Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Thu thập chứng cứ theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-----------------

HOÀNG HẢI AN

THU THẬP CHỨNG CỨ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-----------------

HOÀNG HẢI AN

THU THẬP CHỨNG CỨ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự


Mã số: 60.38.01.03

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Ngọc Thỉnh

HÀ NỘI – NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, nguồn gốc rõ ràng, đƣợc trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

HOÀNG HẢI AN


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS năm 2015: Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2015
BLTTDS năm 2011 (sửa đổi bổ sung): Luật sửa đổi bổ sung một số
điều Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
BLTTDS năm 2004: Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004
Hiếp pháp năm 2013: Hiến pháp nƣớc công hòa xã hội chủ nghĩa Việt
nam năm 2013.
Tòa án: Tòa án nhân dân
Viện kiểm sát: Viện kiểm sát nhân dân
TTDS: Tố tụng dân sự



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỨNG CỨ
VÀ THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 6
1.1 Một số vấn đề chung về chứng cứ .............................................................. 6
1.1.1

Khái niệm chứng cứ và đặc điểm của chứng cứ. ................................. 6

1.1.2

Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng dân sự. ................................. 9

1.2 Một số vấn đề về hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự ....... 10
1.2.1 Khái niệm về hoạt động thu thập chứng cứ ........................................... 10
1.2.2 Chủ thể của hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự ............ 12
1.2.3

Ý nghĩa của việc thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự .................. 16

1.3 Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về thu thập chứng cứ
trong tố tụng dân sự......................................................................................... 18
1.3.1. Cơ sở lý luận của việc xây dựng các quy định về thu thập chứng cứ
trong tố tụng dân sự......................................................................................... 18
1.3.2. Cơ sở thực tiễn của việc xây dựng các quy định về thu thập chứng cứ
trong tố tụng dân sự......................................................................................... 23
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 25
CHƢƠNG 2: THU THẬP CHỨNG CỨ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HIỆN HÀNH ..................................................................................... 26

2.1. Thu thập chứng cứ của đƣơng sự và ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đƣơng sự. .................................................................................................. 26
2.1.1. Thu thập chứng cứ của đƣơng sự. ......................................................... 26
2.1.2. Thu thập chứng cứ của ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự. ......................................................................................................... 32
2.2. Các quy định chung về thu thập chứng cứ của Tòa án ............................ 35


2.2.1. Về biện pháp yêu cầu đƣơng sự giao nộp bổ sung chứng cứ, tài liệu. . 37
2.2.2 Quy định cụ thể về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án.......... 39
2.3. Thu thập chứng cứ của Viện kiểm sát ...................................................... 57
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 61
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ THU
THẬP CHỨNG CỨ TRONG TTDS VÀ KIẾN NGHỊ ............................. 62
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về thu thập chứng cứ và những nguyên
nhân vƣớng mắc của trong tố tụng dân sự. ..................................................... 62
3.1.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về thu thập chứng cứ ....................... 62
3.1.2. Về nguyên nhân của những tồn tại, vƣớng mắc trong việc thực hiện các
quy định về thu thập chứng cứ. ....................................................................... 72
3.2. Kiến nghị sửa đổi về thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự. ................ 74
3.3. Các kiến nghị khác về thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự ............... 79
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 84
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 đƣợc Quốc hội nƣớc
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua
ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2016 là văn bản có
tính pháp lý cao nhất quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự tại
Toà án.
Kế thừa Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự số 65/2011/QH12, Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm thể chế hóa các chủ
trƣơng, đƣờng lối của Đảng về cải cách tƣ pháp, cụ thể hóa các quy định của
Hiến pháp năm 2013, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp
luật; đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự
trong giai đoạn hiện nay, trong đó có những sửa đổi, bổ sung khá quan trọng
trong phần quy định về hoạt động thu thập chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá
nhân và Tòa án.
Trong quá trình hình thành và phát triển, hoàn thiện của hệ thống pháp
luật tố tụng Việt Nam, với những đặc thù riêng về lịch sử, kinh tế, xã hội và
đặc điểm lập pháp, hoạt động thu thập chứng cứ luôn đóng một vai trò hết sức
cần thiết và quan trọng. Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam đƣợc xây dựng
theo mô hình tố tụng xét hỏi, đang đƣợc thay đổi, hoàn thiện theo hƣớng tăng
cƣờng yếu tố tranh tụng, do vậy, vai trò chứng minh của đƣơng sự ngày càng
đƣợc đề cao hơn. Tuy nhiên, các quy định theo chiều hƣớng này vẫn đang
trong quá trình hoàn thiện trên cơ sở kiểm nghiệm thông qua thực tiễn áp
dụng. Trên thực tế tố tụng tại Tòa án thì hoạt động thu thập chứng cứ của các
đƣơng sự vẫn còn nhiều bị động, Tòa án vẫn đang giữ một trách nhiệm hết
sức quan trọng trong xác minh, thu thập chứng cứ. Mặc dù BLTTDS sửa đổi
năm 2011 đã khắc phục đƣợc một số tồn tại, hạn chế của BLTTDS năm 2004
về hoạt động thu thập chứng cứ, tuy nhiên, một số quy định của Bộ luật này
về hoạt động thu thập chứng cứ vẫn còn chƣa thực sự hợp lý, thiếu tính rõ



