Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Thực tiễn thi hành pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.28 KB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN VÂN ANH

THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MINH HẰNG

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất
nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng dẫn của các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè trong
suốt khóa học cũng như thời gian nghiên cứu đề tài luận văn.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban
giám hiệu, toàn thể quý thầy, cô, cán bộ, nhân viên trong Phòng đào tạo, Khoa Sau đại học,
Khoa pháp luật kinh tế và cán bộ, nhân viên thư viện trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn
thạc sĩ.


Xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến TS. Nguyễn Minh Hằng, người đã
tận tình hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn
ở cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn thạc sĩ này.
Hà Nội, ngày 25 tháng 7 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Vân Anh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá nhân tôi. Mọi
tài liệu, số liệu trong luận văn là khách quan, trung thực. Những kết quả, những đánh giá
trong luận văn chưa được ai công bố ở bất kỳ một công trình nghiên cứu khoa học nào.
Hà Nội ngày 25 tháng 7 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Vân Anh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Agribank

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam

AMC

Asset Management Company (Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
trực thuộc ngân hàng thương mại)


DATC

Debt and Asset Trading Corporation (Công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên Mua bán nợ Việt Nam)

NHTM

Ngân hàng thương mại

TCTD

Tổ chức tín dụng

VAMC

Vietnam Asset Management Company (Công ty quản lý tài sản của các
Tổ chức tín dụng Việt Nam)


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1

Tiêu chí phân loại nợ theo hướng dẫn của WB

Bảng 2.2

Tình hình nợ xấu tại Agribank giai đoạn 2013 – 2015

Bảng 2.3


Tỷ trọng nợ xấu tại Agribank giai đoạn 2013 – 2015

Bảng 2.4

Tình hình nợ xấu tại địa bàn Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh giai đoạn
2013 – 2015

Bảng 2.5

Nợ xấu bán cho VAMC của Agribank giai đoạn 2013 – 2015

Bảng 2.6

Hoạt động mua và thu hồi nợ của VAMC giai đoạn 2013 – 2015

Bảng 2.7

Nợ xấu được xử lý tại Agribank giai đoạn 2013 – 2015

Biểu đồ 2.1

Số lượng các doanh nghiệp phá sản, giải thể, ngừng hoạt động giai
đoạn 2013 – 2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH PHÁP LUẬT XỬ

LÝ NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
6
1.1. Tổng quan về nợ xấu và xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại.
6
1.1.1. Tổng quan về nợ xấu
6
1.1.2. Tổng quan về xử lý nợ xấu
20
1.2. Pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại
24
1.2.1. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về xử lý nợ xấu
24
1.2.2. Nội dung cơ bản pháp luật về xử lý nợ xấu
25
1.3. Khái quát về thi hành pháp luật xử lý nợ xấu trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại
29
1.3.1. Khái quát về thi hành pháp luật
29
1.3.2. Thi hành pháp luật ở lĩnh vực xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại
31
Kết luận chương 1
31
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ

PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM
32
2.1. Thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại
32
2.1.1. Quy định về phân loại nợ
32
2.1.2. Quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ
37
2.1.3. Quy định về trích lập dự phòng rủi ro
38
2.1.4. Quy định về xử lý tài sản bảo đảm
41
2.1.5. Quy định về bán nợ
45
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
50
2.2.1. Tình hình nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam giai đoạn 2013 – 2015
50
2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định về xử lý nợ xấu trong hoạt động cho
vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
55
Kết luận chương 2
62
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ
NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG NÔNG
NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM
63



3.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu
63
3.2. Các giải pháp nâng cao năng lực thi hành pháp luật về xử lý nợ
xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam 69
3.2.1. Hoàn thiện các quy chế nội bộ về phòng ngừa và xử lý nợ xấu 69
3.2.2. Nâng cao nguồn nhân lực về xử lý nợ xấu
74
Kết luận chương 3
75
KẾT LUẬN
76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
77
PHỤ LỤC
Error! Bookmark not defined.


8

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế một mặt đem lại cho chúng ta nhiều cơ hội
phát triển nhưng mặt khác cũng khiến nền kinh tế quốc gia nói chung và hoạt
động ngân hàng nói riêng phải đối mặt với nhiều thách thức. Đó là sự cạnh
tranh gay gắt giữa các ngân hàng, áp lực tăng trưởng tín dụng bền vững hay
giải quyết, xử lý nợ xấu triệt để. Những vấn đề này đè nặng lên vai các
NHTfM và cả nền kinh tế, trong đó đặc biệt nổi cộm là vấn đề xử lý nợ xấu.
Quyết định 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt “Đề án Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015” đã định
hướng và mục tiêu quan trọng trong cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, đó là: Tập
trung xử lý nợ xấu của các NHTM để sớm làm sạch bảng cân đối của NHTM;
phấn đấu đạt tỷ lệ nợ xấu của các NHTM dưới 3%. Để thực hiện mục tiêu
này, Chính phủ, Ngân hàng nhà nước và hệ thống NHTM đã thực hiện hàng
loạt những biện pháp để đẩy mạnh xử lý nợ xấu. Đây được coi là bước đi
quan trọng trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Nhiều hội thảo đã
được tổ chức, tập trung bàn luận những vấn đề như: thực trạng nợ xấu tại các
ngân hàng Việt Nam; nguyên nhân gây ra nợ xấu; những biện pháp tháo gỡ,
cơ chế xử lý nợ và kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới. Việc xử lý
nợ xấu đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến điều hành chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước, đến lưu thông dòng vốn vào nền kinh tế, tính an toàn,
hiệu quả kinh doanh của chính các ngân hàng. Pháp luật về xử lý nợ xấu trong
hoạt động cho vay của NHTM tại Việt Nam hiện nay đã có những bước tiến
quan trọng, tạo khung pháp lý cho hoạt động xử lý nợ xấu được thực hiện
ngày càng hiệu quả. Tuy vậy, các quy định vẫn còn những vấn đề cần phải
hoàn thiện.


