Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Trình bày các nọi dung về các học thuyết quản trị nhân lực phương đông liên hệ nhận thức của nó vào tình hình ở các doanh nghiệp việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.13 KB, 25 trang )

Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

Bài thao luân
Trình bày các nôi dung vê các hoc thuyêt quan tri
nhân luc phuong Dông.
Liên hê nhân thúc cua nó vào tình hình o các
Doanh nghiêp Viêt Nam hiên nay

PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
CHƯƠNG 1: TRƯỜNG PHÁI “ĐỨC TRỊ”
1.1.Khái niệm:
Nếu như triết học phương Tây thiên về hướng ngoại, với xu hướng tập trung
nghiên cứu thế giới vật chất để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới, thì triết học
phương Đông nói chung và Nho học nói riêng thiên về hướng nội, nghiên cứu con
người và thế giới nội tâm của con người và từ đó đi đến các vấn đề xã hội. Bởi vậy,
không có gì là lạ khi ta thấy Nho học xem con người là hạt nhân, là đối tượng để
nghiên cứu chủ yếu. Đường lối "đức trị" của Khổng Tử đã thống trị trong xã hội
phong kiến Á Đông hàng nghìn năm lịch sử và tạo nên một truyền thống lớn của văn
hoá Á Đông. Để hiểu rõ tư tưởng đức trị của Nho giáo không thể không bắt đầu từ

1


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

những khái niệm cơ bản của nó. Một trong những khái niệm cơ bản làm nền tảng cho
đường lối "đức trị" của Nho giáo là phạm trù Đức trong tư tưởng Khổng Tử. Nghiên
cứu và làm rõ những tư tưởng sâu sắc về Đức của Khổng Tử chính là cơ sở để chúng
ta nhận rõ đường lối "đức trị" của Nho giáo.
Theo Khổng Tử, Đức trị chính là lấy cái đức làm cơ sở cho việc quản lý và điều
hành các quan hệ xã hội.


Ông đã chủ trương trị người bằng đức là chính, nghĩa là để thu phục và dẫn dắt
người khác, nhà quản trị cần phải tu dưỡng đạo tính cần thiết, chẳng hạn như: Nhân,
nghĩa, trí, tín, dũng, liêm…Trong đó, đức nhân được đặt lên đầu và là trung tâm: vì
con người và từ con người. Khổng tử coi nhân là gốc, kễ là ngọn. Nhân là mục tiêu, lễ
là chính sách, và để thực thi được đạo lý và mục tiêu, Khổng tử chủ trương sử dụng
phương pháp chính danh.
1.2.Nội dung:
Quan niệm về đức của Khổng Tử có nhiều ý tưởng sâu sắc và phong phú. Những
niệm đó thể hiện lòng tin ở tính thiện của con người và chủ trương bồi dưỡng, phát
huy thiện đức của con người. Từ quan niệm về đức Khổng Tử đi sâu bàn luận về
nhân, lễ làm cơ sở cho đường lối đức trị của mình. Các nhà tư tưởng Nho giáo về sau
đều coi tư tưởng về đức của Khổng Tử là nền tảng của đường lối đức trị. Quan niệm
về đức của Khổng Tử không chỉ có ý nghĩa đối với xã hội cổ đại đương thời mà còn
có ý nghĩa đối với xã hội ta ngày nay. Trong bối cảnh xã hội đang chịu nhiều tác động
tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường hiện nay, rất cần trở lại với những giá trị đạo
đức truyền thống trong đó có tư tưởng đức trị Nho giáo. Quan niệm đức là gốc của
con người và thiện đức phải biểu hiện ở hành động của Khổng Tử vẫn còn nguyên giá
trị và rất vẫn còn được tuyên truyền giáo dục rộng rãi trong xã hội ta ngày nay.
Trong các công việc cụ thể như sử dụng ,đãi ngộ ,đào tạo nhân sự …Khổng Tử
cũng chỉ rõ các nguyên tắc như :” sử dân dĩ thời “ ( sử dụng người phải phù hợp ),biết
người ,đề bạt người chính trực (ngay thẳng)lên trên người cong queo ;khách quan
,không thành kiến ,phân phối quân bình ,không nên quá chênh lệnh trong phân
phối:”không sợ thiếu ,chỉ sợ không đều “; đào tạo bằng cách làm gương hoặc dạy
dỗ,thiếu cái gì dạy cái ấy ,nhà quản trị phải là cái gương để người dưới học tập .
2


