Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

LÝ THUYẾT CỦA S FREUD LÝ THUYẾT NHÂN CÁCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.5 KB, 14 trang )

Lý thuyết nhân cách của Sigmund Freud
I.
1.

Một số khái niệm của Freud
Ý thức, tiền ý thức, vô thức

Sigmund Freud là một bác sĩ thần kinh người Áo, được coi là cha đẻ của Phân tâm
học. Phân tâm học cổ điển của ông được xây dựng khi ông phân chia hệ thống tâm trí
thành ba tầng: ý thức, tiền ý thức, vô thức và đặc biệt là khái niệm về vô thức. Vô thức có
thể hiểu là các yếu tố tâm trí ẩn tàng nhưng có thể trở thành ý thức và các yếu tố tâm trí
bị dồn nén, những yếu tố này – vì bị dồn nén và không bị mối liên hệ nào trói buộc –
không có khả năng trở lại miền ý thức.
Nói chính xác ra thì Freud không phải là cha đẻ của khái niệm ý thức nhưng ông là
người đã có công biến nó trở thành nổi tiếng. Trạng thái ý thức xảy ra khi chúng ta có
nhận thức về những diễn biến xảy ra từ xung quanh qua cách nhìn, trí nhớ, nhận thức, tư
tưởng, cùng với những ảo tưởng và cảm giác. Freud cho rằng tiềm thức là một trợ tá đắc
lực của ý thức; ông cho rằng đây là một của trạng thái trí nhớ sẵn sàng hoạt động vốn là
trung tâm lưu trữ được ý thức sử dụng để truy cập dữ kiện khi cần thiết. Người đương
thời với Freud không có những nhận xét nào cụ thể về ý thức và tiềm thức nhưng Freud
tin rằng phải có một bộ phận nhỏ nằm ở giữa ý thức và tiềm thức.
Theo ông, đấy là một bộ phận vô thức, một khu vực lưu trữ không dễ dàng truy
cập khi cần thiết bởi ý thức, bao gồm những xung động và nội lực tồn tại, chẳng hạn như
bản năng hay những tâm thức cảm xúc có cường độ quá mạnh mà con người né tránh vì
những tâm thức cảm xúc này liên quan đến những điều đau đớn khó chịu.
Theo Freud, vô thức là nơi tập trung những động cơ. Những động cơ này có thể là
đơn giản như muốn được tin trong khi đói hay nhu cầu thỏa mãn tính dục, hoặc những
xung động thần kinh tự động. Vô thức còn chứa trong nó những động cơ cao hơn, phức


tạp hơn như vẫn thấy trong sáng tạo nghệ thuật và tìm tòi khoa học. Theo ông những


động cơ thuộc khu vực vô thức thường có nhiều hình thái rất khó nhận dạng.
2. Xung động vô thức, cái tôi và siêu ngã
Những trường phái tâm lý theo học thuyết của Freud đặt một sinh thể trong bối
cảnh cuộc sống với những liên hệ phong phú. Trong đó một sinh thể có những hành vi
đặc thù để duy trì đời sống và sinh sản, được hướng dẫn bởi những nhu cầu sinh lý cơ
bản bao gồm: đói, khát, hoạt động tính dục hay tránh né những hình phạt, đau đớn, và
những trạng thái khó chịu.
Thần kinh là một bộ phận tối quan trọng cần thiết của một sinh thể. Đây chính là
cơ quan nhạy cảm với những nhu cầu sinh sống và sinh sản của một sinh thể. Khi vừa
được sinh ra, một sinh thể đã được cài đặt một hệ thần kinh có bộ phận xung động vô
thức. Nhiệm vụ của xung động vô thức là giải mã nhu cầu sinh lý thiết yếu của sinh thể,
từ đó đề xuất những động cơ mà Freud gọi là những khao khát. Quá trình giải mã này
được gọi là quá trình xử lý chủ lực.
Phương thức làm việc của xung động vô thức chủ yếu cung cấp nền tảng xoay
quanh nguyên lý khoái lạc vốn tập trung vào cơ năng đòi hỏi thỏa mãn ngay lập tức
những nhu cầu sinh lý của một sinh thể. Ví dụ khi một trẻ sơ sinh đói, em sẽ khóc cho
đến khi tái xạm cả người. Xung động vô thức không cần biết đến yếu tố hợp lý trong não
trạng bình thường mà chỉ biết ra lệnh, đòi hỏi được thỏa mãn nhu cầu và nhu cầu phải
được thỏa mãn ngay lập tức. Theo Freud thì xung động nơi trẻ em là trạng thái xung động
vô thức thuần túy nhất, là đại biểu toàn diện của tâm thức dưới hình thái sinh học.
Ước muốn có thức ăn khi ta đói bụng được kích thích bởi trí tưởng tượng về một
món ăn. Nếu nhu cầu từ ước muốn ấy không thể thỏa mãn được, xung động bên trong cơ
thể chúng ta sẽ nhập cuộc trong việc nổi loạn và không chịu ngưng nghỉ cho đến khi
những nhu cầu thức ăn thỏa mãn cơn đói được đáp ứng. Và khi nhu cấu ăn được đáp ứng
thì sinh thể sẽ trở về trạng thái nghỉ.