9

Nằm trong hệ thống NHTM Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức
và đặc biệt là xử lý nợ xấu còn tồn đọng, hệ quả của một giai đoạn tăng
trưởng “nóng”. Dù đã có những chuyển biến tích cực, khả quan nhưng hoạt
động tín dụng ngân hàng vẫn luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, nguy cơ nợ xấu là
không thể tránh khỏi.
Xuất phát từ những lý do trên, học viên quyết định lựa chọn đề tài
“Thực tiễn thi hành pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay tại
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam”, đưa ra cái

nhìn tổng quát về pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của
NHTM và thực tiễn thi hành tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Việt Nam, từ đó đánh giá những ưu điểm, hạn chế và đề xuất một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác xử lý nợ xấu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua đã có nhiều công trình khoa học, sách báo, tạp chí nghiên
cứu các nội dung về nợ xấu và thực tiễn áp dụng tại các NHTM ở Việt Nam.
Ở mỗi công trình, tác giả lại có cách tiếp cận khác nhau. Ví dụ như: Quản trị
nợ xấu trong ngân hàng thương mại – thực trạng và giải pháp trong Ngân
hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế
của tác giả Lê Thị Phương Thảo, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội
(2011); Pháp luật về nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương
mại và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông,
Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Phạm Quang Huy, Trường Đại học Luật
Hà Nội (2015); Vấn đề nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam và
giải pháp xử lý, Bài viết của TS. Trịnh Quang Anh, Tập đoàn đầu tư và phát
triển Việt Nam (2012); Nợ xấu ngân hàng dưới khía cạnh pháp lý, bài viết
của tác giả Lê Thị Thu Thủy, Đỗ Minh Tuấn, Tạp chí dân chủ và pháp luật
(số 11/2015), hay trực tiếp liên quan đến nợ xấu của Ngân hàng Nông nghiệp


10

và phát triển Nông thôn Việt Nam như Luận án Tiến sĩ Quản lý nợ xấu của
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam của tác giả
Nguyễn Thị Thu Cúc, Học viện tài chính (2015). Tuy nhiên, những công trình
nghiên cứu nói trên mới chỉ nghiên cứu, khảo sát, bình luận và đưa ra giải
pháp về quản trị nợ xấu, chưa đi sâu vào vấn đề xử lý nợ xấu ở các NHTM
đặc biệt dưới góc độ pháp lý.
Vấn đề xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM cũng có

những công trình nghiên cứu sát với đề tài như: Xử lý nợ xấu trong hoạt động
cho vay của các ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ luật học của tác giả Phạm Thị Phương, Trường Đại học Luật Hà Nội
(2013). Công trình khoa học trên đã đề cập đến những vấn đề lý luận khá đầy
đủ xung quanh các nội dung về xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành tại các NHTM hiện nay
đã có nhiều chuyển biến, đồng thời pháp luật đã có những điều chỉnh lớn
mang tầm vĩ mô. Do vậy, với đề tài của mình, học viên mong muốn cung cấp
cho người đọc một cái nhìn toàn diện về pháp luật xử lý nợ xấu trong hoạt
động cho vay của các NHTM cả về lý luận và thực tiễn trong bối cảnh hiện
nay.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật điều
chỉnh về hoạt động xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM và việc
thực thi các quy định này trên thực tế.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào hai khía cạnh sau:
Thứ nhất, về mặt lý luận, luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về
nợ xấu và xử lý nợ xấu của NHTM, cơ chế điều chỉnh của pháp luật về xử lý
nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM.
Thứ hai, về mặt thực tiễn, luận văn nghiên cứu, đánh giá thực trạng
pháp luật và đặc biệt đánh giá hoạt động áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu
trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam.


11

4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ nhưng vấn đề lý luận về
nợ xấu và xử lý nợ xấu, thực trạng quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề

này. Đồng thời qua việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam để đưa ra những nhận xét, đánh giá
về những quy định của pháp luật hiện hành. Từ đó, tổng hợp các giải pháp để
hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu và nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
- Nợ xấu là gì? Xử lý nợ xấu là gì? Những nội dung chính của pháp luật
về xử lý nợ xấu?
- Thực trạng áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam? Những phương pháp nào đang
được sử dụng và hiệu quả của các phương pháp này ra sao?
- Các giải pháp nào Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam cần thực hiện để nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Luận văn được triển khai thực hiện trên cơ sở sử dụng phối hợp các
phương pháp nghiên cứu phổ biến trong khoa học xã hội và nhân văn như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp khảo sát, thống kê; phương
pháp diễn dịch, quy nạp… Phương pháp phân tích được sử dụng khi đánh giá
thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong việc đánh giá khái quát, rút ra kết
luận về từng vấn đề trong phạm vi nghiên cứu. Các phương pháp khảo sát,
thống kê được sử dụng để làm rõ các vấn đề thực tiễn về xử lý nợ xấu, từ đó
đưa ra những giải pháp kiến nghị cho việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả hoạt động xử lý nợ xấu.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn mang những ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn sau
đây:


12


Thứ nhất, về phương diện lý luận, luận văn hệ thống hóa và tổng kết
những lý luận cơ bản về nợ xấu và xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của
NHTM.
Thứ hai, về phương diện thực tiễn, từ việc phân tích tình hình áp dụng
pháp luật, luận văn chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về
xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM. Qua đó, đề xuất những giải
pháp nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Việt Nam nói riêng và các NHTM nói chung.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về xử lý nợ xấu trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu trong hoạt
động cho vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.


