Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Pháp luật về xử lý rác thải điện tử ở việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHÙNG PHƯƠNG THẢO

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ RÁC THẢI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lưu Ngọc Tố Tâm

HÀ NỘI - NĂM 2016

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
STT

Tên biểu đồ

Trang


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
STT
01

Tên sơ đồ
Quá trình tác động của các chất độc trong


rác thải điện tử tới môi trường, con người

Trang
18

DANH MỤC CÁC BẢNG
STT

Tên bảng

Trang

01

Phí tái chế rác thải điện tử tại bang
California

30

DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
STT

Tên phụ lục

01

Bảng: Gia tăng rác thải điện tử trên toàn cầu

02


Biểu đồ: Lượng rác thải điện tử phát sinh theo khu vực năm 2014

03

Bảng: Lượng rác thải điện tử phát sinh ở một số nước Châu Á
năm 2014

04

Bảng: Phần trăm các chất có trong rác thải điện tử

05

Bảng: Kim loại có trong một số linh kiện điện tử

06

Bảng: Các chất độc hại có trong rác thải điện tử

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RÁC THẢI ĐIỆN TỬ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ RÁC THẢI ĐIỆN TỬ
6
1.1. Những vấn đề chung về rác thải điện tử

6



1.1.1. Khái niệm, phân loại rác thải điện tử

6

1.1.2. Nguồn phát sinh rác thải điện tử

10

1.1.3. Hiện trạng rác thải điện tử

12

1.1.4. Tác động của rác thải điện tử

14

1.1.5. Vai trò của việc xử lý rác thải điện tử

18

1.2. Những vấn đề chung của pháp luật về xử lý rác thải điện tử

21

1.2.1. Khái niệm pháp luật về xử lý rác thải điện tử

21


1.2.2. Vai trò của pháp luật đối với việc xử lý rác thải điện tử

24

1.2.3. Nội dung của pháp luật về xử lý rác thải điện tử

25

1.3. Kinh nghiệm xây dựng pháp luật về xử lý rác thải điện tử của một
số nước trên thế giới

28

1.3.1. Kinh nghiệm của Mỹ

28

1.3.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản

30

1.3.3. Kinh nghiệm của Hàn quốc

31

Tiểu kết chương 1

32

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ RÁC THẢI

ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
33
2.1. Thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá
nhân trong việc xử lý rác thải điện tử

33

2.1.1. Những tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ xử lý rác thải điện tử

33

2.1.2. Điều kiện đối với cơ sở xử lý rác thải điện tử

37

2.1.3. Nghĩa vụ cụ thể của các tổ chức, cá nhân xử lý rác thải điện tử 47
2.1.4. Ưu đãi, hỗ trợ đối với tổ chức, cá nhân xử lý rác thải điện tử

52

2.2. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền trong việc xử lý rác thải điện tử

53


2.2.1. Trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền chung

54


2.2.2. Trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền chuyên môn

55

2.3. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật về xử lý rác thải điện tử

57

2.3.1. Trách nhiệm hành chính

57

2.3.2. Trách nhiệm dân sự

58

2.3.3. Trách nhiệm hình sự

60

2.4. Những điểm hạn chế của pháp luật về xử lý rác thải điện tử ở Việt
Nam hiện nay
Tiểu kết chương 2

62
67

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ
RÁC THẢI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

68
3.1. Những thách thức đối với việc hoàn thiện pháp luật về xử lý rác
thải điện tử ở Việt Nam hiện nay

68

3.2. Những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về xử lý
rác thải điện tử ở Việt Nam hiện nay

72

3.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý rác thải điện
tử ở Việt Nam hiện nay
3.3.1. Giải pháp pháp lý

76
76

3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử lý rác thải
điện tử ở Việt Nam
84
Tiểu kết chương 3

90

KẾT LUẬN

91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



5

LỜI NÓI ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Ngành công nghiệp điện tử hiện nay đóng vai trò rất quan trọng, nó được ví
như thước đo trình độ phát triển khoa học kỹ thuật của các quốc gia trên thế giới.
Đối với Việt Nam vai trò của ngành công nghiệp này ngày càng to lớn. Công nghiệp
điện tử Việt Nam xuất hiện từ giữa những năm 60 của thế kỷ XX nhưng chỉ thực sự
hình thành vào cuối những năm 80 và dần hoàn thiện đầu năm 2000 khi luồng đầu tư
nước ngoài vào ngành điện tử bắt đầu có hiệu ứng lan tỏa. Sự bùng nổ của nhu cầu
về hàng điện tử và sự cần thiết phải phát triển ngành công nghệ thông tin trong các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội dưới tác động của tăng trưởng kinh tế là
những luận cứ cơ sở cho một thị trường sôi động và hấp dẫn các nhà đầu tư nước
ngoài. Thế nhưng đằng sau sự phát triển của ngành công nghiệp này trên thế giới
cũng như ở Việt Nam là một lượng rác thải điện tử khổng lồ phát sinh hàng năm. Sự
gia tăng của rác thải điện tử tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển ngành công nghiệp điện
tử.
Với thành phần phức tạp, chứa nhiều chất độc hại - rác thải điện tử là một “kẻ
hủy diệt” cực kỳ ghê gớm đối với môi trường sống và sức khỏe cộng đồng nếu
không được xử lý đúng cách. Không chỉ là tác nhân gây ra các bệnh ung thư, thần
kinh, tim mạch, đường hô hấp… cho con người, rác thải điện tử nếu không được xử
lý đúng cách còn tác động dai dẳng, ngấm ngầm đến sự trường tồn của toàn bộ đời
sống trên Trái Đất. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, trong bản thân loại rác thải này
còn chứa một lượng lớn đáng kể các kim loại quý cũng như các nguyên liệu có khả
năng thu hồi và tái chế đem lại nhiều nguồn lợi ích khác nhau. Để có thể hạn chế tối
đa những tác động tiêu cực của rác thải điện tử đồng thời tận thu được những thành
phần có giá trị của loại rác thải này thì cần tìm ra phương thức xử lý phù hợp, tiên

tiến, thân thiện với môi trường nhất. Đây là thách thức không hề nhỏ mà rác thải
điện tử đặt ra cho toàn thế giới, trong đó có Việt Nam.
Ở Việt Nam, chúng ta cũng đã bắt đầu áp dụng nhiều công cụ khác nhau để xử
lý rác thải điện tử. Trong số đó, pháp luật được cho là công cụ tiên phong và hữu
hiệu nhất. Tuy nhiên, pháp luật về xử lý rác thải điện tử ở nước ta mới được hình
thành trong vài năm gần đây, trong khi đó ngành công nghiệp điện tử đã xuất hiện ở
nước ta khá lâu. Với khung pháp luật còn non trẻ, nhiều hạn chế còn tồn tại đã dẫn
tới việc xử lý rác thải điện chưa triệt để, kéo theo nhiều hệ quả sau đó. Bởi vậy, mà
việc hoàn thiện pháp luật để tạo ra cơ sở vững chắc, đúng đắn cho việc xử lý rác thải
điện tử trên thực tế trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Từ nhận thức này, tôi lựa chọn
đề tài: “Pháp luật về xử lý rác thải điện tử ở Việt Nam” để nghiên cứu, xây dựng
luận văn thạc sĩ của mình.


6

2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên Thế giới, rác thải điện tử là vấn đề đã được chú trọng từ khá lâu, đặc biệt
là ở những quốc gia, khu vực phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Pháp, EU… Do đó,
nhiều nghiên cứu về rác thải điện tử cũng đã ra đời, điển hình như: Nghiên cứu của
các tác giả Gaidajis.G, Angelakoglou.K and Aktsoglou.D (2010) với tên gọi “Ewaste: Environmental Problems and Current Management”; Báo cáo “The Global
E- Waste Monitor 2014 Quantitities, flows and resource” của các tác giả Baldé
C.P.,Wang F., Kueher R., Huisman J; hay Solving the e-waste problem (Step)
intiative white paper (2014); One global definition of e-waste, United Nations
University… Trong các nghiên cứu này, tác giả đã chỉ ra được thực trạng rác thải
điện tử trên thế giới, những lợi ích cũng như tác hại của rác thải điện tử, phương
thức quản lý rác thải điện tử hiện nay và đề xuất những giải pháp để giải quyết tốt
vấn đề này trên thế giới.
Tại Việt Nam vấn đề rác thải điện tử mới được quan tâm trong vài năm trở lại

