Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài và thực tiễn áp dụng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

PHẠM THỊ HẰNG

THỦ TỤC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH
QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI NƢỚC NGOÀI
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI -2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

PHẠM THỊ HẰNG

THỦ TỤC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH
QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI NƢỚC NGOÀI
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số


: 60380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Anh Tuấn

HÀ NỘI -2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được
trích dẫn đúng theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và
trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Phạm Thị Hằng


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Luật Hà Nội,
các thầy cô Khoa sau đại học, Khoa pháp luật dân sự và cán bộ nhân viên Thư
viện Trường Đại học Luật Hà Nội – những người đã tạo điều kiện cho tôi
trong suốt quá trình tôi học tập, nghiên cứu và viết luận văn tại Trường.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Trần Anh Tuấn
- người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện công trình nghiên cứu này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới lãnh đạo và các đồng
nghiệp tại Tòa án nhân dân tối cao - nơi tôi công tác, gia đình, bạn bè –
những người đã luôn động viên, chia sẻ và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong

suốt thời gian vừa qua.
Hà Nội, ngày 11 tháng 8 năm 2017
Tác giả

Phạm Thị Hằng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Công ước New York năm 1958

Công ước New York

Bộ luật tố tụng dân sự
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) BLTTDS năm 2004
Luật Trọng tài thương mại năm 2010
Tố tụng dân sự

LTTTM
TTDS

Tòa án nhân dân

TAND


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...............................................................................................1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài .......................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................4

3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của Luận văn .......................5
4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn.........................7
5. Các phương pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện Luận văn ......................7
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn .................................................8
7. Bố cục của Luận văn ......................................................................................8
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC CÔNG NHẬN VÀ
CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI
NƢỚC NGOÀI .................................................................................................9
1.1. Khái niệm phán quyết của Trọng tài nước ngoài ........................................9
1.2. Khái niệm thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài
nước ngoài ........................................................................................................13
1.3. Đặc điểm của pháp luật về thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết
của Trọng tài nước ngoài ..................................................................................15
1.4. Ý nghĩa của việc quy định thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết
của Trọng tài nước ngoài ..................................................................................16
1.4.1. Về phương diện chính trị ........................................................................17
1.4.2. Về phương diện kinh tế ..........................................................................18
1.4.3. Về phương diện pháp luật ......................................................................19
1.5. Pháp luật của một số nước trên thế giới về thủ tục công nhận và cho thi
hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài ......................................................20
1.5.1. Pháp ........................................................................................................20
1.5.2. Vương quốc Anh ....................................................................................21
1.5.3. Hàn Quốc ................................................................................................23
1.5.4. Xin-ga-po ................................................................................................24
1.5.5. Trung Quốc .............................................................................................25
1.6. Khái quát các quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài ........27
1.6.1. Các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia ....................27
1.6.2. Pháp luật trong nước...............................................................................29
Chƣơng 2. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC CÔNG NHẬN VÀ

CHO THI HÀNH PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI NƢỚC NGOÀI ...33
2.1. Về một số quy định chung .........................................................................33
2.1.1. Phán quyết của Trọng tài nước ngoài được công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam .....................................................................................................33


2.1.2. Thẩm quyền của Toà án Việt Nam .........................................................34
2.1.3. Quyền yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài
nước ngoài ........................................................................................................35
2.1.4. Bảo đảm quyền kháng cáo, kháng nghị, thi hành phán quyết; chi phí tố
tụng ...................................................................................................................36
2.2. Trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
phán quyết của Trọng tài nước ngoài ...............................................................36
2.2.1. Hồ sơ yêu cầu ..........................................................................................36
2.2.2. Gửi hồ sơ và thụ lý hồ sơ .......................................................................38
2.2.3. Về chuẩn bị xét đơn yêu cầu ..................................................................40
2.2.4. Quy định về phiên họp xét đơn yêu cầu .................................................43
2.2.5. Gửi quyết định của Tòa án .....................................................................44
2.3. Những trường hợp không công nhận phán quyết của Trọng tài nước ngoài
..........................................................................................................................45
2.3.1. Các bên ký kết thoả thuận trọng tài không có năng lực để ký kết thoả
thuận đó theo pháp luật được áp dụng cho mỗi bên .........................................45
2.3.2. Thoả thuận trọng tài không có giá trị pháp lý theo pháp luật của nước
mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo pháp luật của nước nơi quyết định
đã được tuyên, nếu các bên không chọn pháp luật áp dụng cho thoả thuận đó46
2.3.3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thi hành không được thông báo kịp thời
và hợp thức về việc chỉ định trọng tài viên, về thủ tục giải quyết vụ tranh chấp
tại Trọng tài nước ngoài hoặc vì nguyên nhân chính đáng khác mà không thể
thực hiện được quyền tố tụng của mình ...........................................................46
2.3.4. Quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên về một vụ tranh chấp

không được các bên yêu cầu giải quyết hoặc vượt quá yêu cầu của các bên ký
kết thoả thuận trọng tài. Trong trường hợp có thể tách được phần quyết định
về vấn đề đã được yêu cầu và phần quyết định về vấn đề không được yêu cầu
giải quyết tại Trọng tài nước ngoài thì phần quyết định về vấn đề được yêu cầu
giải quyết có thể được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam .....................47
2.3.5. Thành phần của Trọng tài nước ngoài, thủ tục giải quyết tranh chấp của
Trọng tài nước ngoài không phù hợp với thoả thuận trọng tài hoặc với pháp
luật của nước nơi phán quyết của Trọng tài nước ngoài được tuyên, nếu thoả
thuận trọng tài không quy định về các vấn đề đó .............................................47
2.3.6. Phán quyết của Trọng tài nước ngoài chưa có hiệu lực bắt buộc đối với
các bên; Phán quyết của Trọng tài nước ngoài bị cơ quan có thẩm quyền của
nước nơi quyết định đã được tuyên hoặc của nước có pháp luật đã được áp
dụng huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành .................................................................48
2.3.7. Phán quyết của Trọng tài nước ngoài cũng không được công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam, nếu Toà án Việt Nam xét thấy theo pháp luật Việt
Nam, vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể thức trọng tài .................48