13

Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH PHÁP LUẬT
XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về nợ xấu và xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại.
1.1.1. Tổng quan về nợ xấu
“Nếu ngân hàng không có những khoản nợ xấu thì đó không phải là

hoạt động kinh doanh” 1. Điều đó cho thấy rủi ro tín dụng luôn tồn tại và nợ
xấu là một thực tế hiển nhiên ở bất cứ ngân hàng nào, kể cả các ngân hàng
hàng đầu trên thế giới bởi có những rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát của con
người. Đây đã trở thành một vấn đề quan trọng trong quản trị kinh doanh
ngân hàng. Vì vậy, nợ xấu được nhắc đến gần như được mặc định là nợ xấu
của NHTM. Nhưng thực tế, nợ xấu có thể phát sinh đối với bất kỳ chủ thể nào
trong nền kinh tế, đặc biệt là những chủ thể kinh doanh. Vậy nợ xấu là gì, đặc
điểm của nó như thế nào, vì sao lại phát sinh nợ xấu và tác động đối với
NHTM cũng như nền kinh tế ra sao?
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của nợ xấu
a. Khái niệm nợ xấu
Nợ xấu trong Tiếng Anh được nhắc đến với thuật ngữ “bad debt” hay
“non-performing loan”, “doubtful debt”. Thông thường, nợ xấu được hiểu là
các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và/hoặc bị nghi ngờ về khả năng trả
nợ. Tuy nhiên chưa có một cách hiểu thống nhất về nợ xấu.
- Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): Một khoản cho vay được coi là
không sinh lời (nợ xấu) khi tiền thanh toán lãi và/hoặc tiền gốc đã quá hạn từ
90 ngày trở lên, hoặc các khoản thanh toán lãi đến 90 ngày hoặc hơn đã được

1 P. Volker, cựu Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED)


14

tái cơ cấu hay gia hạn nợ, hoặc các khoản thanh toán dưới 90 ngày nhưng có
các nguyên nhân nghi ngờ việc trả nợ sẽ được thực hiện đầy đủ.2 Với quan
điểm này, nợ xấu được nhận dạng qua hai giác độ: thời gian quá hạn và khả
năng trả nợ đáng nghi ngờ.
- Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS): trong các hướng dẫn về
thông lệ chung tại nhiều quốc gia về quản lý rủi ro tín dụng, cơ quan này xác

định, việc khoản nợ bị coi là không có khả năng hoàn trả khi một trong hai
hoặc cả hai điều kiện sau xảy ra: (i) ngân hàng thấy người vay không có khả
năng trả nợ đầy đủ dù ngân hàng chưa thực hiện hành động gì để cố gắng thu
hồi; (ii) người vay đã quá hạn trả nợ 90 ngày 3. Dựa trên hướng dẫn này, nợ
xấu sẽ bao gồm toàn bộ các khoản vay đã quá hạn 90 ngày và/hoặc có dấu
hiệu người vay không trả được nợ.
- Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) thường đề cập đến các khoản nợ bị
giảm giá trị (Impaired) thay vì thuật ngữ nợ xấu. Chuẩn mực kế toán quốc tế
IAS 39 (đoạn 58-70) được khuyến cáo áp dụng ở một số nước phát triển vào
đầu năm 2005 chỉ ra rằng cần có bằng chứng khách quan để xếp một khoản
vay có dấu hiệu bị giảm giá trị. Trong trường hợp nợ bị giảm giá trị thì tài sản
được ghi nhận sẽ bị giảm xuống do những tổn thất do chất lượng nợ xấu gây
ra. Về cơ bản IAS chú trọng tới khả năng hoàn trả của khoản vay bất luận
thời gian quá hạn chưa tới 90 ngày hoặc chưa quá hạn.
Từ những khái niệm trên, có thể thấy được sự tương đồng trong cách
nhận thức về nợ xấu giữa các định chế tài chính trên thế giới. Theo đó, một
khoản nợ được coi là nợ xấu khi nó xuất hiện một hoặc cả hai dấu hiệu: (i)
quá hạn trả nợ gốc và lãi, (ii) khách hàng bị coi là không có khả năng trả nợ
hay khả năng trả nợ nghi ngờ. Đồng thời, cũng nhận thấy rằng, những khái
niệm được đề cập chủ yếu hướng tới nợ xấu trong hoạt động của các ngân
hàng.
2 IMF (2006), IMF’s Compilation Guide on Financial Soundness Indicatof
3 Basel (2002), Basel Committee on Banking Supervision.


15

Ở Việt Nam, nợ xấu được quy định tại Thông tư số 02/2013/TT-NHNN
ngày 21/1/2013 của NHNN Quy định về phân loại tài sản có, mức trích,
phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi

ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Nợ
xấu ở đây được khẳng định là nợ xấu phát sinh từ hoạt động cho vay của
NHTM. Theo đó, nợ xấu là nợ thuộc các nhóm 3, 4, 5. Việc phân loại nợ vào
các nhóm 3, 4, 5 dựa trên 2 phương pháp định tính và định lượng. Và về cơ
bản cũng dựa trên 2 dấu hiệu được nhắc đến, đó là: các khoản nợ đã quá hạn
trên 90 ngày và khách hàng khó có khả năng trả nợ.
b. Đặc điểm của nợ xấu
Thứ nhất, trong hoạt động ngân hàng, nợ xấu là những khoản nợ dưới
chuẩn. Theo quan điểm chung của nhiều quốc gia trên thế giới, nợ dưới chuẩn
được hiểu là nợ đã quá hạn trên 90 ngày và khách hàng vay không có những
dấu hiệu để nghi ngờ về khả năng trả nợ thì vẫn chưa được xếp vào nhóm “nợ
xấu” trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
Thứ hai, nợ xấu là những khoản nợ có bằng chứng nghi ngờ về khả
năng trả nợ của người vay, như: người vay bỏ trốn, tẩu tán tài sản, người vay
thua lỗ dẫn đến nguy cơ phá sản; người vay chấm dứt sự tồn tại trong khi tài
sản còn lại không đủ thanh toán nợ. Đôi khi sự chậm trễ không có lý do trong
việc cung cấp các báo cáo tài chính và trả nợ theo lịch đã thỏa thuận hoặc
chậm trễ trong việc liên lạc với nhân viên tín dụng cũng được xem là dấu hiệu
nghi ngờ về khả năng trả nợ của con nợ. Ngoài ra, những yếu tố khác như
những bất thường về tình hình tài chính, những động thái của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đối với hoạt động kinh doanh, sự thay đổi lớn trong cơ
cấu tổ chức, quản lý điều hành của doanh nghiệp cũng có thể ảnh hưởng đến
khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
c. Phân loại nợ xấu
Phân loại nợ xấu được hiểu là quá trình các NHTM xem xét danh mục
cho vay và đưa khoản vay vào những nhóm khác nhau dựa trên rủi ro và điểm


