Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Sự tham gia của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự so sánh pháp luật của nước cộng hoà XHCN việt nam với pháp luật của nước cộng hoà DCND lào (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.38 KB, 87 trang )

1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bộ máy nhà nước của Việt Nam cũng như Lào, Viện Kiểm sát đều là cơ
quan tư pháp rất quan trọng. Viện Kiểm sát của hai nước đã góp phần quan trọng vào việc
bảo vệ chính quyền nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế xã hội chủ nghĩa
và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính
mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân tại nước mình. Việc nghiên cứu
về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam nhằm tiếp thu, kế thừa những ưu
điểm, thành công trong quá trình xây dựng pháp luật TTDS về sự tham gia của Viện kiểm
sát nhân dân (VKSND) của Việt Nam đồng thời nhận thức những hạn chế, vướng mắc ở
Việt Nam trong quá trình xây dựng pháp luật. Trên cơ sở nghiên cứu so sánh, có thể rút
ra những bài học, kinh nghiệm trong quá trình xây dựng, hoàn thiện những quy định của
pháp luật TTDS về sự tham gia của VKSND ở Lào.
Việc nghiên cứu về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
có ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mà cả hai nước Lào và Việt Nam đều tiến
hành cải cách tư pháp, hoàn thiện pháp luật để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Sự
tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự đang giữ một vị trí quan trọng
trong quá trình sửa đổi BLTTDS của cả Lào và Việt Nam. Bước sang thế kỷ XXI, tiến
trình cải cách tổ chức và hoạt động của VKSND trong lĩnh vực dân sự đã được tiến hành
ngày càng sâu rộng. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng trong tố
tụng dân sự, xét cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Vì vậy, những quy định về sự
tham gia của VKSND trong tố tụng dân sự cần được nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn
diện, đảm bảo phù hợp với lý luận và thực tiễn.
Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ban hành Nghị
quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 trong đó xác định rõ: "Xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo đảm thực hiện tốt
nhiệm vụ, quyền hạn công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nghiên cứu hướng tới chuyển
thành Viện công tố". Tiếp đó, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị nước Cộng hoà XHCN Việt




2

Nam ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW và tiếp tục khẳng định: Trước mắt, Viện kiểm
sát nhân dân giữ nguyên nhiệm vụ, quyền hạn như hiện nay là thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ
thống tổ chức của Tòa án.
Như vậy, ở Việt Nam, các Nghị quyết trên đã chỉ rõ nhiều nội dung cụ thể về cải
cách tư pháp đòi hỏi phải được thể chế hóa, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát (VKS) nói chung cũng như vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS nói riêng trong tố tụng dân sự.
Ở Lào, sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong TTDS cũng được Đảng và
Nhà nước Lào quan tâm. Ngày 10 tháng 12 năm 2000, Bộ Chính trị nước Cộng hoà
DCND Lào tại nghị quyết số 03/NQ-TW khoá VI đã có chỉ đạo: “Cải cách thể chế tư
pháp theo chiều sâu, … bảo đảm cơ quan xét xử, viện kiểm sát thực thi quyền xét xử và
quyền kiểm sát của mình một cách công bằng và tuân theo pháp luật”. Tiếp đó, Nghị
quyết số 12/NQ-TW ngày 16/11/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của
công tác tư pháp chỉ đạo cụ thể: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp....Nâng
cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng với luật sư,
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác”.
Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ X ngày 7/4/2011 đã nhấn mạnh việc hoàn thiện
pháp luật dân sự và tố tụng dân sự “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phục vụ sự
giàu mạnh và phồn vinh của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào”. Nghị quyết này là
nền tảng quan trọng để định hướng quá trình đổi mới công tác lập pháp và chương trình
cải cách hành chính đang diễn ra trên đất nước Lào. Nghị quyết này cũng đề cập tới việc
xây dựng nền tư pháp trong sạch, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động tố
tụng nói chung và xét xử nói riêng của ngành tư pháp, trong đó VKSND có trách nhiệm

thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong
sạch, vững mạnh và bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp bổ sung và hoàn thiện
các chính sách về tố tụng hình sự, tố tụng dân sự trong cả nước.


3

Ngoài ra, trong Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ X, Đảng
cũng nêu rõ “Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp như hiện nay” , “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều
tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” ; “nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên
tòa xét xử”.
Thực tiễn thi hành BLTTDS Lào năm 2012 cho thấy quy định của Bộ luật này về
sự tham gia của VKS trong tố tụng dân sự đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa tạo
điều kiện cho VKS thực hiện được đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, nhiệm vụ của mình theo
quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức VKSND của Lào. Việt Nam và Lào là hai nước
xã hội chủ nghĩa anh em, có đa dân tộc, điều kiện kinh tế xã hội có nhiều điểm tương
đồng. Tuy nhiên, nền kinh tế và pháp luật Việt Nam có những bước chuyển nhanh trong
bối cảnh hội nhập. Việt Nam là nước có nền khoa học pháp lý tiên tiến, đặc biệt trong quá
trình cải cách tư pháp đã ban hành BLTTDS năm 2015 có những quy định về sự tham gia
của VKSND trong TTDS với nhiều ưu điểm tiến bộ hơn BLTTDS Lào năm 2012. Do
vậy, việc nghiên cứu tham khảo việc xây dựng các quy định về sự tham gia của VKS
trong tố tụng dân sự ở Việt Nam nhằm rút kinh nghiệm cho việc hoàn thiện BLTTDS
năm 2012 của Lào là cần thiết.
Từ những lý do đã nêu trên, cho thấy việc lựa chọn đề tài “Sự tham gia của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự - So sánh pháp luật của nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam với pháp luật của nước Cộng hoà DCND Lào” làm đề tài nghiên cứu luận văn
thạc sỹ luật học là hết sức cần thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn, nhằm đáp ứng
tốt hơn yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự của
Nhà nước Việt Nam và Lào trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự là một vấn đề rộng
và luôn là vấn đề mang tính thời sự. Tuy nhiên, vấn đề này mới chỉ được đề cập đến trong
một số ít công trình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam và Lào mà chủ yếu là các bài viết
trên các Tạp chí thí dụ như:
"Đổi mới vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yê cầu cải cách
tư pháp" của tác giả Nguyễn Minh Hằng, sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Tư pháp, năm