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

Một trong nguyên tắc hành xử quan trọng trong học thuyết :”Đức trị “ mà ít được

nhắc đến trong các công trình ngiên cứu về khả (đối với việc đời không nhất định phải
làm ,không nhất định không làm ,thấy hợp nghĩa thì làm )
Nguyễn Hiến Lê rất có lý khi nhận xét rằng: "Khổng Tử là người đầu tiên nói
nhiều nhất đến tư cách người cầm quyền, đến bổn phận họ phải sửa mình, phải làm
gương cho dân, phải giáo hoá dân. Ông không tách rời đạo đức và chính trị, ông đã
đạo đức hoá chính trị. Và tất cả triết lý chính trị của ông gồm trong danh từ đức trị,
mà danh từ này có nghĩa là người trị dân, phải trị dân bằng đức, chứ không bằng bạo
lực..."1
Thật vậy, Khổng Tử thật sự tin rằng, "Làm chính trị (trị dân) mà dùng đức (để
cảm hoá dân) thì như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả (tức
thiên hạ về theo)". Cơ sở tư tưởng "Đức trị" của ông suy đến cùng là lòng thương yêu
con người, lòng tin ở bản tính con người có thể cảm hoá được. Ông quan niệm phép
trị dân " Đức hạnh của người quân tử (người trị dân) như gió, mà đức hạnh của dân
như cỏ. Gió thổi thì cỏ tất rạp xuống" . Khổng Tử chỉ tin vào đức chứ không tin vào
"hình" bởi "dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình phạt để bắt dân vào khuôn
phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo đức để dắt dẫn dân,
dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà lại theo đường chính".
Khổng Tử thật sự tin rằng: nếu có ai dùng ông làm quốc chính" thì một năm kỷ cương
đã khá, ba năm sẽ thành công". Tóm lại, với Khổng Tử, "Đức trị" có sức mạnh vạn
năng. Đó là đường lối "dù không ra lệnh dân cũng theo", như vua Thuấn chỉ kính cẩn
đoan trang ngồi trên ngai, chẳng làm gì mà thiên hạ bình trị.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng:

{ Nhân
Nhân ở đây là người nhưng không phải là con người cụ thể mà đó là bản chất
người, lòng thương người, tính nhân đạo, tính nhân văn và nó được biểu hiện thông
qua con người cụ thể, sống ở xã hội cụ thể với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
1 Nguyễn Hiến Lê (chủ dịch và giới thiệu), Luận ngữ, NXB Văn học 1995.

3



Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

Nhân là người và có 3 dấu hiệu:
- Cái gì mình muốn thì mong cho người khác muốn
- Cái gì mình thành đạt thì mong cho người khác thành đạt
- Cái gì mình không muốn thì chớ đem áp dụng cho người khác

{ Lễ
Lễ ở đây vừa là hình thức, vừa là nội dung, vừa là cơ chế, phương thức để điều
chỉnh tất cả các quan hệ xã hội cho đâu vào đấy. Như vậy, sự cai trị xã hội bằng lễ gọi
là lễ trị và con người vì thế mà phải tu thân. Chiều sâu của sự cai trị xã hội bằng lễ trị
là nhân trị, cả lễ trị và nhân trị gọi là đức trị. Suy cho cùng thì đó là văn trị (một cách
cai trị đẹp, không phải dùng đến gươm giáo…), khẩu hiệu của nó là “thu phục nhân
tâm” (thu phục lòng người).
Khổng tử quy các quan hệ xã hội thành 5 mối quan hệ cơ bản: Quan hệ vua - tôi
(lấy chữ trung làm đầu), quan hệ cha - con lấy chữ hiếu làm đầu, quan hệ chồng - vợ
(lấy chữ tiết hạnh làm đầu), quan hệ anh - em (lấy chữ hữu làm đầu), quan hệ bạn bè
(lấy chữ tín làm đầu). Khổng tử cho rằng xã hội chí ít phải giữ được “tam cương” (3
mối quan hệ cơ bản), trong đó quan trọng nhất là mối quan hệ vua - tôi (bề tôi phải
trung thành với vua đến cùng - vua bảo bề tôi chết, bề tôi không chết là bất trung)…