2.3.8. Việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài
nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam ................49
2.4. Về xét kháng cáo, kháng nghị .................................................................50
2.4.1. Kháng cáo, kháng nghị .........................................................................50
2.4.2. Về thời hạn và thành phần Hội đồng xét kháng cáo, kháng nghị ..........50
2.4.3. Về thẩm quyền của Hội đồng xét kháng cáo, kháng nghị ..................50
2.4.4. Về hiệu lực pháp luật của quyết định ..................................................51
Chƣơng 3.THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ THỦ TỤC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM
PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI NƢỚC NGOÀI VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN
NGHỊ ...............................................................................................................53
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về thủ tục công nhận và

cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài ....................53
3.1.1. Tình hình giải quyết đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
phán quyết của Trọng tài nước ngoài của Tòa án nhân dân các cấp ....................53
3.1.2. Một số trường hợp điển hình về không công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài ..............................................59
3.1.3. Một số vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn giải quyết yêu cầu công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài....................68
3.2. Một số đề xuất, kiến nghị về hoàn thiện và thực hiện pháp luật Việt Nam về
thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước
ngoài..................................................................................................................76
3.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật có liên quan ....................................76
3.2.2. Nâng cao năng lực và kinh nghiệm của Thẩm phán trong lĩnh vực
này ....................................................................................................................81
3.2.3. Tăng cường các hoạt động bổ trợ cho quá trình thực thi .......................82
KẾT LUẬN CHUNG .....................................................................................86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Giải quyết tranh chấp thương mại thông qua con đường trọng tài là một
thông lệ quốc tế và được nhiều nước trên thế giới lựa chọn do tính linh hoạt và
hiệu quả của phương thức trọng tài. Việc công nhận và cho thi hành quyết
định của Trọng tài nước ngoài có một ý nghĩa quan trọng, đảm bảo khả năng
thi hành quyết định Trọng tài cũng như tránh tình trạng về cùng một vụ việc
nhưng lại bị xét xử hai lần. Cùng với xu thế hội nhập, giao lưu kinh tế giữa các
quốc gia, số lượng yêu cầu công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài
nước ngoài ngày càng tăng ở hầu hết các quốc gia, dẫn đến sự hợp tác giữa các

nước về công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài. Công
ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành các quyết định của Trọng
tài nước ngoài (Công ước New York) có tầm ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới
về việc công nhận và cho thi hành các quyết định của Trọng tài nước ngoài,
với hơn 150 quốc gia thành viên. Tinh thần xuyên suốt của Công ước là ủng
hộ Trọng tài1, đồng thời khuyến khích các nước thành viên tạo điều kiện thuận
lợi để việc công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài tại
nước thành viên đó được dễ dàng, nhanh chóng. Đa phần các nước thành viên
Công ước New York áp dụng các điều khoản của Công ước để thực hiện thủ
tục công nhận và thi hành các phán quyết của Trọng tài nước ngoài trong
phạm vi quyền tài phán của nước họ. Những thủ tục tố tụng chi tiết của các
Tòa án ở các quốc gia đều khác nhau. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành đã khẳng
định mức độ ảnh hưởng của sự đồng nhất trong thủ tục công nhận và thi hành
phán của quyết Trọng tài nước ngoài ở hầu hết các quốc gia thương mại trên
thế giới (tạo hành lang pháp lý thuận lợi để thi hành Công ước New York và
tạo cơ chế thích hợp để hạn chế tối đa rào cản bất hợp lý đối với việc công
nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài, kết quả là phần lớn

1

] Joseph T. McLaughlin/Laurie Genevro, Enforcement of Arbitral Awards under the New
York Convention – Practice in U.S. Courts, Berkeley Journal of International Law, Vol. 3,
Issue 2, 1986, pp. 249-272.


2

các yêu cầu công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài
được chấp nhận).
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, là

thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới WTO, thành viên của Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), đặc biệt là sự thành lập Cộng đồng kinh
tế khu vực ASEAN (AEC) vào ngày 31-12-20152, với mục tiêu là xây dựng
một khu vực tạo điều kiện dòng chảy tự do về hàng hóa, dịch vụ, vốn đầu tư,
lao động có tay nghề và tiền vốn3. Do đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
trong nội khối các nước ASEAN ngày càng tăng4.
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, công cuộc cải cách pháp
luật và tư pháp ở nước ta đã diễn ra một cách toàn diện và đồng bộ, trong đó
có hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật trong
nước và gia nhập, ký kết các điều ước quốc tế về thủ tục công nhận và thi hành
quyết định của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Việt Nam gia nhập Công
ước New York từ năm 1995, chính thức từ ngày 12-9-1995, theo Quyết định
số 453/QĐ-CTN ngày 28-7-1995 của Chủ tịch nước. Ngoài ra, tính đến nay
Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế song phương với các nước khác về
tương trợ tư pháp, trong đó có đề cập đến việc công nhận bản án của Tòa án
cũng như phán quyết của Trọng tài nước ngoài. Trong số đó, 9 hiệp định dẫn
chiếu đến Công ước New York và 4 hiệp định có quy định riêng. Ngoài Công
ước New York và các hiệp định tương trợ tư pháp có nội dung liên quan đến
vấn đề công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài, Việt
Nam đã tham gia nhiều hiệp định, điều ước quốc tế có viện dẫn đến phương
thức trọng tài, trong đó có 64 Hiệp định bảo hộ đầu tư (BIT), 11 Hiệp định
thương mại tự do (FTA) và gần đây là Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái

Cộng đồng kinh tế ASEAN chính thức thành lập, tại: truy cập ngày 10-32016.
3
Ký kết tuyên bố thành lập Cộng đồng kinh tế khu vực ASEAN, tại:
truy cập ngày 10-3-2016.
4
Thu hút FDI từ các nước ASEAN, tại: truy cập ngày 10-3-2016.
2



3

Bình Dương (TPP). Quá trình đàm phán Hiệp định thương mại tự do Việt
Nam- Liên minh châu Âu (EVTFA) cũng vừa kết thúc.
Trên cơ sở Công ước New York và các Điều ước quốc tế đã ký kết hoặc
tham gia, thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài nước
ngoài được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật trong nước, như Pháp
lệnh công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước
ngoài năm 1995, được thay thế bằng Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa
đổi, bổ sung năm 2011). Mới đây, ngày 25-11-2015, Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Bộ luật tố
tụng dân sự 2015, có hiệu lực từ ngày 01-07-2016 thay thế BLTTDS năm
2004. Việc ra đời của Bộ luật TTDS mới này đã bổ sung thêm một số nội dung
mới trong quy định về thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của
Trọng tài nước ngoài để tháo gỡ một số vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp
dụng Bộ luật tố tụng dân sự trước đây.
Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện các quy định về thủ tục công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài trong hơn 20 năm
qua (kể từ khi gia nhập Công ước New York đến nay) cho thấy có nhiều
vướng mắc, bất cập. Tỷ lệ quyết định của Trọng tài nước ngoài bị từ chối công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam là rất cao so với các nước thành viên khác
của Công ước New York. Điều này đã làm ảnh hưởng đến uy tín của các cơ
quan tư pháp và môi trường đầu tư của Việt Nam. Do đó khắc phục vướng
mắc, bất cập; hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật Việt Nam về
thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước
ngoài là vô cùng cấp thiết.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Thủ tục công nhận và
cho thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài và thực tiễn áp dụng tại Việt

Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận,
thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn thi hành các quy định về thủ tục công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài. Trên
cơ sở nghiên cứu lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện, tác giả


4

Luận văn hướng tới việc xác định những hạn chế, vướng mắc, bất cập trong
quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án, trên cơ sở
đó đưa ra một số đề xuất, kiến nghị về hoàn thiện và thực hiện pháp luật Việt
Nam về thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng
tài nước ngoài.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ nghiên cứu luật học, đã có một số bài viết và công trình
nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến thủ tục công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài đăng trên các tạp chí,
đề tài khoa học và trong các luận văn. Tiêu biểu là Đề tài nghiên cứu cấp cơ sở
của Viện khoa học xét xử Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam: “Những vấn đề
lý luận và thực tiễn của công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài”
đăng trên cuốn Chuyên đề Khoa học xét xử của Viện khoa học xét xử Tòa án
nhân dân tối cao số 698-2009/CXB/02-237/TP (2009); Chuyên đề “Thi hành
quyết định của Trọng tài nước ngoài và việc tham gia Công ước New York của
tác giả Nguyễn Bích Vân – thuộc Đề tài nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp
về giải quyết tranh chấp kinh tế tại Việt Nam, năm 1996. Luận văn nghiên cứu
về lĩnh vực này có Luận văn thạc sỹ Luật học “Công ước New York 1958 về
công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài và việc thực hiện
tại Việt Nam” (2002), của tác giả Nguyễn Thị Anh Thư, Khoa Luật Đại học

Quốc Gia Hà Nội; Luận văn thạc sỹ Luật học với đề tài “Recognition and
enforcement of foreign arbitral awards: a look for a comparable regime for
Viet Nam – Công ước New York năm 1958 về Công nhận và thi hành quyết
định của Trọng tài nước ngoài: thử tìm một cơ chế thích hợp cho Việt
Nam” (2003) của tác giả Đặng Hoàng Oanh, Đại học Tổng hợp Nagoya, Nhật
Bản. Tác giả Đặng Hoàng Oanh cũng có bài “Vietnamese regulations on
recognition and enforcement of foreign arbitral awards – Pháp luật Việt nam
về công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài” –
đăng trên Tạp chí Grifins View, số tháng 01/2003, Đại học Tổng hợp


5

Amsterdam, Hà Lan và bài “Những vấn đề tồn tại trong pháp luật và thực tiễn
công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài: Thử
nhìn từ vụ việc TYCO” đăng trên trang điện tử của
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Gần đây nhất là bài
viết “Công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài”
(2017) của NCS. Lê Nguyễn Gia Thiện – Giảng viên Khoa Luật, Trường Đại
học Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đăng trên trang thông
tin điện tử .
Việc tìm hiểu cho thấy một số các bài viết và công trình nghiên cứu trên
mặc dù đã phân tích, luận giải tương đối chi tiết các quy định về thủ tục công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài nhưng
sự nghiên cứu đó đã cách đây khoảng từ 10 năm đến 15 năm, chủ yếu dựa trên
cơ sở của Pháp lệnh công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của
Trọng tài nước ngoài năm 1995 hoặc BLTTDS năm 2004. Một số công trình
mới đây đã nghiên cứu trên cơ sở BLTTDS năm 2015 nhưng mới chỉ nghiên
cứu trong một phạm vi hẹp, như phân tích, bình luận những điểm mới của
BLTTDS năm 2015 về thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam

phán quyết của Trọng tài nước ngoài hoặc gợi mở những vướng mắc bất
cập trong quá trình thực thi nhưng chưa đưa ra giải pháp khắc phục những
vướng mắc, bất cập đó. Cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu
một cách có hệ thống, toàn diện và chuyên sâu về thủ tục công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài theo quy định của
BLTTDS năm 2015 và thực tiễn thực hiện các quy định này.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của Luận văn
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn bao gồm:
- Một số vấn đề lý luận về thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài như khái niệm quyết định của Trọng
tài nước ngoài, thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài
nước ngoài; đặc điểm pháp luật về thủ tục công nhận và cho thi hành quyết