đây. Các công trình nghiên cứu về đề tài này còn khá hạn chế. Có thể kể đến một số
công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Current status of e-waste in VietNam and
future goals của tác giả Trương Mạnh Tuấn (2014), Cục kiểm soát ô nhiễm, Bộ tài
nguyên và môi trường hay nghiên cứu của tác giả Huỳnh Trung Hải (2014) với tên
gọi “Electric and Electronic Waste recycling in Viet Nam”, Trường Đại học Bách
khoa…
Vấn đề rác thải điện tử cũng đã được nghiên cứu trong một số đề tài luận án,
luận văn như: Luận văn thạc sĩ khoa học của tác giả Đặng Thị Hường (2013),
Nghiên cứu đánh giá tiềm năng tái chế chất thải điện tử và thu hồi kim loại có giá
trị từ bản mạch điện tử thải bỏ, Đại học quốc gia Hà Nội- Trường Đại học khoa học
tự nhiên, Hà Nội hay tác giả Đặng Trung Quý (2013) với Luận văn thạc sĩ khoa học
về Nghiên cứu sử dụng thủy tinh từ chất thải điện- điện tử để sản xuất vật liệu nhẹ
không nung ứng dụng trong xây dựng, Đại học quốc gia Hà Nội- Trường Đại học
khoa học tự nhiên, Hà Nội…
Ngoài ra, cũng đã có khá nhiều bài báo, tạp chí viết về vấn đề rác thải điện tử,
có thể kể đến như: Trương Việt Trường (2011), “Rác thải điện tử - xung đột môi
trường giữa các nước công nghiệp và các nước đang phát triển”, Tạp chí môi trường
số 8/2011; Nhật Anh (2012), “Hiểm họa và cơ may từ chất thải điện tử”, Tạp chí
STINFO số 10/2012, tr. 10-13; Huỳnh Trung Hải, Nguyễn Đức Quảng (2014),
“Những cơ hội và thách thức đối với chất thải điện tử”, Tạp chí môi trường, số
4/2014; Anh Tùng (2015), “Tài nguyên” chờ khai thác: rác thải điện tử, Tạp chí
STINFO số 7/2015, tr. 8-13….
Tuy nhiên, đa số các công trình ở nước ta hiện nay đều tập trung vào việc
nghiên cứu phát triển công nghệ để xử lý rác thải điện tử, đặc biệt là chú trọng đến
thu hồi các kim loại quý trong rác thải điện tử. Trong các nghiên cứu đã công bố về


7

rác thải điện tử thì pháp luật chỉ đóng vai trò thứ yếu, không phải là đối tượng

nghiên cứu chính.
Như vậy, đề tài “Pháp luật về xử lý rác thải điện tử ở Việt Nam” là một đề tài
luận văn mới ở nước ta. Do đó, việc nghiên cứu đề tài này hoàn toàn đáp ứng được
các yêu cầu về giá trị thực tiễn, ý nghĩa khoa học và tính cấp thiết.
3.
Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là
các quy định của pháp luật về xử lý rác thải điện tử ở Việt Nam. Theo đó, luận văn
tập trung vào các quy định hiện hành tại các văn bản quy phạm pháp luật: Luật bảo
vệ môi trường 2014; Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 04 năm 2015 của
Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu; Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg ngày 22
tháng 05 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định về thu hồi, xử lý sản phẩm
thải bỏ; Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường… Ngoài
ra, những quy định về xử lý rác thải điện tử trước đây cũng được đề cập đến trong
luận văn nhằm so sánh, đối chiếu để thấy sự phát triển, đổi mới của pháp luật về xử
lý rác thải điện tử ở nước ta.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: luận văn nghiên cứu vấn đề xử lý rác thải
điện tử dưới góc độ pháp luật kinh tế, với cái nhìn cụ thể của pháp luật môi trường.
Theo đó, phạm vi nghiên cứu được xác định trong luận văn bao gồm: khái niệm, vai
trò, các quy định cụ thể về việc xử lý rác thải điện tử, bao gồm: chủ thể chịu trách
nhiệm xử lý rác thải điện tử, điều kiện đối với cơ sở xử lý rác thải điện tử, nghĩa vụ
của chủ xử lý rác thải điện tử, những ưu đãi, hỗ trợ đối với chủ xử lý rác thải điện tử,
trách nhiệm của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc xử lý rác thải điện tử,
trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật về xử lý rác thải điện tử
và những giải pháp để hoàn thiện pháp luật về xử lý rác thải điện tử ở Việt Nam hiện
nay.
4.
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định của pháp

luật về xử lý rác thải điện tử ở Việt Nam. Từ đó luận văn sẽ chỉ ra những điểm tiến
bộ cũng như những hạn chế còn tồn tại trong pháp luật về xử lý rác thải điện tử ở
Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra những giải pháp để hoàn thiện
pháp luật đồng thời nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử lý rác thải điện tử ở
Việt Nam.
5.
Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để có thể xây dựng luận văn một cách logic và khoa học nhất thì một hệ thống
câu hỏi đã được xây dựng và được trả lời, cụ thể:
- Chương 1: luận văn đã trả lời những câu hỏi như: rác thải điện tử là gì, cách
phân loại như thế nào? Rác thải điện tử phát sinh từ đâu, nó có ảnh hưởng gì tới môi
trường, con người, xã hội? Tại sao phải xử lý rác thải điện tử? Ngoài những vấn đề


8

chung về rác thải điện tử, tại chương này tác giả còn nghiên cứu những vấn đề
chung của pháp luật về xử lý rác thải điện tử. Với phần này tác giả đưa ra những câu
hỏi sau: Pháp luật về xử lý rác thải điện tử là gì, tại sao việc xử lý rác thải điện tử
phải được quản lý bởi pháp luật và nội dung của pháp luật là gì. Cuối cùng chương
này trả lời câu hỏi: xu hướng pháp luật về xử lý rác thải điện tử trên thế giới là gì,
Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm gì để hoàn thiện pháp luật về xử lý rác thải
điện tử từ các quốc gia khác trên thế giới.
- Chương 2: luận văn nghiên cứu về thực trạng pháp luật về xử lý rác thải điện
tử tại Việt Nam. Các câu hỏi được trả lời trong phần này bao gồm: Pháp luật về xử
lý rác thải điện tử được hình thành từ khi nào và phát triển ra sao; những chủ thể nào
có trách nhiệm xử lý rác thải điện tử, trách nhiệm cụ thể của những chủ thể này là gì,
điều kiện các cơ sở xử lý rác thải điện tử phải đáp ứng, những ưu đãi hỗ trợ đối với
chủ xử lý rác thải điện tử, trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật
về xử lý rác thải điện tử là gì; Các cơ quan nào có trách nhiệm trong lĩnh vực này và

trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan được quy định như thế nào?
- Chương 3: trên cơ sở giải quyết những vấn đề ở chương 1 và chương 2 một
cách thấu đáo, chương 3 của luận văn sẽ đưa ra những giải pháp để hoàn thiện pháp
luật về xử lý rác thải điện tử ở Việt Nam. Tại chương này luận văn trả lời các câu
hỏi sau: Trong giai đoạn hiện nay việc hoàn thiện pháp luật về xử lý rác thải điện tử
ở nước ta gặp những thách thức gì? Việc hoàn thiện pháp luật về xử lý rác thải điện
tử cần đáp ứng những yêu cầu gì? Những giải pháp nào sẽ giúp hoàn thiện pháp luật
về xử lý rác thải điện tử đồng thời nâng nao hiệu quả thi hành trên thực tiễn?
6.
Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin để xem xét và phân tích các vấn
đề. Bên cạnh đó, để giải quyết nội dung luận văn, đặc biệt là các giải pháp hoàn
thiện pháp luật về xử lý rác thải điện tử, luận văn còn sử dụng các quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về phát triển bền vững, về chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu khác được áp dụng trong luận văn gồm: phân
tích, thống kê, so sánh, đối chiếu, lịch sử, chứng minh, tổng hợp, quy nạp... Trong
đó, phân tích, thống kê, so sánh, chứng minh được xác định là những phương pháp
nghiên cứu chủ yếu của luận văn. Cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích: được sử dụng ở tất cả các chương, mục của luận văn
để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
- Phương pháp thống kê: được sử dụng ở cả 03 chương để tập hợp, xử lý các số
liệu…phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: được sử dụng ở cả 03 chương của luận văn
để đối chiếu, đánh giá, các quy định pháp luật khác nhau của một số quốc gia trên


9


thế giới về xử lý rác thải điện tử với pháp luật Việt Nam; so sánh pháp luật của Việt
Nam trước đây với pháp luật hiện hành.
- Phương pháp chứng minh: được sử dụng để chứng minh các luận điểm tại
chương 1, các nhận định về thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về xử lý rác
thải điện tử tại chương 2 và các yêu cầu, đề xuất phương án xây dựng, hoàn thiện
pháp luật về xử lý rác thải điện tử tại chương 3 của luận văn.
- Phương pháp tổng hợp, quy nạp: được sử dụng chủ yếu trong việc đưa ra
những kết luận của từng chương và kết luận chung của luận văn.
7.
Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Luận văn nghiên cứu về vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về xử lý rác
thải điện tử có sự so sánh đối chiếu với các văn bản pháp luật trước đó và pháp luật
nước ngoài, từ đó nêu ra những điểm đã đạt được cũng như những hạn chế còn tồn
tại trong một số quy định của pháp luật. Đồng thời, đưa ra những kiến nghị, giải
pháp để góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này. Qua đó
giáo dục và nâng cao ý thức của cộng đồng, các chủ thể có trách nhiệm trong việc
xử lý rác thải điện tử về kiến thức pháp luật và thực thi, chấp hành pháp luật về xử lý
rác thải điện tử.
Kết quả nghiên cứ là sản phẩm quan trọng đánh giá quá trình học tập của học
viên trong chương trình đào tạo Thạc sĩ của Trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn
có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy hệ đào tạo đại học, cao
học và đông đảo bạn đọc quan tâm tới vấn đề này.
8.

Bố cục của luận văn

Để giải quyết đề tài “Pháp luật về xử lý rác thải điện tử ở Việt Nam” luận văn
được kết cấu thành ba chương (không bao gồm phần Lời nói đầu, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo), bao gồm:
- Chương 1: Những vấn đề chung về rác thải điện tử và pháp luật về xử lý rác

thải điện tử.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về xử lý rác thải điện tử ở Việt Nam
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý rác thải điện tử ở Việt
Nam

CHƯƠNG 1


10

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RÁC THẢI ĐIỆN TỬ VÀ PHÁP LUẬT VỀ
XỬ LÝ RÁC THẢI ĐIỆN TỬ

1.1.

Những vấn đề chung về rác thải điện tử
1.1.1.

