Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Tội hiếp dâm trong pháp luật hình sự việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.38 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN LỆ THỦY

TỘI HIẾP DÂM
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN LỆ THỦY

TỘI HIẾP DÂM
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Mã số: 60380104


Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ ĐĂNG DOANH

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ
trợ, giúp đỡ từ Người hướng dẫn là TS. Lê Đăng Doanh. Các nội dung nghiên
cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây. Những nhận xét, đánh giá
cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác đã được trích dẫn và
thể hiện trong phần tài liệu tham khảo.

Hà Nội, ngày 05 tháng 8 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Lệ Thủy


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

CTTP:

Cấu thành tội phạm

TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS:


Trách nhiệm hình sự


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..1
Chương 1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TỘI HIẾP DÂM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY……………………………….6
1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm
1985…………………………………………………………………………...6
1.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm
1999………………………………………………………………………….13
1.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay………....17
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1……………………………………………………22
Chương 2. QUY ĐỊNH VỀ TỘI HIẾP DÂM THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 1999 - SO SÁNH VỚI BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015………….23
2.1. Khái niệm tội hiếp dâm…………………………………………………23
2.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm………………………………….24
2.2.1. Khách thể của tội hiếp dâm……………………………………….......25
2.2.2. Mặt khách quan của tội hiếp dâm…………………………………….27
2.2.3. Chủ thể của tội hiếp dâm……………………………………………..38
2.2.4. Mặt chủ quan của tội hiếp dâm……………………………………….46
2.3. Hình phạt đối với tội hiếp dâm……………………………………….....46
2.3.1. Khung cơ bản……………………………………………………........47
2.3.2. Khung tăng nặng thứ nhất…………………………………………….47
2.3.3. Khung tăng nặng thứ hai………………………………………...........53
2.3.4. Khung tăng nặng thứ ba………………………………………………55
2.3.5. Hình phạt bổ sung………………………………………………….....56
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2……………………………………………………58
Chương 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN ÁP

DỤNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI HIẾP DÂM VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN……………………………………………………………...60
3.1. Một số vấn đề vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định về tội hiếp
dâm…………………………………………………………………..............60


3.2. Một số kiến nghị hướng dẫn, giải thích quy định về tội hiếp dâm trong Bộ
luật hình sự năm 2015……………………………………………………….68
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3……………………………………………………75
KẾT LUẬN…………………………………………………………………76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, Bộ luật hình sự năm 1999 đã phát huy tác dụng
tích cực trong đấu tranh chống tội phạm, góp phần quan trọng giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Tuy nhiên, tình hình tội phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết sức
phức tạp với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Trong đó, sự
diễn biến phức tạp của các tội phạm về tình dục, đặc biệt là tội hiếp dâm và
hiếp dâm trẻ em là một điều đáng lưu tâm. Cùng với sự phát triển xã hội và
giao lưu văn hóa, sự phát triển không ngừng của internet và mạng xã hội đã
kéo theo mặt trái là sự xâm thực của những luồng văn hóa độc hại, làm ảnh
hưởng và dẫn đến việc gia tăng các tội phạm về tình dục, trong đó có tội hiếp
dâm. Trong những năm gần đây đã xuất hiện những vụ án xâm hại tình dục
mà nạn nhân là nam giới, đặc biệt là tình trạng lạm dụng tình dục trẻ em nam.
Những hành vi này không chỉ làm tổn thương tinh thần, xâm hại đến sự phát
triển bình thường, lành mạnh của nạn nhân, mà còn làm tổn thương tinh thần
gia đình họ. Ở khía cạnh xã hội, những hành vi này còn có tác động xấu đến

môi trường xung quanh, gây phẫn nộ, bức xúc, nhức nhối trong dư luận.
Năm 2009, Quốc hội đã tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình
sự năm 1999 bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2010. Tuy nhiên, quy định của
Điều 111 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) cùng với
những quan điểm hiện hành về tội hiếp dâm sau nhiều năm áp dụng đã thể
hiện một số điểm bất cập so với sự phát triển của xã hội, từ đó gây vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng. Vì thế, những vấn đề xoay quanh quy định của Bộ
luật hình sự về tội hiếp dâm luôn là một đề tài tranh luận hết sức sôi nổi trên
các diễn đàn khoa học, trên các báo và tạp chí.
Bên cạnh đó, sự phát triển của Hiến pháp năm 2013 về quyền con
người thể hiện sự đổi mới nhận thức trong việc ghi nhận và đảm bảo thực


hiện các quyền này của người dân trên thực tế. Điều 14 Hiến pháp 2013 quy
định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,…
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật…”
Đồng thời, Điều 20 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Mọi người có quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và
nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm”. Sự phát triển, bổ sung và đề cao quyền con người trong Hiến pháp
năm 2013 đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật
hình sự hiện hành để làm cho các quyền này của người dân được thực hiện
trên thực tế. Theo đó, một trong những yêu cầu đặt ra là Bộ luật hình sự phải
xử lý nghiêm các hành vi xâm hại các quyền con người nêu trên, trong đó có
hành vi hiếp dâm, xâm hại tình dục ngày càng diễn biến đa dạng và phức tạp.
Từ những yêu cầu trên, ngày 27/11/2015, Quốc hội khóa XIII đã thông
qua Bộ luật hình sự năm 2015 và Bộ luật này sẽ có hiệu lực trong thời gian
sắp tới. Và nội dung của tội phạm hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự

năm 2015 cũng có sự thay đổi. Để hiểu quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam về tội phạm hiếp dâm và triển khai những nội dung của Bộ luật hình sự
mới về tội phạm này phù hợp với thực tiễn thì việc làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận, đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật là rất quan trọng.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu, làm sáng tỏ các vấn đề về mặt lý luận của tội
hiếp dâm không chỉ là căn cứ để hiểu và áp dụng đúng các quy định của Bộ
luật hình sự về tội hiếp dâm mà còn là cơ sở để hiểu và áp dụng đúng quy
định về một số tội phạm khác.
Chính vì những lý do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tội hiếp
dâm trong pháp luật hình sự Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi tác giả thực hiện đề tài này đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu tội hiếp dâm dưới góc độ luật hình sự được công bố, có thể kể đến một số


công trình như sau:
- Dương Tuyết Miên (1998), “Về các tội phạm tình dục trong luật hình
sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học (06);
- Nguyễn Hiển Khanh (2004), “Về tội hiếp dâm quy định tại Điều 111
Bộ luật hình sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (02);
- Nguyễn Tuyết Mai (2007), “Luật hình sự Việt nhìn từ góc độ tiếp cận
về giới”, Tạp chí Luật học (03);
- Đỗ Việt Cường (2008), “Một số ý kiến trao đổi về tội hiếp dâm theo
quy định tại Điều 111 Bộ luật hình sự”, Tạp chí Kiểm sát (23);
- Đặng Xuân Nam (2009), “Trao đổi về tội hiếp dâm theo Điều 111 Bộ
luật hình sự”, Tạp chí Kiểm sát (07);
- Phạm Văn Báu (2010), “Những bất cập và phương hướng hoàn thiện
quy định về một số tội xâm phạm nhân phẩm của con người trong Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1999”, Tạp chí Luật học (01);
- Đỗ Đức Hồng Hà (2010), “Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự

năm 1999 về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp (08);
- Bùi Thị Quyên (2012), “Bàn về một số dấu hiệu pháp lý của tội hiếp
dâm”, Tạp chí Tòa án nhân dân (23);
- Dương Tuyết Miên, Bùi Thị Quyên (2013), “So sánh dấu hiệu phạm
tội hiếp dâm trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành với Bộ luật hình sự
của một số nước và một số kiến nghị”, Tạp chí Tòa án nhân dân (07).
Các công trình trên chủ yếu là những bài viết đăng trên các tạp chỉ và
chúng thường tập trung nghiên cứu, giải quyết một vài khía cạnh nào đó của
tội hiếp dâm. Đó thường là những khía cạnh còn gây tranh cãi và có nhiều
quan điểm trái chiều.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm, trong đó tập trung chủ yếu vào quy định


của Bộ luật hình sự năm 1999 và so sánh với quy định của Bộ luật hình sự
năm 2015 về tội phạm này. Đồng thời, bên cạnh những quy định của pháp
luật, luận văn còn nghiên cứu một số vụ án hiếp dâm trên thực tế.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ luật hình
sự. Tác giả sẽ tập trung phân tích nội dung của tội hiếp dâm theo quy định của
Bộ luật hình sự năm 1999, từ đó so sánh với nội dung của tội hiếp dâm theo
quy định của Bộ luật hình sự năm 2015. Bên cạnh đó, từ việc nghiên cứu thực
tiễn xét xử những vụ án hiếp dâm, tác giả đưa ra những giải pháp, kiến nghị
nhằm hoàn thiện cũng như triển khai áp dụng quy định về tội hiếp dâm trong
Bộ luật hình sự năm năm 2015 trên thực tế.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích để làm rõ nội dung quy
định về tội hiếp dâm theo Bộ luật hình sự năm 1999, so sánh để thấy những
điểm mới, điểm khác biệt so với quy định tương ứng tại Bộ luật hình sự năm

2015 sắp có hiệu lực thi hành. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất những giải pháp,
kiến nghị nhằm giải thích rõ quy định về tội hiếp dâm để áp dụng thống nhất,
góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động đấu tranh chống tội phạm này.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn bao gồm:
- Các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm là gì?
- Hình phạt đối với tội hiếp dâm như thế nào?
- Có sự khác biệt gì giữa tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình
sự năm 1999 và tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015?
Tại sao có sự khác biệt đó?
- Nên hiểu quy định về tội hiếp dâm theo Bộ luật hình sự năm 2015 ra
sao để phù hợp với khoa học luật hình sự và thực tiễn đấu tranh phòng chống
loại tội phạm này?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Trong luận văn, tác giả sử dụng chủ yếu những phương pháp nghiên


cứu sau: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp nghiên cứu vụ việc.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Đưa ra quan điểm, làm sáng tỏ về những vấn đề gây tranh cãi xoay
quanh nội dung của tội hiếp dâm.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm triển khai nội dung quy định về tội
hiếp dâm theo Bộ luật hình sự năm 2015 trong thực tiễn, phù hợp với khoa
học luật hình sự.
8. Bố cục (các chương) của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Sơ lược lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm
từ năm 1945 đến nay

Chương 2: Quy định về tội hiếp dâm theo Bộ luật hình sự năm 1999 So sánh với Bộ luật hình sự năm 2015
Chương 3: Một số vấn đề vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định
về tội hiếp dâm và những kiến nghị hoàn thiện.