6

định của Trọng tài nước ngoài, ý nghĩa của thủ tục công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài;
- Quy định về thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài
nước ngoài theo pháp luật một số nước trên thế giới và Việt Nam;
- Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về thủ tục công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài tại một
số Tòa án của Việt Nam.
Do tên đề tài luận văn được đăng ký trước khi BLTTDS năm 2015 ra đời
nên tên đề tài đã sử dụng cụm từ “quyết định của Trọng tài nước ngoài” theo
cách gọi của BLTTDS năm 2004. Để thống nhất với BLTTDS năm 2015 (có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-07-2016), sau đây, tác giả sử dụng cụm từ “phán
quyết của Trọng tài nước ngoài” thay thế cho cụm từ “quyết định của Trọng tài
nước ngoài” trong Luận văn với nội hàm khái niệm không thay đổi.

* Phạm vi nghiên cứu
Với đối tượng nghiên cứu như trên, Luận văn không nghiên cứu thủ tục công
nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài của các nước trên thế
giới mà chỉ nghiên cứu khái quát một số quy định cơ bản trong pháp luật của một
số nước như Anh, Pháp, Xin-ga-po, Trung Quốc, Hàn Quốc về thủ tục công nhận
và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài để tham khảo.
Luận văn không phân tích chi tiết các quy định tại toàn bộ các văn bản pháp
luật điều chỉnh về công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước
ngoài mà chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
2015 về thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài
trong tương quan với Công ước New York, một số Hiệp định tương trợ tư pháp
mà Việt Nam ký kết và so sánh với quy định của BLTTDS năm 2004.
Trong khuôn khổ của Luận văn thạc sỹ, tác giả không có tham vọng
nghiên cứu về thực tiễn thực hiện thủ tục công nhận và cho thi hành phán
quyết của Trọng tài nước ngoài tại tất cả các Tòa án của Việt Nam. Việc
nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài


7

chủ yếu được thực hiện tại một số Tòa án như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh và Bình Dương trong những năm gần đây.
Việc nghiên cứu luật thực định của Việt Nam về thủ tục công nhận và
cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài và thực tiễn áp dụng chúng
tại Việt Nam được khai thác chủ yếu đối với những vấn đề được coi là trọng
tâm của bất cập, vướng mắc hiện nay, làm cho pháp luật của Việt Nam về thủ
tục công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài trở nên dị
biệt, không đáp ứng được yêu cầu mà công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế đặt
ra. Do vậy, bên cạnh những vấn đề về thủ tục thì các căn cứ để Tòa án Việt

Nam bác yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước
ngoài cũng được quan tâm nghiên cứu.
4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn là đề xuất giải pháp để hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật Việt Nam về thủ tục công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu này, Luận văn xác định các
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
- Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục công nhận
và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài;
- Nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp một số nước về thủ tục công nhận và cho
thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài nhằm rút ra bài học cho Việt Nam;
- Đánh giá được thực trạng các quy định hiện hành của Việt Nam về thủ
tục công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài và thực
tiễn áp dụng chúng ở Việt Nam, đặc biệt là xác định những hạn chế, bất cập,
vướng mắc, tồn tại cần phải khắc phục trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện Luận văn
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lê Nin, quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chính sách của Đảng, Nhà
nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, Luận văn sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành khác như phương
pháp lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp và phương pháp xã hội học
như khảo sát, lấy số liệu, sử dụng kết quả tài liệu chuyên ngành .v.v...


8

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài theo

quy định của BLTTDS năm 2015. Do vậy, Luận văn có ý nghĩa khoa học và
thực tiễn nhất định và được thể hiện ở những phương diện sau đây:
- Góp phần hoàn thiện lý luận khoa học về thủ tục công nhận và cho thi
hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
- Phân tích tương đối đầy đủ các quy định về thủ tục công nhận và cho
thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài của BLTTDS năm 2015 trong
sự tương quan so sánh với Công ước New York, các hiệp định tương trợ tư
pháp mà Việt Nam đã ký kết và BLTTDS năm 2004.
- Cung cấp tương đối đầy đủ và phân tích, đánh giá chi tiết thực tiễn thi
hành các quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài trong hơn 20 năm qua (từ
khi Việt Nam gia nhập Công ước New York đến nay);
- Chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật và một số vướng mắc trong
thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật thủ tục công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
- Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, Luận văn đề xuất những giải
pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài và nâng cao hiệu quả áp dụng.
- Kết quả nghiên cứu của Luận văn có những giá trị ứng dụng sau đây:
+ Có thể ứng dụng trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật
hướng dẫn thi hành các quy định của BLTTDS năm 2015 về thủ tục công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
+ Có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác xây dựng, sửa đổi,
bổ sung các văn bản Luật, Pháp lệnh và các văn bản có liên quan…
+ Sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy, tài liệu tham khảo cho
Thẩm phán, những người làm công tác thực tiễn liên quan đến thủ tục công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu bởi 3 chương:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thủ tục công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài
Chương 2. Pháp luật Việt Nam về thủ tục công nhận và cho thi hành
phán quyết của Trọng tài nước ngoài
Chương 3. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về thủ tục
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài
và đề xuất, kiến nghị.