Để kiềm chế xung động vô thức, một sinh thể cần đến khả năng ý thức, vốn là một
cơ năng có liên hệ với những lý giải và phân tích suy diễn. Theo Freud thì xung động vô
thức nơi trẻ sơ sinh sẽ phát triển trở thành cái tôi trong thời gian một tuổi đầu tiên. Trong

đó cái tôi là một bộ phận liên hệ trực tiếp với môi trường sống thực tế của sinh thể. Cái
tôi đóng vai trò trong việc đi tìm những đáp ứng từ môi trường thỏa mãn nhu cầu của
xung động vô thức. Đây là một quá trình mang tính chất xử lý vấn đề. Freud gọi quá trình
này là quá trình xử lý thứ cấp.
Khác với xung động vô thức, cái tôi vận hành theo nguyên lý hợp lý với điều kiện
thực tế, đảm nhiệm việc tìm ra những đáp ứng cho nhu cầu sinh lý của cơ thể từ những
nguồn thích hợp. Ví dụ khi đói, một cá nhân sẽ tìm thức ăn ở những nơi mà anh ta có thể
được cho phép như ở nhà, hay ở tiệm ăn khi anh ta có tiền. Cái tôi đại diện cho suy diễn
thực tế và vì thế có sự xuất hiện của phân tích lý luận.
Tuy nhiên trong quá trình đi tìm đáp ứng để thỏa mãn nhu cầu của xung động vô
thức (giúp cho một sinh thể duy trì trạng thái cân bằng), cái tôi sẽ vấp phải những trở ngại
trong cuộc sống thực tế của môi trường. Thường thì cái tôi sẽ cố gắng trong việc dung
hòa giữa mục đích ý nghĩa và nhu cầu trong việc ổn định sinh hoạt của sinh thể. Cái tôi sẽ
gặp phải những thuận lợi và những trở ngại. Cái tôi sẽ ứng xử dựa trên hệ quả đến từ
thuận lợi qua những phần thưởng và tránh những trở ngại đến từ hình phạt. Đây là quá
trình trẻ em rút ra từ môi trường sống qua tiếp xúc với cha mẹ và người lớn từ khi các em
còn bé. Chính những khái niệm phần thưởng và hình phạt này sẽ giúp trẻ tránh những
điều bất lợi, từ đó các em sẽ tự xây dựng cho mình những chiến lược xử lý để đạt được
nhiều phần thưởng và tránh né những hình phạt.
Khi trẻ lên 7, hệ chiến lược xử lý nơi các em sẽ phát triển trở thành siêu ngã, tuy
nhiên nhiều người sẽ không phát triển đến mức độ đạt được trạng thái siêu ngã. Siêu ngã
có hai khía cạnh: (1) là lương tâm và (2) cái tôi lý tưởng. Lương tâm là một quá trình
thiết lập ý thức về hình phạt và sự cảnh cáo (punishment và warnings). Cái tôi lý tưởng
được phát triển khi các em nhận được những phần thưởng có giá trị đạo đức tinh thần và


do các em học được những gương mẫu tích cực từ người lớn. Lương tâm và cái tôi lý
tưởng sẽ đối thoại với cái tôi trong việc xử lý những yêu cầu nhằm thiết lập những định
nghĩa về khái niệm như: tự hào, điều xấu hổ hoặc những mặc cảm.
Khi trẻ em lớn lên, những phản ứng vận hành chuyển từ thuần túy sinh học sang