Chương 1
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI HIẾP DÂM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm
1985
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra đời. Thời kỳ này chính quyền non trẻ mới ra đời gặp nhiều
khó khăn: nền kinh tế - xã hội lạc hậu bị chiến tranh tàn phá nặng nề, tài chính
cạn kiệt, tình hình rối ren thù trong giặc ngoài… Nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn này là củng cố chính quyền, đấu
tranh chống thù trong giặc ngoài. Trong hoàn cảnh như vậy, Nhà nước ta chưa
có đủ điều kiện để ban hành ngay các văn bản quy phạm pháp luật và xây
dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Vì vậy, ngày 10/10/1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 47/SL quy định giữ tạm thời các luật lệ
hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những bộ luật pháp
duy nhất cho toàn quốc. Theo nội dung của Sắc lệnh, “những điều khoản
trong luật lệ cũ được tạm giữ lại…, chỉ thi hành khi nào không trái với nền
độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa”.(1) Như vậy, ở
giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954, việc xét xử tội phạm hiếp dâm vẫn dựa
vào luật hình cũ (được tạm thời giữ lại). Đó là Bộ “Luật Hình An Nam” ban
bố tại Bắc bộ năm 1921, Bộ “Hoàng Việt Hình Luật” ban bố tại Trung bộ
năm 1933, Bộ hình luật pháp tu chỉnh thi hành ở Nam bộ năm 1912.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (năm 1954), miền Bắc hoàn toàn giải
phóng và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn miền Nam tiếp tục cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Do đó, những điều kiện chính trị, kinh tế, văn

hóa, xã hội ở miền Bắc đã có những thay đổi căn bản, các luật lệ của chế độ
cũ không còn phù hợp. Vì vậy, từ năm 1955, khi toàn bộ các luật lệ cũ không
còn được áp dụng nữa, các Tòa án xử theo án lệ, theo đường lối, chính sách
1 Điều thứ 14, Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa

( )


của Nhà nước.(2) Cho đến thời điểm này, Nhà nước ta vẫn chưa ban hành văn
bản pháp luật hình sự nào mới quy định về các tội phạm về mặt tình dục nói
chung và tội hiếp dâm nói riêng. Việc này đã dẫn đến tình trạng xét xử tùy
tiện.(3)
Năm 1960, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) ra chỉ thị số 1024 ngày
15/6/1960 hướng dẫn việc xử lý tội hiếp dâm nhằm khắc phục khuynh hướng
coi nhẹ tính chất nghiêm trọng của loại tội phạm này, nhất là khuynh hướng
coi nhẹ tội hiếp dâm trẻ em nhưng nội dung hướng dẫn còn chưa được toàn
diện.
Trong các báo cáo tổng kết các năm sau, từ 1961 đến 1966, TANDTC
một mặt rút kinh nghiệm việc xử lý tội hiếp dâm, mặt khác hướng dẫn việc xử
lý một số hình thức phạm tội mới mà luật cũ chưa hề quy định như tội cưỡng
bách giao cấu (cưỡng dâm), tội dâm ô,…
Trên cơ sở các kinh nghiệm mà thực tiễn xét xử đã đúc kết được trong
những năm nói trên, năm 1967, TANDTC đã thông qua Bản tổng kết và
hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và các tội phạm khác về tình dục (số
329-HS2 ngày 11/5/1967), đề cập một cách toàn diện 4 hình thức phạm tội:
- Hiếp dâm;
- Cưỡng dâm (tức cưỡng bách giao cấu);
- Giao cấu với người dưới 16 tuổi;
- Dâm ô (trái ý muốn và không có giao cấu).
Văn bản này đã chính thức thay thế chỉ thị số 1024 năm 1960 và các

đoạn trong các báo cáo tổng kết hàng năm từ năm 1961 đến năm 1966, về vấn
đề này.(4)
Bản tổng kết và hướng dẫn số 329-HS2 ngày 11/5/1967 đã hướng dẫn
2 Tòa án nhân dân tối cao (1979), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự (1970-1974), (01), Hà Nội, tr. 388.
3 Xem: Trịnh Thị Thu Hương (2004), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam và đấu
tranh phòng chống loại tội phạm này, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội, tr. 12.
( )
4 Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm khác về mặt tình dục số 329HS2 ngày 11/05/1967 của Tòa án nhân dân tối cao, trích từ tài liệu: “Tòa án nhân dân tối cao (1979), Hệ
thống hóa luật lệ về hình sự, tập I (1970-1974), Hà Nội, tr. 388 - 389”.
( )
( )