9

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC
CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM
QUYẾT ĐỊNH CỦA TRỌNG TÀI NƢỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm phán quyết của Trọng tài nƣớc ngoài
Trọng tài thương mại là cơ quan tài phán tư để giải quyết tranh chấp mà các
phán quyết Trọng tài có giá trị ràng buộc đối với các bên tranh chấp. Thủ tục thi
hành phán quyết của Trọng tài trong nước thì tương đối đơn giản. Tuy nhiên, thi
hành phán quyết của Trọng tài “có yếu tố nước ngoài” hay “quốc tế” (phán quyết
của Trọng tài nước ngoài) thì phức tạp hơn vì phải qua thủ tục công nhận và cho
thi hành tại Tòa án nơi thi hành phán quyết của Trọng tài.
Khái niệm phán quyết của Trọng tài nước ngoài được đề cập tại Công ước
New York về công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài với
156 quốc gia thành viên đã được Việt Nam phê chuẩn ngày 12-09-1995 và có
hiệu lực ngày 11-12-1995 theo quyết định số 453/QD-CTN ngày 28-07-1995
của Chủ tịch nước. Theo quy định tại Điều I của Công ước New York thì
“Công ước này áp dụng đối với việc công nhận và thi hành các phán quyết của
Trọng tài được ban hành tại lãnh thổ của một Quốc gia khác với Quốc gia nơi có
yêu cầu công nhận và thi hành quyết định Trọng tài đó, xuất phát từ các tranh

chấp giữa các thể nhân hay pháp nhân. Công ước còn được áp dụng cho những
phán quyết của Trọng tài không được coi là phán quyết trong nước tại Quốc gia
nơi việc công nhận và thi hành chúng được yêu cầu”.5
Như vậy, theo quy định của Công ước New York, một phán quyết Trọng
tài sẽ được xem là phán quyết của Trọng tài nước ngoài nếu thuộc một trong
hai trường (i) phán quyết của Trọng tài được ban hành tại lãnh thổ của một
Quốc gia khác với Quốc gia nơi có yêu cầu công nhận và thi hành quyết định
Trọng tài đó; (ii) phán quyết của Trọng tài không được coi là phán quyết trong
nước tại Quốc gia nơi việc công nhận và thi hành chúng được yêu cầu.

Điều I.1 Công ước New York.

5


10

Yếu tố chính để xác định “quốc tịch” của phán quyết của Trọng tài là địa
điểm nơi phán quyết của Trọng tài được ban hành. Ngoài ra, phụ thuộc vào
pháp luật của từng quốc gia, một phán quyết của Trọng tài được tuyên tại
chính nước đó nhưng vẫn có thể bị coi là phán quyết của Trọng tài nước
ngoài.6 Mặt khác, phán quyết của Trọng tài được tuyên tại nước không phải
nơi Trọng tài đó được thành lập vẫn có thể được xác định là phán quyết của
Trọng tài trong nước nếu pháp luật của quốc gia đó cho phép như vậy7.
Ví dụ: ở một số quốc gia như Úc, Brazil, Cameroon, Anh, Đức,
Luxembourg, Hà Lan và Tây Ban Nha thì tiêu chí duy nhất để xem xét phán
quyết có phải là phán quyết nước ngoài được điều chỉnh bởi Công ước New
York hay không là phán quyết đó được ban hành tại quốc gia khác với quốc
gia nơi được yêu cầu công nhận và cho thi hành.
Tại Ấn Độ, Tòa Tối Cao của Ấn Độ ban đầu cho rằng phán quyết được

tuyên ở ngoài lãnh thổ Ấn Độ theo luật tố tụng của Ấn Độ là phán quyết trong
nước và không phải là phán quyết của Trọng tài nước ngoài theo Công ước New
York. Tuy nhiên gần đây, Tòa án Tối cao Ấn Độ đã thay đổi quan điểm và ghi
nhận rằng Tòa án Ấn Độ sẽ chỉ có thẩm quyền xem xét phán quyết được tuyên ở
lãnh thổ nước khác khi phán quyết đó được yêu cầu thi hành tại Ấn Độ.8
Tại Trung Quốc, Tòa án cho rằng phán quyết được điều chỉnh bởi Công
ước New York nếu được ban hành bởi hội đồng Trọng tài của một trung tâm
Trọng tài nước ngoài. Ví dụ, trong một vụ việc, Tòa án Trung Quốc đã quyết
định rằng phán quyết được tuyên tại Paris thuộc phạm vi điều chỉnh của Công
ước New York vì phán quyết này được ban hành bởi một hội đồng Trọng tài
thuộc Phòng Thương Mại Quốc tế (ICC). Trong một vụ việc khác, Tòa án
6

Hướng dẫn của UNCITRAL, Điều I, xem tại:

/>view=-1
TS Đỗ Văn Đại, Làm thế nào để Trọng tài Việt Nam là chỗ dựa cho doanh nghiệp, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 117, năm 2008, sđd, trang 36.
8
Hướng dẫn của UNCITRAL, Điều I, xem tại:
7