Khái niệm, phân loại rác thải điện tử

1.1.1.1. Khái niệm
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, các thiết bị điện, điện tử ngày
càng trở nên phổ biến trong cuộc sống con người. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3
Chỉ thị 2011/65/EU ngày 08 tháng 06 năm 2011 của Liên minh Châu Âu về hạn chế
sử dụng một số chất nguy hại trong các thiết bị điện, điện tử (RoHS2) thì các thiết bị
điện, điện tử (electrical and electronic equipment –EEE) được hiểu là: thiết bị phụ
thuộc vào dòng điện hoặc từ trường để hoạt động và các thiết bị để sản xuất, chuyển
giao, đo lường của các dòng điện và từ trường của các dòng đó được thiết kế để sử
dụng với điện áp không quá 1000 volt cho dòng điện xoay chiều và 1500 volt cho
dòng điện một chiều. Các thiết bị này sau khi bị thải bỏ sẽ trở thành chất thải, loại

chất thải này được gọi là chất thải điện tử. Hiện nay, có rất nhiều khái niệm khác
nhau về chất thải điện tử tùy thuộc vào mỗi tổ chức hay quốc gia, vùng lãnh thổ.
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) chất thải điện tử là: “Bất kì
thiết bị gia dụng nào tiêu thụ điện và đã đạt đến vòng đời cuối cùng của nó” 1. Theo
khái niệm này, chất thải điện tử có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, phạm vi các thiết bị được xác định là chất thải điện tử bao gồm bất kì
thiết bị gia dụng nào tiêu thụ điện năng. Những loại thiết bị không thuộc nhóm thiết
bị gia dụng hoặc là thiết bị điện tử gia dụng nhưng không tiêu thụ điện năng thì
không thuộc đối tượng điều chỉnh của khái niệm này.
Thứ hai, các thiết bị nêu trên được xác định là chất thải điện tử nếu nó đạt đến
vòng đời cuối cùng của nó.
Nhìn chung khái niệm này còn khá hạn chế, chưa khái quát được đầy đủ bản
chất của chất thải điện tử. Nếu chỉ giới hạn chất thải điện tử là các thiết bị điện tử gia
dụng tiêu thụ điện thì những thiết bị điện tử khác (ví dụ thiết bị điện tử dùng trong
văn phòng như: máy fax, máy photocopy, máy scan hay những chiếc điện thoại di
động, máy tính…) khi bị thải bỏ được coi là gì nếu không phải chất thải điện tử?
Ngoài ra, khái niệm này còn thiếu tính cụ thể khi đưa vào thuật ngữ “đạt đến vòng
đời cuối cùng”. Việc xác định vòng đời cuối cùng của một thiết bị điện tử rất khó
khăn, thậm chí doanh nghiệp sản xuất ra nó cũng không thể xác định một cách chính
xác được. Tuổi thọ của một thiết bị điện tử thường được quyết định bởi người sở
hữu nó, mà mỗi người lại có một cách sử dụng và nhu cầu sử dụng khác nhau; do đó

1 Gaidajis.G, Angelakoglou.K and Aktsoglou.D (2010), E-waste: Environmental Problems and Current
Management, Journal of Engineering Science and Technology Review 3 (1) (2010), tr.193.


11

muốn xác định một cách chính xác khi nào thiết bị điện tử ở vòng đời cuối cùng là
điều không hề dễ dàng.

Mạng lưới hành động Basel (Basel Action Network- BAN) quan niệm về chất
thải điện tử như sau:“Chất thải điện tử bao gồm một phạm vi rộng và đang gia tăng
các thiết bị điện tử từ các thiết bị gia dụng lớn như tủ lạnh, điều hòa không khí, điện
thoại, hệ thống thu phát âm thanh và các mặt hàng tiêu thụ điện đến các loại máy
tính bị bỏ đi bởi người sử dụng chúng” 2. Theo khái niệm này, chất thải điện tử có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, phạm vi chất thải điện tử rất rộng và đang có xu hướng gia tăng, bao
gồm các loại thiết bị: các thiết bị gia dụng lớn như tủ lạnh, điều hòa không khí, điện
thoại, hệ thống thu phát âm thanh và các mặt hàng tiêu thụ điện; các loại máy tính.
Một loạt các loại thiết bị điện tử đã được liệt kê ra để minh chứng cho một phạm vi
rộng của chất thải điện tử, thế nhưng trong một khái niệm việc liệt kê như vậy là
không khoa học, đồng thời không đảm bảo được tính khái quát cho khái niệm đó.
Thứ hai, các thiết bị điện tử nêu trên được xác định là chất thải điện tử khi
chúng bị bỏ đi bởi người sử dụng chứ không phải xác định dựa vào vòng đời cuối
cùng của chúng như cách định nghĩa của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế như
trên.
Qua những phân tích trên có thể thấy cách xây dựng khái niệm về chất thải
điện tử của Mạng lưới hành động Basel còn thiếu sự xúc tích, khoa học; nội dung
mang tính chất liệt kê là chủ yếu, do đó tính khái quát chưa cao.
STEP- Dự án sáng kiến giải quyết vấn đề rác thải điện tử của Liên Hợp Quốc
đã đưa ra khái niệm về chất thải điện tử như sau: “Chất thải điện tử là thuật ngữ chỉ
tất cả thiết bị điện- điện tử và một phần của nó đã bị thải bỏ bởi chủ sở hữu mà
không có ý định tái sử dụng” 3.
Khái niệm này được đưa ra vào năm 2014, nhìn chung nó được xây dựng khá
khoa học, đầy đủ và có tính khái quát cao. Theo đó, chất thải điện tử mang những
đặc điểm sau:
Một, về phạm vi: chất thải điện tử bao gồm tất cả các thiết bị điện tử và một
phần của nó. So với hai khái niệm đã nêu ở trên, rõ ràng với khái niệm này phạm vi
chất thải điện tử đã được khái quát đầy đủ, chính xác hơn rất nhiều.
Hai, các thiết bị điện- điện tử được nêu trên trở thành chất thải điện tử khi

chúng bị thải bỏ bởi chủ sở hữu mà không có ý định tái sử dụng. Như vậy, một thiết
bị điện tử có trở thành chất thải điện tử hay không phụ thuộc vào sự quyết định của
chủ sở hữu.
Nhờ cách xây dựng khoa học như vậy mà khái niệm này có tính linh hoạt rất
cao, có thể áp dụng ở nhiều giai đoạn khác nhau. Trường hợp xuất hiện loại thiết bị
2 Gaidajis.G, Angelakoglou.K and Aktsoglou.D, tlđd chú thích 1, tr 193.
3 Solving the e-waste problem (Step) intiative white paper (2014), One global definition of e-waste, United
Nations University, tr 4.


12

điện tử mới trên thị trường sau khi bị thải bỏ chúng cũng trở thành chất thải điện tử,
lúc này vẫn có thể áp dụng khái niệm của STEP.
Ở Việt Nam, khái niệm về chất thải điện tử vẫn chưa được xây dựng. Chúng ta
mới chỉ đưa ra được một số khái niệm liên quan như: chất thải, chất thải nguy hại,
chất thải rắn…
Qua những phân tích trên, có thể hiểu chất thải điện tử bao gồm: tất cả các
thành phần, chi tiết là một phần của thiết bị điện, điện tử hay toàn bộ thiết bị điện,
điện tử bị thải bỏ sau quá trình sử dụng. Các thiết bị điện, điện tử bị thải bỏ xuất
phát từ một số nguyên nhân sau đây: Một là, do các thiết bị này đã trở nên lỗi thời và
người sử dụng muốn thay thế chúng bằng những thiết bị tân tiến, hiện đại hơn. Hai
là, do các thiết bị này đã hư hỏng và người sở hữu không sử dụng nữa, cần vứt bỏ
chúng.
Chất thải nếu phân loại theo trạng thái tồn tại thì nó bao gồm chất thải rắn, chất
thải lỏng, chất thải khí và một số dạng khác. Trong phạm vi luận văn tác giả muốn
tập trung tìm hiểu về chất thải điện tử rắn, hay còn gọi là rác thải điện tử bởi lẽ trên
thực tế loại chất thải này chủ yếu tồn tại ở trạng thái rắn. Căn cứ vào cách định nghĩa
về chất thải điện tử như trên thì có thể hiểu rác thải điện tử bao gồm tất cả các thành
phần, chi tiết là một phần của thiết bị điện, điện tử hay toàn bộ thiết bị điện, điện tử

bị thải bỏ sau quá trình sử dụng, tồn tại ở thể rắn.
1.1.1.2. Phân loại
Cũng giống như khái niệm về rác thải điện tử, cách phân loại rác thải điện tử
vẫn chưa được thống nhất trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Để phân loại rác thải
điện tử thì có nhiều cách khác nhau, có thể phân loại dựa trên: nguồn gốc phát sinh,
kích cỡ, tính chất nguy hại... Ngoài ra, việc phân loại còn tùy theo cách định nghĩa
của từng tổ chức, quốc gia áp dụng.
Hiện nay, cách phân loại của Liên minh Châu Âu là cách phân loại được chấp
nhận rộng rãi trên Thế giới. Theo đó, các thiết bị điện, điện tử cũng như rác thải điện
tử được chia thành 10 nhóm 4 , bao gồm:
Một, nhóm thiết bị gia dụng cỡ lớn: tủ lạnh, máy giặt, máy sấy quần áo…
Hai, nhóm thiết bị gia dụng cỡ nhỏ: máy hút bụi, máy may vá, bàn là…
Ba, nhóm thiết bị IT và viễn thông: PCs (CPU, chuột, màn hình và bàn phím),
laptop, fax, máy tính, máy photo, điện thoại (điện thoại bàn, không dây, di động)…
Bốn, nhóm thiết bị nghe nhìn: radio, TV, camera, máy quay phim…
Năm, nhóm thiết bị chiếu sáng: đèn huỳnh quang, đèn compact…
Bảy, nhóm đồ chơi, giải trí và thể thao: tàu hỏa hoặc oto đua, video game, thiết
bị giải trí nhận tiền xu…
Tám, nhóm dụng cụ y tế: thiết bị xạ trị, máy điện tim, máy chạy thận…