cụ thể về tội hiếp dâm như sau:
- Về khái niệm:
Trong Bản tổng kết và hướng dẫn đã đưa ra định nghĩa về khái niệm
hiếp dâm qua thực tiễn xét xử của nước ta thời kỳ đó: “hiếp dâm là hành động
bắt buộc người phụ nữ phải chịu sự giao cấu trái ý muốn hoặc không có ý
muốn của người đó bằng cách dùng bạo lực về thể chất, hay là uy hiếp về tinh
thần, hay là lợi dụng hoặc gây ra tình trạng không thể tự vệ hoặc biểu lộ ý chí
của người đó”.(5) Đồng thời khẳng định đó là một khái niệm đúng đắn và đầy
đủ về tội hiếp dâm.
Bản tổng kết cũng đưa ra một vướng mắc trong thực tiễn xét xử tội hiếp
dâm, đó là: “Có hành vi giao cấu như thế nào thì coi là tội hiếp dâm đã hoàn
thành?”. Các bản án xét xử có khác nhau. Hầu như không có bản án nào đòi
hỏi phải có xuất tinh. Nhưng theo một số bản án, dương vật của người đàn
ông phải được ấn sâu vào tận âm đạo (bộ phận từ màng trinh trở vào tử cung)
của người phụ nữ mới coi là hiếp dâm đã hoàn thành. Trái lại, theo nhiều bản
án khác, tội hiếp dâm được coi là hoàn thành khi dương vật được ấn trực tiếp
vào trong bộ phận sinh dục (từ môi lớn trở vào) của người phụ nữ, không kể

là sâu hay cạn.
Trên cơ sở đó, Bản tổng kết cũng đưa ra quan điểm hướng dẫn: “chỉ có
sự cọ xát trực tiếp dương vật vào bộ phậm sinh dục của người phụ nữ (bộ
phận từ môi lớn trở vào) với ý thức định ấn vào trong không kể sự xâm nhập
của dương vật là sâu hay cạn, không kể có xuất tinh hay không là tội hiếp
dâm đã được gọi là hoàn thành, và khi đó, nhân phẩm, danh dự của người
phụ nữ đã bị chà đạp”.(6)
+ Những hành động hoặc thủ đoạn để bắt người phụ nữ phải chịu sự
5 Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm khác về mặt tình dục số 329HS2 ngày 11/05/1967 của Tòa án nhân dân tối cao, trích từ tài liệu: “Tòa án nhân dân tối cao (1979), Hệ
thống hóa luật lệ về hình sự, tập I (1970-1974), Hà Nội, tr. 390”.
( )
6 Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm khác về mặt tình dục số 329HS2 ngày 11/05/1967 của Tòa án nhân dân tối cao, trích từ tài liệu: “Tòa án nhân dân tối cao (1979), Hệ
thống hóa luật lệ về hình sự, tập I (1970-1974), Hà Nội, tr. 390”.
( )


giao cấu trái với ý muốn hoặc không có ý muốn của họ bao gồm:
Hành vi bạo lực về thể chất như: vật ngã, trói, xé quần áo, giữ tay chân,
bịt mồm, gây thương tích,… khiến người phụ nữ không thể chống cự hoặc
kêu cứu.
Uy hiếp mạnh mẽ về tinh thần, khiến cho người phụ nữ khiếp sợ, ý chí
tự vệ bị tê liệt, không dám chống cự mà phải để cho người uy hiếp thực hành
giao cấu.
Lợi dụng hoặc gây ra tình trạng nạn nhân không thể tự vệ hoặc biểu lộ
ý chí đúng đắn để hiếp dâm. Đó là những trường hợp như: nạn nhân bị mê
man bất tỉnh (do bị tật động kinh, bị say thuộc lào, bị gây mê, tiêm thuốc bị dị
ứng…), ngủ mê tưởng lầm can phạm là chồng nên không kháng cự hoặc một
số trường hợp ngủ mê khác; bị say rượu nặng; bị ốm đau liệt nhược, bị lên
cơn điên dại; ở trong tình trạng cô đơn yếu đuối ở nơi hẻo lánh hoặc trong
mọi tình trạng không thể chống cự khác.

Nhiều khi có sự kết hợp giữa các hành động và thủ đoạn nói trên làm tê
liệt mọi khả năng hoặc ý chí kháng cự của người phụ nữ, mặc dù nếu chỉ nhìn
riêng một hành động hoặc thủ đoạn nào thì chưa đủ.
+ Tội hiếp dâm thuộc loại tội cố ý trực tiếp: can phạm phải nhận thức
được rằng mình dùng bạo lực về thể chất hay uy hiếp về tinh thần hay lợi
dụng hoặc gây ra tình trạng không thể tự vệ hoặc biểu lộ ý chí của nạn nhân
để giao cấu trái với ý muốn hoặc không có ý muốn của họ, nhưng vẫn làm vì
muốn làm việc ấy để thỏa mãn tình dục của mình.
Có thể thấy trong Bản tổng kết và hướng dẫn này, hình thức phạm tội
hiếp dâm bao gồm cả hiếp dâm trẻ em. Các đặc điểm riêng của hình vi hiếp
dâm trẻ em cũng được nhấn mạnh ngay trong phần khái niệm của tội hiếp
dâm. Cụ thể là:
Các hành vi giao cấu với các em dưới 13 tuổi tròn nói chung,
không kể các em có thỏa thuận hay không thỏa thuận đều phải được coi
là hành vi hiếp dâm vì, do trí óc non nớt của các em, phải coi các em