16


tương đồng của khoản vay. Việc thường xuyên xem xét và phân loại nợ giúp
các ngân hàng có thể kiểm soát chất lượng danh mục cho vay và trong trường
hợp cần thiết sẽ có các biện pháp xử lý các vấn đề phát sinh.
Dựa trên mức độ quá hạn và khả năng thu hồi của các khoản nợ, nợ
được phân loại vào các mức khác nhau: nợ tiêu chuẩn, nợ cần theo dõi, nợ
dưới chuẩn, nợ đáng ngờ và nợ mất vốn. Trong đó, nợ dưới chuẩn, nợ đáng
ngờ và nợ mất vốn được xếp vào nợ xấu.
Nợ dưới chuẩn là những khoản nợ quá hạn từ 90 – 180 ngày, có những
nhược điểm rõ rệt về tín dụng có thể ảnh hưởng đến khả năng trả nợ.
Nợ đáng ngờ là những khỏa nợ quá hạn từ 180 – 360 ngày, có khả năng
thất thoát do không chắc thu hồi được toàn bộ khoản nợ.
Nợ mất vốn là những khoản nợ quá hạn trên 360 ngày và không còn
khả năng thu hồi được.
1.1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu
a. Nguyên nhân chủ quan
Các nguyên nhân chủ quan được hiểu là những nguyên nhân từ chính
mỗi ngân hàng, bắt nguồn từ hai yêu tố chính là năng lực và đạo đức.
Thứ nhất, sự yếu kém trong năng lực của ngân hàng được coi là
nguyên nhân chính dẫn đến nợ xấu phát sinh ngoài kiểm soát.
Một là, hệ thống thông tin tín dụng của hệ thống ngân hàng chưa đầy
đủ, thiếu tính hệ thống khiến cho việc đánh giá, xếp hạng khách hàng trong
thời gian qua được thực hiện chưa chính xác, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt
ra. Theo số liệu thống kê của các ngân hàng lớn trên thế giới, việc triển khai
hệ thống giám sát tín dụng và hệ thống cảnh báo sớm hiệu quả có thể giúp
phát hiện sớm khả năng không trả được nợ vay của khách hàng trước thời
điểm xảy ra vỡ nợ thực sự (trước khoảng 6 tháng). Số liệu thống kê cũng chỉ
ra rằng các ngân hàng phát triển tốt hệ thống giám sát tín dụng có thể giảm
thiểu khoảng 60% tổn thất, trong khi mức trung bình ước tính khi không có hệ
thống giám sát hiệu quả là khoảng 20%.4 Tuy nhiên, thông tin tín dụng hiện



17

nay chủ yếu từ Trung tâm thông tin tín dụng (CIC), thông tin nội bộ của ngân
hàng và một số nguồn thông tin khác. Ở các nguồn thông tin này hầu hết chỉ
bao gồm thông tin về các chủ thể đã từng có hoạt động tín dụng tại các ngân
hàng. Thế nhưng theo một cuộc điều tra, ở Việt Nam chỉ có 30% doanh
nghiệp nhỏ và vừa (doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 97% tổng số doanh
nghiệp hoạt động tại Việt Nam) có giao dịch tín dụng với ngân hàng.5 Con số
này so với số khách hàng mới tiềm năng còn quá ít ỏi. Chính vì vậy, những
thông tin tín dụng được cung cấp không thể đầy đủ, đảm bảo cho sự đánh giá
chính xác và ngăn ngừa rủi ro.
Hai là, chính sách tín dụng chưa hiệu quả cũng như quy trình nội bộ
chưa đảm bảo cũng là nguyên nhân dẫn đến nợ xấu. Đối mặt với nhu cầu tăng
trưởng tín dụng đồng thời với việc giảm nợ xấu, mỗi ngân hàng đều phải xây
dựng cho mình một hệ thống chính sách, quy trình nội bộ chặt chẽ trong các
khâu cấp tín dụng để đảm bảo chất lượng tín dụng cũng như ngăn ngừa nợ
xấu phát sinh. Tuy nhiên, sự lỏng lẻo trong quy trình đã tạo nên lỗ hổng khiến
ngân hàng không kiểm soát được những rủi ro tín dụng dẫn đến nợ xấu. Mặt
khác, chính sách tín dụng chưa phù hợp, quá đặt nặng vào mục tiêu lợi nhuận
dẫn đến tăng trưởng tín dụng nóng hoặc cho vay tập trung vào những lĩnh vực
có rủi ro cao (như bất động sản, chứng khoán…) 6, cho vay ưu đãi, không có
4 Cao Thanh Trà (2016), “Giảm tổn thất nhờ cảnh báo sớm rủi ro tín dụng”, Báo điện tử Vietnamnet, tại địa
chỉ: ngày truy cập 15/6/2016.
5 Theo số liệu thống kê từ Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC), tính đến hết tháng 4 năm
2014, tổng số doanh nghiệp đã có quan hệ tín dụng với TCTD được lưu trữ trong kho dữ liệu là 216.129
doanh nghiệp, trong đó, số doanh nghiệp còn dư nợ là 112.583 doanh nghiệp, tương đương 30% trong tổng
số doanh nghiệp đang hoạt động. Như vậy, tỷ lệ doanh nghiệp đang có vay vốn ngân hàng trong tổng số
doanh nghiệp đang hoạt động đạt 30%, tỷ lệ doanh nghiệp không sử dụng tín dụng ngân hàng chiếm khoảng
70%.