4

2008; "Hoàn thiện chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ luật Tố tụng dân sự", Đề tài
khoa học cấp Bộ của tiến sĩ Trần Văn Trung, năm 2003; Luận án tiến sĩ "Quá trình hình
thành, phát triển và đổi mới Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt
Nam", của tác giả Trần Văn Nam, năm 2010; Luận văn thạc sĩ luật học "Cơ sở lý luận và
thực tiễn đổi mới tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở
Việt Nam" của tác giả Hoàng Thế Anh, năm 2006; Luận văn thạc sĩ luật học "Sự tham gia
tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam" của tác giả Võ Thị
Phượng, năm 2010; "Nhận thức đúng thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân
dân trong Bộ luật Tố tụng dân sự" của tác giả Khuất Văn Nga, đăng trên Tạp chí Kiểm
sát, số 09 năm 2004... Ngoài ra, còn có Luận văn thạc sĩ luật học của Somsaone Sosavit
năm 2005: “Pháp luật về nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong TTDS
- Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” – Trường Đại học Quốc Gia Lào; Luận văn thạc sĩ
của Phon Sa Đy Saiser: “Hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
nhân dân trong hoạt động tố tụng dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” – Khoa
Luật Học viện an ninh nhân dân Lào. Gần đây có một số đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước
đáng chú ý như “Hoàn thiện cơ chế kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân và quốc hội
trước yêu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoạn từ 2015-2020” năm 2015 của Kitisiak
Boulom, Phalouda Sengsouda- Bộ Tư pháp Lào; “Hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự – một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, năm 2016, của

Symaiteng Phalouk, Tạp chí kiểm sát – VKSNDTC ngày 23 tháng 06 năm 2016. Tuy
nhiên, chưa có công trình so sánh pháp luật của các nhà khoa học hai nước Việt Nam và
Lào về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự hai nước.
Các nghiên cứu và các ý kiến nêu trên chưa nhiều nhưng đã có những cách tiếp
cận dưới các góc độ khác nhau, có những giá trị khoa học nhất định, là nguồn tài liệu
tham khảo cho việc xây dựng các nội dung về sự tham gia của VKSND trong tố tụng dân
sự. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu này đề cập đến những vấn đề riêng biệt về sự
tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân ở Lào hoặc Việt Nam, chưa có công
trình nào nghiên cứu dưới góc độ so sánh về sự tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát
nhân dân ở Lào và Việt Nam, đặc biệt là nghiên cứu so sánh với BLTTDS năm 2015 của
Việt Nam vừa có hiệu lực từ 1/7/2016.


5

3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về sự tham gia của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự, các quy định của pháp luật về sự tham gia của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự của Lào và Việt Nam. Do thời gian có hạn
và trong khuôn khổ của một Luận văn thạc sỹ luật học nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu
về thực tiễn thi hành các quy định về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự tại Lào làm cơ sở cho đề xuất, kiến nghị về hoàn thiện pháp luật của Lào.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn sử dụng phương pháp luận biện chứng duy
vật và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, diễn giải, chứng minh, đối
chiếu, so sánh pháp luật, quy nạp, hệ thống hóa. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã cố
gắng kết hợp giữa các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành để làm sáng tỏ những vấn
đề nghiên cứu cũng như đề xuất kiến nghị.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đưa ra phương hướng và những giải pháp

cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự ở CHDCND Lào.
- Từ mục đích nghiên cứu như trên, có thể xác định những nhiệm vụ chính của
việc nghiên cứu đề tài như sau:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự của Cộng hòa DCND Lào và Việt Nam;
+ Nghiên cứu và so sánh các quy định pháp luật hiện hành của Lào và Việt Nam
về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự;
+ Đưa ra những nguyên tắc, phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện
pháp luật về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự ở Cộng hòa
DCND Lào.
6. Những đóng góp mới của Luận văn
- Luận văn đã hệ thống hóa được những vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm, đặc
điểm, ý nghĩa, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát trong tổ tụng dân sự ở Lào và ở
Việt Nam;


6

- Luận văn đã nghiên cứu và so sánh một cách đầy đủ, có hệ thống các quy định
pháp luật hiện hành của Lào và Việt Nam về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự;
- Luận văn đã trình bày được những nguyên tắc, phương hướng và các giải pháp
cụ thể, thiết thực, có tính khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật về sự tham gia của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng dân sự ở Cộng hòa DCND Lào.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân
sự ở Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh.

Chương 2: So sánh quy định hiện hành của pháp luật Lào và Việt Nam về sự tham
gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật Lào về sự tham gia của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự và kiến nghị trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của Việt
Nam.


7

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ SỰ THAM GIA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ Ở LÀO VÀ VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa về sự tham gia tố tụng dân sự của Viện
kiểm sát nhân dân ở Lào và Việt Nam
1.1.1. Khái niệm về sự tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân ở Lào
và Việt Nam
Theo từ điển Tiếng Việt, “tham gia” là góp phần hoạt động của mình vào một hoạt
động chung nào đó1, còn từ điển Luật học định nghĩa, tố tụng dân sự là trình tự hoạt động
do pháp luật quy định cho việc xem xét, giải quyết vụ án dân sự và thi hành án dân sự.
Mục đích của TTDS là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và
lợi ích của Nhà nước2. Tố tụng dân sự bao gồm: khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải
quyết việc dân sự, thụ lý việc dân sự; giải quyết vụ việc dân sự theo trình tự sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và thi hành án dân sự. Ở Việt Nam, hiện nay, có hai
quan điểm khác nhau về tố tụng dân sự. Quan điểm thứ nhất cho rằng, tố tụng dân sự, bao
gồm toàn bộ trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự. Quan điểm
khác cho rằng, tố tụng dân sự chỉ bao gồm trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự tại
Tòa án3.
Ở Lào, cũng có nhiều ý kiến cho rằng thi hành án là một giai đoạn tố tụng độc lập,
là giai đoạn tố tụng tiếp theo sau giai đoạn xét xử: "Có xét xử thì phải có thi hành án, thi
hành án dựa trên cơ sở của của công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống

nhất của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự"4 hay “Thi hành án thực chất là hoạt động
tố tụng của Tòa án, của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm bảo đảm cho bản án và

1 Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh năm 2010.
2 Từ điển Luật học (2006), Nxb tư pháp, Hà Nội.
3Xem: Nguyễn Công Bình, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb CAND 2014, tr. 10; Công trình nghiên cứu cấp nhà
nớc “Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn
mới” do Viện nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ tư pháp chủ trì thực hiện năm 2003, tr. 13; Công trình nghiên
cứu cấp bộ “Những quan điểm cơ bản về Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam” do Viện nhà nước và pháp luật của
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia chủ trì thực hiện năm 2001, tr. 63.
4 Boun Thavy Inmedy (2003), Chế định về sự tham gia tố tụng của VKSND –Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb.Quốc gia, Viêng Chăn, tr. 65.