/>view=-1


11

Trung Quốc cũng quyết định rằng phán quyết được tuyên tại Mông Cổ sẽ phải
trải qua thủ tục công nhận và cho thi hành theo Công ước New York vì nó
được ban hành bởi một tổ chức Trọng tài Mông Cổ. Hơn nữa, Tòa án Trung Quốc

còn nhận định rằng các phán quyết của Trọng tài vụ việc có thể được thi hành theo
Công ước New York nếu địa điểm Trọng tài ở ngoài lãnh thổ Trung Quốc.9
Công ước New York không có định nghĩa thế nào là “phán quyết của
Trọng tài”, tuy nhiên theo Bản Hướng dẫn của Ban thư ký UNCITRAL về
Công ước New York (Bản hướng dẫn của UNCITRAL) thì chỉ những quyết
định được ban hành bởi Trọng tài viên nhằm giải quyết toàn bộ hay một vài
vấn đề của vụ tranh chấp một cách chung thẩm và có hiệu lực ràng buộc, bao
gồm cả vấn đề về thẩm quyền mới được xem là “phán quyết của Trọng tài”.10
Hội đồng Trọng tài có thể ban hành quyết định từng phần để giải quyết
chung thẩm một hoặc nhiều phần riêng biệt của vụ tranh chấp. Nói cách khác,
phán quyết từng phần được xem là phán quyết cuối cùng đối với vấn đề được
xem xét trong phán quyết.11 Như đã được nhận định rõ trong với Bản hướng
dẫn của UNCITRAL, “phán quyết của Trọng tài là chung thẩm không phải bởi
vì nó chấm dứt tố tụng Trọng tài hay chức năng nhiệm vụ của Hội đồng Trọng
tài mà bởi vì nó là quyết định cuối cùng để giải quyết tranh chấp được đưa ra
Trọng tài”.12
Ngược lại, những quyết định sau đây thường không được coi là phán quyết:
- Các mệnh lệnh về thủ tục, nghĩa là các quyết định chỉ nhằm tổ chức quá
trình tố tụng;
Hướng dẫn của UNCITRAL, Điều I, xem tại:

9

/>view=-1
Hướng dẫn của Ban thư ký UNCITRAL, xem thêm tại:
/>view=-1
10

Hội thảo của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển, trang 7, tham khảo tại:
/>11


Drummond Ltd. v. Instituto Nacional de Concesiones – INCO et al., Supreme Court of
Justice, Colombia, 19 December 2011 and 3 May 2012, XXXVII Y.B. COM. ARB. 205
(2012).
12


12

- Quyết định về biện pháp tạm thời hoặc biện pháp khẩn cấp tạm thời. Vì
những quyết định này chỉ được ban hành trong giai đoạn tố tụng Trọng tài và
có thể được xem xét lại trong quá trình đó, các biện pháp tạm thời không phải
là phán quyết.
Như vậy, để xác định liệu một quyết định Trọng tài có được coi là phán
quyết của Trọng tài hay không, Tòa án phải xem xét liệu quyết định đó có giải
quyết “chung thẩm” vấn đề và “có hiệu lực ràng buộc” các bên hay không chứ
không nên chỉ dựa trên tên gọi mà hội đồng Trọng tài đặt cho quyết định của họ.
Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2015 định nghĩa về phán quyết của
Trọng tài nước ngoài tại khoản 2 Điều 424 như sau:
“Phán quyết của Trọng tài nước ngoài quy định tại khoản 1 Điều này
được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam là phán quyết cuối cùng
của Hội đồng Trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp, chấm dứt
tố tụng Trọng tài và có hiệu lực thi hành”.
Quy định này tương thích với khái niệm “phán quyết của Trọng tài” tại
khoản 10 Điều 3 của LTTTM.13 Tuy nhiên, so với Công ước New York thì
BLTTDS năm 2015 đặt thêm hai tiêu chí để một quyết định Trọng tài được
xem là phán quyết của Trọng tài, đó là:
- Thứ nhất, phán quyết đó phải giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh
chấp; và:
- Thứ hai, chấm dứt tố tụng Trọng tài; theo đó, phán quyết từng phần và

phán quyết sơ bộ có thể không được công nhận và cho thi hành ở Việt Nam
trừ khi được Hội đồng Trọng tài ghi nhận trong phán quyết cuối cùng.
Khoản 3 Điều 424 của BLTTDS năm 2015 dẫn chiếu đến quy định
của LTTTM về định nghĩa Trọng tài nước ngoài, phán quyết của Trọng tài
nước ngoài.
Khoản 11 Điều 3 của LTTTM quy định:“Trọng tài nước ngoài là Trọng
tài được thành lập theo quy định của pháp luật Trọng tài do các bên thỏa

Điều 3.10- LTTTM: Phán quyết của Trọng tài là quyết định của Hội đồng Trọng tài giải
quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng Trọng tài.
13


13

thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh chấp ở ngoài lãnh thổ Việt Nam
hoặc trong lãnh thổ Việt Nam”.
Khoản 12 Điều 3 của LTTTM quy định: “Phán quyết của Trọng tài nước
ngoài là phán quyết do Trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam
hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên thỏa
thuận lựa chọn”.
Như vậy, định nghĩa về phán quyết của Trọng tài nước ngoài theo pháp
luật Việt Nam không căn cứ vào địa điểm nơi phán quyết được ban hành mà
dựa vào việc xác định Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp có phải là Trọng tài
nước ngoài hay không. Nói cách khác, định nghĩa này rơi vào trường hợp thứ
hai của Công Ước New York, theo đó phán quyết của Trọng tài nước ngoài là
“phán quyết không được coi là phán quyết của Trọng tài trong nước”. Tức là,
cho dù phán quyết của Trọng tài nước ngoài được tuyên tại lãnh thổ Việt Nam
cũng không được xem là phán quyết trong nước mà phải được xem là phán
quyết của Trọng tài nước ngoài và phải thông qua thủ tục công nhận và cho thi