Nguyễn Thùy Linh, Nguyễn Việt Anh (2014), “Những khó khăn trong tiếp cận tín dungj của các DNVVN và
một số giải pháp khơi thông dòng vốn cho loại hình doanh nghiệp này”, tại địa chỉ:
/>hysLyMn4dbZy6TL12Yv2bTrxpx4F0bBjNvTjxQvNjVkY!456017007!654611204?dDocName=CNTHWEBAP0116211771340&dID=51193&_afrLoop=69891853949
6849&_afrWindowMode=0&_afrWindowId=null#%40%3FdID%3D51193%26_afrWindowId%3Dnull%26
_afrLoop%3D698918539496849%26dDocName%3DCNTHWEBAP0116211771340%26_afrWindowMode
%3D0%26_adf.ctrl-state%3D11e9r36ia4_4 ngày truy cập 13/4/2016


18

tài sản đảm bảo đối với khách hàng vay lớn, danh mục cho vay thiếu đa dạng
làm hạn chế khả năng phân tán rủi ro, nợ xấu xảy ra là điều không thể tránh
khỏi.
Ba là, khả năng quản trị rủi ro tín dụng trong các khâu của quá trình
cho vay cũng chính là yếu tố quan trọng tác động đến tỷ lệ nợ xấu của ngân
hàng. Rủi ro có thể phát sinh ở bất kỳ khâu nào của quá trình cấp tín dụng, từ
khi thẩm định cho đến khi khách hàng trả nợ vốn vay. Việc phòng ngừa rủi ro
được coi là “bảo bối” trong hoạt động tín dụng, đồng thời là nhiệm vụ trọng
yếu trong suốt quá trình cho vay. Thực tế, rủi ro trong hoạt động ngân hàng để
dẫn đến nợ xấu rất đa dạng. Ngoài rủi ro về tín dụng, còn có rủi ro thị trường
và rủi ro hoạt động. Trong đó, rủi ro hoạt động gồm có: rủi ro pháp lý, rủi ro
tuân thủ, rủi ro hệ thống, rủi ro công nghệ thông tin, rủi ro về tài sản, rủi ro về
con người… Việc không tuân thủ quy trình quản trị rủi ro ở bất kỳ khâu nào
của quá tình vay vốn đều có nguy cơ dẫn đến nợ xấu. Ví dụ: ở khâu thẩm
định, nếu nhân viên ngân hàng không thu thập đầy đủ thông tin, không tra
soát kỹ các điều kiện của khách hàng dẫn đến đánh giá sai năng lực của người
vay vốn, xác định không chính xác số tiền, kỳ hạn cho vay… Việc thẩm định
tài sản bảo đảm cho khoản vay không được thực hiện nghiêm túc, không có
cơ chế độc lập sẽ rất dễ dẫn đến việc xác định sai giá trị tài sản, từ đó xác định
phạm vi đảm bảo và mức cho vay cũng không chính xác. Khi khách hàng sử

dụng vốn vay, do thiếu sự theo dõi sát sao, không phát hiện được những dấu
hiệu bất thường trong hoạt động kinh doanh của khách hàng nên không có sự
điều chỉnh phù hợp, nợ xấu từ đó rất dễ phát sinh.
Thứ hai, vấn đề đạo đức nghề nghiệp cũng trở thành một trong những
nguyên nhân dẫn đến nợ xấu, đặc biệt ở những ngân hàng chưa có được một
quy trình quản trị rủi ro chặt chẽ.
6 Dư nợ tín dụng trong lĩnh vực bất động sản tính đến 30/11/2015 đạt 374.783 tỷ đồng (tương đương hơn
16,6 tỉ USD), tăng 19,91% so với thời điểm 31/12/2014 và tăng 2,8% so với thời điểm 31/10/2015.
Bình An (2016), “Dư nợ tín dụng bất động sản tăng mạnh”, tại địa chỉ: ngày truy cập 04/2/2016.


19

Vì lợi ích cá nhân, nhân viên ngân hàng có thể thông đồng với khách
hàng vay vốn để tăng mức cho vay, cho vay khi không có đủ điều kiện, hoặc
bỏ qua những yếu tố như sử dụng vốn vay không đúng mục đích, hay thậm
chí là làm giả giấy tờ để thực hiện việc cho vay 7. Có một số trường hợp, cho
vay đối với những khách hàng được cấp trên chỉ định, các doanh nghiệp là
“sân sau” của Ban giám đốc, lãnh đạo ngân hàng, vì quen biết, nể nang mà
nhân viên ngân hàng có thể bỏ qua những quy định về hạn chế cho vay, cho
vay có điều kiện, không tuân thủ quy trình quản trị rủi ro…
Thứ ba, áp lực tăng trưởng dư nợ quá lớn cũng có thể làm phát sinh nợ
xấu.
Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường đã dẫn đến xu hướng các ngân
hàng chạy theo quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện cho vay, thiếu quan
tâm đến chất lượng khoản vay. Hiện nay, lợi nhuận chủ yếu của các ngân
hàng vẫn phụ thuộc vào hoạt động tín dụng 8. Do đó, để đạt được mức lợi
nhuận kỳ vọng, các ngân hàng luôn bị áp lực phải tăng trưởng tín dụng. Khi
tăng trưởng, NHTM phải chấp nhận một tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tín dụng
ở một mức nhất định. Tuy nhiên, nếu tăng trưởng tín dụng nhanh sẽ vượt quá