4 Nhật Anh (2012), “Hiểm họa và cơ may từ chất thải điện tử”, Tạp chí STINFO số 10/2012, tr 10.


13

Chín, nhóm thiết bị quan trắc và kiểm soát: bộ điều chỉnh nhiệt, thiết bị cân
đo, cân chỉnh trong nhà và phòng thí nghiệm, các thiết bị quan trắc trong công
nghiệp…
Mười, nhóm máy dịch vụ tự động: máy rút tiền tự động, máy bán nước tự
động, điện thoại công cộng…

Qua cách phân loại này, có thể thấy được rác thải điện tử thực sự đa dạng,
phong phú. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều nước trên thế giới cũng chỉ tập trung quản
lý một số loại rác thải điện tử điển hình, phổ biến như: TV, điện thoại, máy tính, tủ
lạnh, máy điều hòa nhiệt độ… nhằm đạt hiệu quả quản lý cao nhất.
Ở nước ta, chưa có quy định nào đưa ra cách phân loại cụ thể cho chất thải điện
tử nói chung và rác thải điện tử nói riêng. Tuy nhiên hiện nay Thông tư số
36/2015/TT-BTNVMT ngày 30 tháng 06 năm 2015 của Bộ tài nguyên và môi
trường về quản lý chất thải nguy hại đã ghi nhận một số thiết bị điện tử được xếp
vào danh mục chất thải nguy hại khi bị thải bỏ. Trên cơ sở quy định này có thể dựa
vào mức độ nguy hại để phân loại rác thải điện tử thành: rác thải điện tử nguy hại và
rác thải điện tử thông thường. Theo đó những loại rác thải điện tử được coi là chất
thải nguy hại bao gồm:
- Các thiết bị, linh kiện điện tử thải hoặc các thiết bị điện khác có các linh kiện
điện tử có các thành phần nguy hại (trừ bản mạch điện tử không chứa các chi tiết có
các thành phần nguy hại vượt ngưỡng chất thải nguy hại) từ phương tiện giao thông
vận tải đường bộ, đường sắt, đường không hết hạn sử dụng (bao gồm cả các thiết bị
ven đường) và chất thải từ quá trình phá dỡ, bảo dưỡng phương tiện giao thông vận
tải đường bộ, đường sắt, đường không; mã 150109.
- Các thiết bị, linh kiện điện tử thải hoặc các thiết bị điện khác có các linh kiện
điện tử (trừ bản mạch điện tử không chứa các chi tiết có các thành phần nguy hại
vượt ngưỡng chất thải nguy hại) từ phương tiện giao thông vận tải đường thủy hết
hạn sử dụng và chất thải từ quá trình phá dỡ, bảo dưỡng phương tiện giao thông vận
tải đường thủy; mã 150214.
- Các thiết bị, linh kiện điện tử thải hoặc các thiết bị điện (khác với các loại nêu
tại mã 160106, 160107, 160112) có các linh kiện điện tử (trừ bản mạch điện tử
không chứa các chi tiết có các thành phần nguy hại vượt ngưỡng chất thải nguy hại)
từ hộ gia đình và chất thải từ nguồn khác; mã 160113.
- Các thiết bị điện, điện tử thải và chất thải từ hoạt động sản xuất, lắp ráp thiết
bị điện, điện tử (trừ các loại nêu tại nhóm mã 15 và 16 ở trên ):
 Mã 190201: máy biến thế và tụ điện thải có PCB

 Mã 190202: Các thiết bị điện thải khác có hoặc nhiễm PCB
 Mã 190203: Thiết bị điện thải có CFC, HCFC, HFC
 Mã 190204: Thiết bị điện thải có amiăng


14

 Mã 190205: Thiết bị thải có các bộ phận, linh kiện điện tử (trừ bản mạch
điện tử không chứa các chi tiết có các thành phần nguy hại vượt ngưỡng chất thải
nguy hại)
 Mã 190206: Các thiết bị, bộ phận, linh kiện điện tử (trừ bản mạch điện tử
không chứa các chi tiết có các thành phần nguy hại vượt ngưỡng chất thải nguy hại)
Nhìn chung, các loại rác thải điện tử được xếp vào danh mục chất thải nguy hại
đều có những điểm chung sau:
Thứ nhất, chúng đều có độc tính, độc tính sinh thái. Những loại rác thải điện tử
này có thể gây kích ứng, gây hại, gây độc cấp tính, gây độc từ từ hoặc mãn tính, gây
ung thư, gây độc cho sinh sản, gây đột biến gien và có thể sinh ra khí độc. Ngoài ra,
chúng còn có các thành phần nguy hại gây tác hại nhanh chóng hoặc từ từ đối với
môi trường và các hệ sinh vật thông qua tích lũy sinh học.
Thứ hai, trạng thái tồn tại đa số là ở thể rắn. Chúng thường tồn tại dưới các
dạng như: kim loại (sắt, nhôm, đồng…), nhựa…
Thứ ba, chúng được xác định là chất thải nguy hại trong mọi trường hợp,
không cần áp dụng ngưỡng chất thải nguy hại mà xác định luôn là chất thải nguy
hại.
Ngoài những thiết bị đã được xếp vào danh mục chất thải nguy hại như trên thì
những thiết bị điện tử còn lại sẽ được xếp vào danh mục rác thải điện tử thông
thường khi bị thải bỏ.
1.1.2. Nguồn phát sinh rác thải điện tử
Rác thải điện tử phát sinh từ: Doanh nghiệp sản xuất thiết bị điện tử trong
nước; nhập khẩu rác thải điện tử từ nước ngoài và do người tiêu dùng thải ra.

1.1.2.1. Rác thải điện tử phát sinh từ các doanh nghiệp sản xuất thiết
bị điện tử trong nước
Báo cáo tóm tắt “Đánh giá tác động ban đầu về an toàn môi trường và sức
khỏe nghề nghiệp trong một số nhà máy sản xuất và lắp ráp điện tử tại Việt Nam”
do Trung tâm Phát triển & Hội nhập (CDI) thực hiện công bố hồi tháng 1/2014 cho
thấy Việt Nam hiện có hơn 500 nhà máy, công ty điện tử và 2/3 trong số đó là các
công ty có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển kinh tế
đất nước5. Trong đó, có nhiều tên tuổi lớn của nước ngoài như: Samsung, Microsoft,
Canon… Sự thay đổi công nghệ nhanh chóng cùng với sự canh tranh của thị trường
đã buộc các doanh nghiệp phải liên tục nâng cấp mẫu mã, chất lượng nhưng vẫn
phải duy trì mức giá hợp lý. Đây chính là nguyên nhân rút ngắn vòng đời của sản
phẩm điện tử, khiến cho lượng rác thải điện tử tăng lên nhanh chóng trong những
năm qua.

5 Mạnh Cường (2014), “Rác thải điện tử đe dọa môi trường, sức khỏe”, địa chỉ: ngày truy cập: 10/06/2016


15

Các chất thải sinh ra trong quá trình sản xuất các thiết bị điện tử bao gồm: các
đầu mẩu nhựa và kim loại, các đoạn dây và bảng mạch hỏng, bo mạch hỏng, linh
kiện hỏng, chân linh kiện…
Với tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp điện tử trên Thế giới cũng như ở
Việt Nam hiện nay thì lượng rác thải điện tử được sản sinh ra từ quá trình sản xuất
các thiết bị điện tử sẽ ngày càng gia tăng.
1.1.2.2. Rác thải điện tử phát sinh từ việc nhập khẩu
Lượng rác thải điện tử được nhập khẩu từ nước ngoài về là thách thức không hề
nhỏ với các nước đang và kém phát triển, trong đó có Việt Nam.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan thì kim ngạch nhập khẩu của nhóm mặt
hàng sản phẩm điện tử và linh kiện luôn ở vị trí một trong hai nhóm mặt hàng đứng