hành theo BLTTDS để có thể thi hành tại Việt Nam.
1.2. Khái niệm thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của
Trọng tài nƣớc ngoài
Theo định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt14 thì “công nhận” là việc thừa
nhận trước mọi người là hợp với sự thật, với lẽ phải hoặc hợp với thể lệ luật pháp
và “thi hành” là làm cho thành có hiệu lực điều đã được chính thức quyết định.
Theo định nghĩa trong Từ điển Luật học15 thì công nhận và cho thi hành
phán quyết của Trọng tài nước ngoài là thừa nhận giá trị pháp lý và áp dụng
các biện pháp để thực hiện phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
Bản chất của công nhận là một quy trình bảo vệ. Nó được đưa ra với mục
đích ngăn ngừa một bên tranh chấp tiếp tục khởi kiện vụ việc đã được giải
quyết. Bên được hưởng lợi từ quyết định sẽ phản đối rằng tranh chấp đã được
quyết định, chứng minh bằng việc Toà án công nhận rằng quyết định có hiệu
Từ điển tiếng Việt - Viện ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển học, Nhà xuất bản Đà Nẵng,
2003.
15
Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, Từ điển Luật học, Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội năm 2006.
14


14

lực và ràng buộc các bên liên quan tới những vấn đề đã được giải quyết.
Thi hành sẽ là bước tiếp theo của công nhận. Toà án sẽ cho phép thi hành
quyết định với những công cụ pháp lý sẵn có nếu thấy và công nhận nó là một
quyết định có hiệu lực và ràng buộc các bên. Trong trường hợp này, công nhận
và thi hành là hai thuật ngữ đi cùng và là một bộ phận của nhau.
Hai thuật ngữ “công nhận” và “thi hành” thường được sử dụng đi kèm
nhau. Công ước New York thể hiện là "công nhận và thi hành" phán quyết của
Trọng tài nước ngoài, Công ước Genevơ năm 1972 cụ thể hơn khi tách biệt

"công nhận hoặc thi hành"16. Một quyết định có thể được công nhận mà không
được thi hành. Tuy nhiên, Toà án cần phải công nhận quyết định đó trước khi
cho thi hành.
Bản thân khái niệm “công nhận và cho thi hành” thì lại không thể được
hiểu với nghĩa tách biệt như vậy mà khái niệm này cần được hiểu theo hướng
kết hợp cả nội dung “công nhận” và nội dung “thi hành”. Công nhận là hành vi
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thừa nhận phán quyết của Trọng tài đã
có hiệu lực pháp luật còn thi hành được hiểu là việc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền làm cho quyết định đó được thực thi trên thực tế.
Như vậy, khái niệm công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài
nước ngoài được hiểu như sau:
“Công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài là
hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của một quốc gia thừa nhận giá
trị (hiệu lực) pháp lý phán quyết của Trọng tài nước ngoài và làm cho phán
quyết của Trọng tài nước ngoài đó có hiệu lực cưỡng chế thi hành trên thực tế
trên lãnh thổ quốc gia đó”.
Từ định nghĩa này có thể xác định được thủ tục công nhận và cho thi
hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài là thủ tục mà theo đó Toà án của
một quốc gia sẽ xem xét, quyết định trao hiệu lực thi hành tại quốc gia đó cho
phán quyết của Trọng tài nước ngoài có yêu cầu công nhận và cho thi hành.
Việc sử dụng này cũng được thực hiện tại Đạo luật về Trọng tài của Anh năm 1996, đạo
luật này phân biệt giữa công nhận quyết định của Công ước New York s.101(1) và việc thi
hành (s101(2)). Đạo luật này cũng phân biệt sự khác biệt trong các mục có liên quan khác.
16


15

1.3. Đặc điểm của pháp luật về thủ tục công nhận và cho thi hành
phán quyết của Trọng tài nƣớc ngoài

Pháp luật công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước
ngoài là một chế định được thể hiện trong các văn bản pháp luật về tố tụng dân
sự, về Trọng tài, về tương trợ tư pháp trong các điều ước quốc tế về tương trợ
tư pháp. Do đó, chế định này vừa mang những đặc điểm của pháp luật tố tụng
dân sự, đặc điểm của pháp luật Trọng tài vừa mang những đặc điểm của tư
pháp quốc tế. Bên cạnh đó, chế định công nhận và cho thi hành phán quyết của
Trọng tài nước ngoài còn có những đặc điểm đặc thù như sau:
Thứ nhất, xuất phát từ tính chất phi chính phủ của Trọng tài mà việc
công nhận phán quyết của Trọng tài nước ngoài không đương nhiên được đặt
ra. Toà án các nước cũng như Toà án Việt Nam chỉ công nhận và cho thi hành
phán quyết của Trọng tài nước ngoài khi có đơn yêu cầu công nhận và cho thi
hành. Điều này khác với bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài,
xuất phát từ nguyên tắc công nhận quốc tế thì bản án, quyết định dân sự của
Toà án nước ngoài có thể sẽ đương nhiên được công nhận tại một quốc gia
ngay cả khi không có yêu cầu công nhận.
Thứ hai, đối với yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của
Trọng tài nước ngoài bên cạnh các thủ tục theo quy định, thì điều kiện quan
trọng để công nhận và thi hành là phải có thoả thuận Trọng tài thể hiện ý chí
của các bên. Nội dung tranh chấp trong phán quyết của Trọng tài nước ngoài
thông thường chỉ giới hạn tranh chấp trong lĩnh vực thương mại theo quy định
của Điều ước quốc tế hoặc pháp luật quốc gia.
Thứ ba, công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài
là thủ tục xem xét, quyết định trao hiệu lực thi hành tại quốc gia nào đó cho
phán quyết của Trọng tài nước ngoài được yêu cầu. Do đó, thủ tục xem xét
yêu cầu (nếu không được quy định trong các điều ước quốc tế) sẽ phải tuân
thủ theo quy định trong pháp luật của quốc gia nơi phán quyết của Trọng tài
nước ngoài đó được yêu cầu. Phán quyết của Trọng tài nước ngoài chỉ được
xem xét công nhận và cho thi hành nếu tuân thủ đầy đủ các điều kiện trong các
điều ước quốc tế cũng như pháp luật quốc gia. Để phán quyết của Trọng tài



