tồn tại, hạn

chế cần tiếp tục được khắc phục. Trong quá trình thực hiện CPH DNNN, định
giá tài sản là điều kiện quan trọng nhằm hoàn thiện phương án CPH và tổ chức
thực hiện CPH DNNN. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về định giá tài sản
tại các DNNN thực hiện CPH nhằm thực hiện hoạt động định giá tài sản dễ dàng
và phù hợp với thị trường là một nhu cầu tất yếu để thúc đẩy nhanh chóng quá
trình CPH ở nước ta hiện nay, đồng thời tránh làm thất thoát tài sản Nhà nước.
Nhằm tạo một nền tảng pháp lý cho việc CPH và xác định giá trị doanh
nghiệp, Nhà nước đã ban hành nhiều quy định pháp luật để điều chỉnh. Trong
quá trình thực hiện, mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, mở ra thời
kỳ CPH các DNNN mạnh mẽ ở nước ta như hiện nay. Tuy nhiên, các quy định
của pháp luật cũng đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế dẫn đến khó thực hiện trên
thực tế, đồng thời tạo điều kiện cho các hành vi tham ô, tham nhũng, gây thất
thoát nghiêm trọng tài sản Nhà nước… Do đó, việc nghiên cứu, phân tích thực
trạng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về định giá
tài sản khi CPH DNNN là vấn đề đang được đặt ra cấp thiết nhằm đẩy nhanh quá
trình CPH ở nước ta. Có thể thấy, thực trạng pháp luật về định giá tài sản khi
CPH DNNN hiện nay được thể hiện qua những thành tựu và bất cập, hạn chế
như sau:
2.1. Những thành tựu của pháp luật về định giá tài sản khi cổ phần
hóa các doanh nghiệp nhà nước
Ngày 18/7/2011, Chính phủ ban hành Nghị định số 59/2011/NĐ-CP về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần thay thế cho
Nghị định số 109/2007/NĐ-CP. Nghị định số 59/2011/NĐ-CP sau đó đã được
sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 189/2013/NĐ-CP và Nghị định số


×