8

quyết định của Tòa án được thi hành một cách chính xác, kịp thời”5. Tuy nhiên, theo tác
giả, về bản chất, thi hành án không phải là một giai đoạn tố tụng, mang tính tư pháp, mà
là một giai đoạn mang tính hành chính tư pháp. Bởi thi hành án có mục đích khác với
mục đích của tố tụng. Tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra để trên
cơ sở đó đưa ra cách giải quyết vụ việc theo đúng các quy định của pháp luật. Với mục
đích đó, toàn bộ quá trình tố tụng diễn ra theo quy trình hết sức chặt chẽ và phải bảo đảm
các nguyên tắc như bình đẳng, công khai, dân chủ, tôn trọng quyền và lợi ích của người
tham gia tố tụng... và khi có phán quyết của Tòa án thì quá trình tố tụng kết thúc. Trong
khi đó, thi hành án là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án và
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật6. Khác với trong thủ tục tố tụng, mối quan
hệ giữa các chủ thể trong hoạt động thi hành án là tổ chức thi hành, có tính hành chính,
mệnh lệnh liên quan.
Sự tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân gồm hai nội dung chính là
quyền hành động và quyền quyết định. Quyền hành động là quyền được làm những công

việc nhất định; quyền quyết định là quyền giải quyết công việc đó trong phạm vi pháp
luật cho phép. Hiến pháp năm 2013, BLTTDS năm 2015 của Việt Nam đã khẳng định
VKSND là cơ quan chịu trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân
sự. Các hoạt động tố tụng dân sự của những người tiến hành tố tụng dân sự và những
người tham gia tố tụng dân sự là đối tượng kiểm sát của VKSND. Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng dân sự là giám sát, kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ đối
với hành vi của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng, đối với văn bản áp dụng pháp
luật giải quyết vụ việc dân sự của chủ thể tiến hành tố tụng và đó là hình thức thực hiện
quyền lực nhà nước, một trong những hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động
tư pháp của VKSND. Ở Lào Điều 62, BLTTDS Lào năm 2012 quy định: “VKSND tham
gia tố tụng dân sự để theo dõi, kiểm tra việc áp dụng pháp luật tại Tòa án và hoạt động
như một nguyên đơn trong vụ án dân sự theo quy định của pháp luật trong việc đảm bảo
tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng được diễn ra đầy đủ, khách quan, chính xác”.
5 Boun Thavy Lee (2005), Thủ tục tham gia phiên toà của VKSND theo quy định pháp luật hiện hành Nxb.Quốc gia,
Viêng Chăn, tr. 20.
6 Cha Khăm Bupha Livan (2005), Thẩm quyền tham gia TTDS của VKSND theo pháp luật TTDS Lào hiện hành.
Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Quốc gia Lào, tr.17.


9

Như vậy, mục đích của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự ở
hai nước Việt Nam và Lào về cơ bản là giống nhau đều là nhằm bảo đảm cho các hành vi
xử sự của các chủ thể tiến hành, tham gia tố tụng và văn bản áp dụng pháp luật giải quyết
vụ việc dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật. Nội dung hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự là việc VKSND sử dụng các biện pháp,
quyền năng pháp lý do BLTTDS quy định để kịp thời phát hiện và loại bỏ vi phạm, tiêu
cực của cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng, nhằm bảo
đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ lợi ích nhà nước,
lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ

bản là BLTTDS Lào quy định VKS hoạt động như một nguyên đơn trong vụ án dân sự
theo quy định của pháp luật trong việc đảm bảo tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng
được diễn ra đầy đủ, khách quan, chính xác.
Để có thể sử dụng được các biện pháp, quyền năng pháp lý quy định trong
BLTTDS, Nhà nước trao cho VKSND những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định. Do vậy, để
làm rõ hơn khái niệm về sự tham gia của VKSND trong tố tụng dân sự ta phải làm rõ hai
khái niệm là quyền hạn và nhiệm vụ:
Nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng dân sự là những yêu cầu cụ thể do Nhà nước
đặt ra và được quy định trong Hiến pháp, Luật Tổ chức VKSND, BLTTDS và các văn
bản pháp luật khác mà VKSND phải thực hiện bằng những hình thức, biện pháp nhất
định trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, cụ thể là:
- Bảo đảm việc giải quyết các vụ án dân sự ở Tòa án các cấp nhanh chóng, khách
quan, toàn diện, đầy đủ và kịp thời.
- Bảo đảm mọi bản án, quyết định dân sự của Tòa án có căn cứ và đúng pháp luật.
- Bảo đảm mọi bản án, quyết định dân sự của của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
được đưa ra thi hành đúng pháp luật, kịp thời.
Như vậy, nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng dân sự là những công việc cụ thể do
pháp luật quy định đối với VKSND trong các giai đoạn khác nhau của quá trình tố tụng
các vụ việc dân sự (từ khi Tòa án thụ lý, chuẩn bị xét xử đến phiên tòa, phiên họp giải
quyết vụ việc dân sự) nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và những người
tham gia tố tụng.


10

Còn về khái niệm "quyền hạn" được hiểu là quyền theo cương vị, chức vụ cho
phép7. Dưới góc độ pháp lý, quyền hạn của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được xác
định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp và chức vụ, vị trí công tác và trong
phạm vi không gian, thời gian nhất định theo quy định của pháp luật8.
Quyền hạn thường gắn chủ thể với một cương vị, tư cách cụ thể. Trong khoa học

pháp lý, quyền hạn được gắn liền với cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước hoặc của
người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Quyền hạn của cơ quan, tổ chức là quyền
quyết định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức. Quyền
hạn của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức là quyền quyết định giải quyết công
việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Đối với quyền của chủ thể khi
tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự xuất phát từ sự thỏa thuận hoặc do pháp luật quy
định.
Quyền hạn và nhiệm vụ là hai khái niệm khác nhau, song lại có mối liên hệ chặt
chẽ. Nhiệm vụ của VKS là việc phải thực hiện các chức năng tố tụng mà BLTTDS quy
định, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ thì tùy theo tính chất và
mức độ giải quyết vụ việc dân sự sẽ không chính xác. Nhiệm vụ của VKS trong tố tụng
dân sự được xác định bắt buộc trong những trường hợp quy định tại Điều 21 BLTTDS
năm 2015 của Việt Nam. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình pháp luật cần trao cho VKS
những quyền hạn đầy đủ.
Tuy nhiên, khái niệm quyền hạn và nhiệm vụ đặt trong một điều kiện với một chủ
thể xác định thì quyền hạn và nhiệm vụ là tương đối thống nhất. Pháp luật quy định
nhiệm vụ của VKS phải thực hiện những công việc gì, đồng nghĩa là pháp luật trao cho
VKS những quyền hạn để thực hiện nhiệm vụ đó. Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS nói
chung được quy định trong Luật tổ chức VKS. Còn trong tố tụng dân sự, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự.
Như vậy, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự là quyền quyết định
thực hiện các hoạt động tố tụng (từ khi Tòa án thụ lý, chuẩn bị xét xử đến phiên tòa giải
7 Xoom Khay Xikha Chay (2010), Hoàn thiện pháp luật tổ chức VKSND Lào trong quá trình cải cách tư pháp hiện
nay, Nxb.Tư pháp, tr.47.
8 Xoom Khay Xikha Chay (2010), Hoàn thiện pháp luật tổ chức VKSND Lào trong quá trình cải cách tư pháp hiện
nay, Nxb.Tư pháp, tr. 56.