2

ràng, cụ thể dẫn tới những khó khăn, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng.
BLTTDS năm 2015 ra đời, đã có những quy định mới, cụ thể hơn, góp phần
mở rộng quyền của các chủ thể tham gia hoạt động thu thập chứng cứ, từ đó,
nhấn mạnh quyền chủ động của đƣơng sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình, cũng nhƣ quyền chủ động của Thẩm phán phụ trách trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự. Do vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện, sâu
sắc về hoạt động thu thập chứng cứ cả về phƣơng diện lý luận, lập pháp và
thực tiễn, từ đó đề xuất những giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật, nâng
cao hiệu quả của hoạt động thu thập chứng cứ là một việc làm cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên đây, tôi đã lựa chọn đề tài “Thu thập
chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015” làm luận văn
cao học luật của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trƣớc khi BLTTDS năm 2015 ra đời, cũng đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về hoạt động thu thập chứng cứ nhƣng các công trình này cũng
chỉ chủ yếu đề cập đến hoạt động thu thập chứng cứ với tƣ cách là một giai
đoạn của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự nhƣ đề tài “Hoạt động
cung cấp, thu thập chứng cứ trong Tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Minh Hằng (bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2002), đề
tài “Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam” cũng của tác giả
Nguyễn Minh Hằng (bảo vệ luận văn tiến sĩ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội
năm 2009), đề tài khoa học cấp trƣờng “Một số vấn đề lý luận về chứng minh
trong tố tụng dân sự” do TS. Nguyễn Công Bình làm chủ nhiệm năm 2012;
hay dƣới khía cạnh là hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án nhƣ đề tài:
Phạm Thị Hƣơng (2013), Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố
tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học; Nguyễn Văn Thành (2013),
Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự, Luận văn
thạc sĩ Luật học; Nguyễn Thị Liên (2014), Hoạt động thu thập chứng cứ của

Tòa án từ thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án cấp huyện Thành
phố Hải Phòng, Luận văn thạc sĩ luật học


3

Việc nghiên cứu cho thấy các công trình trên nghiên cứu với phạm vi
rộng về chứng minh, các hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự hoặc có
liên quan dƣới góc độ về nhiệm vụ, quyền hạn hay kỹ năng của Thẩm phán
liên quan đến hoạt động thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ vụ án. Đề tài luận
văn thạc sỹ về “Hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ trong Tố tụng dân sự
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Hằng có nghiên cứu về hoạt động thu
thập chứng cứ trong tố tụng dân sự nhƣng đƣợc thực hiện đã lâu trƣớc khi ban
hành BLTTDS 2004. Cho đến nay, chƣa có một công trình nào nghiên cứu
một cách có hệ thống, toàn diện và chuyên sâu về hoạt động thu thập chứng
cứ của các chủ thể trong tố tụng dân sự theo BLTTDS năm 2015.
3. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài đƣợc xác định cụ thể là những quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành về thu thập chứng cứ của các chủ
thể tiến hành và tham gia tố tụng.
4. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
* Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ đƣợc những vấn đề lý luận
cũng nhƣ nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện
hành về hoạt động thu thập chứng cứ, bình luận và đánh giá các quy định mới
về hoạt động thu thập chứng cứ, từ đó chỉ ra những điểm còn thiếu sót hoặc
chƣa hợp lý trong các quy định hiện hành về hoạt động thu thập chứng cứ.
Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng nhằm chỉ ra những vƣớng mắc, khó khăn trên
thực tế khi các chủ thể thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ. Trên cơ sở kết
quả nghiên cứu tổng hợp, Luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm góp

phần hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam đối với hoạt động thu thập
chứng cứ, đồng thời nâng cao hiệu quả của hoạt động thu thập chứng cứ trên
thực tế.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đƣợc mục tiêu này, luận văn phải hoàn thành một số
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:


4

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chứng cứ và hoạt động thu thập
chứng cứ trong tố tụng dân sự;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về
hoạt động thu thập chứng cứ và thực tiễn áp dụng chúng trong quá trình tố
tụng. Từ đó chỉ ra những điểm bất cập, thiếu hợp lý trong các quy định của
pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ.
- Đƣa ra một số đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam về hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn không nghiên cứu sâu về hoạt
động thu thập chứng cứ của nƣớc ngoài mà chỉ nghiên cứu một số các quy
định về lý luận của pháp luật một số nƣớc nhằm so sánh tham khảo, có cái
nhìn rộng hơn về lý luận. Luận văn tập trung nghiên cứu chủ yếu về pháp luật
hiện hành và thực tiễn thực hiện hoạt động này tại một số Tòa án địa phƣơng.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ đƣợc giới hạn trong phạm vi sau đây:
- Nghiên cứu về bản chất của chứng cứ và hoạt động thu thập chứng cứ
trong tố tụng dân sự;
- Nghiên cứu lƣợc sử cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của hoạt động thu
thập chứng cứ trong tố tụng dân sự;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện

hành về hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động thu thập chứng
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đƣợc mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu đƣợc
tiến hành dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan
điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc và
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật. Ngoài ra, để giải quyết vấn
đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sử dụng một số phƣơng
pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành khác nhƣ phƣơng pháp phân tích hệ


5

thống; phƣơng pháp tổng hợp; phƣơng pháp so sánh; phƣơng pháp thống
kê...v.v.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về
hoạt động thu thập chứng trong tố tụng dân sự Việt Nam. Những đóng góp
của luận văn thể hiện trên một số phƣơng diện sau đây:
- Làm rõ đƣợc bản chất và đặc điểm cơ bản của hoạt động thu thập
chứng cứ; luận giải đƣợc cơ sở khoa học của hoạt động thu thập chứng cứ của
tất cả các chủ thể trong tố tụng dân sự.
- Là công trình nghiên cứu chuyên sâu đánh giá về các quy định hiện
hành về hoạt động thu thập chứng cứ và thực tiễn thực hiện tại các Tòa án. Do
vậy, Luận văn đã chỉ ra đƣợc những hạn chế của pháp luật và bất cập trong
thực tiễn thực hiện các quy định của BLTTDS về hoạt động thu thập chứng
cứ.
- Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất những giải
pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ, nâng

cao hiệu quả của hoạt động thu thập chứng cứ trên thực tế.
- Luận văn đƣợc bảo vệ thành công sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho
giảng viên, sinh viên chuyên ngành luật, các cán bộ làm công tác thực tiễn
liên quan đến hoạt động thu thập chứng cứ. Ngoài ra, luận văn sẽ là tài liệu
tham khảo hữu ích cho các cơ quan lập pháp liên quan tới việc hoàn thiện
pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn đƣợc kết cấu bởi 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề về chứng cứ và hoạt động thu thập chứng cứ
trong tố tụng dân sự Việt Nam.
Chương 2: Hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật
hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ trong tố
tụng dân sự và kiến nghị