tính năng xã hội. Tuy nhiên điều kiện thực tế từ đời sống xã hội sẽ đặt ra những khó khăn
cho xung động vô thức. Nhất là khi các nguồn cung cấp trong xã hội có giới hạn. Nên
biết, cơ năng xung động vô thức nơi con người thường chỉ muốn được sở hữu, ai cũng
muốn mình có nhiều hơn và rất ngại trong việc tiếp nhận đời sống khó khăn, thiếu hụt.
3. Bản năng ham sống và bản năng được chết
Freud nhìn thấy mọi hành vi của con người có động cơ từ những đam mê và bản
năng; vốn được coi là những phương thức của hệ thần kinh trong việc đáp ứng những nhu
cầu sinh lý của cơ thể. Ban đầu ông cho rằng đó là những bản năng ham sống phục vụ đời
sống của một cá nhân sinh thể (a) bằng cách kích thích việc tìm thức ăn và nước uống và
(b) duy trì đời sống của cộng đồng qua việc sinh sản. Theo đó Freud giới thiệu khái niệm
xung lực dục năng theo tiếng La tinh có nghĩa là Tôi muốn.
Kinh nghiệm lâm sàng của Freud đã dẫn ông đến việc đánh giá tính dục là một
xung lực dục năng quan trọng hơn những động lực tâm lý khác. Con người là những sinh
thể có nhu cầu xã hội. Tính dục thực ra là một nhu cầu mang tính xã hội rất cao. Freud
định nghĩa tính dục rộng hơn nghĩa đen đơn thuần là giao hợp, tuy nhiên nhiều người ngộ
nhận khái niệm dục năng là năng lượng chỉ xoay quanh đời sống tính dục.
Về sau này, Freud bắt đầu tin rằng bản năng sống không hoàn toàn chi phối tất cả
chúng ta. Theo ông, dục năng chỉ là một mảng của đời sống, nguyên lý lạc thú là bộ phận
khiến chúng ta chuyển động liên tục không ngừng nhằm duy trì trạng thái thoả mãn, bình
yên và bằng lòng. Tuy nhiên Freud tin rằng mỗi cá nhân đều có một mục đích sau cùng
của đời sống là sự chết. Ông tin rằng từ trong sậu thẳm, mỗi người có một khát khao vô
thức sẽ được chết. Và đây là một bản năng nằm phía bên dưới của bản năng ham sống.


Đây là một ý tưởng độc đáo và lạ lùng khiến nhiều học trò của Freud đã phản đối
ông kịch liệt. Tuy nhiên đã có ý kiến cho thấy và vài kinh nghiệm minh họa. Đôi lúc đời
sống có khi rất đau khổ, nhất là những lúc cơ thể được đặt trong một trạng thái kiệt sức
thường xuyên – con người sẽ muốn được giải thoát. Đây là một não thức rất phổ thông.
Vì thế trên thế giới luôn có những nhận định tin rằng số người đau khổ luôn nhiều hơn số
người hạnh phúc, trong số đó nhiều người không dám trực diện đối mặt với đau khổ. Và

như thế cái chết vô tình đã là một hứa hẹn giải phóng con người thoát khỏi những vật lộn
giằng xé này.
Bằng chứng hàng ngày về bản năng chết được thể hiện qua những khao khát an
bình, không muốn đối diện với mâu thuẫn, khát khao sự an bình trong giấc ngủ, sự bình
thản, lặng lẽ, được nghỉ ngơi, được thinh lặng. Đôi lúc đi xa hơn, ta còn thấy nhiều người
đã dự định đi tìm cái chết qua tự tử và có ý định tự tử như một nhu cầu van xả. Freud đã
cố gắng đưa ra một học thuyết cho rằng một số người còn hướng bản năng chết vào
những hành vi khác như gây hấn, giết người, độc ác, và những hành vi mang tính phá
hoại.
II.

Các cơ chế tự vệ

Freud cho rằng cái tôi phải đối diện với những yêu cầu từ hai phía trong đời sống
thực tiễn là: xung động vô thức và siêu ngã. Tuy nhiên khi có sự mâu thuẫn quá lớn giữa
xung động vô thức và siêu ngã xảy ra, cái tôi buộc phải tự bảo vệ nó một cách vô thức tự
động bằng cách chặn lại những xung lực này hoặc tìm cách thay đổi biến chúng trở thành
những hình thái mới mẻ khác, dễ được chấp nhận và bớt đi tính cách đe dọa hơn. Theo
Freud có 5 cơ chế tự vệ chính và thường gặp:
+ Cơ chế tự vệ dồn nén: là sự lãng quên có động cơ trong đó một cá nhân không
thể nhớ lại những tình huống, hoặc những sự kiện đau đớn. Đây là một cơ chế tự vệ khá
nguy hiểm vì cá nhân không giải quyết dứt khoát tận gốc mọi sự cố xảy đến từ điều kiện
hoàn cảnh đời sống không thuận lợi.