{ Chính danh
Theo Khổng tử, nguyên nhân của xã hội loạn là do không chính danh (Danh không
chính - ngôn không thuận - việc không thành - xử phạt không trúng - dân). Do vậy,
muốn làm xã hội ổn định thì phải chính danh từ trên xuống: quân quân - thần thần phụ phụ -tử tử (vua phải ra vua, tôi phải ra tôi, cha phải ra cha, con phải ra con)…
.Khổng Tử chủ trương trị người bằng đức là chính, nghĩa là để thu phục và dẫn dắt
người khác ,nhà quản trị phải tu dưỡng những phẩm chất cần thiết, chẳng hạn như:
nhân, nghĩa, trí, tín, dũng, liêm… Trong đó đức nhân được đặt lên hàng đầu và là

trung tâm: vì con người và từ con người. Để thực thi được đạo lí và mục tiêu, Khổng
tử chủ trương sử dụng phương thức chính danh:
Tử Lộ hỏi : “ Nếu vua Vệ giữ thầy lại mà nhờ thầy coi chính sự thì thầy làm việc
gì trước?” Khổng Tử đáp : “ Tất phải chính danh trước hết chăng ?” Nếu danh không
chính thì ngôn không thuận thì sự việc không thành ,sự việc không thành thì lễ
4


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

nhạc ,chế độ không kiến lập được ,chế độ không kiến lập được thì hình phạt không
trúng ,hình phạt không trúng thì dân không biết đặt chân tay vào đâu .”
Tóm lại ,lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại ,Khổng Tử đã tập hợp một cách có hệ
thống các nguyên lý trong việc đối nhân xử thế nhằm phát triển một xã hội tốt đẹp dựa
trên nền tảng của lòng nhân ái .Tuy còn một số điểm còn hạn chế do hoàn cảnh lịch
sử và thế giới quan của Khổng Tử lúc đó nhưng những điều tốt đẹp trong học thuyết
này vẫn còn giá trị cho đến ngày nay và đã được kiểm chứng bằng sự vận dụng chúng
vào phục vụ nhu cầu phát triển của các nền kinh tế mới của Châu Á –những nền kinh
tế đã phát triển nhanh chóng trong những năm cuối thế kỷ 20 (Hàn Quốc
,Singaprore ,Đài Loan …)

CHƯƠNG 2: TRƯỜNG PHÁI PHÁP TRỊ
2.1.Khái niệm:
Nếu như trường phái “Đức trí “ chủ trương lấy đức làm phạm trù hạt nhân thì
trường phái pháp trị lại chú trọng đến pháp luật và coi pháp luật chính là tiêu chuẩn
cho mọi hành vi trong ứng xử của người quản trị đối với người bị quản trị .
Với tác phẩm Hàn Phi Tử, Hàn Phi đã chính thức khai sinh học thuyết pháp trị
của phương Đông, đồng thời đưa ra lời giải cho bài toán lịch sử hóc búa. Hàn Phi đã
kết hợp các yếu tố “thuật”, “thế”, “pháp” của Thân Bất Hại, Thận Đáo, Thương Ưởng,
hoàn thiện tư tưởng pháp trị của các bậc tiền bối đã khai sinh ra nó là Quản Trọng và

Tử Sản để xây dựng thành học thuyết chính trị độc lập.
Pháp trị là học thuyết duy nhất có sự kế thừa, hàm chứa những những yếu tố của
những học thuyết khác nhiều nhất, nhờ đó tạo ra một phương thức giải quyết vững

5


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

chắc, toàn vẹn và thực tế nhất trong vấn đề trị quốc: Lễ nghĩa, danh phận của Nho gia
được cụ thể hoá trong pháp luật; Vô vi của Lão gia được chuyển hoá thành quan hệ
biện chứng vô vi- hữu vi; Kiêm ái của Mặc gia tuy là nội dung yếm thế nhất của học
thuyết pháp trị, nhưng Hàn Phi vẫn coi đây là mục đích cuối cùng của pháp luật.
2.2.Nội dung:
Nội dung cốt lõi của học thuyết pháp trị là đề cao pháp luật với tư cách là công cụ
quan trọng nhất, hữu hiệu nhất trong việc bình ổn xã hội. “Cái làm cho trị an là pháp
luật, cái gây ra loạn là sự riêng tư. Pháp luật đã thiết lập rồi thì không ai có thể làm
điều riêng tư được nữa”.
Hàn Phi khẳng định, việc trị nước, quản dân không thể dựa theo lễ nghi truyền
thống mà phải được thực hiện trên cơ sở những đạo luật cụ thể và chặt chẽ. Bởi lẽ,
“…pháp luật không hùa theo người sang… Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn
cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ
đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu…”
Hàn Phi quan niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn
định và công bằng: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ
thực chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra
hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ.
Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già
cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn,
vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau”.

Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông có
một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh mượn đời xưa để
phê phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện tại, Hàn Phi cho
rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt nguồn từ chính
thực tiễn của đất nước.
Then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật. Có
pháp luật, pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn
định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh, làm
cho dân chúng được yên bình, hạnh phúc. Từ chỗ cho rằng, “Không có nước nào luôn
6


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những người thi hành pháp
luật mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ những người thi hành pháp luật yếu thì nước
yếu”, Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng “trị nước bằng luật pháp” (dĩ pháp trị quốc), chủ
trương “luật pháp không phân biệt sang hèn” (pháp bất a quý), “hình phạt không
kiêng dè bậc đại thần, tưởng thưởng không bỏ sót kẻ thất phu” (hình quá bất tị đại
thần, thưởng thiện bất di tứ phu). Ông hết sức coi trọng tác dụng của pháp luật và chủ
trương xây dựng một lý luận pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân,
kết hợp chặt chẽ “pháp”, “thuật” với “thế”.
Bên cạnh đó, Hàn Phi có những chủ trương khá tiến bộ như : quản trị phải quyền
biến chứ không câu lệ sách vở ,thời khác thì phải việc khác ,miễn được thích nghi thì
thôi ;Nhất quán giữa “hình”và “danh”( lời nói và việc làm phải thống nhất ) ;Coi thực
tiễn là tiêu chuẩn để đánh giá con người và hành vi và hành vi ;coi trọng thực tiễn .
Nếu như Khổng Tử chỉ đề ra nguyên lý ,và do vậy chỉ có một số ít người có năng
lực đặc biệt và có nhân cách đặc biệt mới có thế hiểu và thực hành được công việc
quản trị thì Hàn Phi chủ trương phải cụ thế hóa thành thao tác và quy trình để người
bình thường cũng có thế học và thực thi được công việc quản trị .Đây là một chủ

trương rất tiến bộ và khoa học mà sau này các trường phái quản trị của Phương Tây đã
ứng dụng và phát huy hiệu quả rất cao trong thực tiễn .Ông chủ trương pháp phải hợp
thời ,dễ biết ,dễ thi hành ,phải công bằng .
Trong học thuyết của mình ,Hàn Phi đã chỉ rõ và cụ thể hóa các nội dung liên
quan đến sử dụng nhân sự ,đãi ngộ nhân sự :dùng người phải đúng hình danh ,theo
đúng quy trình khách quan ( phải phát huy được sức lực và trí tuệ ,các loại công việc
khác nhau đòi hỏi các kỹ năng không giống nhau ,giao việc phải từ nhỏ đến lớn …)
đãi ngộ theo nguyên tắc ,quy tắc ,quy chế chứ không theo ý riêng (thưởng phạt theo
quy định rõ ràng)
Một trong những tư tưởng xuyên suốt trong học thuyết pháp trị đó là tính thực tế
“việc phải theo thời, mà biện pháp phải thích ứng, dùng việc xét người”. Điều này
cũng thống nhất với quan niệm của Khổng Tử về sự quyền biến
3.3.Các nhân tố ảnh hưởng:
Ông cho rằng ,ngoại trừ một số ít thánh thần ,còn thì phần lớn con người :
7


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

-Tranh nhau vì lợi :
-Lười biếng ,khi có dư ăn rồi thì không muốn làm nữa .
-Chỉ phục tùng quyền lực .
Trên cơ sở nhận thức về bản chất con người như vậy ,Hàn Phi đã xây dựng một
học thuyết quản trị nhân lực xoay quanh ba phạm trù :Pháp ,thế ,thuật .