6

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỨNG CỨ VÀ THU
THẬP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1 Một số vấn đề chung về chứng cứ
1.1.1 Khái niệm chứng cứ và đặc điểm của chứng cứ.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, luôn diễn ra hoạt động chứng
minh, kéo dài xuyên suốt vụ việc dân sự với các giai đoạn kế tiếp nhau liên
tục từ khi Toà án thụ lý cho đến khi có bản án, quyết định của Tòa hoặc chấm
dứt tranh chấp. Chứng minh là hoạt động tố tụng của chủ thể tố tụng theo quy
định của pháp luật tố tụng trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc
dân sự1. Hoạt động này là cơ sở để đƣơng sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình cũng nhƣ là căn cứ để Toà án đƣa ra các phán quyết của mình.
Mục đích của hoạt động tố tụng là chứng minh và bản án, quyết định của toà
án chính là kết quả cuối cùng của quá trình chứng minh đó. Trong đó, vấn đề
cơ bản, trƣớc tiên và quan trọng nhất mà các chủ thể tiến hành và tham gia
hoạt động chứng minh hƣớng tới là chứng cứ.
Chứng cứ là vấn đề trung tâm và quan trọng trong hoạt động chứng
minh tố tụng dân sự. Có thể nói, mọi hoạt động trong quá trình chứng minh
chủ yếu xoay quanh vấn đề chứng cứ, mọi giai đoạn của tố tụng dân sự mở ra,
kết thúc và kết quả đều phụ thuộc phần lớn vào chứng cứ. Chứng cứ là phần
quan trọng, lớn nhất để chứng minh vụ việc dân sự. Dựa vào chứng cứ mà các
đƣơng sự có cơ sở xác đáng chứng minh bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình;
các cơ quan tiến hành tố tụng có đủ hay không đủ điều kiện để xác định tình
tiết của vụ việc dân sự đúng, đủ, chính xác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
cho công dân và bảo vệ pháp luật. Vì vậy, việc nhận định chứng cứ có vai trò
1

Từ điển Luật học, Viện khoa học pháp lý – Bộ Tƣ Pháp, Nxb. Từ điển Bách Khoa – Nxb
Tƣ pháp, tr 166


7

quan trọng nhất trong hoạt động chứng minh của tố tụng dân sự, từ đó nhận
thức đúng đắn về hoạt động thực tiễn
Theo Đại từ điển tiếng việc,“Chứng cứ là cái được dẫn ra để dựa vào
đó mà xác định một điều là đúng hay sai, thật hay giả”2
Còn theo lý giải về mặt luật học, chứng cứ là phƣơng tiện để xác minh
sự thật về vụ án. Luật có một số yêu cầu đối với chứng cứ nhằm đảm bảo tính
xác thực cũng nhƣ kiểm tra và đánh giá đúng đắn chứng cứ: chứng cứ phải
chứa đựng những tài liệu thực tế có liện quan đến vụ án cụ thể; chứng cứ phải

đƣợc rút ra từ những nguồn do luật quy định… Những tình tiết có liên quan
đến vụ án đƣợc ghi trong các tài liệu do cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân cung
cấp có thể đƣợc coi là chứng cứ3.
Từ hai định nghĩa trên có thể khẳng định, chứng cứ trƣớc hết phải là
“cái”, là “phƣơng tiện chứa đựng những tài liệu thực tế” là những gì có thật,
tồn tại khách quan và không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con ngƣời.
Đây chính là đặc điểm đầu tiên của chứng cứ. Tính khách quan của chứng cứ
thể hiện ở chỗ chứng cứ phải là một cái có thật, tồn tại ngoài ý muốn của
những ngƣời tiến hành tố tụng và những ngƣời tham gia tố tụng4. Giữa sự
kiện có thật và sự kiện do con ngƣời tạo ra trong thực tiễn xét xử thƣờng gây
ra nhầm lẫn, vì vậy, đánh giá tính khách quan của đối tƣợng để tìm ra chứng
cứ có vai trò quan trọng trong quá trình tố tụng, đảm bảo việc giải quyết vụ
việc dân sự đƣợc nhanh chóng, đúng đắn.
Chứng cứ có tính liên quan bởi một vật luôn chứa đựng một tình tiết sự
kiện, nếu sự kiện này có liên quan đến vụ việc dân sự, ý nghĩa đối với việc
tìm ra sự thực khách quan của vụ việc thì đó là chứng cứ. Thông thƣờng,
chứng cứ bao gồm những tin tức liên quan trực tiếp đến vụ việc dân sự, hoặc
những tin tức liên quan gián tiếp, có tính chất trung gian, nhƣng vẫn có khả
2