đầu tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Trong năm 2015, kim ngạch nhập
khẩu nhóm hàng máy vi tính và linh kiện của cả nước đạt 23,13 tỷ USD. Với điện
thoại các loại và linh kiện trong năm 2015, cả nước nhập khẩu 10,6 tỷ USD 6. Dòng
rác thải điện tử “đổ” vào nước ta theo con đường nhập khẩu ngày càng có xu hướng
gia tăng. Tuy nhiên, những số liệu này vẫn chưa thể thể hiện được toàn bộ tình hình
khi nó không tính được số lượng rác thải điện tử nhập khẩu vào Việt Nam theo con
đường phi chính thức. Đây là một vấn đề đáng lo ngại đồng thời là một thách thức
lớn đối với các cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý rác thải điện tử.
Việc nhập khẩu rác thải điện tử có thể tồn tại là bởi các lý do cơ bản sau: Thứ
nhất, do các nước phát triển muốn xuất khẩu rác thải điện tử sang các nước kém phát
triển hơn, trong đó có Việt Nam nhằm cắt giảm chi phí xử lý. Thứ hai, do các nước
kém phát triển hơn vẫn có nhu cầu nhập khẩu rác thải điện tử. Có cầu ắt có cung, đó
là quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường hiện nay. Nếu lượng rác thải điện tử
nhập khẩu mà không được xử lý đúng cách sẽ khiến cho nước nhập khẩu phải đối
mặt với rất nhiều vấn đề như môi trường, con người và cả vấn đề xã hội. Do đó, trên
thế giới hiện nay các quốc gia đang rất nỗ lực để kiểm soát hoạt động nhập khẩu
này.
1.1.2.3. Rác thải điện tử phát sinh từ người tiêu dùng
Dòng rác thải điện tử đến từ người tiêu dùng cũng đang tăng rất nhanh trong
thời gian qua. Lượng rác thải phát sinh từ nguồn này rất khó quản lý do nó có tính
đơn lẻ. Dòng rác thải này đến từ: người tiêu dùng cá nhân, hộ gia đình hoặc văn
phòng. Những người tiêu dùng cá nhân thường thải bỏ các thiết bị như: điện thoại
di động, laptop, ipad, máy nghe nhạc… Hộ gia đình là nguồn gốc phát sinh của các
loại rác thải sau: tủ lạnh, điều hòa nhiệt độ, Tivi, máy giặt… Còn văn phòng là nơi
phát sinh của các loại rác thải điện tử như: máy in, máy photo, máy scan, máy fax…
6 Thống kê Hải quan (2016), “Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 12 và năm 2015”,
địachỉ: />k%C3%AA%20H%E1%BA%A3i%20quan, ngày truy cập: 10/06/2016


16


Lượng rác thải điện tử phát sinh từ nguồn này gia tăng nhanh chóng là do thói
quen tiêu dùng không bền vững của người tiêu dùng. Việt Nam có lực lượng yêu
công nghệ lớn, ngoài ra còn có các tầng lớp khác thích “chạy đua” theo xu hướng
phát triển công nghệ liên tục của thế giới để thể hiện đẳng cấp, bởi vậy họ sẵn sàng
bỏ rất nhiều tiền vào việc đổi mới các sản phẩm điện tử. Đời sống kinh tế ngày một
cải thiện đã khiến cho việc mua sắm dễ dàng hơn, do đó mà người tiêu dùng không
ngần ngại thải bỏ các thiết bị điện tử bị hỏng hóc hoặc lỗi thời. Ngoài ra, sự đa dạng
hóa về kiểu dáng và phát triển chức năng của các thiết bị đã thu hút người tiêu dùng
trong việc mua sắm các thiết bị mới nhất, hiện đại nhất. Điều này dẫn đến lượng
hàng hóa công nghệ được tiêu thụ ở Việt Nam thuộc hàng cao trên thế giới, kéo theo
đó là lượng rác thải điện tử tăng lên không ngừng theo thời gian.
1.1.3. Hiện trạng rác thải điện tử
1.1.3.1. Hiện trạng rác thải điện tử trên thế giới
Theo Cơ quan môi trường châu Âu (EEA), lượng rác thải điện tử thải ra trên
thế giới tăng nhanh gấp 3 lần so với các loại rác thải khác. Năm 2014 lượng rác thải
điện tử trên toàn cầu ước tính có khoảng 41,8 triệu tấn, con số này tương đương với
1,15 triệu xe tải nặng, tạo thành một hàng dài đến 23.000 km7. Trong đó, châu Á là
khu vực phát sinh rác thải điện tử nhiều nhất (16 triệu tấn), châu Mỹ đứng thứ nhì
(11,7 triệu tấn), châu Đại Dương phát sinh rác thải điện tử ít nhất (0,6 triệu tấn)8.
Tại Châu Á, rác thải điện tử nhiều nhất ở Trung Quốc, kế đến là Nhật, Ấn Độ và
Hàn Quốc 9.
Điều đáng nói ở đây là lượng rác thải điện tử không có xu hướng dừng lại hay
giảm đi mà còn có xu hướng tăng lên. Báo cáo mới đây của Dự án Sáng kiến giải
quyết vấn đề rác thải điện tử (STEP) của Liên Hợp Quốc cho thấy lượng rác thải
điện tử trên thế giới đang không ngừng tăng lên, ước tính vào năm 2017 sẽ có 72
triệu tấn rác điện tử được thải ra môi trường sau khi sử dụng. Lượng rác thải này
được cho là nặng hơn gấp 11 lần so với Kim Tự Tháp Giza, Ai Cập; tương đương
với 200 tòa nhà Empire State cao hơn 100 tầng ở Mỹ 10.
Tốc độ gia tăng nhanh chóng của rác thải điện tử trên Thế giới hiện nay tác

động không nhỏ tới sự gia tăng rác thải điện tử tại Việt Nam. Ở các nước phát triển,
khi rác thải điện tử càng nhiều thì nhu cầu xuất khẩu sang các nước kém phát triển
hơn càng tăng lên, trong đó có Việt Nam để tiết kiệm chi phí xử lý đồng thời loại bỏ
những tác nhân nguy hại tới môi trường, con người ra khỏi lãnh thổ của mình. Ở một
khía cạnh khác Việt Nam cũng có nhu cầu nhập khẩu rác thải điện tử để đáp ứng thị
trường trong nước, đây là một trong những nguyên nhân làm gia tăng rác thải điện
tử ở nước ta.
7 Anh Tùng (2015), “Tài nguyên” chờ khai thác: rác thải điện tử, Tạp chí STINFO số 7/2015, tr 8.
8 Anh Tùng (2015), tlđd chú thích 7, tr 9.

9 Anh Tùng (2015), tlđd chú thích 7, tr 9.
10 Thùy Linh (2013), “Liên Hợp Quốc cảnh báo mối nguy hại từ rác thải điện tử”, Tin nhanh Việt Nam, địa
chỉ: ngày
truy cập: 17/07/2016.


17

1.1.3.2. Hiện trạng rác thải điện tử ở Việt Nam
Năm 2014 tại Việt Nam phát sinh 116 nghìn tấn rác thải điện tử 11. Với dân số
92,571 nghìn người thì lượng rác thải điện tử phát sinh theo đầu người ở nước ta
năm 2014 là 1,3 kg/người/năm. So với các quốc gia khác trong khu vực Châu Á thì
Việt Nam không phải là nước có lượng rác thải điện tử phát sinh lớn. Tuy nhiên tốc
độ gia tăng của loại rác thải này trong những năm tới là điều đáng lưu ý khi Việt
Nam đang vươn mình để trở thành một nước công nghiệp.
Nhu cầu sử dụng thiết bị điện - điện tử gia dụng ngày càng tăng cao cộng với
nguồn thải từ sản xuất công nghiệp và lượng nhập khẩu với nhiều hình thức sẽ làm
lượng rác thải điện tử gia tăng nhanh chóng ở Việt Nam. Trong 10-15 năm tới,
lượng rác thải điện tử ở nước ta ước tính đạt tới 7-8 kilogam/người/năm khi các sản
phẩm công nghệ của thế giới nói chung, của Việt Nam nói riêng ngày càng phát

triển 12. Ước tính đến năm 2020, riêng Hà Nội sẽ phải thải bỏ tới 161.000 chiếc tivi,
97.000 PC, 178.000 tủ lạnh, 136.000 máy giặt và 97.000 điều hòa nhiệt độ. Còn tại
Thành phố Hồ Chí Minh, ước tính sẽ có 700.000 tivi, 290.000 PC, 424.000 tủ lạnh,
339.000 máy giặt và 330.000 chiếc điều hòa bị thải bỏ 13. Với tốc độ này, nếu
không có những biện pháp kịp thời, Việt Nam rất có thể sẽ trở thành một bãi rác
công nghệ với những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với môi trường và sức khỏe cộng
đồng.
Qua biểu đồ dưới đây chúng ta có thể thấy rõ hơn xu hướng gia tăng không
ngừng của rác thải điện tử tại Việt Nam.
Biều đồ 01: Thiết bị điện tử thải bỏ gia tăng ở Việt Nam

Nguồn: Quảng et.al, 2009, Huỳnh Trung Hải, Electric and Electronic Waste
Recycling in Vietnam, 2014
11 Baldé C.P.,Wang F., Kueher R., Huisman J, The Global E- Waste Monitor 2014 Quantitities, flows and resources,
United Nations University, tr 65.
12 Minh Đức (2015), “Rác thải điện tử, góc tối của công nghệ tại Việt Nam”, Công nghệ cho mọi người, địa chỉ:
ngày truy cập: 17/07/2016.
13 Văn Hảo (2015), “Thách thức về môi trường từ chất thải thiết bị điện và điện tử”, Vietnamplus, địa chỉ:
ngày truy cập:01/08/2016.


18

1.1.4.