đó là ở trong tình trạng không thể tự vệ và biểu lộ ý chí đứng đắn.
Riêng đối với các em từ 13 tuổi tròn đến 14 tuổi tròn, trong một số
trường hợp cá biệt, có em đã dậy thì và có thể thực sự thuận tình giao
cấu. Cho nên, khi có sự giao cấu có thuận tình với các em đó, cần căn
cứ vào mọi tình tiết của vụ án (như tính tình, thân hình, thái độ của các
em…) để nhận định xem có tội hiếp dâm trẻ em hay chỉ là tội giao cấu
với người dưới 16 tuổi...(7)
- Về hình phạt:
Bản tổng kết trên đã khẳng định việc TANDTC xác nhận những mức
án trong thực tiễn xét xử vào thời điểm đó là đúng đắn, cụ thể:
Khung cơ bản có mức phạt tù từ 2 năm đến 5 năm tù.
Khi có một trong các tình tiết: a) Nạn nhân là trẻ em từ 14 tuổi tròn trở
xuống; b) Hiếp người thân thuộc về trực hệ (kể cả nuôi và đẻ) hoặc hiếp chị,

em ruột; c) Hiếp dâm với thủ đoạn nguy hiểm, tàn khốc hoặc trắng trợn; hiếp
dâm công khai trước mặt người thứ ba…; d) Hiếp nhiều người hoặc trước đã
can án về tội hiếp dâm; e) Cấu kết với nhau thành tổ chức để đi hiếp dâm;
mức hình phạt từ 3 năm đến 8 năm tù. Nếu tập trung nhiều tình tiết nói trên,
mức hình phạt có thể đến 15 năm tù.
Nếu hiếp dâm làm người chết hoặc làm nạn nhân tự sát, xử phạt từ 5
năm đến 20 năm tù. Trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng có thể xử
đến chung thân hoặc tử hình.
Về đường lối xử lý đối với tội hiếp dâm, Bản tổng kết này đã chỉ rõ
những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ thường gặp trong tội hiếp dâm. Chẳng
hạn, những tình tiết tăng nặng thường gặp trong tội hiếp dâm như: có nhiều
người cộng phạm trong một vụ hiếp dâm (ngoài những trường hợp có tổ chức
hoặc có hành động luân phiên nhau hiếp); hiếp dâm nhiều lần; hiếp vị thành
niên dưới 18 tuổi (ngoài các trường hợp hiếp dâm trẻ em); hiếp người có quan
7 Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm khác về mặt tình dục số 329HS2 ngày 11/05/1967 của Tòa án nhân dân tối cao, trích từ tài liệu: “Tòa án nhân dân tối cao (1979), Hệ
thống hóa luật lệ về hình sự, tập I (1970-1974), Hà Nội, tr. 391”.
( )


hệ thân thuộc hoặc “thích thuộc” gần gũi (ngoài các trường hợp thân thuộc về
trực hệ hoặc anh, chị, em ruột); hiếp người giao cho mình chăm sóc, giáo dục,
chữa bệnh, giam giữ… hoặc mọi người khác có quan hệ lệ thuộc với mình
(ngoài trường hợp lợi dụng chức vụ hoặc địa vị công tác); hiếp dâm với thêm
động cơ đê hèn. Những tình tiết giảm nhẹ là: phạm tội chưa thành; tác hại hạn
chế; bị cáo còn ít tuổi. Ngoài các tình tiết này thì cũng cần vận dụng các tình
tiết chung có liên can đến những vấn đề như nhân thân can phạm, thái độ của
can phạm để xử phạt.
Trong khi chờ pháp luật có quy định đầy đủ và toàn diện hơn thì Bản
tổng kết này có ý nghĩa rất lớn, như đã đề cập trong chính văn bản này:
“Trong khi chờ đợi pháp luật quy định rõ ràng hơn, căn cứ vào đường lối,

chính sách của Đảng và Nhà nước, vào thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối
cao thấy cần thiết và đã có thể tổng kết kinh nghiệm trong những năm qua,
rút ra và chỉ rõ thêm một số điểm để hướng dẫn công tác xét xử các loại tội
phạm về mặt tình dục được tốt hơn, đồng thời sơ bộ dùng làm cơ sở cho công
tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, góp phần đấu tranh ngăn ngừa tội
phạm”.(8)
Ngay sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, ngày 15/3/1976 Hội
đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban
hành sắc luật số 03/SL quy định các tội phạm và hình phạt. Điều 5 của Sắc
luật này quy định về Tội xâm phậm đến thân thể và nhân phẩm của công
dân. Tại điểm c của Điều luật này quy định: “Phạm tội hiếp dâm, thì bị phạt
tù từ 2 năm đến 5 năm. Hiếp dâm vị thành niên thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7
năm. Trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm, tù chung
thân hoặc bị xử tử hình”.(9) Theo quy định của Sắc luật số 03/SL, hành vi
8 Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm khác về mặt tình dục số 329HS2 ngày 11/05/1967 của Tòa án nhân dân tối cao, trích từ tài liệu: “Tòa án nhân dân tối cao (1979), Hệ
thống hóa luật lệ về hình sự, tập I (1970-1974), Hà Nội, tr. 389”.
( )
9 Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/03/1976 của Hội đồng Chánh phủ cách mạng lâm thời quy định các tội phạm
và hình phạt, trích từ tài liệu: “Tòa án nhân dân tối cao (1979), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập II (19751978), Hà Nội, tr. 221”.
( )