Đại từ điển tiếng việt, Nxb. Văn hóa thông tin, 1999, tr. 415

3

Từ điển Luật học (1999), Nxb. Từ điển Bách khoa, tr.99

4

Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an
nhân dân, tr.172



8

năng giúp cho Tòa án công nhận hoặc phủ nhận đƣợc những tình tiết, sự kiện
hay từ công nhận hoặc phủ nhận một tình tiết, sự kiện mà tìm ra đƣợc ý nghĩa
của tình tiết sự kiện khác. Nhƣ vậy, tính liên quan của chứng cứ có thể trực
tiếp hoặc gián tiếp, tuy nhiên, cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì Tòa án cũng
có thể sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự sau khi áp dụng các biện pháp
chọn lọc, đánh giá, phân tích,…
Một tƣ liệu có thể đƣợc coi là chứng cứ khi mà có thể sử dụng nó vào
việc giải quyết vụ việc dân sự, tuy nhiên, muốn đƣợc sử dụng vào việc chứng
minh sự thực khách quan thì trƣớc hết nó phải hợp pháp. Do vậy, đặc điểm
thứ ba của chứng cứ là tính hợp pháp. Tính hợp pháp của chứng cứ yêu cầu
chứng cứ phải đƣợc rút ra từ những nguồn do pháp luật quy định. Do đó, việc
quy định trình tự thủ tục thu thập chứng cứ để đảm bảo tính hợp pháp của nó
là điều vô cùng cần thiết.
Đặt trong pháp luật tố tụng quốc tế, chứng cứ là một yếu tố quan trọng
nên khái niệm chứng cứ đƣợc luật tố tụng dân sự của nhiều nƣớc đề cập đến.
Cá biệt còn có một số nƣớc xây dựng luật về chứng cứ thể hiện sự quan trọng
của vấn đề này.
Luật tố tụng dân sự Nhật Bản định nghĩa: “Chứng cứ là một tư liệu
thông qua đó một tình tiết được tòa án công nhận và là một tư liệu, cơ sở
thông qua đó tòa án được thuyết phục là một tình tiết có tồn tại hay không”
Theo quy định tại Điều 401 Luật chứng cứ liên bang Mỹ, khái niệm
chứng cứ đƣợc định nghĩa nhƣ sau: “Chứng cứ là những gì mà hàm chứa
trong nó sự tồn tại của bất cứ một sự thực nào mà bản thân sự hàm chứa đó
có ảnh hưởng tới việc xác định được một hành động hơn hoặc kém hơn”5
Theo Luật chứng cứ của Úc, khái niệm chứng cứ đƣợc hiểu là những gì
đƣợc dùng để chứng minh sự tồn tại của một tình tiết thực tế nào đó trong các

vụ án dân sự. Các sự kiện, tài liệu đƣợc sử dụng làm chứng cứ phải đƣợc thu
5

PGS.TS Nguyễn Minh Hằng, Bình luận những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015, tr.111, trích trong tài liệu: “Christopher B. Mueller, Laird C. Kirkpatrick
(1997), Federal rules of evidence – With advisory Committee Notes and legislative History
(as amended through December 1, 1996), tr.7”.


9

thập, kiểm tra, đánh giá theo trình tự, thủ tục và những nguyên tắc nhất định
theo quy định của Luật chứng cứ6.
Trong thế giới khách quan luôn tồn tại nhiều sự vật, hiện tƣợng khác
nhau đòi hỏi con ngƣời phải nhận thức và đánh giá. Trong mỗi sự vật, hiện
tƣợng lại có nhiều đặc tính khác nhau, có những đặc tính có thể nhận biết một
cách nhanh chóng, rõ ràng bằng các giác quan nhƣng cũng tồn tại những đặc
tính không thể nhận biết ngay mà phải trải qua một quá trình tƣ duy, giải
thích, móc nối các sự kiện để có thể đi đến đƣợc kết luận và việc đầu tiên là
phải đƣa ra những giả thuyết để định hƣớng tƣ duy. Từ những phân tích ở
trên, có thể định nghĩa chứng cứ trong vụ việc dân sự tại Điều 93 BLTTDS
2015, hoàn toàn phù hợp với lý luận về chứng cứ : “Chứng cứ trong vụ việc
dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu
thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử
dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác
định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.”
1.1.2 Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng dân sự.
Chứng cứ là những gì có thật, đƣợc thu thập theo trình tự, thủ tục của
Bộ luật Tố tụng dân sự, nhƣng nguồn của chứng cứ đƣợc xác định giới hạn

nhất định theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. So với quy định về
nguồn chứng cứ theo BLTTDS năm 2011 (sửa đổi, bổ sung), Điều 94 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung thêm các trƣờng hợp là nguồn của
chứng cứ sau:
- Dữ liệu điện tử: Giao dịch dân sự bằng dữ liệu điện tử đƣợc các bên
thực hiện truyền thông tin từ máy tính đến máy tính nhằm góp phần giản tiện
về thời gian, chi phí... nhƣng vẫn bảo đảm đƣợc hiệu quả của công việc. Đây
là phƣơng tiện hiện nay trong các mối quan hệ về dân sự, kinh doanh, thƣơng
6

PGS.TS Nguyễn Minh Hằng, Bình luận những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015, tr.112, trích trong tài liệu: “David Byrne QC & I. D. Heyden (1986), Cross on
Evidence, 3rd Australian Edition Butterworths”.


10

mại đƣợc sử dụng khá phố biến và phù hợp với Điều 1 Luật Giao dịch điện tử
năm 2005. Do đó, việc bổ sung nguồn chứng cứ này là cần thiết nhằm đáp
ứng đƣợc những yêu cầu thực tế đặt ra.
- Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do ngƣời có chức năng lập:
Không phải mọi văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý đều đƣợc xem là
nguồn của chứng cứ, mà văn bản đó chỉ có hiệu lực pháp lý khi đƣợc thực
hiện bởi ngƣời có chức năng lập. Theo quy định của pháp luật thì việc ghi
nhận lại sự kiện, hành vi pháp lý do những ngƣời khác nhau thực hiện. Việc
bổ sung nguồn chứng cứ này là để bảo đảm tốt hơn nữa quyền lợi của đƣơng
sự.
- Văn bản công chứng, chứng thực: Không phải mọi văn bản công
chứng, chứng thực đều là nguồn của chứng cứ mà văn bản công chứng, chứng
thực đó phải đƣợc thực hiện theo trình tự, thủ tục pháp luật về công chứng,