Ví dụ một người rất sợ loài nhện mà không hiểu vì sao mình lại quá sợ? Chỉ nghĩ
đến loài nhện thôi họ đã sợ chứ không cần phải nhìn thấy. Rồi khi lớn lên anh ta vẫn
không hiểu do đâu mình sợ. Cho đến khi anh ta nghe người lớn kể rằng ngày còn rất bé
anh ta bị nhốt trong một căn phòng hẹp có nhiều nhện. Ký ức anh ta đã đóng chặt và anh
ta đã cố tình quên để gạt bỏ kinh nghiệm của mình đã bị nhốt trong một căn phòng có đầy

nhện. Anh ta cố quên hẳn chuyện vì sao mình sợ nhện – tuy nhiên nỗi sợ hãi vẫn tồn tại ở
một cấp độ gián tiếp khó nhận ra.
Theo trường phái phân tích tâm lý của Freud thì hiện tượng sợ hãi vô lý này đã
dồn nén một sự kiện gây sợ quá ấn tượng; đó là căn phòng hẹp có nhiều nhện. Vì thế chỉ
cần anh ta nhìn thấy nhện hoặc nghĩ về nhện đã gây ra lo lắng mà không cần khuấy động
toàn bộ hệ thống trí nhớ. Cơ chế tự vệ dồn nén này thường là căn nguyên của những nỗi
lo sợ vô căn cứ.
Cũng theo Freud, đời sống khổ hạnh là một thói quen từ bỏ những nhu cầu bình
thường hàng ngày như nhịn ăn, tập thể dục quá độ, tập luyện võ nghệ, cùng với nhiều
hành vi ép xác khác bởi vì các cá nhân đó có thói quen từ bỏ nhìn nhận những khả năng
phát triển bình thường của mình. Vì thế họ luôn cố gắng hoàn thiện mình. Đây là một
hình thái xử lý tình trạng lo lắng về những khiếm khuyết của bản thân. Nhiều người còn
đi xa hơn, tự đày đọa thân xác để mong tìm được sự bình an trong ăn năn sám hối.
+ Cơ chế tự vệ phóng chiếu: còn gọi là hoán chuyển cảm xúc hướng ngoại. Đây là
cách nhiều người gán ghép cảm xúc của mình lên người khác, nhất là những điểm hạn
chế tiêu cực của bản thân họ được nhìn thấy nơi người khác. Họ thường có những cảm
xúc vẫn tồn tại trong hệ tư duy của mình nhưng lại cho đấy là cảm xúc của người khác.
Có thể nói đây là cách suy bụng ta ra bụng người về những mặt thiếu lành mạnh và tiêu
cực.
Ví dụ như một ông chồng rất thích một cô gái hàng xóm và rồi nghĩ rằng vợ mình
cũng có những cảm giác đó với những người đàn ông khác tại cơ quan. Hay một sinh


viên lười biếng có khuynh hướng cho rằng nhiều sinh viên khác cũng sẽ lười biếng như
mình. Hoặc nhiều người có những lo lắng băn khoăn về xu hướng giới tính của mình sẽ
nghĩ là nhiều người xung quanh có cùng cảm giác đó. Anh A là người đồng tính sẽ nghĩ
rằng có nhiều người đàn ông khác cùng đồng tính giống như anh. Nhiều người sống và
hy sinh vì người khác vì họ tìm thấy những nhu cầu của mình sẽ được đáp ứng qua sinh
hoạt người khác. Ví dụ như ta vẫn nghe câu nói "muốn ăn gắp bỏ cho người". Chẳng hạn
một cô gái luống tuổi rất thích làm mai cho các cô gái trẻ khác vì họ có nhu cầu cơ chế tự