11


quyết vụ việc dân sự) nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và những người
tham gia tố tụng.
Ở Lào cũng như Việt Nam, khái niệm sự tham gia của viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự chưa được quy định trong BLTTDS. Dưới góc độ lý luận, ở Lào
đang tồn tại nhiều quan điểm về sự tham gia của VKSND nhưng tựu chung lại có hai
quan điểm chính về sự tham gia của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Theo
đó, sự tham gia của VKSND trong TTDS được hiểu là “việc thực hiện quyền hạn và
nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân theo thủ tục pháp lý nhằm kiểm sát các hoạt động
tố tụng của toà án, cơ quan thi hành án dân sự nhằm bảo đảm cho việc giải quyết các vụ
việc dân sự và thi hành án dân sự chính xác, kịp thời, đúng pháp luật”9; hay là “hoạt động
kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân đối với cơ quan tiến hành tố tụng dân sự và người
tiến hành tố tụng dân sự nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án dân sự được tiến hành
theo quy định của pháp luật”10. Tuy nhiên, những khái niệm này chưa khái quát đầy đủ
quyền hạn và nhiệm vụ của VKSND.
Từ những phân tích trên đây có thể đưa ra khái niệm về sự tham gia của VKSND
trong tố tụng dân sự như sau:
Sự tham gia của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự là hoạt động thực
hiện quyền hạn và nhiệm vụ của viện kiểm sát trong việc thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tố tụng (từ khi Toà án thụ lý, chuẩn bị xét xử đến phiên toà, phiên họp giải
quyết vụ việc dân sự) nhằm bảo đảm việc tuân theo pháp luật của Toà án và những người
tham gia tố tụng.
1.1.2. Đặc điểm về sự tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân ở Lào
và Việt Nam
Thứ nhất, sự tham gia của VKSND ở Lào và Việt Nam do pháp luật quy định:
Sự tham gia của VKSND ở Lào và Việt Nam do pháp luật quy định, VKSND
không thực hiện những hoạt động ngoài nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Đây
chính là nội dung trong nguyên tắc pháp chế - nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và
9 Symaiteng Phalouk (2016), “Hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự – một số vấn đề
lý luận và thực tiễn”, Tạp chí kiểm sát – VKSNDTC ngày 23 tháng 06 năm 2016, tr. 23-24.
10 Kitisiak Boulom, Phalouda Sengsouda (2015), Hoàn thiện cơ chế kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân và quốc

hội trước yêu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoạn từ 2015-2020, Bộ Tư pháp Lào, tr. 53.


12

hoạt động của các cơ quan nhà nước, của tổ chức xã hội, của những người có chức vụ,
quyền hạn và của công dân. Đây là nguyên tắc hiến định được hiểu là việc thường xuyên,
nhất quán tuân thủ và chấp hành các quy định của Hiến pháp, của các đạo luật và các văn
bản quy phạm pháp luật khác của tất cả các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội, của
những người có chức vụ, quyền hạn, của công dân. Trong hoạt động của VKSND,
nguyên tắc bảo đảm pháp chế hay đảm bảo thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND
do pháp luật quy định, VKSND không được thực hiện những hoạt động ngoài nhiệm vụ,
quyền hạn do pháp luật quy định đã được cụ thể hóa thông qua việc xác lập những hoạt
động cụ thể mà VKSND được tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
dân sự. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi hoạt động của VKS phải được luật điều chỉnh chặt
chẽ, cụ thể và các quy định của pháp luật phải được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh,
thống nhất. Trong trường hợp có sự vi phạm pháp luật, VKSND có trách nhiệm phải áp
dụng biện pháp để khắc phục vi phạm đó.
Để đảm bảo việc kiểm sát các vụ việc dân sự khách quan, công bằng, đúng pháp
luật thì trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình VKSND, Viện trưởng VKSND và
các kiểm sát viên phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất lớn
đối với việc giải quyết vụ việc dân sự nên Viện trưởng VKSND và các kiểm sát viên chỉ
thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Theo Hiến pháp và pháp
luật hiện hành, VKSND là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, VKSND thực hiện quyền lực
nhà nước, trực tiếp tham gia giám sát các hoạt động tư pháp góp phần bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm trật
tự xã hội.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động giải
quyết vụ việc dân sự của Tòa án nhân dân (TAND), VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn

kiểm sát thông báo, quyết định và các văn bản có liên quan đến việc giải quyết vụ việc
dân sự của Tòa án; kiểm sát việc chuyển giao các loại văn bản có liên quan đến việc giải
quyết vụ việc dân sự của Tòa án; kiểm sát việc chuyển giao các loại văn bản trên của Tòa
án có đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự hay không.


13

Thứ hai, sự tham gia của VKSND trong tố tụng dân sự là nhằm thực hiện kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của Tòa án và những người tiến hành tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, khách quan của bản án,
quyết định của Tòa án.
VKSND là chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, có những quyền và nghĩa
vụ tố tụng nhất định (quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị) với vị trí pháp lý hoàn toàn
khác với vị trí của các chủ thể tham gia tố tụng để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong toàn bộ quá trình tố tụng dân sự. VKSND là cơ quan tiến hành tố
tụng, song khác với TAND - chủ thể chính trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, sự
tham gia của VKSND không mang tính chất bắt buộc thường xuyên liên tục. Về mặt
pháp lý, VKSND tham gia kiểm sát việc thụ lý, trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải
quyết việc dân sự, kiểm sát việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, kiểm sát bản án,
quyết định của Tòa án.
Khi tham gia phiên tòa, phiên họp thì kiểm sát viên đại diện cho VKSND thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND được pháp luật tố tụng dân sự quy định. Đó là
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, người tham gia tố tụng. Vấn đề này được
thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa mà chủ thể tiến hành là kiểm sát viên. Trong tố tụng dân
sự, VKSND là chủ thể đặc biệt. Khi thực hiện chức năng giám sát hoạt động giải quyết
vụ việc dân sự tại phiên tòa, phiên họp trong phạm vi quyền hạn của mình, kiểm sát viên
phải tiến hành theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Bên cạnh đó, VKSND còn
kiểm sát hoạt động tố tụng của các đương sự và cơ quan tiến hành tố tụng. Hoạt động
kiểm sát của VKSND góp phần bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án

được đúng đắn, khách quan.
Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật hai nước Lào và Việt
Nam đã khẳng định rõ về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND. Theo đó,
VKSND vẫn là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, đại diện VKSND là người tiến hành tố
tụng. Được coi là cơ quan tiến hành tố tụng, song các quyền và nghĩa vụ của VKSND chủ
yếu để thực hiên chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết
các vụ việc dân sự tại Tòa án, nhằm đảm bảo tính hợp pháp và có căn cứ trong hoạt động
xét xử của Tòa án. Mặc dù, đều là cơ quan tiến hành tố tụng nhưng khác với Tòa án, VKS