khả năng kiểm soát của ngân hàng và hậu quả là nợ xấu có thể tăng cao.
Thứ tư, tình trạng sở hữu chéo cũng là một trong số các nguyên nhân
làm tăng tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng.
Hệ thống Ngân hàng đã hình thành một mạng lưới sở hữu chéo và cho
vay theo quan hệ rất phức tạp, nhằm mục đích thâu tóm ngân hàng, thu xếp
vốn cho những dự án đầu tư chưa minh bạch. Theo đó, rất nhiều công ty lớn,
7 Lê Dương (2015), “Nhân viên tín dụng làm giả thông tin khách hàng để vay tín chấp”, Báo Tiền phong, tại
địa chỉ: ngày truy cập 28/4/2016
8 Thu nhập lãi thuần hợp nhất trong quý II/2015 của VietinBank đạt gần 5.000 tỷ đồng, trong khi hoạt động
dịch vụ chỉ mang về 407 tỷ đồng, lãi thuần từ hoạt động khác cũng chỉ đạt 392 tỷ đồng. Tại BIDV, thu nhập
từ lãi thuần cũng lên tới gần 3.900 tỷ đồng, trong khi thu từ hoạt động kinh doanh dịch vụ chỉ mang lại khoản
lãi 591 tỷ đồng...
Hà Tâm (2015), “Độc canh tín dụng vẫn là nguồn sữa lợi nhuận của các ngân hàng”, Báo Đầu tư, tại địa chỉ:
ngày truy
cập 25/4/2016


20

đặc biệt là các tập đoàn kinh tế Nhà nước và các tập đoàn Cổ phần, dù không
thuộc lĩnh vực tài chính nhưng hiện đang đầu tư dài hạn với vai trò nhà sáng
lập, nhà đầu tư chiến lược trong các NHTM. Chưa kể, các Ngân hàng cũng sở
hữu cổ phần lẫn nhau, cổ đông tại các NHTM là các công ty quản lý quỹ đầu
tư vốn vào những Ngân hàng khác có tiềm năng. Hiện không ít tập đoàn, tổng
công ty Nhà nước và tư nhân cũng đang đầu tư, sở hữu chéo khi họ có trong
tay khá nhiều Ngân hàng. Theo Ủy ban Kinh tế Quốc hội, gần 40 Doanh
nghiệp Nhà nước và tư nhân sở hữu trên 5% vốn tại các NHTM cổ phần và
các doanh nghiệp này lại sở hữu các công ty đầu tư tài chính.9 Việc sở hữu
chéo sẽ dẫn đến tình trạng các Ngân hàng sẽ tạo điều kiện để cho các doanh
nghiệp sở hữu Ngân hàng này có thể dễ dàng vay được vốn từ Ngân hàng kia,

hoặc dễ dàng cho các công ty con của các doanh nghiệp có vốn sở hữu tại
Ngân hàng vay vốn, thậm chí khi một tổ chức tín dụng lớn chiếm cổ phần chi
phối ngân hàng khác và biến Ngân hàng này thành “sân sau” của mình, họ có
thể buộc Ngân hàng bị chi phối cấp tín dụng cho những dự án không an toàn
hoặc cho doanh nghiệp có quan hệ thân thiết. Việc cho vay dễ dàng, thiếu
kiểm soát cộng với việc thẩm định vốn vay thiếu cẩn trọng tất yếu sẽ dẫn đến
nợ xấu. Do đó, tình trạng sở hữu chéo được xem là một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng nợ xấu tăng cao trong những năm vừa qua.
b. Nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân xuất phát từ yếu tố bên
ngoài nhưng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động tín dụng Ngân hàng.
Thứ nhất, các nguyên nhân xuất phát từ nền kinh tế.
Như đã trình bày, hoạt động tài chính - ngân hàng được coi là mạch
máu của nền kinh tế. Chính vì vậy, những biến động của môi trường kinh tế
sẽ có tác động mạnh đến hoạt động của NHTM, đặc biệt là hoạt động tín
dụng. Nếu môi trường kinh tế chưa thực sự phát triển, trên thị trường chưa
9 Nguyễn Thanh Tú, Nguyễn Hồng Nhung (2013), “Nợ xấu của các TCTD ở Việt Nam – nguyên nhân và
một số giải pháp”, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, (03+04), tr. 49-55.


21

thực sự bình đẳng, tốc độ cũng như trình độ phát triển chưa cao sẽ dẫn đến
việc các cá nhân và tổ chức cũng như các doanh nghiệp không có tiềm lực tài
chính đủ mạnh. Mặt khác, với sự thay đổi liên tục trong các chính sách kinh tế
vĩ mô như sự thay đổi về cơ chế lãi suất, chính sách xuất nhập khẩu, hàng tiêu
dùng; thay đổi quy hoạch xây dựng hạ tầng, thay đổi cơ chế tài chính, cơ chế
sử dụng đất đai… cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp, khiến các đối tượng này rơi vào thế bị động, do đó nó
gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng nợ của các đối tượng này tại NHTM.

Những biến động của thị trường tài chính quốc tế cũng sẽ ảnh hưởng
đến hoạt động tín dụng cũng như tỷ lệ nợ xấu của NHTM, đặc biệt trong xu
thế hội nhập hiện nay. Ví dụ, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã khiến cho
tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng tại các Quốc gia trong khu vực tăng cao (Thái
Lan nợ xấu lên tới 47,7%; Indonesia trên 50%; Hàn Quốc năm 1998 là 17%
và Malaysia trên 11,4%...). Hay như những năm vừa qua, cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu năm 2008 đã gây ra nhiều hệ quả tiêu cực đến nền kinh tế
Việt Nam, làm tăng trưởng kinh tế thụt lùi, nợ xấu của các ngân hàng tăng
cao. Tỷ lệ nợ xấu của các NHTM ở Việt Nam thời điểm tháng 10/2013 ở mức
4,73% (theo báo cáo của các NHTM).
Thứ hai, các nguyên nhân xuất phát từ quản lý nhà nước.
Một là, chính sách pháp luật chưa phù hợp, chồng chéo và còn nhiều lỗ
hổng tạo điều kiện cho sự phát sinh nợ xấu. Có thể nói, lĩnh vực hoạt động
ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi ro cao và để giảm thiểu rủi ro luôn đòi hỏi phải có
sự hậu thuẫn của hệ thống pháp luật. Nếu hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn
thiện sẽ tạo tiền đề cho hoạt động an toàn lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
Còn ngược lại, nếu hệ thống pháp luật không đồng bộ, thiếu tính khả thi thì sẽ
có rủi ro rất cao đối với hệ thống ngân hàng. Các chuyên gia pháp lý của các
tổ chức tín dụng cho biết, hiện nay, hoạt động của các tổ chức tín dụng phải
tuân thủ quá nhiều quy định của pháp luật của các ngành khác, bởi nghiệp vụ
ngân hàng liên quan đến hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề. Trong khi đó, hệ