phạm tội hiếp dâm, đặc biệt là hành vi hiếp dâm người chưa thành niên bị
trừng trị rất nghiêm khắc. Thông tư số 03/TT-BTP tháng 4 năm 1976 của Bộ
Tư pháp hướng dẫn thi hành Sắc luật quy định các tội phậm và hình phạt đã
hướng dẫn chi tiết quy định tại Điều 5 Sắc luật trên. Cụ thể:
Hiếp dâm là hành vi dùng bạo lực hoặc hành vi uy hiếp về tinh
thần để giao cấu của người phụ nữ, không có sự thỏa thuận của người
đó; hoặc là hành vi lợi dụng lúc người phụ nữ đang ngủ say, đang bị
mê sảng, hoặc có bệnh thần kinh để giao cấu với họ; hoặc có hành vi

lợi dụng sự non nớt, sự chưa hiểu biết của vị thành niên dưới 13 tuổi để
giao cấu với chúng.
Đối với tội hiếp dâm, Sắc luật quy định 3 khung hình phạt:
Khung hình phạt áp dụng cho những trường hợp hiếp dâm người
lớn là từ 2 năm đến 5 năm tù;
Trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, không phân biệt hiếp dâm
người lớn hay hiếp dâm vị thành niên, thì bị phạt đến 20 năm tù, tù
chung thân hoặc bị xử tử hình.
Coi là đặc biệt nghiêm trọng những trường hợp sau đây:
- Nhiều người hiếp dâm một người.
- Do hiếp dâm đã làm cho nạn nhân chết, làm cho nạn nhân bị
trụy thai hoặc làm tổn thương lớn đến sức khỏe của nạn nhân, nhất là
đối với nạn nhân là vị thành niên.
- Hiếp nhiều người.
- Hiếp người đang mê sảng, hoặc bị bệnh thần kinh.
- Hiếp người có quan hệ huyết thống.(10)
Tiếp theo đó, để thực hiện Nghị quyết 76/CP của Hội đồng Chính phủ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 06/7/1977, TANDTC đã ra
chỉ thị số 54/TANDTC hướng dẫn việc thi hành pháp luật thống nhất trong cả
10) Thông tư số 03-BTP/TT ngày /04/1976 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Sắc luật quy định về các tội
phạm và hình phạt, trích từ tài liệu: “Tòa án nhân dân tối cao (1979), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập II
(1975-1978), Hà Nội, tr. 222”.
(


nước trong đó nói rõ việc áp dụng Điều 5 Sắc luật 03/SL. Từ đây, Sắc luật
03/SL được sử dụng cho đến khi BLHS 1985 ra đời và có hiệu lực.
Như vậy, trước khi ban hành BLHS 1985, các văn bản được coi là cơ
sở pháp lý để xét xử tội hiếp dâm bao gồm: Bản tổng kết và hướng dẫn đường
lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội khác về mặt tình dục số 329/HS2, Sắc

luật số 03-SL/1976 của Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời, Thông tư
số 03/BTP tháng 4/1976 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Sắc luật số 03SL/1976. Tuy nhiên, đây chỉ là những văn bản dưới luật nên giá trị pháp lý
của những văn bản pháp luật này chưa cao, đồng thời các quy định còn chưa
cụ thể, rõ ràng nên dẫn đến việc áp dụng không thống nhất, gặp nhiều vướng
mắc trong việc xét xử, làm ảnh hưởng đến chất lượng xét xử cũng như hiệu
quả của cuộc đấu tranh chống tội phạm này.
Với những đặc điểm về hình thức và nội dung như trên thì một nhu cầu
được đặt ra là phải có một văn bản tổng hợp toàn diện, thống nhất các văn bản
pháp luật hình sự nói chung và các quy định về hành vi hiếp dâm nói riêng.
Văn bản đó chính là Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985 - sự pháp điển hóa các
hành vi phạm tội trong đó có nội dung tội phạm hiếp dâm.
1.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm
1999
BLHS năm 1985 được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985 và có hiệu
lực từ ngày 01/11/1986 là BLHS đầu tiên của Nhà nước ta. BLHS đầu tiên ra
đời thể hiện sự phát triển về chất của công tác lập pháp trong lĩnh vực hình sự,
đánh dấu một bước quan trọng trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam. Tội
hiếp dâm đã được quy định tương đối rõ ràng, đầy đủ. Điều 112 BLHS năm
1985 quy định về tội hiếp dâm bao gồm 4 điều khoản:
1- Người nào dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác giao cấu với người khác
trái ý muốn của họ thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ mười ba tuổi trở lên hoặc
người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh thì


bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
năm năm đến mười lăm năm:
a) Hiếp dâm có tổ chức hoặc nhiều người hiếp một người;
b) Hiếp nhiều người hoặc gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của nạn nhân;