14

không ra bản án, quyết định giải quyết nội dung vụ việc dân sự. Mục đích tham gia tố
tụng chủ yếu của VKSND là nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng.
Như vậy, sự tham gia tố tụng của VKSND trong tố tụng dân sự là việc VKSND
tham gia với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng, có chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án.
Thứ ba, sự tham gia của VKSND trong tố tụng dân sự được thực hiện thông qua
hoạt động của kiểm sát viên (ở Lào là Công tố viên) và Viện trưởng VKSND.
Đứng đầu VKSND là Viện trưởng VKSND. Trong quá trình giải quyết các vụ việc
dân sự, Viện trưởng VKSND có nhiều nhiệm vụ, quyền hạn như tổ chức và chỉ đạo thực
hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự; quyết định
phân công kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố
tụng, tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự theo quy
định của Bộ luật TTDS Việt Nam năm 2015 và Bộ luật TTDS Lào năm 2012; kiểm tra
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng của kiểm sát viên; quyết định
thay đổi kiểm sát viên; kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, bản
án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật TTDS Việt Nam năm 2015 và

BLTTDS Lào năm 2012; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định. Kiểm sát viên là một
trong những người tiến hành tố tụng tham gia bảo đảm tuân thủ pháp luật trong quá trình
giải quyết việc dân sự theo quy định của BLTTDS. Trong tố tụng dân sự, kiểm sát viên
khi được phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng
dân sự có nhiệm vụ, quyền hạn như kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải
quyết các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự của Tòa án. Đảm bảo việc giải quyết vụ
việc dân sự tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật về thủ tục, cũng như nội dung; kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng như nguyên đơn, bị đơn,
người làm chứng, người phiên dịch...


15

1.1.3. Ý nghĩa về sự tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân ở Lào và
Việt Nam
- Sự tham gia của VKSND ở Lào và Việt Nam có ý nghĩa to lớn trong việc bảo
đảm việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án được chính xác, khách quan, góp phần
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Ở Lào cũng như ở Việt Nam, pháp luật tố tụng hình sự giải quyết quan hệ giữa
một bên là Nhà nước, đại diện cho lợi ích công và một bên là người phạm tội do đó, trong
đó, VKS với vai trò đại diện Nhà nước ra cáo trạng buộc tội đối với bị cáo. Pháp luật tố
tụng dân sự giải quyết những tranh chấp các lợi ích tư giữa các đương sự. Mục đích trực
tiếp của pháp luật tố tụng dân sự là bảo vệ lợi ích tư của các đương sự nên một trong
những nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự là trao quyền tự quyết cho đương
sự - chủ thể của các lợi ích. Các chủ thể tiến hành tố tụng chỉ thực hiện các nhiệm vụ làm
sáng tỏ vụ việc để giải quyết trên cơ sở pháp luật chứ không thay mặt cho đương sự quyết
định những lợi ích của chính họ. Do đó, việc tham gia tố tụng của VKS nhằm bảo đảm
việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án được chính xác, khách quan, góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nhưng không được hạn chế quyền tự định đoạt
của đương sự.

Trong tố tụng dân sự, do quan hệ pháp luật dân sự đa dạng về nội dung, hình thức
và chủ thể tham gia. Khi tham gia các quan hệ dân sự, các chủ thể thực hiện quyền và
nghĩa vụ theo đúng những nội dung đã cam kết và quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi
một trong các bên không tuân thủ các quy định pháp luật hoặc không tuân thủ thỏa thuận
đã cam kết, xâm phạm đến lợi ích của bên kia thì bên bị vi phạm có quyền tự bảo vệ hoặc
yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ. Trong quá trình Tòa án bảo vệ quyền
lợi của các bên đương sự thì sự tham gia của VKSND trong TTDS có ý nghĩa bảo đảm
pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh và thống nhất. Thông qua việc thực hiện các quyền
yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân đảm
bảo cho pháp luật được tuân thủ, bảo đảm cho tiến trình tố tụng được tiến hành một cách
nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân
được tôn trọng và thực hiện trên thực tế.


16

Sự tham gia của VKSND trong TTDS nhằm phát hiện, hạn chế những sai lầm, vi
phạm của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đồng thời góp phần nâng cao
tinh thần trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ việc dân
sự. Sự tham gia của Viện Kiểm sát góp phần kiểm soát sự lạm quyền của cán bộ Tòa án
và các chủ thể khác trong giải quyết vụ việc dân sự, tạo được niềm tin của người dân vào
công lý và bảo đảm thực hiện các quyền tố tụng của đương sự cũng như quyền, lợi ích
hợp pháp của họ.
Sự tham gia của VKSND trong tố tụng dân sự còn bảo đảm cho sự độc lập, khách
quan của Tòa án, tránh sự can thiệp từ các chủ thể có quyền lực nhưng không có nhiệm
vụ, quyền hạn giải quyết vụ việc dân sự. Trong quá trình kiểm sát việc tuân thủ pháp luật
trong tố tụng dân sự, VKSND có thể giám sát, ngăn chặn hoặc phát hiện sự vi phạm
nguyên tắc này để có những kiến nghị nhằm bảo đảm cho nguyên tắc này được tôn trọng
thực hiện trên thực tế. Với vai trò của mình, VKSND thúc đẩy việc giải quyết các vụ việc
dân sự ở Tòa án các cấp được nhanh chóng theo đúng thời hạn luật định, đảm bảo tính có

căn cứ và đúng pháp luật của các bản án, quyết định, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự.
- Sự tham gia của của VKSND ở Lào và Việt Nam có ý nghĩa to lớn trong việc
hạn chế sai lầm trong việc giải quyết các vụ án dân sự
Thực tiễn thi hành pháp luật TTDS ở hai nước cho thấy sai lầm trong việc giải
quyết các vụ án dân sự vẫn còn tồn tại. Bên cạnh đó, không loại trừ khả năng còn có
những bản án, quyết định của Tòa án có sai sót nhưng không bị phát hiện ra. Do đó, đòi
hỏi phải có cơ chế kiểm tra, giám sát bản án, quyết định của Tòa án một cách có hiệu quả.
Trong khi đó, hiệu quả giám sát từ phía các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội còn hạn
chế, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân chưa cao (đặc biệt là một bộ phận người
dân như người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần... luôn bị thua
thiệt khi tham gia tố tụng) nên sự tham gia vào quá trình tố tụng dân sự của VKS vẫn cần
thiết trong giai đoạn hiện nay.
Hơn nữa, về nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là thuộc về các
đương sự nhưng trong điều kiện thực tiễn Việt Nam và Lào, khi mà trình độ dân trí còn
hạn chế, người dân còn gặp nhiều khó khăn để tự chứng minh bảo vệ quyền lợi của mình


17

trước Tòa án thì họ phải yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Do đó, để đảm bảo tính khách
quan trong hoạt động xét xử, đại diện VKS cần tham gia phiên tòa để kiểm sát chặt chẽ
hoạt động xét xử của Tòa án.
1.2. Sự hình thành và phát triển các quy định về sự tham gia của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự ở Lào và Việt Nam
Việt Nam và Lào đều là hai quốc gia đang phát triển nhưng mỗi quốc gia có một
nét đặc thù riêng về mặt lịch sử, kinh tế – xã hội. Chính vì vậy mà sự phát triển pháp luật
nói chung, pháp luật về sự tham gia của VKSND trong tố tụng dân sự nói riêng cũng có
những điểm riêng biệt. Thông qua việc nghiên cứu tiến trình phát triển pháp luật TTDS
Lào và Việt Nam, ta có thể sơ lược như sau:

1.2.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật Lào về sự
tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
Trong giai đoạn chế độ phong kiến tập quyền từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII, chế
định VKSND không tồn tại trọng pháp luật Lào. Giai đoạn này, việc xét xử và kết án chủ
yếu diễn ra bởi các phiên xét hỏi của người đứng đầu bản mường và đội ngũ quan lại cai
trị của triều đình. Chế định công tố xuất hiện lần đầu trong Bộ Dân luật Lanxang có từ thế
kỷ XIX, quy định về vị trí, chức năng và nhiệm vụ của Công tố viên trong tố tụng dân sự.
Bộ Dân luật Lanxang được xây dựng dựa trên nội dung của Bộ Luật Dân sự Pháp 1804
và Bộ luật TTDS Pháp 1806. Trong đó, những quy định về Công tố viên, Viện công tố
được ghi nhận ở Mục 7, Phần III, trong tố tụng dân sự, Viện công tố có hai vai trò chính:
thực hiện quyền khởi kiện như một bên đương sự; thực hiện quyền yêu cầu áp dụng pháp
luật, với tư cách như một cơ quan tiến hành tố tụng. Bên cạnh, Toà án Viêng Chăn thì
Viện Công tố Viêng Chăn được thành lập. Viện Công tố Viêng Chăn có thể tham gia vào
việc giải quyết các vụ việc dân sự (theo nghĩa rộng) với tư cách là đại diện cho lợi ích
chung, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật và bảo vệ trật tự công11. Bộ dân luật Lanxang quy
định: "Viện công tố có thể tham gia tố tụng như một bên đương sự chính hoặc tiến hành
tố tụng để bảo đảm việc tuân thủ pháp luật. Viện công tố đại diện cho người khác trong
những trường hợp pháp luật quy định". Như vậy, pháp luật dân sự thời kỳ này ở Lào là sự
kế thừa những quy định tiến bộ trong pháp luật tố tụng dân sự của Pháp
11 Yoo Lang Sa (2007), Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật TTDS ở Lào, tr. 28


18

Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Pathet Lào với sự hỗ trợ của Việt Nam đã giải
phóng toàn bộ nước Lào khỏi tay Chính phủ phản động cách mạng. Ngày 2 tháng 12 năm
1975, nhà vua Lào buộc phải thoái vị và nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào được
thành lập. Sau năm 1975, trước bối cảnh đất nước hoàn toàn độc lập. Điều này đòi hỏi
Lào phải có hệ thống pháp luật mới để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội trên cả nước, ngày
19 tháng 4 năm 1976, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị Quyết số 03/CP ngày

19/4/1976 của Hội đồng chính phủ về vấn đề hướng dẫn thi hành và xây dựng pháp luật
cho nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, trong đó có việc xây dựng một đạo luật để
điều chỉnh hoạt động xét xử của Tòa án và kiểm sát. Trong thời gian chưa có Luật điều
chỉnh thì việc giải quyết các vụ việc dân sự … sẽ tạm thời áp dụng Bộ Dân Luật Lanxang
có từ thế kỷ XIX. Pháp luật Lào, thời kỳ này chịu sự ảnh hưởng lập pháp từ Việt Nam.
Năm 1977, Hội đồng bộ trưởng Lào đã ban hành Nghị định số 53/1977/NĐ-HĐBT
quy định về giải quyết các vụ việc dân sự. Tiếp đến, năm 1990 Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự 1990 của Lào được ban hành trong đó các quy định về tố tụng
được xây dựng có ý nghĩa định hướng hành vi ứng xử của người tiến hành tố tụng và các
đương sự có liên quan. Mặc dù còn chưa hoàn chỉnh, có những quy định còn chưa cụ thể
và chưa thật sự hợp lý làm ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết các vụ án dân sự, ảnh
hưởng đến mục đích của pháp luật TTDS là xử lý kịp thời, nhanh chóng tất cả các vụ án
dân sự nhưng đây là văn bản pháp luật đầu tiên điều chỉnh hoạt động của Công tố viện
trong tố tụng dân sự.
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1990 được tiến hành sửa đổi bổ
sung năm 1996, trong đó lần đầu tiên, pháp luật TTDS về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của
Công tố viện được quy định một cách đầy đủ và chi tiết tại các Điều 15, 16, 17. Theo đó
Công tố viện có quyền:
- Khởi tố hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến
lợi ích của Nhà nước và của nhân dân;
- Kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án cùng cấp và cấp
dưới một cấp;
- Kiểm sát việc chấp hành các bản án và các quyết định của Toà án.


19

Tiếp đến, ngày 19/9/2004, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức VKSND năm
2004, Công tố viện được đổi tên là Viện kiểm sát nhân dân, được tổ chức theo nguyên tắc
tập trung thống nhất từ trung ương đến địa phương và không phụ thuộc vào cơ quan

quyền lực và cơ quan hành chính địa phương, trong đó tại Điều 6 và Điều 17 có quy định
cụ thể các hình thức tham gia kiểm sát xét xử của Tòa án như tham gia tố tụng tại phiên
tòa; kháng nghị các bản án quyết định của Tòa án và khởi tố hoặc yêu cầu cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân cùng cấp khởi tố những vụ án dân sự
quan trọng có liên quan đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể và quyền lợi chính đáng
của nhân dân.
Nhìn chung, cho đến năm 2004 trở về trước nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND
trong tố tụng dân sự không được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật chuyên
ngành. Trong giai đoạn này nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND đã có sự thay đổi quan
trọng nhằm đáp ứng với yêu cầu mới và thực tiễn cách mạng Lào.
Trên tinh thần Luật TCVKSND năm 2004, Quốc hội nước Cộng hoà dân chủ nhân
dân Lào đã thông qua BLTTDS 2004, trong đó có những quy định về sự tham gia tố tụng
của VKSND trong tố tụng dân sự được mở rộng. Cụ thể quy định tại Điều 38 BLTTDS
năm 2004: Khi thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự và những
việc khác do pháp luật quy định, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền
hạn sau đây:
1. Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án, yêu cầu Tòa án nhân dân hoặc tự mình điều tra,
xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án;
2. Khởi tố những vụ án dân sự theo quy định của pháp luật, tham gia phiên tòa xét
xử những vụ án mà Viện kiểm sát nhân dân đã khởi tố hoặc kháng nghị đối với những vụ
án khác, Viện kiểm sát nhân dân có thể tham gia bất cứ giai đoạn nào nếu thấy cần thiết;
3. Yêu cầu Tòa án cùng cấp áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy
định của pháp luật;
4. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, các bản án, quyết
định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự".
Như vậy, theo quy định của BLTTDS năm 2004 đã xác định rõ hơn các hình thức
tham gia tố tụng dân sự của VKSND, đó là: khởi tố vụ kiện dân sự vì lợi ích chung; tham