vệ hoán chuyển cảm xúc này.
+ Cơ chế tự vệ hình thành phản ứng: được gọi là tin vào điều ngược lại. Đây là
cách các cá nhân thay đổi một xung lực khó chấp nhận qua một xung lực ở trạng thái dễ
chấp nhận hơn. Ví dụ một đứa trẻ chẳng ưa gì cô giáo nhưng vẫn vui vẻ để lấy lòng cô
giáo ấy để tránh bị phạt. Hoặc một người đồng tính không thể chấp nhận được những
phản đối về sinh hoạt tính dục đồng tính từ phía dư luận xã hội nên đã công khai chống
lại đồng tính (anh ta có phản ứng với dư luận tiêu cực qua việc nói dối). Một ví dụ điển
hình thường thấy nơi các em gái ở độ tuổi 7–11, khi các em nói mình ghét các em trai,
nhưng người lớn có thể nhận ra được cảm xúc thực của các em gái là rất thích các cậu bé.
Nhiều ví dụ cho thấy các em ở tuổi dậy thì cố phản ứng bằng những ám hiệu được hiểu
ngầm với nhau. Nhiều người lớn sử dụng xin lỗi để cải thiện một quan hệ. Họ dựa vào cơ
chế tự vệ này để sửa đổi lại cảm xúc trong một mối quan hệ – mặc dù họ không nghĩ là
mình có lỗi để phải xin lỗi.
+ Cơ chế tự vệ thoái lùi: là cơ chế khi một cá nhân quyết định lùi về thời gian quá
khứ mỗi khi họ đương đầu với những khó khăn trước mặt. Ví dụ, mỗi khi gặp vấn nạn
hoặc sợ hãi, hành vi của chúng ta thường muốn quay trở về não trạng của trẻ thơ khi
chúng ta không phải lo lắng gì cả. Nhiều người cần phải có những kỷ niệm thời vàng son
để có thể sinh hoạt bình thường. Có người dọn lên sống ở thành phố nhưng gặp những
thử thách nên muốn dọn về quê sống. Hoặc nhiều người có tư tưởng yếm thế, để trở
thành lệ thuộc và buông xuôi như thể họ là những trẻ em: Thông thường nhất là đôi lúc ta
vẫn nghĩ lại về quá khứ và nhận ra chúng thật đáng yêu so với hoàn cảnh hiện tại.


+Cơ chế tự vệ cố định: hay còn gọi là giậm chân tại chỗ. Trong cố định sẽ có 1
thành tố trong sự phát triển nhân cách bị dừng lại. Cố định xảy ra khi một phần của dục
năng vẫn bị ràng buộc vào một thời kì phát triển sớm hơn và không cho phép người ta
dấn thân đầy đủ vào giai đoạn tiếp theo.
Tất nhiên mọi cơ chế tự vệ đều là những lời biện hộ để thuyết phục chính bản thân
mình và diễn ra dưới phạm trù vô thức và có ý thức. Nói khác đi cơ chế tự vệ chính là cơ
chế con người sử dụng để tự nói dối với chính mình. Nhiều người trong chúng ta sử dụng

những cơ chế này một cách máy móc: Khi không có những hướng xử lý để điều tiết sự
cân bằng giữa xung động vô thức và siêu ngã, cái tôi sẽ bị kéo giãn ra vì phải quán xuyến
cho cả hai thái cực kia. Nói dối vì thế tiếp tục sinh ra nói dối và cuối cùng một cá nhân sẽ
được điều kiện hóa trong tư duy và lối ứng xử của chính mình. Tuy nhiên theo Freud thì
vai trò của những cơ chế tự vệ này được coi như một bộ phận cần thiết để duy trì đời
sống. Nói khác đi theo Freud thì cơ chế tự vệ sẽ giúp một cá nhân có thể đương đầu với
những thử thách khó khăn trong cuộc sống như một ngõ thoát hiểm cần thiết.
III.

Sự phát triển tâm tính dục

1.

5 giai đoạn phát triển tâm tính dục

Theo Freud, dục năng là một nguồn năng lượng lớn nhất chi phối mọi nguồn năng
lượng khác có ảnh hưởng lên con người. Theo Freud thì dục năng không chỉ có ảnh
hưởng trực tiếp đến người lớn mà còn có tác động rất rõ rệt lên trẻ em và trẻ sơ sinh. Khi
Freud trình bày quan điểm của mình về tính dục nơi trẻ em, ông đã bị giới học giả lúc bấy
giờ ở Vienna phản đối cực lực. Đơn giản là lúc đó dục tính với người lớn đã là một phạm
trù tế nhị. Tính dục nơi trẻ em lúc bấy giờ càng là một vấn đề khó chấp nhận hơn.
Một thực tế được quan sát kỹ là ngay từ khi còn rất nhỏ (từ lúc mới sinh ra) khả
năng đạt được cảm giác khoái cảm tính dục nơi trẻ sơ sinh đã xuất hiện. Nhưng mọi
người đã hiểu sai quan điểm của Freud và nghĩ ràng ông nhắm đến dục tính trong giới
hạn của giao hợp và phóng tinh. Tất nhiên Freud cho rằng tính dục cần được định nghĩa


là những cảm xúc khoái lạc đem đến từ hệ thống da người. Và bằng chứng là từ trẻ em sơ
sinh cho đến người lớn, chúng ta luôn tỏ ra thích thú với những va chạm như vuốt ve, xoa
bóp, sờ nắn, nụ hôn…