chứng thực quy định. Trong đời sống xã hội nói chung, giao dịch dân sự nói
riêng, do nhu cầu nên văn bản công chứng, chứng thực đƣợc thực hiện phổ
biến. Vì vậy, việc bổ sung nguồn văn bản công chứng, chứng thực là cần
thiết. Việc thực hiện công chứng, chứng thực do ngƣời của cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền thực hiện nên tính xác thực cao, có ý nghĩa quan trọng bảo
đảm quyền lợi trong đời sống xã hội nói chung, trong giao dịch dân sự nói
riêng, là cơ sở quan trọng để Tòa án có đƣợc quyết định chính xác trong bản
án, quyết định.
1.2 Một số vấn đề về hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng
dân sự
1.2.1 Khái niệm về hoạt động thu thập chứng cứ
Hoạt động tố tụng dân sự là hoạt động tìm kiếm, tiếp cận chân lý. Nếu
xét theo nghĩa hẹp của thuật ngữ, hoạt động tố tụng dân sự là hoạt động của
các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền trong quá trình giải quyết vụ kiện dân sự
nhằm xác định phạm vi, giới hạn quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng,
tạo cơ sở đảm bảo cho kết luận của Tòa án phù hợp với thực tiễn khách quan.
Nếu xét theo nghĩa rộng của thuật ngữ thì đây là hoạt động của tất cả các chủ


11

thể tham gia tố tụng với những vị trí tố tụng khác nhau nhằm chứng minh cho
một sự thật khách quan.
Trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh gắn liền với chủ thể có yêu
cầu, phản đối yêu cầu trƣớc Tòa án nên đƣơng sự, ngƣời đại diện, ngƣời bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự phải tiến hành thu thập các chứng
cứ nhằm cung cấp cho Tòa án để bảo vệ yêu cầu tố tụng của mình hay phản
bác yêu cầu tố tụng của đối phƣơng. Tuy nhiên, hoạt động thu thập chứng cứ
này không mang tính quyền lực nhà nƣớc nhƣ hoạt động thu thập chứng cứ
của Tòa án và Viện kiểm sát.

Vậy hoạt động thu thập chứng cứ đƣợc hiểu nhƣ thế nào?
Theo Đại từ điển Tiếng việt thì “Hoạt động là làm những việc khác
nhau với một mục đích nhất định trong đời sống”7, “Thu thập là nhặt nhạnh,
thu góp lại”8
Nhƣ vậy, kết hợp với khái niệm về chứng cứ đã phân tích ở phần 1, có
thể hiểu Hoạt động thu thập chứng cứ theo nghĩa đơn giản nhất là hoạt động
phát hiện, nhặt nhạnh, thu gom các vật khách quan có liên quan đến một vụ
việc dân sự để nghiên cứu đánh giá và giải quyết vụ án dân sự.
Xét về thực chất thì thu thập chứng cứ có thể do nhiều chủ thể tố tụng
tiến hành nhằm phát hiện, tập hợp chứng cứ trong vụ việc dân sự để nghiên
cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ việc dân sự. Việc thu thập chứng cứ có
ý nghĩa quan trọng đối với đƣơng sự trong việc chứng minh bảo vệ quyền lợi
của mình và có ý nghĩa đối với Tòa án trong việc làm rõ đƣợc các vấn đề của
vụ việc dân sự.
Các chủ thể của chứng minh nói chung đều có quyền, nghĩa vụ thu thập
chứng cứ. Trong tố tụng dân sự, đƣơng sự có nghĩa vụ chứng minh chủ yếu
nên đƣơng sự, ngƣời đại diện, ngƣời bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự phải tiến hành thu thập các chứng cứ để cung cấp cho tòa án. Khi
7

Đại từ điển tiếng việt (1999), Nxb. Văn hóa thông tin, tr. 827.

8

Đại từ điển tiếng việt (1999), Nxb. Văn hóa thông tin, tr. 1593.


12

thấy chƣa đủ chứng cứ, tài liệu để giải quyết vụ việc dân sự, tòa án xác định

các chứng cứ, tài liệu cần thu thập và yêu cầu các đƣơng sự cung cấp. Để đảm
bảo việc giải quyết đúng các vụ việc dân sự, tòa án có thể tiến hành thu thập
chứng cứ trong trƣờng hợp pháp luật có quy định. Theo đó Tòa án chỉ tiến
hành thu thập chứng cứ trong những trƣờng hợp đƣơng sự không thể tự mình
thu thập đƣợc chứng cứ và có yêu cầu. Ngoài ra, trong trƣờng hợp cần thiết
viện kiểm sát cũng có quyền thu thập chứng cứ.
Hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự đƣợc hiểu là hoạt
động tố tụng dân sự của các chủ thể chứng minh trong việc phát hiện, ghi
nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ bằng các phƣơng pháp, biện pháp theo
một trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Hoạt động thu thập
chứng cứ có ý nghĩa quan trọng đối với cả việc chứng minh của đƣơng sự và
việc giải quyết vụ việc dân sự của tòa án. Bởi, đƣơng sự chỉ có thể chứng
minh đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có chứng cứ, tòa án chỉ có
thể giải quyết đúng đƣợc vụ việc dân sự khi có đầy đủ các chứng cứ để làm rõ
đƣợc các vấn đề của vụ việc dân sự.
Tầm quan trọng của hoạt động thu thập chứng cứ trong quá trình giải
quyết vụ án dân sự với tƣ cách là hoạt động tố tụng dân sự cơ bản, đặt cơ sở,
nền tảng cho quá trình giải quyết vụ kiện.
1.2.2 Chủ thể của hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự
Chủ thể của hoạt động thu thập chứng cứ là những ngƣời bằng hành vi
của mình tham gia vào quá trình tìm kiếm, thu thập các nguồn chứng cứ chứa
đựng các sự kiện, tình tiết khách quan có thể là chứng cứ, làm cơ sở cho việc
chứng minh yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của các bên trong quá trình giải
quyết vụ án. Trƣớc khi BLTTDS năm 2004 ra đời, Tòa án đứng trên vai trò
vừa là ngƣời điều tra, xác minh sự thật, vừa là ngƣời “cầm cân nảy mực”, do
đó chủ thể của hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn này chỉ có Tòa
án. Tuy nhiên, sau khi BLTTDS năm 2004 ra đời, kế tiếp là BLTTDS năm
2011 (sửa đổi, bổ sung) đã đẩy mạnh vai trò chứng minh của đƣơng sự, dù
qua mỗi lần sửa đổi khác nhau, vai trò tham gia vào hoạt động của chủ thể