20


gia tố tụng đối với các vụ án dân sự; kháng nghị những bản án, quyết định của Tòa án
theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, mở ra một thời kỳ mới cho sự hoàn
thiện và phát triển của chế định này trong pháp luật TTDS Lào.
Sau đó năm 2009, Quốc hội Lào đã tiến hành sửa đổi Luật Tổ chức VKSND năm
2009, tại Điều 2 quy định: “Viên kiểm sát nhân dân là cơ quan nhà nước có nhiệm vụ
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khu vực toàn quốc và
truy tố bị can trước Tòa án theo luật định”. Quy định này nhằm tăng cường và tập trung
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND, trong đó có hoạt động xét xử các vụ
án dân sự, kinh tế và lao động.
Trước nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, hội nhập thế giới, nhằm bảo vệ quyền lợi
hợp pháp cho tổ chức, doanh nghiệp và công dân Lào và học hỏi kinh nghiệm xây dựng
pháp luật về TTDS nói chung và sự tham gia của cơ quan Viện kiểm sát trong TTDS nói
riêng, Bộ Chính trị Lào đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 02/01/2005. Nghị
quyết này của Bộ Chính trị Lào xác định: “Tiếp tục …hoàn thiện pháp luật dân sự, bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức khi tham gia giao dịch, thúc đẩy các
quan hệ dân sự phát triển lành mạnh; hoàn thiện chế định thẩm quyền dân sự của toà án
nhân dân các cấp…”. Nghị quyết cũng nhấn mạnh việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy của các cơ quan tư pháp, trong đó sự tham gia
của VKSND trong hoạt động TTDS tiếp tục được mở rộng.
Trên tinh thần của Nghị quyết số 12-NQ/TW và những yêu cầu của cải cách tư
pháp, ngày 29/3/2012, Quốc hội Lào đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLTTDS (gọi tắt là BLTTDS sửa đổi, bổ sung), trong đó có những quy định về sự tham
gia của VKSND trong TTDS. BLTTDS sửa đổi bổ sung có những sửa đổi quan trọng về
quy định VKSND có quyền tham gia bất cứ giai đoạn nào nếu xét thấy cần thiết; mở rộng
phạm vi các trường hợp VKSND tham gia phiên tòa sơ thẩm... Cho đến nay, BLTTDS
năm 2012 và Luật Viện Kiểm sát năm 2009 vẫn có hiệu lực và đang được Quốc hội của
Lào xem xét, sửa đổi, bổ sung.



21

1.2.2. So sánh với sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật Việt
Nam về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của điều kiện kinh tế,
xã hội và những biến động chính trị. Trước thời Pháp thuộc, pháp luật Việt Nam dường
như không có sự phân biệt rạch ròi giữa dân sự và hình sự, cơ quan tài phán và cơ quan
quản lý. Các tranh chấp về dân sự được giải quyết bởi người đứng đầu bộ máy cai trị các
cấp theo các quy tắc chung về tố tụng được thiết lập để giải quyết các việc kiện cáo trong
dân. Các quy định về tố tụng dân sự của Việt Nam dưới thời Pháp thuộc được xây dựng
trên cơ sở tham chiếu và giản lược các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Pháp 1807
cho phù hợp với đời sống của người dân bản địa. Do vậy, cũng giống như Lào các quy
định về tố tụng dân sự trong những Bộ luật này chịu nhiều ảnh hưởng của pháp luật tố
tụng dân sự Pháp.
Ngay từ sau Cách mạng tháng Tám, để xây dựng và củng cố chính quyền cách
mạng non trẻ, Nhà nước Việt Nam đã ban hành hàng loạt văn bản pháp luật quy định về
tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Pháp luật Việt Nam trong giai đoạn này
quy định về vị trí, chức năng và nhiệm vụ của Công tố viên trong tố tụng dân sự như sau:
trong cuộc cải cách tư pháp lần đầu tiên năm 1946: Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ
chức Tòa và các ngạch thẩm phán theo quy định thẩm phán được chia thành hai ngạch: sơ
cấp và nhị cấp (trong đó, Thẩm phán ở ngạch đệ nhị cấp được chia thành hai loại: thẩm
phán xét xử và thẩm phán buộc tội). Công tố viện lúc đó được ra đời ở Tòa thượng thẩm
và chịu sự lãnh đạo của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, đứng đầu Công tố viện và chưởng lý. Cơ
quan công tố không được thành lập ở tòa đệ nhị mà chỉ có cán bộ làm công tác biện lý.
Trong giai đoạn này, Thẩm phán buộc tội đã hợp thành một bộ phận độc lập và chịu sự
lãnh đạo của Chưởng lý. Khi tham gia phiên tòa, "Biện lý ngồi ghế Công tố viên". Sắc
lệnh số 7/SL ngày 15/01/1946 còn quy định: "Đứng buộc tội, tùy quyết nghị của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp sẽ là nhân viên của Công tố viện do Chưởng lý Tòa thượng thẩm chỉ
định". Theo quy định của Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 thì Công tố viện tham gia tố
tụng dân sự dưới hình thức, đó là tham gia tố tụng đối với những vụ án dân sự với tư cách

là người thi hành quyền công tố (Điều 22 Sắc lệnh) và khởi tố vụ án dân sự (đứng là
Chánh tố - Điều 41 Sắc lệnh). Như vậy, Công tố viện bước đầu được hình thành và nằm


22

trong hệ thống của cơ quan Tòa án với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và
thực hành quyền công tố Nhà nước.
Công cuộc cải cách tư pháp lần thứ hai: bắt đầu vào năm 1950, Công tố viện được
đặt dưới sự điều khiển của Ủy ban kháng chiến hành chính. Trong giai đoạn này, Công tố
viện nằm trong cơ cấu của cơ quan hành pháp, các đường lối phạm vi hoạt động, sự tham
gia tố tụng của Công tố viện được mở rộng sang các vụ việc dân sự.
Công cuộc cải cách tư pháp lần thứ ba: diễn ra vào năm 1958, đây là giai đoạn
giao thời, quyết định cho việc chuyển Công tố viện thành VKSND, một hình thức hoàn
thiện hơn, đáp ứng như cầu mới của cách mạng trong những năm tiếp theo. Trong tố tụng
dân sự, theo Công văn số 1137/HCTP ngày 5/6/1958 của Bộ Tư pháp về việc đơn giản
một số thủ tục ở phiên tòa quy định rõ hơn về quyền khởi tố và tham gia tố tụng của
Công tố viện có hướng dẫn như sau: "… về việc dân sự, Công tố viện có nhiệm vụ khởi
tố và tham gia tố tụng đối với những vụ án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích
Nhà nước của nhân dân. Còn đối với những vụ án dân sự thường thì Công tố viện không
cần phải tham dự phiên tòa".
Như vậy, trong giai đoạn này, các quy định về sự tham gia của VKSND trong tố
tụng dân sự đã được quy định tương đối đầy đủ, khẳng định được vị trí và vai trò của
VKSND trong tố tụng dân sự; là cơ sở cho sự kế thừa và phát triển cho việc hoàn thiện
các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS
sau này.
Hiến pháp 1959 ra đời, Công tố viện chính thức được chuyển thành VKSND, được
tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất từ trung ương đến địa phương và không phụ
thuộc vào cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính địa phương. Ngoài chức năng công
tố, VKSND còn được giao chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật từ các Bộ trở

xuống; trong đó có cả hệ thống các TAND. Quyền hạn và nhiệm vụ của VKSND trong tố
tụng dân sự được quy định cụ thể tại các Điều 17, 18 và 19 Luật Tổ chức VKSND năm
1960.
Tiếp đến, ngày 13/7/1981, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức VKSND, trong đó
tại Điều 3 và Điều 13 có quy định cụ thể các hình thức tham gia kiểm sát xét xử của Tòa
án như tham gia tố tụng tại phiên tòa; kháng nghị các bản án quyết định của Tòa án và