Freud cho rằng ở mỗi giai đoạn phát triển của con người, một vùng da nên cơ thể
sẽ có những phản ứng hứng thú khoái cảm cao nhất khi được kích thích. Nhiều học giả
sau này đã gọi những vùng da ấy là khu vực nhạy cảm. Theo Freud thì con người trải qua
những bước phát triển tâm tính dục sau:
(1) Giai đoạn miệng: là giai đoạn trẻ em sơ sinh có khoái cảm lớn nhất qua thao
tác bú và đưa lên miệng cắn những vật thể gần bé. (Từ lúc mới sinh đến 1 tuổi hay chừng
18 tháng).
(2) Giai đoạn hậu môn: là giai đoạn bé tập trung vào khu vực hậu môn trong thao
tác đại tiện mỗi khi bé đi vệ sinh. Khoái cảm xảy ra mỗi khi bé nín và thả cơ vòng hậu
môn trong thao tác đại tiện. (Khoảng từ 2–3 tuổi, chừng 18 tháng).
(3) Giai đoạn dương vật: là giai đoạn bé có thích thú khám phá bộ phận sinh dục
của mình, và chuyện bé thích nghịch bộ phận sinh dục của mình tương đối phổ biến.
(Khoảng từ 3, 4 đến 5, 6 có khi đến 7 tuổi).
(4) Giai đoạn tĩnh lặng (ẩn tàng): là giai đoạn xung lực tính dục tạm thời bị nén lại
để các em có thời gian tiếp thu những kỹ năng mới nơi trường học. Vào thời điểm này
các em thường không tập trung quá nhiều vào mảng dục tính, tuy nhiên theo George
Boeree (2006) có khoảng 25% các em có những hành vi thủ dâm, cao hơn nhiều so với
thời gian nghiên cứu của Freud. (Giai đoạn này bắt dầu từ 5,6,7 tuổi trở đi cho đến năm
12 tuổi).
(5) Giai đoạn tập trung vào bộ phận sinh dục: là giai đoạn bắt đầu từ tuổi dậy thì
khi cảm xúc tính dục tập trung vào khoái cảm giao hợp. Theo Freud, bất cứ những hành
vi tính dục nào khác với giao hợp tự nhiên, chẳng hạn như thủ dâm, làm tình qua đường


miệng, tính dục đồng phái và những hành vi tính dục khác (vốn được thực hiện rộng rãi
trong xã hội hôm nay) đều được coi là những hành vi thiếu trưởng thành.
Đây là một học thuyết được các nhà tâm lý thuộc trường phái Freudian cổ vũ vì họ
tin rằng tất cả mọi người đều trải qua những bước phát triển này.
2.


Khủng hoảng Oedipus

Theo Freud, ở mỗi một giai đoạn phát triển sẽ có những nhiệm vụ khó khăn nhất
định đối với một số cá nhân. Chẳng hạn như ở giai đoạn miệng, một số cá nhân sẽ có vấn
đề nan giải với quá trình cai sữa. Giai đoạn hậu môn sẽ gây khó khăn cho nhiều cá nhân
về chuyện đái dầm hoặc đi cầu đêm trên giường. Riêng với giai đoạn bộ phận sinh dục
nam vấn đề khủng hoảng Oedipus gây ra khó khăn cho một số cá nhân. Đây là một hội
chứng được Freud lấy tên của ông vua Oedipus trong truyện cổ Hy Lạp, khi ông vua này
đã giết nhầm ông bố của mình và sau đó đã cưới mẹ ruột của mình.
Sau đây là mô tả về khủng hoảng Oedipus: các trẻ em đều yêu mẹ của chúng và
muốn có được sự quan tâm của mẹ qua những âu yếm, vuốt ve. Đây là một trạng thái
hiểu rộng hơn của nhu cầu dục tính. Các bé trai có đối thủ của mình là người cha với
nhiều điều kiện vượt trội như: cha các em cao lớn hơn, khỏe hơn, thông minh hơn. Nhất
là người cha được quyền ngủ chung với mẹ trong khi bé trai phải ngủ riêng một mình. Vì
thế người cha vô tình trở thành một đối thủ của em.
Ngoài ra các bé trai còn phát hiện ra sự khác biệt giữa mình và các bé gái. Không
phải chỉ là tóc các bé trai ngắn hơn và quần áo có màu sắc khác với các bé gái. Các cậu
bé sẽ phát hiện ra mình có một dương vật trong khi các bé gái không có. Tất nhiên với
não trạng của bé trai thì có một cái gì đó vẫn tốt hơn là không có. Và các bé trai bằng
lòng với điều này.
Khi các bé trai nhận ra các bé nữ không có dương vật, các bé sẽ hỏi: Vậy điều gì
đã xảy ra? Các bé nữ dã bị mất dương vật, có thể là do bị cắt. Và các bé trai sẽ lo sợ. Điều