c) Tái phạm nguy hiểm.
3- Phạm tội làm nạn nhân chết, tự sát hoặc trong trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng khác thì phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung
thân hoặc tử hình.
4- Mọi trường hợp giao cấu với trẻ dưới mười ba tuổi đều là phạm tội
hiếp dâm và người phạm tội bị phạt theo các khoản 2 và 3 Điều này.
Có thể thấy rằng, tội hiếp dâm trong BLHS năm 1985 vẫn bao gồm cả
hiếp dâm trẻ em, hiếp dâm trẻ em vẫn chưa được quy định là một tội danh độc
lập mà chỉ được coi là một tình tiết tăng nặng của tội hiếp dâm.
Nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm,
BLHS 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các năm 1989, 1991, 1992
và 1997. Việc sửa đổi, bổ sung BLHS liên quan đến tội hiếp dâm là nhằm
điều chỉnh kịp thời chính sách hình sự, phát huy hiệu quả của pháp luật hình
sự trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về tình dục, đặc biệt là tình
dục trẻ em trước diễn biến khá phức tạp của nhóm tội phạm này.
Tại lần sửa đổi, bổ sung thứ hai (năm 1991), Điều 112 quy định về tội
hiếp dâm (trong đó có hiếp dâm trẻ em) đã được sửa đổi, bổ sung. Cụ thể,
khoản Điều 112 về tội hiếp dâm được sửa đổi, bổ sung như sau:
4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi đều là phạm tội
hiếp dâm và người phạm tội bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định ở khoản 2 và khoản
3 Điều này, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân
hoặc tử hình.
Theo đó, việc sửa đổi này đã khắc phục được điểm bất hợp lý của


khoản 4, Điều 112 trước đó. Bởi theo khoản 4, Điều 112 BLHS được ban
hành năm 1985, trường hợp phạm tội theo khoản 4 lại bị phạt theo các khoản
2, 3 của điều luật này, mà về lý luận chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự theo các
khoản này nếu thỏa mãn các tình tiết định khung tăng nặng được quy định ở

các khoản đó. Bên cạnh đó, lần sửa đổi này đã thể hiện đường lối trừng trị
nghiêm khắc hơn đối với tội hiếp dâm khi mức hình phạt trong các trường
hợp quy định ở khoản 2, Điều 112 được tăng lên.
Lần sửa đổi, bổ sung thứ ba (năm 1992) không có sự sửa đổi, bổ sung
liên quan đến tội hiếp dâm. Mặc dù đã qua ba lần sửa đổi, bổ sung nhưng hiếp
dâm trẻ em vẫn chỉ là một quy định nằm trong điều luật về tội hiếp dâm.
Trước tình hình phạm tội hiếp dâm nói chung và hiếp dâm trẻ em nói riêng
ngày càng gia tăng, diễn biến ngày càng phức tạp, TANDTC đã ban hành
Công văn số 73/TK về đường lối xét xử loại tội phạm tình dục trẻ em, nhấn
mạnh việc xử phạt nghiêm khắc với hình phạt cao trong khung hình phạt,
cùng với việc áp dụng thêm hình phạt bổ sung đối với những trường hợp
phạm tội này.
Tại lần sửa đổi, bổ sung lần thứ 4 (năm 1997), Điều 112 về tội hiếp
dâm được sửa đổi, bổ sung như sau:
1- Người nào dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác giao cấu với người khác
trái ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi hoặc người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa
bệnh, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
bảy năm đến mười lăm năm: a) Có tổ chức; b) Nhiều người hiếp một người;
c) Phạm tội nhiều lần; d) Có tính chất loạn luân; đ) Làm nạn nhân có thai; e)
Gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của nạn nhân; g) Tái phạm nguy hiểm.
3- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a) Gây tổn hại rất nặng


cho sức khoẻ của nạn nhân; b) Có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều
này.
4- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

chung thân hoặc tử hình: a) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát; b) Có nhiều tình
tiết quy định tại khoản 3 Điều này.
Luật sửa đổi, bổ sung đã tách hành vi hiếp dâm trẻ em ra khỏi tội hiếp
dâm nói chung và quy định thành tội danh riêng là tội hiếp dâm trẻ em. Tội
này được quy định tại Điều 112a, cụ thể:
Điều 112a. Tội hiếp dâm trẻ em
1- Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị
phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười lăm năm đến hai mươi năm: a) Có tính chất loạn luân; b) Làm nạn
nhân có thai; c) Gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của nạn nhân; d) Đối với
người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; đ)
Tái phạm nguy hiểm.
3- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
chung thân hoặc tử hình: a) Có tổ chức; b) Nhiều người hiếp một người; c)
Phạm tội nhiều lần; d) Gây tổn hại rất nặng cho sức khỏe của nạn nhân; đ)
Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4- Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp
dâm và người phạm tội bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Việc quy định hiếp dâm trẻ em thành một tội danh độc lập chứng tỏ sự
quan tâm đặc biệt của pháp luật hình sự Việt Nam đối với việc bảo vệ trẻ em
khỏi tội phạm hiếp dâm, đồng thời đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm tình dục trẻ em. Tuy nhiên, khoản
4 Điều 112a có một sai sót trong việc sử dụng thuật ngữ khi quy định: “Mọi
trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm...”.
Điều này là không hợp lý bởi lẽ Điều 112a quy định về tội hiếp dâm trẻ em,


đã tách ra khỏi tội hiếp dâm nên khoản 4 Điều 112a phải quy định về tội hiếp
dâm trẻ em chứ không quy định về tội hiếp dâm.