{ Pháp
Pháp là hiêu lệnh ,quy định được công bố ,công khai và mọi người phải tuân thủ.
Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ ràng
ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn thận
giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh”. Đây là một tư tưởng hết sức tiến

bộ so với đương thời. Cái gọi là “mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi cửa công” khác xa so
với cách cai trị bởi ý muốn chủ quan của các cá nhân quý tộc nắm quyền đương thời.
Pháp luật rõ ràng được ban bố cho trăm họ, làm cho dân biết pháp luật để tránh phạm
pháp; lấy đó làm chuẩn tắc cho hành vi của mọi người, chứ không phải là cái bẫy để
hại dân. Các điều luật minh bạch là phương thức phòng bị tích cực, chứ không phải là
một thủ đoạn chế tài tiêu cực. Đồng thời, nó cũng chính là “hiến lệnh” – một công cụ
- để vua cai trị thần dân. Nội dung chủ yếu của “pháp” có thể quy về 2 khái niệm chủ
yếu là “thưởng” và “phạt”.
Hàn Phi cho rằng, lập pháp cần phải xét đến các nguyên tắc sau:
 Tính tư lợi. Hàn Phi quan niệm nền tảng của quan hệ giữa con người với con
người là tư lợi, ai cũng muốn giành cái lợi cho mình. “. Người thợ mộc đóng
xong quan tài thì muốn người ta chết non. Đó không phải vì người thợ đóng cỗ
xe có lòng nhân, còn người thợ đóng quan tài không phải ghét người ta, nhưng
cái lợi của anh ta là ở chỗ người ta chết”. Luật pháp đặt ra thì cái lợi của nó
phải lớn hơn cái hại.
 Hợp với thời thế. Đây chính là thuyết biến pháp của Hàn Phi. Nguyên tắc thực
tế của việc xây dựng pháp luật, hay tính thực tiễn của luật pháp, là nét nổi bật
trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi. Đối với ông, không có một pháp luật siêu
hình hay một mô hình pháp luật trừu tượng tiên thiên để mà noi theo. Chỉ duy
nhất có yêu cầu và tiêu chuẩn của thực tiễn. “Pháp luật thay đổi theo thời thì trị;
8


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

việc cai trị thích hợp theo thời thì có công lao... Thời thế thay đổi mà cách cai
trị không thay đổi thì sinh loạn... Cho nên, bậc thánh nhân trị dân thì pháp luật
theo thời mà thay đổi và sự ngăn cấm theo khả năng mà thay đổi”.



Ổn định, thống nhất. Mặc dù pháp luật phải thay đổi cho hợp với thời thế, song
trong một thời kỳ, pháp lệnh đã đặt ra thì không được tùy tiện thay đổi (“số
biến pháp”), vì nếu vậy thì dân chúng không những không thể theo, mà còn tạo
cơ hội cho bọn gian thần.

 Phù hợp với tình người, dễ biết dễ làm.


Đơn giản mà đầy đủ.

 Thưởng hậu phạt nặng.
Đối với việc chấp pháp, nguyên tắc của Hàn Phi là:
 Tăng cường giáo dục pháp chế, tức là “dĩ pháp vi giáo”.
 Mọi người, ai ai cũng bình đẳng trước pháp luật, tức “pháp bất a quý”, “hình
bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu”. Đến bản thân bậc quân chủ – nhà
vua – cũng phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật: “Kẻ làm vua chúa là kẻ phải
giữ pháp luật, căn cứ vào kết quả mà xét để lập công lao”; Nếu nhà vua biết bỏ
điều riêng tư, làm theo phép công thì chẳng những dân sẽ được yên, mà nước
cũng được trị.
 Nghiêm khắc cẩn thận, “tín thưởng tất phạt”, không được tùy ý thưởng cho
người không có công, vô cớ sát hại người vô tội.


Dùng sức mạnh đạo đức hỗ trợ cho việc thi hành pháp luật.

{ Thế
Thế là quyền thế và địa vị của nhà quản trị để thực thi và bảo vệ pháp . “Thế”
còn được gọi là “quyền thế”, “uy thế”, “thế trọng”, nó chỉ một sức mạnh quyền uy
tuyệt đối, cũng chính là quyền thống trị tối cao của ông vua, bao gồm quyền sử dụng
người, quyền thưởng phạt, v.v.. Hàn Phi cho rằng, chỉ khi nào nắm quyền thống trị

trong tay, thì một người nào đấy mới là kẻ thống trị, mới có thể cai trị dân chúng.
Trong thiên “Bát kinh”, ông viết: “Cái thế là cơ sở để thắng đám đông” (Thế giả,

9


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

thắng chúng chi tư dã). Để yên ổn trị nước, bậc quân chủ tất phải nắm giữ quyền thế.
Hàn Phi quan niệm rất rõ ràng những điểm trọng yếu về thế:
1/Vua không được cho bề tôi mượn quyền thế.
2/ Vua không được dùng chung quyền thế với bề tôi.
3/ Cần sử dụng thuật thưởng phạt để củng cố quyền thế.
4/ Vua phải duy trì địa vị độc tôn của mình, không được để bề tôi quá quý hiển,
đề phòng đại thần tiếm quyền. Vì vậy, nếu chỉ xét về bản thân vị vua, thì “thế” là cái
cốt lõi nhất, quan trọng nhất, còn “pháp” và “thuật” chỉ là công cụ.