này bắt đầu dẫn đến não trạng lo lắng mình sẽ bị thiến bởi cha ruột của mình. Đây là một
dạng biến thể của nỗi lo mình sẽ bị mất dương vật.
Tất nhiên là các bé trai sẽ lo lắng và sợ cái oai của ông bố và lo sợ về dương vật
của mình bị cắt đi. Nỗi lo này đi vào những cơ cấu tự vệ của các em. Thế là bé trai sau đó
sẽ dần dần thay thế tình cảm với mẹ ruột của mình bằng tình cảm với các em gái. Khi lớn
lên, các em sẽ chuyển năng lượng và tập trung vào những phụ nữ khác. Các bé trai cho

rằng mình cần phải phát triển một cách chủ động, mạnh mẽ và có ý định lớn lên sẽ phải
giống như bố – trở thành một người đàn ông. Sau vài năm trải qua thời kỳ tĩnh lặng, các
cậu bé trải qua tuổi dậy thì và trở thành một người đàn ông thực thụ.
Các bé nữ cũng bắt đầu từ tình cảm giành cho mẹ mình. Theo Freud thì các bé nữ
trải qua một hội chứng ghen vì mình không có dương vật khi bé nữ phát hiện ra có sự
khác biệt giữa cơ thể bé nữ với các bé nam. Thế là các em cũng muốn có một cái dương
vật giống như thế và cả những đặc tính đi kèm với một dương vật (như đứng đái). Dần
dần một bé nữ tìm đến và thay thế cho một dương vật là con búp bê (như em bé). Và các
em nữ biết rõ phải có cha với mẹ thì mới sinh ra em bé được, thế là các em nữ để mắt đến
người cha.
Tất nhiên là cha của các bé gái đã có mẹ. Thế là, các bé nữ thay thế cha bằng các
bé nam khác. Lớn lên là nữ giới, nên bé cần phải phát triển những phẩm chất đặc tính
giống nơi mẹ. Một điều nhận ra ở đây là các bé gái không trải qua hội chứng lo lắng bị
thiến nên phụ nữ thường có thái độ không phân biệt về tính dục– khác phái như ở như
nam giới. Vì thế họ thường có vẻ không quan trọng lắm lý luận đạo đức như ở nam giới.
3.

Nhân cách và cá tính

Kinh nghiệm sống khi chúng ta lớn lên đã góp phần tạo nên nhân cách hay còn gọi
là cá tính của chúng ta để trở thành một người lớn có những nét đặc trưng rất riêng. Theo
Freud thì những ký ức khó chịu chính là những vết thương lòng, vốn có những tác hại
tâm lý rất lớn. Tất nhiên mỗi kinh nghiệm đau thương sẽ có những mức độ ảnh hưởng tác


động khác nhau và chỉ có cá nhân đó mới có thể khám phá, thẩm định được mức độ ảnh
hưởng của kinh nghiệm đó. Như thế những kinh nghiệm ký ức khó chịu xảy ra trong
những giai đoạn phát triển tâm tính dục đã nêu ở phần trên sẽ có những ảnh hưởng đến cá
tính con người.
Nếu một cá nhân có những khó khăn trong việc thành thục những nhiệm vụ của