Tác động của rác thải điện tử

Theo thống kê của Chương trình Môi trường Liên Hợp quốc (UNEP), trong rác
thải điện tử có chứa hơn 1.000 hợp chất khác nhau, chủ yếu là thành phần kim loại
nặng, kim loại quý, các chất hữu cơ cao phân tử khác… trong đó có chứa nhiều chất

độc hại. Chẳng hạn, trong mạch in có tới 15 loại hoá chất như đồng, chì, sắt, niken,
kẽm, sợi thủy tinh (02 hoá chất nguy hiểm nhất là chì và cadmium); một chiếc máy
tính chứa khoảng 1,8 - 3,6 kg chì; trong tụ điện, biến thế có PBB và PBDE là 2 chất
cực độc…14. Những chất cực độc có trong rác thải điện tử có thể để lại những hậu
họa khôn lường cho môi trường và con người. Cụ thể như sau:
1.1.4.1. Tác động của rác thải điện tử tới môi trường
Rác thải điện tử là một trong những yếu tố có thể gây ra nhiều tác động xấu cho
môi trường, điều này được thể hiện qua những khía cạnh dưới đây:
Thứ nhất, rác thải điện tử gây ô nhiễm môi trường
Thành phần chính trong rác thải điện tử là các kim loại, các hợp kim và một số
hợp chất dạng rắn. Khi ở trạng thái hoàn toàn bị cô lập chúng rất bền và không có
ảnh hưởng gì tới môi trường. Nhưng khi được tiếp xúc trực tiếp với không khí, độ
ẩm, ánh sáng… một loạt các quá trình hoá học xảy ra tạo thành các hợp chất và khả
năng chuyển đổi sang các trạng thái khác rất lớn làm cho chúng trở nên dễ hoà tan
trong nước, thẩm thấu vào đất và dễ khuếch tán vào không khí. Như vậy, bản thân
rác thải điện tử không độc hại nhưng sẽ gây hại cho môi trường khi bị xử lý không
đúng cách.
Đối với môi trường đất: Rác thải điện tử có thể gây ô nhiễm môi trường đất
nếu được xử lý bằng phương pháp chôn lấp thông thường. Cách xử lý này vừa gây
tốn diện tích mặt bằng vừa để lại hậu quả lâu dài. Rác thải điện tử được chôn lấp
dưới đất có thể rò rỉ ra các chất độc như: chì, thủy ngân, cadmium… Những chất này
có thể tồn tại rất lâu trong môi trường đất, hơn thế nữa chúng còn ảnh hưởng tới
những loài thực vật, động vật sinh sống tại đó.
Đối với môi trường nước: Tại nhiều cơ sở xử lý rác thải điện tử sau khi đã thu
hồi được những thành phần mong muốn thì thường chất đống rác thải tại bất kì chỗ
trống nào, trong đó có cả khu vực ven các kênh, mương, thậm chí ven các con sông.
Qua thời gian, lượng rác thải này không được xử lý sẽ làm phát tán các chất độc hại
vào môi trường nước xung quanh và gây ô nhiễm. Ngoài ra, nhiều cơ sở xử lý rác
thải điện tử còn đổ trực tiếp rác thải điện tử hoặc nước thải phát sinh trong quá trình
xử lý vào những con kênh, mương hay các dòng sông. Việc làm này khiến môi

trường nước bị ô nhiễm nặng nề bởi những chất độc hại như: chì, thủy ngân,
cadmium…
Đối với môi trường không khí: Rác thải điện tử nếu được xử lý bằng phương
pháp đốt thông thường vừa tốn nhiên liệu lại vừa gây ô nhiễm không khí. Việc đốt
14 Minh Cường (2015), “Rác thải là tài nguyên quý giá (phần 3)”, địa chỉ: ngày truy cập:10/06/2016


19

rác thải điện tử có thể giải phóng ra những chất có thể phá hủy môi trường không
khí như CFC, HCFC… Những chất này tồn tại chủ yếu trong tủ lạnh, máy điều hòa
nhiệt độ có khả năng gây thủng tầng ôzôn, khiến cho Trái Đất ngày càng nóng lên.
Tác hại của những chất này đã được thế giới cảnh báo từ lâu, nhưng hiện nay vẫn
chưa loại bỏ được hoàn toàn sự tồn tại của chúng. Bên cạnh đó, sử dụng phương
pháp đốt còn khiến môi trường không khí phải tiếp nhận thêm lượng lớn khói, bụi là
những tác nhân góp phần làm môi trường không khí bị ô nhiễm.
Ngoài ra, lượng rác thải điện tử lớn được tập trung tại các khu vực xử lý bất
hợp pháp không được lưu trữ đúng quy chuẩn còn gây mất vệ sinh công cộng, làm
mất mỹ quan môi trường.
Việc môi trường bị ô nhiễm do rác thải điện tử gây ra không phải chỉ là những
giả thuyết của các nhà nghiên cứu nữa mà nó đã và đang diễn ra trên Trái Đất của
chúng ta, đặc biệt là những nơi tập trung nhiều rác thải điện tử. Điển hình, tại Ấn Độ
tình trạng ô nhiễm môi trường do rác thải điện tử đang diễn ra khá nặng nề ở một số
khu vực. Nghiên cứu mới nhất do Trung tâm khoa học và môi trường (CSE) của Ấn
Độ công bố hồi tháng 9-2015 cho thấy, tình hình tái chế chất thải điện tử ở
Moradabad đang ở mức báo động. Vì không có tiêu chuẩn để nghiên cứu ô nhiễm
kim loại nặng trong đất ở Ấn Độ, CSE so sánh kết quả với tiêu chuẩn của Canada và
Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ (USEPA). Theo đó, họ phát hiện rằng, nồng độ kẽm
ở Moradabad gấp hơn 15 lần so với 2 quốc gia trên. Hàm lượng đồng cao gấp 5 lần
trong 5 mẫu đất khác nhau thu thập gần sông Ramganga, một nhánh quan trọng của

sông Hằng. Hàm lượng thủy ngân và asen gấp từ 1,5 - 2 lần so với tiêu chuẩn ở
Canada, trong khi hai chất này đều có thể dẫn đến ngộ độc mãn tính, đặc biệt thủy
ngân là chất độc thần kinh nổi tiếng15.
Tại Việt Nam, tình trạng ô nhiễm môi trường do rác thải điện tử cũng đã bắt
đầu xuất hiện. Điển hình có thể nói tới làng Đông Mai (xã Chỉ Đạo, huyện Văn
Lâm, tỉnh Hưng Yên)- nơi nghề tái chế rác thải điện tử đã có từ hơn 30 năm nay. Tại
đây, người dân xử lý rác thải điện tử chủ yếu bằng những phương pháp thủ công, thô
sơ. Những hóa chất độc hại trong rác thải điện tử được xả ngay ra sân, rồi đổ trực
tiếp theo kênh mương ra cánh đồng. Hóa chất gây ô nhiễm ở khắp các kênh mương,
khiến nhiều diện tích của làng không cấy trồng được. Không chỉ nước, đất, mà
không khí ở Đông Mai cũng ô nhiễm trầm trọng. Nghiên cứu của Viện Y học lao
động và vệ sinh môi trường về mức độ ô nhiễm chì tại xã Chỉ Đạo cho thấy, mức ô
nhiễm chì trung bình trong không khí vượt tiêu chuẩn 3,47 lần. Có những thời điểm,
hàm lượng chì vượt ngưỡng hơn 10 lần cho phép. Các loại thực phẩm như rau, cá có
hàm lượng chì nhiễm vượt tiêu chuẩn là 4,61 lần 16.
Thứ hai, rác thải điện tử tác động tới vấn đề xung đột môi trường
15 Yên Vũ (2015), Thủ phủ tái chế rác thải điện tử lớn nhất Ấn Độ, An ninh thủ đô, địa chỉ: ngày truy cập: 01/08/2016.
16 Thu Trang- Phạm Hồng (2013), Khó khăn xử lý chất thải điện tử, Báo tin tức, địa chỉ: ngày truy cập: 01/08/2016


20

Lượng rác thải điện tử phát sinh ngày càng nhiều đang tạo ra một vấn đề xã hội
rất bức xúc, đó là xung đột môi trường. Có nhiều cách hiểu khác nhau về xung đột
môi trường, nhưng hầu hết đều thống nhất với nhau đó là sự xung đột về lợi ích giữa
các nhóm xã hội trong khai thác, sử dụng tài nguyên và môi trường17. Xung đột môi
trường là một điều tất yếu trong xã hội hiện nay khi mà vấn đề bảo vệ môi trường
sống và phát triển kinh tế chưa dung hòa được với nhau. Xung đột môi trường được
tạo ra bởi rác thải điện tử diễn ra trên các khía cạnh khác nhau:
Một là, xung đột môi trường xảy ra giữa các nước phát triển với các nước kém

phát triển hơn.
Các nước phát triển không muốn tái chế rác thải điện tử mà lại xuất khẩu ra
nước ngoài là vì vừa giảm chi phí xử lý vừa đỡ ô nhiễm môi trường. Theo cơ quan
môi trường Mỹ, việc xuất khẩu rác sang các nước đang phát triển sẽ giúp giảm 10
lần chi phí so với việc tái chế đúng quy cách tại các nước này. Mặc dù các nước
công nghiệp tích cực tái chế máy tính và đồ điện tử song từ 50 -80% lượng rác thu
gom này là xuất khẩu sang các nước nghèo18. Các nước đang phát triển với tốc độ
nhanh hiện nay như Trung Quốc, Ấn Độ… có nhu cầu sử dụng các thiết bị tin học
và điện tử công nghệ cao rất lớn. Sản xuất trong nước không đáp ứng được nhu cầu
của đông đảo người dân nên việc nhập khẩu rác thải điện tử là tất yếu. Rác thải điện
tử từ các nước công nghiệp được nhập vào các nước nghèo với giá rất rẻ và thông
qua nhiều con đường. Ngay cả khi đã có luật cấm nhập khẩu rác thải điện tử, các
nước nghèo vẫn rất khó khăn trong việc hạn chế lượng rác thải điện tử nguy hại vào
nước mình. Thêm vào đó, lượng rác thải điện tử với các linh kiện cũ kỹ bị thải hồi
không tận thu vào việc gì sẽ làm tăng chi phí xử lý tại các nước nghèo và cách giải
quyết phổ biến là chất đống và đổ chung ra bãi rác sinh hoạt hoặc đổ ra sông hồ.
Đây là cách giải quyết tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho cộng đồng, nếu như nó tránh
được việc gây ô nhiễm cho các nước phát triển thì với các nước nhập khẩu rác thải
điện tử lại bị ô nhiễm nặng nề.
Hai là, xung đột giữa nội bộ người dân tại các nước nghèo nơi rác thải điện tử
được chuyển đến (giữa một nhóm nhỏ kinh doanh rác điện tử với sức khỏe người
dân và sự lành mạnh của môi trường sống của số đông cộng đồng).
1.1.4.2. Tác động của rác thải điện tử tới sức khỏe con người
Các chất độc hại có trong rác thải điện tử có thể gây ra những căn bệnh nan y
cho con người, là mối đe dọa lớn với sức khỏe toàn nhân loại. Cụ thể: Chì tác động
đến hệ thần kinh, cơ quan tạo ra máu, ảnh hưởng đến sự phát triển trí nhớ của trẻ em
thường xuyên tiếp xúc với các thiết bị này; Thủy ngân tác động đến da và chức năng
sinh sản; Crom 6 gây bệnh lở loét, thậm chí là ung thư da; PBDE gây rối loạn
hormon (tương tự độc tính có trong chất độc màu da cam)19… Bên cạnh đó, còn rất
17 Trương Việt Trường (2011), “Rác thải điện tử - xung đột môi trường giữa các nước công nghiệp và các nước đang phát