13

cũng thay đổi khác nhau, nhƣng đến nay chủ thể của hoạt động thu thập
chứng cứ không chỉ có Tòa án hay chỉ các đƣơng sự mà còn nhiều ngƣời khác
nhƣ Tòa án (Thẩm phán và Thẩm tra viên), đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích của
ngƣời khác, lợi ích công cộng, Viện kiểm sát. Xuất phát từ vị trí, vai trò của
những chủ thể này khi tham gia vào quá trình tố tụng là khác nhau nên vai trò
của họ trong hoạt động thu thập chứng cứ cũng khác nhau. Tuy nhiên, có thể
khẳng định rằng dù trực tiếp hay gián tiếp thì hoạt động thu thập chứng cứ
của các chủ thể này cũng phát sinh từ yêu cầu của đƣơng sự.
Thứ nhất, đương sự là người có quyền và nghĩa vụ chủ động thu
thập chứng cứ
Quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập chứng cứ của đƣơng sự đƣợc
hình thành dựa trên quy định của nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự:
“Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho
Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”
(Điều 6 BLTTDS năm 2015) áp dụng chung cho cả các cơ quan, tổ chức khởi
kiện bảo vệ quyền lợi cho ngƣời khác. Ngƣời khởi kiện phải thực hiện nghĩa
vụ giao nộp chứng cứ ngay khi nộp đơn khởi kiện tại tòa án. Bị đơn, ngƣời có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền cung cấp chứng cứ khi tòa án thông
báo về việc khởi kiện của nguyên đơn. Trƣớc kia, theo BLTTDS năm 2004
thì trong quá trình giải quyết vụ án, đƣơng sự có quyền cung cấp chứng cứ ở
bất kỳ giai đoạn nào, nếu không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ sẽ phải
chịu những hậu quả về việc đó, tại phiên tòa sơ thẩm đƣơng sự, ngƣời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự có quyền bổ sung chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, đƣơng sự còn có thể
giao nộp chứng cứ tại cấp phúc thẩm kèm theo đơn kháng cáo là tài liệu,
chứng cứ bổ xung nếu có để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ

và hợp pháp”, tại phiên tòa phúc thẩm, đƣơng sự, kiểm sát viên có quyền xuất
trình bổ sung chứng cứ; trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy
định của pháp luật, đƣơng sự cũng có thể giao nộp chứng cứ bổ sung tại tòa
án hoặc viện kiểm sát để bảo vệ cho quyền lợi của mình. Việc quy định


14

đƣơng sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và thời điểm cung cấp mở rộng tại
tất cả quá trình giải quyết là tạo điều kiện để đƣơng sự có thể phát huy hết khả
năng của mình trong việc cung cấp chứng cứ. Tuy nhiên, điều này lại làm ảnh
hƣởng đến việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng, do đó, BLTTDS năm 2015
đã giới hạn thời gian thu thập và giao nộp chứng cứ của đƣơng sự.
Đƣơng sự là ngƣời thu thập, cung cấp chứng cứ chủ yếu, tòa án chỉ
tham gia thu thập trong một số ít trƣờng hợp. Việc thu thập chứng cứ là trách
nhiệm của đƣơng sự đối với yêu cầu của mình, họ có sự chủ động trong các
thao tác thu thập, yêu cầu thu thập. Tuy nhiên không thể nói là việc thu thập
không có sự can thiệp của nhà nƣớc bởi nếu không can thiệp sẽ gây ra tình
trạng lộn xộn và đôi khi chứng cứ thu thập đƣợc không có giá trị pháp lý.
BLTTDS năm 2015 đã quy định đầy đủ các biện pháp và điều kiện để đƣơng
sự thực hiện quyền năng này. Khi vi phạm các điều kiện do luật định thì
chứng cứ do đƣơng sự thu thập đƣợc cũng sẽ không đƣợc chấp nhận, tạo ra
tính công bằng giữa các bên.
Đƣơng sự chính là ngƣời giao nộp chứng cứ cho Tòa án, chứng cứ
nhiều hay ít, có tính chính xác và liên quan mật thiết đến vụ việc tranh chấp
hay không sẽ giới hạn việc tranh luận giữa các bên, chứng cứ càng cụ thể, xác
đáng bao nhiêu thì việc tranh luận và hƣớng giải quyết vụ án của Tòa án càng
đơn giản bấy nhiêu.
Thứ hai, Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự
Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự là ngƣời đƣợc

đƣơng sự nhờ và tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đƣơng sự. Những ngƣời này có thể là luật sƣ hoặc bất cứ chủ
thể nào đủ điều kiện mà đƣơng sự tin tƣởng. Đây cũng là một chủ thể của
hoạt động chứng minh, họ có thể tham gia vào vụ án ở bất cứ giai đoạn nào,
đƣợc tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Liên
quan đến hoạt động thu thập chứng cứ, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự có quyền:


15

“2. Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho tòa án,
nghiên cứu hồ sơ vụ án và được sao chụp những tài liệu cần thiết trong hồ sơ
để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, vị trí pháp lý của
ngƣời bảo vệ quyền lợi của đƣơng sự không có gì khác so với đƣơng sự vì họ
cùng thuộc nhóm ngƣời tham gia tố tụng. Họ không có quyền thay mặt đƣơng
sự mà chỉ có thể giúp đỡ đƣơng sự. Suy cho cùng, trong hoạt động thu thập
chứng cứ đƣơng sự vẫn tự mình quyết định, tự mình thực hiện các quyền và
nghĩa vụ. Điều này cũng là một minh chứng cụ thể cho vai trò nổi bật của
đƣơng sự.
Thứ ba, Tòa án
Tòa án có một số quyền và nghĩa vụ nhƣ: tự mình tiến hành thu thập
chứng cứ trong một số trƣờng hợp pháp luật quy định, yêu cầu đƣơng sự nộp
bổ sung chứng cứ. Theo yêu cầu của đƣơng sự, hoặc Tòa án tự xét thấy cần
thiết thì tòa án sẽ quyết định các biện pháp thu thập chứng cứ nhƣ định giá tài
sản, lấy lời khai của ngƣời làm chứng, quyết định trƣng cầu giám định, giám
định bổ sung, đối chất…
Tòa án cũng thu thập chứng cứ mặc dù có hạn chế nhƣng việc hỗ trợ
đƣơng sự thu thập chứng cứ đƣợc thể hiện rõ ràng. Đây là những hoạt động

xen kẽ nhau, bổ sung cho nhau nhƣng vai trò của đƣơng sự thể hiện rõ ràng
hơn trong việc tự bảo vệ quyền lợi của mình – bản chất của tố tụng dân sự.
Việc đƣơng sự có chứng minh đƣợc hay không sẽ ảnh hƣởng trực tiếp đến
phán quyết của tòa án. Lý luận và thực tiễn việc giải quyết các vụ việc dân sự
của tòa án đã cho thấy, việc không chứng minh đƣợc một sự kiện liên quan
đến vụ việc dân sự có thể kéo theo việc ra một quyết định không có cơ sở làm
xâm phạm đến quyền lợi của các bên đƣơng sự không hoàn thành đƣợc nghĩa
vụ chứng minh của họ. Nhƣ vậy, vai trò trong hoạt động thu thập chứng cứ
của đƣơng sự rõ nét hơn tòa án. Hoạt động thu thập chứng cứ, chứng minh
của đƣơng sự là cơ sở cho hoạt động chứng minh của tòa án và bản án là một
sự ghi nhận lại kết quả quá trình chứng minh của đƣơng sự.


16

Thứ tư, Viện kiểm sát
Viện kiểm sát tham gia hoạt động thu thập chứng cứ là do tham gia vào
quá trình chứng minh thông qua hai hoạt động là tham gia phiên tòa và kháng
nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Viện kiểm sát tham gia phiên tòa “đối với những vụ án do tòa án thu
thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại”. Khi đó, tòa án nhân dân phải
chuyển hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát nghiên cứu (trừ trƣờng hợp Viện kiểm
sát cùng cấp với tòa án cấp phúc thẩm đã kháng nghị phúc thẩm và Viện kiểm
sát cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đã kháng
nghị theo theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm) trong một
thời gian luật định để tiến hành xem xét.
1.2.3 Ý nghĩa của việc thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự
Hoạt động thu thập chứng cứ là hoạt động chứng minh cơ bản trong
TTDS nhằm đem lại cho Tòa án các chứng cứ. Hoạt động giải quyết vụ việc
dân sự của Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự có đƣợc tốt

hay không phụ thuộc một phần rất lớn vào việc các chứng cứ có đƣợc cung
cấp đầy đủ hay không. Vì vậy, xét trên các mặt thu thập chứng cứ trong
TTDS có các ý nghĩa sau:
Thứ nhất, thu thập chứng cứ bảo đảm cho Tòa án giải quyết nhanh
chóng và đúng đắn vụ việc dân sự.
Có thể thấy rằng phải có chứng cứ thì mới phát sinh hoạt động nghiên
cứu, đánh giá chứng cứ. chứng cứ có vai trò làm rõ các tình tiết, sự kiện của
vụ việc dân sự. “Chứng cứ đƣợc dùng làm căn cứ để Tòa án xác định yêu cầu
hay phản đối yêu cầu của đƣơng sự có đúng hay không”9. Kết quả của hoạt
động nghiên cứu và đánh giá chứng cứ sẽ là nhận thức về vụ việc dân sự.
Nhận thức này có đúng đắn, khách quan và toàn diện hay không hoàn toàn
phụ thuộc vào các chứng cứ của vụ việc dân sự có đầy đủ hay không. Trong
TTDS, nghĩa vụ chứng minh chủ yếu thuộc về đƣơng sự nên đƣơng sự có
9

Trƣờng đại học Luật Hà Nội (năm 2012); Một số vấn đề lý luận về Chứng minh trong Tố
tụng dân sự, đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng.


17

nghĩa vụ thu thập chứng cứ. Tòa án chỉ đóng vai trò hỗ trợ đƣơng sự chứng
minh nên trong một số trƣờng hợp pháp luật quy định thì Tòa án mới trực tiếp
thu thập chứng cứ. Vì vậy, thu thập chứng cứ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đối với việc giải quyết nhanh chóng, chính xác vụ việc dân sự của Tòa án.
Nhờ hoạt động thu thập chứng cứ của đƣơng sự và các chủ thể khác trong
TTDS mà Tòa án có trong tay các chứng cứ mà có thể không phải tiến hành
các hoạt động thu thập chứng cứ để xem xét, đánh giá một cách khách quan,
toàn diện vụ việc dân sự, giải quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ việc dân sự.
Thứ hai, hoạt động thu thập chứng cứ có ý nghĩa đối với việc bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng như các hoạt động chứng minh
khác.
Các hoạt động chứng minh bao gồm: hoạt động cung cấp chứng cứ, thu
thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Trong đó hoạt động thu thập chứng cứ
là hoạt động có tính chất mở đầu hay tiền đề cho hoạt động nghiên cứu và
đánh giá chứng cứ.Theo các nhà nghiên cứu luật học thì xét cả dƣới góc độ lý
luận và thực tiễn thì chứng minh vẫn là biện pháp duy nhất để xác định các sự
kiện, tình tiết của vụ việc dân sự10. Các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc
dân sự đều xảy ra trƣớc khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ việc. Vì vậy, chỉ khi
thông qua các hoạt động chứng minh thì Tòa án mới biết rõ đƣợc các tình tiết,
sự kiện của vụ việc dân sự đƣợc giải quyết. Đối với các đƣơng sự, chứng
minh còn là biện pháp rất quan trọng để đƣơng sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chính mình trƣớc Tòa án, trƣớc Tòa án, nếu đƣơng sự không chứng
minh đƣợc sự tồn tại quyền, lợi ích hợp pháp của họ thì quyền và lợi ích hợp
pháp đó có thể sẽ không đƣợc Tòa an bảo vệ. Vì trên thực tế, Tòa án cũng có
thể đánh giá sai lầm trong việc xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân
sự, không làm sáng tỏ đƣợc các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự11. Điều
này một mặt dẫn đến việc giải quyết vụ việc dân sự không đúng với sự thật,
10