23

khởi tố hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân cùng
cấp khởi tố những vụ án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của Nhà nước, của tập
thể và quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Nhìn chung, cho đến năm 1989 trở về trước nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND
trong tố tụng dân sự không được quy định trong các văn bản pháp luật nào khác ngoài
Luật Tổ chức VKSND. Trong giai đoạn này của VKSND đã có sự thay đổi quan trọng
nhằm đáp ứng với yêu cầu mới và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) và hai đạo Luật Tổ chức VKSND (1989, 1992) ra
đời tiếp tục kế thừa và quy định mới cho chức năng của VKSND đáp ứng nhu cầu thay
đổi của xã hội đặc biệt là quá trình cải cách tư pháp trong giai đoạn toàn Đảng toàn dân
bước vào xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là thời kỳ đổi mới, trên cơ sở Hiến pháp và Luật
Tổ chức VKSND, là sự ra đời của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (1989),
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994), Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh
chấp lao động (1996)… Theo quy định của các văn bản pháp luật này, sự tham gia tố
tụng của VKSND trong tố tụng dân sự được mở rộng. Cụ thể quy định tại Điều 17 Luật
Tổ chức VKSND năm 1992:
Khi thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự và những việc
khác do pháp luật quy định, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:

1. Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án, yêu cầu Tòa án nhân dân hoặc tự mình điều tra,
xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án;
2. Khởi tố những vụ án dân sự theo quy định của pháp luật, tham gia phiên tòa xét
xử những vụ án mà Viện kiểm sát nhân dân đã khởi tố hoặc kháng nghị đối với những vụ
án khác, Viện kiểm sát nhân dân có thể tham gia bất cứ giai đoạn nào nếu thấy cần thiết;
3. Yêu cầu Tòa án cùng cấp áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy
định của pháp luật;
4. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, các bản án, quyết
định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự".


24

Việc nghiên cứu so sánh cho thấy các quy định trên có nhiều điểm tương đồng với
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1990 và BLTTDS năm 2004 của Lào,
đặc biệt là quy định về kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án, yêu cầu Tòa án nhân dân hoặc tự
mình điều tra, xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án;
Khởi tố những vụ án dân sự theo quy định của pháp luật, tham gia phiên tòa xét xử những
vụ án mà Viện kiểm sát nhân dân đã khởi tố hoặc kháng nghị; Yêu cầu Tòa án cùng cấp
áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật.
Như vậy, quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 1992 của Việt Nam đã xác
định rõ hơn các hình thức tham gia tố tụng dân sự của VKSND, đó là: khởi tố vụ kiện dân
sự vì lợi ích chung; tham gia tố tụng đối với các vụ án dân sự; kháng nghị những bản án,
quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Sau đó, Điều 1
Luật Tổ chức VKSND năm 2002 ngày 02/4/2002 quy đinh: "Viện kiểm sát nhân dân thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật". Quy định này nhằm tăng cường và tập trung chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp của VKSND, trong đó có hoạt động xét xử các vụ án dân sự, kinh tế và lao động.
Khác với quy định trong Luật Tổ chức VKSND năm 1992, khoản 3 Điều 21 Luật
Tổ chức VKSND năm 2002 xác định VKSND có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết đối

với tất cả các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kink tế, lao động và những việc khác
theo quy định của pháp luật ở tất cả các giai đoạn tố tụng, tham gia tất cả các phiên tòa
xét xử các vụ án này ở Tòa án các cấp và phát biểu quan điểm của VKSND về việc giải
quyết vụ án. Quy định như vậy nhằm tăng cường kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
lĩnh vực dân sự, kink tế, lao động và thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng
sản Việt Nam về cải cách tư pháp.
Công cuộc cải cách tư pháp song song với tiến trình phát triển xã hội, những quy
định về tố tụng dân sự mới phù hợp với sự tiến bộ xã hội thay đổi những quy định tố tụng
dân sự trước, BLTTDS có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2005. Trong đó, sự tham gia tố
tụng của VKSND được quy định cụ thể tại Điều 21 BLTTDS:
1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự,
thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm
bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật;


25

2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án thu
thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án, các vụ việc dân sự mà VKS kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án.
Bộ luật Tố tụng dân sự ra đời (tại Điều 21) đã giới hạn sự tham gia tố tụng của
VKSND, đồng thời bỏ đi quyền khởi tố vụ án dân sự của VKSND. Tuy nhiên, thực tiễn
thi hành BLTTDS năm 2004 trong thời gian qua cho thấy quy định của BLTTDS về tham
gia tố tụng dân sự của VKSND trong tố tụng dân sự đã bộc lộ những hạn chế, bất cập,
chưa tạo điều kiện cho VKSND thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy
định của Hiến pháp và Luật Tổ chức VKSND. Do đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của BLTTDS 2004 được Quốc hội khóa XII thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/01/2012
đã có những sửa đổi quan trọng về sự tham gia của VKSND trong tố tụng dân sự nhằm
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Cụ thể, tại Điều 21 Luật sửa đổi bổ sung theo hướng mở
rộng phạm vi các trường hợp VKSND tham gia phiên tòa sơ thẩm, VKSND không chỉ

tham gia các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án mà đương sự có khiếu nại về biện
pháp thu thập chứng cứ của Tòa án mà VKS còn tham gia "…các phiên tòa sơ thẩm đối
với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoạc đối tượng tranh chấp là tài
sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người
chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần".
Ngoài ra, Điều 85 BLTTDS năm 2004 cũng được sửa đổi bổ sung theo hướng quy
định: "…Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp
hồ sơ, tài liệu, vật chứng để đảm bảo cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm". Điều 170 quy định: "…trong thời hạn bảy
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định trả lời đơn khiếu nại, kiến nghị về việc
trả lại đơn khởi kiện của Chánh án Tòa án, người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện
kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết".
Ngày 25/11/2015, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội Khóa XIII đã thông qua Bộ luật tố
tụng dân sự (Luật số 92/2015/QH13) và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2015 được bố cục thành 10 phần, 42 chương, 517 điều, trong đó tiếp
tục khẳng định về sự tham gia của VKSND trong tố tụng dân sự, bổ sung vai trò của
VKSND trong thủ tục rút gọn. Thủ tục rút gọn là thủ tục tố tụng được áp dụng để giải


×