triển”, Tạp chí môi trường số 8/2011.
18 Trương Việt Trường, tlđd chú thích 16.
19 Minh Cường (2015), tlđd chú thích 13.


21

nhiều chất khác có trong rác thải điện tử cũng có thể gây ảnh hưởng tới sức khỏe của
con người như: Brom, asen, cadmium… Ảnh hưởng của các chất này được nêu chi
tiết tại Bảng 05 phần Phụ lục.
Trước hết, các chất độc hại này gây ảnh hưởng tới những người trực tiếp tiếp
xúc khi xử lý rác thải điện tử, đặc biệt là những người sử dụng phương thức xử lý
thô sơ, thủ công. Với những người không trực tiếp xử lý nhưng sống trong khu vực
môi trường bị ô nhiễm bởi rác thải điện tử thì sức khỏe của họ cũng chịu tác động
không nhỏ. Môi trường đất, nước hay không khí bị ô nhiễm bởi rác thải điện tử sẽ
ảnh hưởng đến những loài thực vật, động vật sinh sống ở trong môi trường đó. Mà
những loài thực vật, động vật này lại là nguồn cung cấp thực phẩm cho con người.
Do đó, không chỉ sức khỏe của những người trực tiếp xử lý rác thải mà sức khỏe của
những người sống trong môi trường bị ô nhiễm bởi rác thải điện tử cũng chịu tác
động rất lớn.
Để thấy rõ hơn mức độ độc hại của rác thải điện tử đối với sức khỏe, chúng ta
cùng nhìn vào thực trạng đã và đang diễn ra tại Trung Quốc- nơi được coi là bãi rác
điện tử lớn nhất trên Thế giới hiện nay. Thành phố bé nhỏ Guiyu ở miền duyên hải
Đông Nam Trung Quốc hàng ngày tiếp nhận rác thải điện tử từ nhiều nơi trên thế
giới
để bóc tách lấy kim loại quý như vàng, bạc, đồng… Chỉ được trả có 8USD mỗi ngày
nhưng người dân nơi đây phải mang trong mình nhiều mầm bệnh chủ yếu là do các
chất độc hại gây ra. Một cuộc khảo sát năm 2003 của trường Y khoa thuộc Đại học
Shantou, Quảng Đông, ghi nhận 81,8% trẻ em ở Guiyu có hàm lượng chì trong máu
cao hơn mức cho phép. Năm 2007, cuộc khảo sát lại cho thấy tất cả trẻ em trong

làng có hàm lượng chì trong máu cao gấp đôi mức bình thường; mức độ sảy thai và
nhiễm chất dioxin gây ung thư của người dân nơi đây thuộc vào loại cao nhất thế
giới 20.
Tại Việt Nam, tác động của rác thải điện tử tới sức khỏe con người cũng đã
biểu hiện trên thực tế. Kết quả khảo sát năm 2012 của Viện Y học lao động và vệ
sinh môi trường (Bộ Y tế) tại làng Đông Mai thật sự đáng giật mình. Đoàn đã làm
xét nghiệm cho 109 bé, là con em những hộ dân trong thôn, mỗi gia đình một bé.
Theo đó, hàm lượng chì trong máu của 109 bé đều vượt ngưỡng giới hạn cho phép là
10Mg/dl. 24 bé sau đó được xét nghiệm lại máu tĩnh mạch, kết quả có 02 trường hợp
có hàm lượng chì máu ở mức nguy hiểm, 17 trường hợp ở mức báo động, 04 trường
hợp ở mức cao và 01 trường hợp ở mức ranh giới 21.
Quá trình rác thải điện tử tác động tới môi trường và sức khỏe con người được
khái quát qua sơ đồ dưới đây:
20 Huỳnh Hoa (2008), “Rác thải điện tử: Liên Hiệp Quốc nhập cuộc”, Kinh tế Sài Gòn online, địa chỉ:
ngày truy cập: 10/06/2016.
21 Thu Trang- Phạm Hồng, tlđd chú thích 15.


22

Sơ đồ: Quá trình tác động của các chất độc trong rác thải điện tử tới môi
trường, con người
Nguồn: Hoàng Xuân Bảo (2012), Đánh giá thực trạng và tiềm năng tái chế chất thải
điện tử trên địa bàn thành phố Hải Phòng, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Khoa học

Mưa
Các chất
độc

Nhiệt độ

Đổ bỏ,
chôn lấp

Rác thải
điện tử

Đốt

Khí độc

quốc
gia Hà Nội.
Ô nhiễm đất, nước,tự nhiên – Đại học
Con
người
Ô nhiễm không khí
thực phẩm
Qua những
phân tích trên chúng ta có thể thấy rác thải điện tử đem lại rất nhiều
mối nguy hại tiềm ẩn. Do đó, việc có một hệ thống quản lý cũng như xử lý rác thải
điện tử tốt, đúng cách là một yêu cầu vô cùng cấp bách với toàn thế giới.
1.1.5. Vai trò của việc xử lý rác thải điện tử
Quan niệm xưa cũ cho rằng rác thải là thứ không có giá trị, phải loại bỏ cho
nên chúng vẫn bị coi là gánh nặng của xã hội. Tuy nhiên quan niệm này hiện nay đã
không còn đúng hoàn toàn. Rác thải hiện nay không chỉ là những thứ bỏ đi mà nó
được coi như là nguồn “tài nguyên” vì quản lý và xử lý rác thải mở ra các cơ hội
kinh tế đem lại nguồn thu tài chính và tạo ra các việc làm “xanh”. Rác thải điện tử
không phải là ngoại lệ.“Trên toàn cầu, rác thải điện tử tạo thành một "mỏ thành thị"
có giá trị, một kho vật liệu tái chế đầy tiềm năng. Đồng thời, hàm lượng rác thải
điện tử nguy hiểm cũng tạo ra một "mỏ chất độc" cần được quản lý cực kỳ cẩn

thận”, Phó Tổng thư ký Liên Hợp Quốc David Malone đã nói. Quả đúng như vậy,
bên cạnh những tác động tiêu cực thì rác thải điện tử còn đem lại rất nhiều lợi ích
nếu được xử lý đúng cách, bao gồm lợi ích về kinh tế, môi trường, con người và cả
xã hội, cụ thể:
1.1.5.1. Lợi ích về kinh tế
Người ta có thể xử lý rác thải điện tử bằng nhiều cách như: tân trang tái sử
dụng; tái chế thu hồi vật liệu; thiêu đốt, chôn lấp... Nhờ tái chế, thu hồi các vật liệu
có giá trị (như vàng, bạc, platinum, đồng, nhôm, kẽm) rác thải điện tử đã trở thành
nguồn lợi lớn, đó là một “mỏ vàng” theo đúng nghĩa đen. Đây chính là nguồn “tài
nguyên” để các doanh nghiệp khai thác.


23

Với lượng rác thải điện tử năm 2014, toàn cầu có thể thu hồi khoảng 300 tấn
vàng, tương đương 11% số vàng thế giới khai thác từ mỏ năm 2013; 1.000 tấn bạc;
220 ngàn tấn nhôm… tổng giá trị thu hồi ước tính đạt 48 tỷ Euros22. Qua những con
số này có thể thấy rác thải điện tử đem lại lợi ích kinh tế rất lớn. Tuy nhiên để khai
thác tối đa nguồn “tài nguyên” này, cần có các chính sách, kèm theo công nghệ và
năng lực của công nghiệp tái chế.
Việc thu hồi những kim loại quý hiếm từ rác thải điện tử không chỉ đem lại
những giá trị kinh tế trước mắt mà nó còn có giá trị lâu dài. Những kim loại quý và
hiếm này vốn rất cần cho nhu cầu phát triển các ngành công nghệ cao, trong đó có
công nghiệp điện tử. Các doanh nghiệp có thể tận dụng nguồn tài nguyên thứ cấp
này để khắc phục tình trạng thiếu, khan hiếm nguyên liệu sản xuất. Điều này càng
quý giá hơn với những doanh nghiệp ở các quốc gia nghèo tài nguyên. Nắm bắt
được cơ hội này sẽ giúp ngành công nghiệp điện tử trên thế giới phát triển mạnh hơn
nữa, thu về lợi ích kinh tế không hề nhỏ.
Lượng rác thải điện tử trên thế giới ngày càng gia tăng cũng đồng nghĩa với
lượng “tài nguyên” chờ khai thác trong rác thải điện tử cũng tăng lên. Đây là cơ hội