Trƣờng đại học Luật Hà Nội (năm 2012); Một số vấn đề lý luận về Chứng minh trong
Tố tụng dân sự, đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng
11

Trƣờng đại học Luật Hà Nội (năm 2012); Một số vấn đề lý luận về Chứng minh trong
Tố tụng dân sự, đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng


18


mặt khác không bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Do
vậy, chứng minh không chỉ có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ việc dân sự
của Tòa án đƣợc đúng đắn mà còn có ý nghĩa bản đảm cho đƣơng sự bảo vệ
đƣợc quyền, lợi ích hợp pháp của mình trƣớc Tòa. Hoạt động thu thập chứng
cứ là hoạt động chứng minh có tính chất mở đầu hay tiền đề cho các hoạt
động chứng minh khác nhƣ hoạt động nghiên cứu và hoạt động đánh giá
chứng cứ. Vì vậy, bên cạnh ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ việc dân sự của
Tòa án nêu trên thì cung cấp chứng cứ còn có ý nghĩa đối với việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự nhƣ các hoạt động
Từ việc thu thập đầy đủ chứng cứ kết hợp với hoạt động xác minh,
đánh giá chứng cứ để đảm bảo tính chính xác cao, có độ tin cậy tuyệt đối sẽ là
cơ sở, căn cứ cho việc đƣa ra các kết luận, quyết định của cơ quan tiến hành
tố tụng đối với từng vấn đề cụ thể của đối tƣợng chứng minh hoặc toàn bộ vụ
việc dân sự. Các kết luận, phán quyết của các chủ thể tiến hành tố tụng dựa
trên những tài liệu chứng cứ do đƣơng sự cung cấp và do tòa án thu thập đƣợc
sau khi nghiên cứu, kiểm tra, đối chiếu với các diễn biến của vụ việc, hồ sơ vụ
việc đƣợc khẳng định là hoàn toàn đúng đắn là cơ sở để khẳng định hoặc phủ
định những giả thuyết nêu ra trong quá trình chứng minh Dƣới góc độ thực
tiễn hoạt động thu thập chứng cứ là hoạt động cần thiết vừa có ý nghĩa bắt
buộc đối với ngƣời tiến hành tố tụng nói chung và đối với thẩm phán đƣợc
phân công giải quyết vụ việc nói riêng, vừa là biện pháp bảo đảm cho các
hoạt động tố tụng khác của quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nhất là trong
hoạt động xét xử tại phiên tòa và việc ra bản án, quyết định giải quyết vụ
kiện.
1.3 Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về thu thập
chứng cứ trong tố tụng dân sự.
1.3.1. Cơ sở lý luận của việc xây dựng các quy định về thu thập
chứng cứ trong tố tụng dân sự
Thứ nhất, việc xây dựng các quy định về thu thập chứng cứ xuất phát từ
đường lối của Đảng về hoạt động tư pháp.



19

Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang coi việc cải cách tƣ pháp là một
nội dung quan trọng, để hoàn thiện bộ máy Nhà nƣớc, bảo vệ quyền và lợi ích
của nhân dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết của Đảng qua
các thời kỳ đã chỉ rõ, vấn đề cải cách tƣ pháp, hoàn thiện pháp luật là những
vấn đề cấp bách trong điều kiện kinh tế xã hội có nhiều biến đổi, quá trình hội
nhập với khu vực và thế giới đang ngày một sâu rộng.
Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 2/1/2002 về Một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: “Khi xét
xử, các Tòa án phải đảm bảo mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
thực sự dân chủ, khách quan... Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ
yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện
các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên...nguyên đơn, bị đơn và những người
có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có
sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định. Các cơ quan tư pháp có
trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng”.
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 lại
một lần nữa chỉ rõ định hƣớng cơ bản về cải cách thủ tục tố tụng tƣ pháp
trong đó có thủ tục tố tụng dân sự đặt ra hai yêu cầu cốt lõi chính mang tính
chiến lƣợc là “bảo đảm thuận tiện cho dân” và “bảo đảm quyền tranh tụng
của các đương sự trong tố tụng dân sự”.
Nhƣ vậy có thể thấy những yêu cầu đặt ra đối với việc cải cách hệ
thống pháp luật tố tụng dân sự là những vấn đề trọng tâm để phù hợp với xu
thế hội nhập quốc tế cũng nhƣ sự phát triển của đất nƣớc, mà một trong những
định hƣớng quan trọng trong đó là đảm bảo quyền tranh tụng của các đƣơng
sự. Từ những yêu cầu cải cách tƣ pháp này, Hiến pháp năm 2013 đã thể chế

hóa và ghi nhận tại khoản 5 Điều 103: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
đƣợc bảo đảm”. Do đó, BLTTDS năm 2015 ra đời đã bổ sung nguyên tắc bảo
đảm tranh tụng trong xét xử và cụ thể hóa nguyên tắc này tại các quy định cụ
thể của BLTTDS năm 2015. Đây là một nội dung thể chế hóa quan điểm cải
cách tƣ pháp và cũng là một trong những sửa đổi quan trọng, ảnh hƣởng


×