từng giai đoạn phát triển như cai sữa, tập đi cầu, hay trong giai đoạn xác định giới tính
của mình, chính những khó khăn này sẽ tồn tại như những ký ức vấp váp vì họ đã không
vượt qua được những nhiệm vụ quan trọng cột mốc này. Nếu bị ách tắc trong việc đạt
được mức độ thành thục sẽ dẫn đến trạng thái khựng và những kinh nghiệm bị khựng này
sẽ hằn dấu ấn và lưu lại trong tiềm thức của các em, gây ảnh hưởng đến các giai đoạn
phát triển sau này cũng như có ảnh hưởng đến quá trình hình thành cá tính của một cá
nhân.
Vì thế khi một cá nhân không được cho bú sữa đầy đủ hoặc bị bỏ đói, khát nước,
hoặc được cai sữa quá sớm, khi lớn lên, các em sẽ có những cá tính liên quan đến miệng
như ăn vặt, nói chuyện nhiều, hay tắc lưỡi, hay nhổ nước miếng, nói lắp, hút thuốc, huýt
sáo và những hành vi này được coi như việc bù lại những thiếu sót của ngày xưa.
Ở thời gian từ 5 đến 8 tháng tuổi, khi mọc răng các em bé sẽ bị ngứa lợi. Nếu nhu
cầu được cắn một vật gì đó cho bớt ngứa không được đáp ứng, cộng với việc em có thể bị
cai sữa quá sớm, một cá nhân có thể phát triển thành cá tính thích gây gỗ qua đường
miệng. Ví dụ thường là người thích cắn móng tay, cắn bút chì, cắn hạt dưa, và thích cắn
người khác và là người có khuynh hướng ăn nói thiếu trách nhiệm, cố ý gây thương tổn
đến người khác.
Vào giai đoạn phát triển hậu môn, nhiều bé rất ngạc nhiên về những chức năng
vận hành của cơ thể. Đầu tiên trẻ em có thể đi cầu bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu. Rồi
khi phát triển lớn hơn, một em bé sẽ hiểu ra mình phải đi vệ sinh ở đâu và vào lúc nào.
Tất nhiên sự cổ vũ của cha mẹ đã có một ảnh hưởng tích cực rất rõ rệt.


Thái độ mừng vui của cha mẹ khi trẻ em thực hiện đúng các thao tác đi vệ sinh và
tỏ vẻ thất vọng thái quá khi bé làm sai sẽ khiến cho bé lớn lên có tính cách xoay quanh
hậu môn. Khi lớn lên họ sẽ trở thành người lộn xộn thiếu ngăn nắp, luộm thuộm và rất
xuề xòa, cẩu thả, bừa bãi. Lớn lên các bé có thể là người độc ác, phá hoại, và xâm phạm
tài sản và của công.
Nhiều bậc phụ huynh nôn nóng trong việc thúc ép các em trong việc thôi sử dụng
tã và yêu cầu các em phải chủ động trong việc đi vệ sinh. Các bậc cha mẹ này đã không

ngần ngại trong việc áp dụng hình phạt, chế nhạo và kết quả là nhiều em cố gắng hết sức
mà không thực hiện được. Vì thế khi lớn lên sẽ trở thành những người có nhân cách tiện
tặn, dè sẻn, rất sạch sẽ, cầu toàn, gia trưởng, độc đoán, và rất keo kiệt.
Có hai nhân cách ảnh hưởng trong thời gian phát triển bộ phận tính dục nam. Nếu
bé nam bị mẹ em ruồng bỏ và bị đối xử hà khắc bởi người cha, khi lớn lên em sẽ phát
triển thành một người có tâm trạng rất yếm thế về khả năng của mình khi đối diện với
bức tranh sinh hoạt tính dục. Người như thế sẽ dễ co cụm trong sinh hoạt tính dục với
người khác phái. Các bé trai này có thể là người đam mê đọc sách, hoặc cố tình tạo ra vẻ
mình là người ga lăng với phụ nữ.
Nếu các em gái bị cha mình xa lánh bỏ rơi và bị mẹ mình làm cho sợ, khi lớn lên
các bé gái này sẽ có khuynh hướng không có đủ tự tin vào bản thân, là người nhút nhát co
cụm, và thường là những cô gái đỏng đảnh khác thường.
Nhưng nếu một bé trai không bị mẹ hắt hủi lại được thương mến bởi một người
cha hiền lành nhu nhược, lớn lên bé sẽ gặp nhiều khó khăn khi hội nhập vào thế giới
người lớn vì không ai yêu thương chàng trai ấy như bố mẹ của anh ta. Nếu một cô gái
được nuôi dưỡng bởi một người cha chiều chuộng quá mức và một người mẹ quá dễ dãi
trong nhà, bé gái ấy sẽ dễ trở thành với một cá tính tiểu thư, ích kỷ, có thể phát triển một
nhân cách đầy nam tính.


Những cá tính trong thời gian phát triển bộ phận sinh dục nam cho thấy quá trình
chăm sóc của bố mẹ sẽ dẫn đến những phát triển thái cực khác nhau. Nếu một trẻ em có
bố mẹ quá khó khăn hoặc được chiều chuộng quá mức sẽ dẫn đến những phát triển không
thuận lợi sau này. Những trục trặc trong một giai đoạn phát triển tâm tính dục sẽ có
những ảnh hưởng tiêu cực sau này. Sự thực là nhiều vấn đề có thể được xử lý và chặn
đứng. Điều này cho thấy trong bối cảnh đời sống phong phú, chúng ta luôn thấy có rất
nhiều những nhân cách rất khác biệt nhau.




×