cần tận dụng để thúc đẩy sự phát triển ngành công nghiệp điện tử nói riêng, kinh tế
thế giới nói chung.
1.1.5.2. Lợi ích về môi trường
Việc xử lý rác thải đúng cách có thể mang lại những giá trị lớn cho bảo vệ môi
trường, điều này thể hiện qua những khía cạnh dưới đây:
Thứ nhất, nếu rác thải điện tử được xử lý đúng cách thì sẽ phòng ngừa, ngăn
chặn, hạn chế được tình trạng ô nhiễm môi trường do rác thải điện tử
Như chúng ta đã biết việc xử lý rác thải điện tử một cách thủ công, manh mún
như thực trạng đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới hiện nay sẽ tác động rất lớn tới
môi trường theo chiều hướng tiêu cực. Nếu xây dựng được những cơ sở xử lý với
công nghệ tiên tiến, thân thiện môi trường thì các chất độc hại có trong rác thải điện
tử sẽ không có cách nào xâm nhập vào môi trường, gây ra những tác động xấu nữa.
Thứ hai, khi có thể tận dụng được nguồn tài nguyên thứ cấp từ rác thải điện tử
tức là sẽ hạn chế được việc khai thác tài nguyên mới để phục vụ việc sản xuất các
thiết bị điện tử, góp phần bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Để khai thác được các kim loại quý (vàng, bạc, paltium, đồng…) phục vụ cho
việc sản xuất thiết bị điện tử thì cần phải đào, thiết kế hầm lò ở độ sâu hàng nghìn
mét; phải phá ủi cả một quả núi hay sàng lọc, đãi cát cực kì vất vả. Những hoạt động
này dần làm hao mòn tài nguyên thiên nhiên, dẫn tới suy giảm chức năng môi
trường. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta hoàn toàn có thể hạn chế các hoạt động này
bằng việc tận thu những “nguyên liệu” có trong rác thải điện tử để phục vụ trở lại
quá trình sản xuất thiết bị điện tử mới. Nhờ đó, sức ép từ việc khai thác tài nguyên
thiên nhiên phục vụ sản xuất sẽ giảm, góp phần bảo tồn tài nguyên thiên nhiên đồng
22 Anh Tùng, tlđd chú thích 7, tr 11.


24

thời bảo vệ môi trường khỏi những tác động xấu từ việc khai thác tài nguyên thiên
nhiên.

Theo Tập đoàn Umicore- Mỹ chuyên về xử lý rác thải điện tử thì cứ 1 tấn bo
mạch chủ của máy tính, họ tách được 250gr vàng; trong khi đó để khai thác 5gr vàng
tại một mỏ có hàm lượng cao như mỏ Kalgold ở Nam Phi, cần phải đào bới, vận
chuyển, sàng lọc 1 tấn đất, đá; hoặc với 1 triệu chiếc điện thoại di động, họ thu hồi
được 24kg vàng, 250kg bạc, 9kg palladium cùng hơn 9 tấn đồng bằng công nghệ
tiên tiến, thích hợp và an toàn cho cả con người lẫn môi trường23. Những số liệu
thực tế này cho ta thấy việc tận dụng nguồn tài nguyên thứ cấp từ rác thải điện tử có
thể tiết kiệm được kinh phí, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên hơn gấp nhiều lần so
với việc khai thác nguồn tài nguyên mới. Bởi vậy, không xử lý rác thải điện tử đồng
nghĩa với việc lãng phí nguồn “tài nguyên” cực lớn.
1.1.5.3. Lợi ích về sức khỏe con người và xã hội
Việc xử lý rác thải điện tử đúng cách sẽ hạn chế tối đa tác động của những chất
độc hại tới sức khỏe của con người. Thay vì xâm nhập vào cơ thể con người các chất
độc này sẽ được xử lý triệt để nhất. Đặc biệt với những người lao động trực tiếp tiếp
xúc với rác thải điện tử thì sức khỏe sẽ được đảm bảo ở mức cao hơn so với việc xử
lý thủ công. Khi thiết lập được một quy trình xử lý tốt họ sẽ được trang bị những đồ
bảo hộ cần thiết để tránh sự xâm nhập của các chất độc hại có trong rác thải điện tử.
Xét về phương diện xã hội, khi hoạt động xử lý rác thải điện tử phát triển sẽ tạo
ra việc làm cho nhiều người lao động hơn, đặc biệt là trong xu hướng rác thải điện tử
không ngừng gia tăng trên thế giới. Như vậy, hoạt động xử lý rác thải điện tử sẽ góp
phần vào việc giải quyết vấn đề việc làm cho xã hội, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp trên
thế giới, từ đó góp phần làm giảm các tệ nạn xã hội sinh ra do tình trạng thất nghiệp.
Quan trọng hơn, đây được coi là những việc làm “xanh” bởi lẽ nó không chỉ tạo ra
lợi ích kinh tế mà nó còn giúp bảo vệ môi trường.
Quả thực những lợi ích mà việc xử lý rác thải điện tử đúng cách mang lại là
không hề nhỏ, đó là lý do vì sao việc khắc phục tác hại và khai thác triệt để lợi ích từ
rác thải điện tử là hướng đi mà cả thế giới đang nhắm đến. Kinh tế, xã hội và môi
trường là ba nhân tố quan trọng của việc phát triển bền vững, con đường mà cả thế
giới đang hướng đến. Vì thế, với những lợi ích đồng thời về kinh tế, xã hội và môi
trường mà hoạt động xử lý rác thải điện tử có thể đem lại đã, đang và sẽ là đòi hỏi

tất yếu khách quan cho tiến trình phát triển bền vững của toàn thế giới nói chung,
của Việt Nam nói riêng.
1.2.

Những vấn đề chung của pháp luật về xử lý rác thải điện tử
1.2.1. Khái niệm pháp luật về xử lý rác thải điện tử

23 Vũ Cao (2014), “Tìm vàng trong máy tính-hiểm họa khó lường”, An ninh thế giới online, địa chỉ:
ngày truy cập: 10/06/2016


25

Khái niệm xử lý rác thải điện tử

Xử lý chất thải được pháp luật hiện hành ghi nhận là một giai đoạn trong quá
trình quản lý chất thải: “quản lý chất thải là quá trình phòng ngừa, giảm thiểu, giám
sát, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải” (Khoản
15 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2014).
Khái niệm xử lý chất thải được ghi nhận cụ thể tại khoản 16 Điều 3 Nghị định
số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 04 năm 2015 về quản lý chất thải và phế liệu như
sau: “Xử lý chất thải là quá trình sử dụng các giải pháp công nghệ, kỹ thuật (khác
với sơ chế) để làm giảm, loại bỏ, cô lập, cách ly, thiêu đốt, tiêu hủy, chôn lấp chất
thải và các yếu tố có hại trong chất thải”. Như vậy, hoạt động xử lý chất thải có
những đặc điểm dưới đây:
Thứ nhất, xử lý chất thải là giai đoạn cuối cùng trong khâu quản lý chất thải, độc
lập với hoạt động tái sử dụng, tái chế.
Thứ hai, xử lý chất thải là một “quá trình”, tức là xử lý chất thải không phải là
một hành động đơn lẻ mà nó bao gồm nhiều hoạt động khác nhau để thiết lập nên
một chu trình khép kín.

Thứ ba, các phương thức được sử dụng để xử lý chất thải rất đa dạng, có thể kể
đến như: thiêu đốt, tiêu hủy, chôn lấp rác thải điện tử.
Thứ tư, mục đích của việc xử lý chất thải là làm giảm, loại bỏ, cô lập, cách ly
những yếu tố độc hại có trong chất thải nhằm đảm bảo an toàn cho môi trường và
con người.
Dựa trên khái niệm về xử lý chất thải như trên, có thể hiểu xử lý rác thải điện tử
như sau: “Xử lý rác thải điện tử là quá trình sử dụng các giải pháp công nghệ, kỹ
thuật (khác với sơ chế) để làm giảm, loại bỏ, cô lập, cách ly, thiêu đốt, tiêu hủy,
chôn lấp rác thải điện tử và các yếu tố có hại trong rác thải điện tử”.
Khái niệm pháp luật về xử lý rác thải điện tử

Pháp luật về xử lý rác thải điện tử là một bộ phận của pháp luật môi trường, nó
có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, pháp luật về xử lý rác thải điện tử điều chỉnh các mối quan hệ
phát sinh trong quá trình tiến hành hoạt động xử lý rác thải điện tử
Các mối quan hệ phát sinh trong quá trình tiến hành hoạt động xử lý rác thải
điện tử được chia thành hai nhóm sau đây:
Nhóm thứ nhất gồm các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình tiến
hành hoạt động xử lý rác thải điện tử. Các chủ thể này gồm: nhà sản xuất; đơn vị xử
lý chất thải; người tiêu dùng. Xem xét dưới góc độ quản lý Nhà nước về xử lý rác
thải điện tử thì đây là nhóm chủ thể bị quản lý bởi lẽ các hoạt động phát sinh trong
quá trình xử lý rác thải điện tử của các chủ thể này có thể dẫn đến hậu quả ô nhiễm
môi trường, ảnh hưởng đến con người, xã hội.
Nhóm thứ hai gồm các quan hệ phát sinh trong hoạt động quản lý nhà nước về
xử lý rác thải điện tử. Đặc trưng của nhóm quan hệ này là một hoặc các bên trong


×