22

thống pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn, chậm được hướng dẫn cụ thể…
Do đó, các ngân hàng cần hiểu rõ những vướng mắc pháp lý trong thực tiễn
triển khai, từ đó có thể phòng tránh rủi ro và tìm giải pháp khắc phục, bởi việc
kiến nghị hoàn thiện pháp luật tốn rất nhiều thời gian, trong khi hoạt động
kinh doanh phát sinh hàng ngày. Trong đó có những nội dung nảy sinh nhiều

vướng mắc như giấy phép hoạt động, lãi suất huy động, việc đảo nợ, vấn đề
bảo lãnh, giới hạn dư nợ cấp tín dụng, mua cổ phần của ngân hàng khác…
Đáng chú ý, “có tới 30 vấn đề bất cập về giao dịch bảo đảm được liệt kê,
trong khi đây là một yếu tố quan trọng đảm bảo ngân hàng có thể thu hồi
được vốn khi khách hàng không trả nợ” 10. Có những trường hợp dù ngân
hàng đã khởi kiện, nhưng việc kiện tụng kéo dài, tài sản bảo đảm vẫn chưa thể
xử lý và nợ xấu ngân hàng vẫn còn tiếp diễn. Khi các quy định về giao dịch
bảo đảm, xử lý tài sản bảo đảm còn thiếu cơ chế thực hiện hiệu quả sẽ dễ dẫn
đến tâm lý coi thường của người có tài sản cũng như khách hàng vay vốn.
Hai là, sự giám sát của các cơ quan quản lý chức năng chưa chặt chẽ.
Việc thực hiện giám sát trên cơ sở rủi ro, giám sát an toàn vĩ mô yếu kém, chủ
yếu vẫn thiên về giám sát tuân thủ. Nợ xấu là con số ở một thời điểm nhưng
sự hình thành và phát sinh nợ xấu là cả một quá trình. Hoạt động giám sát
được thực hiện những vẫn không thể phát hiện ra những khoản tín dụng có
nguy cơ rủi ro cao để có thể cảnh báo sớm và yêu cầu các tổ chức tín dụng
thực hiện việc trích lập dự phòng rủi ro kịp thời dẫn đến việc phát sinh nợ xấu
là không thể tránh khỏi. Việc hoạt động giám sát hiện nay vẫn chưa đạt được
hiệu quả như mong muốn xuất phát từ nhiều nguyên nhân: thiếu nguồn thông
tin minh bạch, chính xác; thiếu nguồn nhân lực và công nghệ đủ mạnh để thực
hiện.
Thứ ba, các nguyên nhân xuất phát từ khách hàng vay vốn.
10 Theo Luật sư Trương Thanh Đức – Chủ nhiệm CLB Pháp chế ngân hàng
Bùi Trang (2013), “Pháp luật về ngân hàng: Nhiều quy định, lắm bất cập”, Báo Đầu tư Chứng khoán, tại địa
chỉ: />ngày truy cập 03/5/2016.


23

Cũng như nhóm nguyên nhân chủ quan, các nguyên nhân phát sinh nợ
xấu từ phía khách hàng vay vốn cũng xuất phát từ hai yếu tố chính là năng lực

và đạo đức.
Sự yếu kém trong năng lực của khách hàng vay vốn là nguyên nhân
quan trọng dẫn đến việc phát sinh nợ xấu.

Năng lực tài chính của doanh

nghiệp không cao ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh. Mặt khác,
năng lực điều hành, quản lý kinh doanh của chủ doanh nghiệp vay vốn yếu
kém cũng dẫn đến hoạt động kinh doanh kém hiệu quả từ đó ảnh hưởng đến
khả năng trả nợ ngân hàng. Hiện nay ở nước ta, hầu hết các doanh nghiệp đều
là doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng tài chính cũng như năng lực quản trị
nhìn chung hạn chế. Việt Nam bị đánh giá là nước có hệ thống quản trị doanh
nghiệp kém nhất trong 6 nước thuộc khu vực ASEAN (Indonesia, Philppines,
Singapore, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam). 11 Trong bối cảnh hiện nay, khi
hoạt động kinh doanh phải cạnh tranh gay gắt với những công ty xuyên quốc
gia, những công ty có vốn đầu tư nước ngoài, cùng với nó là việc thói quen
tiêu dùng thay đổi đã khiến cho các doanh nghiệp trong nước gặp phải nhiều
khó khăn. Cần thiết phải có những thay đổi trong quản trị điều hành, nâng cao
năng lực tài chính theo xu hướng xây dựng mô hình quản lý gọn nhẹ, linh
hoạt, có sự phân quyền mạnh mẽ để phát huy sáng tạo.
Vấn đề đạo đức của khách hàng vay vốn cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến nợ xấu ngân hàng. Có một số trường hợp khách hàng
cố tình cung cấp hồ sơ giả, đưa những thông tin không chính xác để ngân
hàng có những đánh giá sai lệch và thực hiện hoạt động cho vay.12 Ngay cả
khi hồ sơ cung cấp đúng, nhưng đến khi gặp khó khăn trong kinh doanh,
khách hàng cũng có thể vi phạm những cam kết trong hợp đồng, chây ỳ,
11 Phương Linh (2014), “Doanh nghiệp Việt Nam quản trị kém nhất Asean”, Báo điện tử Vnexpress, tại địa
chỉ: ngày truy cập 04/3/2016.
12 Minh Quang (2016), “Chi nhánh ngân hàng ở Sài Gòn bị lừa hơn 21 tỷ đồng”, tại địa chỉ:
ngày truy cập 22/2/2016