Có thể nói BLHS năm 1985 là một bước ngoặt đáng kể trong lịch sử
lập pháp nước ta. Với BLHS năm 1985, lần đầu tiên kể từ năm 1945, nước ta
có một văn bản luật hình sự thống nhất, các quy phạm pháp luật hình sự nói
chung và các quy định của pháp luật về tội hiếp dâm không nằm rải rác trong
nhiều văn bản như trước đây nữa. Qua các lần sửa đổi, bổ sung, quy định về
tội hiếp dâm ngày càng hoàn thiện, đã có sự tách biệt tội phạm hiếp dâm trẻ
em ra khỏi tội hiếp dâm, thể hiện sự quan tâm của nhà làm luật đối với loại tội
phạm này.
1.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay
Về nội dung và hình thức, BLHS năm 1985 là một Bộ luật thống nhất
và tương đối hoàn thiện. Tuy nhiên, để khắc phục một số hạn chế và để phù
hợp hơn với sự thay đổi của tình hình xã hội thì việc ra đời BLHS mới là cần
thiết. BLHS năm 1999 được Quốc hội khóa X thông qua đã có nhiều thay đổi,
trong đó có quy định về tội hiếp dâm.
Tội hiếp dâm được quy định tại Điều 111 BLHS năm 1999, cụ thể:
Điều 111. Tội hiếp dâm
1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng
không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn
nhân trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
bảy năm đến mười lăm năm: a) Có tổ chức; b) Đối với người mà người phạm
tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; c) Nhiều người hiếp một
người; d) Phạm tội nhiều lần; đ) Đối với nhiều người; e) Có tính chất loạn
luân; g) Làm nạn nhân có thai; h) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà
tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:


a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61%

trở lên; b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết
hoặc tự sát.
4. Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc
khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản
đó.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Như vậy, theo BLHS năm 1999 thì tội hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực,
đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn
nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ.
So với BLHS năm 1985 (sửa đổi, bổ sung năm 1989, 1991, 1992,
1997) quy định về tội phạm này, thì BLHS năm 1999 có những điểm khác
biệt sau:
Một là, dấu hiệu định tội: về cơ bản, dấu hiệu định tội của tội hiếp dâm
theo BLHS năm 1999 không có nhiều thay đổi so với BLHS năm 1985. Có
thể nhận thấy rằng BLHS năm 1999 mô tả hành vi khách quan đầy đủ và cụ
thể hơn: Nếu như Điều 112 BLHS năm 1985 chỉ quy định: “Người nào dùng
vũ lực hoặc thủ đoạn khác” thì Điều 111 BLHS năm 1999 quy định: “Người
nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ
được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác”.
Hai là, hình phạt đối với tội hiếp dâm: Quy định của BLHS năm 1999
cũng có sự thay đổi so với BLHS năm 1985. Cụ thể, Điều 111 BLHS năm
1999 quy định 4 khung hình phạt, còn Điều 112 BLHS năm 1985 quy định 5
khung hình phạt. Đồng thời, với một số trường hợp hiếp dâm, khung hình
phạt có thể áp dụng là khác nhau ở các điều luật này (như trường hợp hiếp
dâm làm nạn nhân chết hoặc tự sát,…).



Bên cạnh đó, Điều 111 BLHS năm 1999 cũng có những sửa đổi, bổ
sung về dấu hiệu định khung tăng nặng so với BLHS năm 1985. Chẳng hạn,
trong khoản 2 Điều 111 BLHS năm 1999: dấu hiệu “hiếp dâm người mà
người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh” là trường hợp
tách ra từ đoạn 2 khoản 1 Điều 112 BLHS năm 1985; bổ sung thêm dấu hiệu
định khung “Đối với nhiều người”; sửa đổi dấu hiệu mang tính định tính gây
tổn hại nặng hoặc rất nặng cho sức khỏe của nạn nhân trong BLHS năm
1985 thành dấu hiệu định lượng trong BLHS năm 1999 là gây tổn hại cho sức
khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 61% trở lên.
Tại khoản 3 Điều 111 BLHS năm 1999, nhà làm luật đã đưa vào dấu hiệu
định khung “biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội” là dấu hiệu mới được
quy định trong BLHS năm 1999, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn đấu tranh
phòng chống tội phạm.
BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung một lần năm 2009. Liên quan
đến tội hiếp dâm, khoản 1 Điều 1 Luật số 37/2009/QH12 về sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLHS quy định:
1. Bỏ hình phạt tử hình ở các điều 111,...
Sửa đổi cụm từ “hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình” thành cụm
từ “hai mươi năm hoặc tù chung thân” tại khoản 3 Điều 111,...
Trong những năm qua, mặc dù BLHS năm 1999 đã phát huy tác dụng
tích cực trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần quan trọng giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Tuy nhiên, theo Báo cáo của các cơ quan chức năng, tình
hình tội phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết sức phức tạp với những phương
thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Sau gần 17 năm thi hành BLHS năm 1999,
tình hình đất nước, xã hội của ta đã có những thay đổi lớn về mọi mặt nên
BLHS năm 1999 đã bộc lộ nhiều hạn chế bất cập. Điều này đã đặt ra yêu cầu
sửa đổi BLHS hiện hành một cách cơ bản, toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu
đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, trong đó có tội phạm



×