16

nước ngoài phát huy hiệu lực tại một quốc gia khác thì phán quyết của Trọng
tài nước ngoài phải chịu sự kiểm tra của Toà án có thẩm quyền của quốc gia
đó theo những điều kiện và thủ tục nhất định.
Thứ tư, phán quyết của Trọng tài nước ngoài nếu được công nhận và cho
thi hành tại một quốc gia thì nó có giá trị chứng cứ và chứng minh tại quốc gia
đó. Hay nói các khác với tư cách là một văn bản viết, phán quyết của Trọng tài
nước ngoài khi được công nhận hiệu lực thi hành được coi là một nguồn
chứng cứ, chứng minh. Ví dụ: có thể sử dụng phán quyết của Trọng tài nước
ngoài đã được công nhận và cho thi hành làm chứng cứ trong vụ kiện về phá
sản hay thực hiện các biện pháp kê biên tài sản; có thể dùng nó làm căn cứ
thực tế cho vụ kiện đòi thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm đối với tài sản bị đòi lại
theo phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
Thứ năm, thông thường trong các điều ước quốc tế hoặc hiệp định tương
trợ tư pháp giữa các quốc gia về công nhận và cho thi hành phán quyết của
Trọng tài nước ngoài thì việc áp dụng pháp luật tố tụng của quốc gia nơi phán
quyết của Trọng tài nước ngoài cần được công nhận và thi hành theo hướng
không được đặt ra các điều kiện nặng hơn hoặc các chi phí cao hơn với việc
thi hành phán quyết của Trọng tài trong nước (ví dụ như quy định tại Điều 3
của Công ước New York).
Các quy định nêu trên thể hiện đặc điểm áp dụng pháp luật tố tụng của
quốc gia nơi phán quyết của Trọng tài cần được công nhận và thi hành phải trên
cơ sở nguyên tắc bình đẳng mà không được có sự phân biệt đối xử giữa các
quốc gia với nhau.
1.4. Ý nghĩa của việc quy định thủ tục công nhận và cho thi hành
phán quyết của Trọng tài nƣớc ngoài
Cùng với xu thế hội nhập, giao lưu kinh tế giữa các quốc gia, số lượng
các tranh chấp thương mại quốc tế ngày càng gia tăng. Với những ưu thế nổi

trội, trọng tài được sử dụng là một phương thức chủ yếu để giải quyết các
tranh chấp thương mại quốc tế. Tuy nhiên, Trọng tài nước ngoài thì không có
vai trò trong việc thi hành phán quyết của mình mà lệ thuộc vào hệ thống pháp
luật quốc gia nơi phán quyết của Trọng tài được yêu cầu công nhận và thi


17

hành. Các Điều ước quốc tế đa phương và song phương về công nhận và thi
hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài tương đối đầy đủ, điển hình như
Công ước New York năm 1958 mà Việt Nam đã tham gia, đã khẳng định mức
độ ảnh hưởng của sự đồng nhất trong việc công nhận và thi hành phán quyết
của Trọng tài ở hầu hết các quốc gia thành viên. Do đó, phát huy hiệu quả của
pháp luật về vấn đề này trong những điều kiện phù hợp có ý nghĩa chính trị,
kinh tế và pháp lý quan trọng.
1.4.1. Về phương diện chính trị
Công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài làm
thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các quốc gia. Sự công nhận và thi
hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, phán quyết của Trọng
tài nước ngoài ở một quốc gia vừa khẳng định quyền tài phán của quốc gia đó
vừa thể hiện thiện sự tôn trọng và bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp không chỉ
của các cá nhân, tổ chức nước mình mà còn cả lợi ích của các cá nhân, tổ chức
nước ngoài. Điều này góp phần thúc đẩy sự phát triển hợp tác hữu nghị giữa
các quốc gia.
Việt Nam đang trên đà hội nhập quốc tế sâu rộng. Ngoài Công ước New
York và các hiệp định tương trợ tư pháp, nội dung liên quan đến vấn đề công
nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài Việt Nam đã tham
gia nhiều hiệp định, điều ước quốc tế có viện dẫn đến phương thức trọng tài,
trong đó có 64 Hiệp định bảo hộ đầu tư (BIT), 11 Hiệp định thương mại tự do
(FTA) và gần đây là Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Quá trình đàm phán Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- Liên minh châu
Âu (EVTFA) cũng vừa kết thúc. Do vậy, việc công nhận và thi hành phán
quyết của Trọng tài nước ngoài vừa giúp tạo dựng tín nhiệm của Việt Nam đối
với quốc tế, vừa là nghĩa vụ thực hiện các cam kết quốc tế. Chẳng hạn như
Công ước New York không quy định cụ thể quy trình, thủ tục xem xét việc
công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài mà để cho
pháp luật quốc gia quy định. Tuy nhiên, các điều kiện cơ bản, tối thiểu mà
Công ước đã liệt kê thì pháp luật quốc gia không được xâm phạm. Trong quá
trình thi hành Công ước New York, nếu Việt Nam vi phạm cam kết thì không


×