24

không trả nợ nếu như ngân hàng không có những biện pháp mạnh hay có sự
trợ giúp của những cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, cũng cần
nhìn nhận một cách toàn diện, việc khách hàng không trả nợ đúng hạn dẫn
đến nợ xấu ngân hàng không đơn thuần xuất phát từ vấn đề đạo đức của người
vay. Sự kết hợp của những yếu tố khác như quy trình cho vay không chặt chẽ
hay trình độ non kém của nhân viên ngân hàng đã biến nợ xấu từ nguy cơ trở
thành con số thật sự.
Ngoài ra, các nguyên nhân khác như thiên tai, dịch bệnh, các sự kiện
khách quan khác xảy ra cũng có thể khiến hoạt động sản xuất kinh doanh của
các khách hàng vay vốn bị ảnh hưởng, ngưng trệ, dẫn đến mất khả năng trả nợ
ngân hàng làm phát sinh nợ xấu.
1.1.1.3. Tác động của nợ xấu đến hoạt động của ngân hàng thương mại và
nền kinh tế
a. Tác động của nợ xấu đến hoạt động của ngân hàng thương mại
Thứ nhất, nợ xấu làm giảm lợi nhuận của NHTM, ảnh hưởng đến khả
năng thanh khoản và có nguy cơ dẫn đến phá sản. Khi phát sinh nợ xấu, ngân
hàng phải sử dụng các khoản dự phòng rủi ro. Thông thường các khoản này
được tính vào chi phí, khiến cho lợi nhuận của ngân hàng sụt giảm. Không
những thế khi nợ xấu càng kéo dài thì các chi phí bỏ ra đối với xử lý nợ xấu
càng lớn, không đơn thuần chỉ là không thu hồi được nguồn vốn đã cấp. Về
mặt hữu hình việc các tài sản cầm cố, thế chấp tại ngân hàng sẽ ngày càng bị
hao mòn, hư hỏng, giá trị và giá trị sử dụng sẽ mất dần. Mặt khác, nợ xấu tăng
sẽ làm mất khả năng cân đối thu chi của ngân hàng. Như đã trình bày, khi
phát sinh nợ xấu, ngân hàng phải thực hiện trích lập các khoản dự phòng rủi
ro, nhưng vẫn phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn. Nợ
xấu càng cao, khoản trích lập dự phòng rủi ro càng lớn, nguy cơ rơi vào tình

trạng mất khả năng thanh toán là hoàn toàn có thể xảy ra. Hơn nữa, nợ xấu
làm gián đoạn vòng quay vốn của ngân hàng, ngăn chặn dòng tiền quay trở lại


25

với ngân hàng. Đây là những nguyên nhân dẫn đến khả năng ngân hàng bị
phá sản.
Thứ hai, nợ xấu tăng cao sẽ làm giảm uy tín của ngân hàng trên thị
trường tài chính. Công khai các thông tin tín dụng và thông tin về nợ xấu
đang trở thành một yêu cầu bức thiết. Nhưng chính yêu cầu này đang trở
thành một thách thức đối với các ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu cao, quá trình xử lý
nợ xấu kéo dài dẫn tới hệ số tín nhiệm của ngân hàng sẽ khó mà duy trì được
mức như mong muốn, điều này gây ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín và sức
hút đầu tư trên thị trường. Đây là điều hoàn toàn dễ hiểu. Đứng trên phương
diện là nhà đầu tư (khách hàng tiền gửi), không một nhà đầu tư nào dám mạo
hiểm đầu tư vào một ngân hàng có khả năng kinh doanh yếu kém, nợ xấu cao
hơn mức an toàn, tạo ra ít lợi nhuận, cho dù mức lãi suất đưa ra có hấp dẫn
đến mức nào. Như một hệ quả tất yếu, nợ xấu càng cao, nguồn tiền huy động
sẽ càng giảm. Điều này sẽ tác động tiêu cực đến các ngân hàng đặc biệt là các
ngân hàng nhỏ bởi những ngân hàng này thường không có thế mạnh về nguồn
vốn.
Thứ ba, nợ xấu cao sẽ dẫn đến những hệ quả tiêu cực về quản trị nội
bộ cũng như năng lực cạnh tranh của NHTM. Nợ xấu gia tăng không chỉ thể
hiện những khó khăn về mặt tài chính mà còn thể hiện những lỗ hổng trong
quản trị rủi ro của bản thân ngân hàng. Một môi trường thiếu tiềm năng, kém
sức hút, chế độ đãi ngộ không tốt sẽ khó có thể giữ chân nguồn nhân lực chất
lượng cao và tâm huyết. Như một vòng tròn luẩn quẩn: càng nợ xấu, càng yếu
nhân lực, càng giảm sức cạnh tranh, càng thiếu vốn và nợ xấu lại càng xấu.
Mất khả năng thanh toán, phá sản lúc này không còn là nguy cơ mà sẽ trở

thành hệ quả.
Thứ tư, nợ xấu ảnh hướng đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của
NHTM. Ở Việt Nam, sự xâm nhập của các ngân hàng nước ngoài đang tạo
nên một môi trường tài chính nhiều sự cạnh tranh. Cạnh tranh bởi chất lượng,
hình ảnh và uy tín. Có được ba yếu tố này ở thị trường trong nước sẽ là tiền


×