{ Thuật
Thuật là cách thức, nghệ thuật ứng xử của nhà quản trị để đảm bảo cho mọi người
tuân theo quy định của pháp luật. Trong khi pháp và thế phải ổn định và rõ ràng thì
thuật ,ngược lại ,phải bí mật và biến hóa khôn lường .
Hàn Phi chủ trương pháp trị, song cũng rất chú trọng đến “thuật” của nhà vua, bởi
vì “bầy tôi đối với nhà vua không phải có tình thân cốt nhục, chỉ vì bị tình thế buộc
không thể không thờ”. Nhà vua dựa vào pháp trị để làm cho đất nước giàu mạnh, song
nếu “không có cái thuật để biết kẻ gian thì chỉ lấy cái giàu mạnh của nước mà làm
giàu có cho các quan đại thần mà thôi”. Do vậy, nhà vua phải có “thuật” để dùng
người. Đối với Hàn Phi, “thuật” chính là một loạt các phương pháp bổ nhiệm, miễn
nhiệm, thi cử, thưởng phạt của nhà vua. Trong đó, phép hình danh là một thuật không
thể thiếu được của bậc quân chủ. Với cách nhìn như vậy thì “pháp” và “thuật” gắn bó
chặt chẽ với nhau: “Nhà vua không có thuật trị nước thì ở trên bị che đậy; bầy tôi mà

không có pháp luật thì cái loạn sinh ra ở dưới. Hai cái không thể thiếu cái nào, đó đều
là những công cụ của bậc đế vương”.
Sử dụng “pháp”, “thuật”, “thế” cốt yếu là để tăng cường sức mạnh của tập quyền
quân chủ, tạo nên bối cảnh chính trị “việc tuy ở bốn phương song then chốt ở tại trung
ương, thánh nhân nắm giữ cái chủ yếu, bốn phương đến phục dịch” (sự tại tứ phương,
yếu tại trung ương, thánh nhân chấp yếu, tứ phương lai hiệu. “Hàn Phi tử. Dương
quyền”); từ đó, góp phần tạo ra một xu thế lịch sử cho việc xây dựng một nhà nước
trung ương tập quyền phong kiến thống nhất.

10


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

Ở Việt Nam, tư tưởng quản trị nói chung và quản trị nhân lực nói riêng cũng được
hình thành từ rất sớm, gắn liền với quá trình dựng nước và giứ nước và quá trình đấu
tranh bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc
Các anh hùng và các nhà văn hóa của dân tộc trong suốt 4.000 năm lịch sử dựng nước
và giữ nước đã để lại nhiều tác phẩm(hịch cáo văn thơ ..) và quan trọng nhất là bằng
cuộc đời mình đã thể hiện tập trung và có sức thuyết phục tư tưởng quản trị nhân lực
mang đậm nét văn hóa Việt Nam được nhân dân tôn vinh, lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Trong đó chủ tịch Hồ Chí Minh –anh hung giải phóng dân tộc, danh
nhân, văn hóa thế giới lãnh tụ kính yêu của nhân dân ta đã tiếp thu, kết tinh , phát
triển 1 cách sáng tạo các di sản của cha ông để lại về mặt lí luận cũng như thực tế. Các
bài nói, bài viết và tấm gương của người chính là chuẩn mực cho tư tưởng quản trị
nhân lực Việt Nam hiện đại . Có thể viện dẫn 1 trong những tư tưởng độc đáo của
người trong sử dụng cán bộ:
“ Chúng ta phải nhớ rằng người đời ai cũng có chổ hay chỗ dở .Ta phải dùng chỗ hay
của người ta và giúp người chữa chỗ dỡ. Dùng người như dùng mộc. Người thợ khéo
thì gỗ to, nhỏ thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được”


PHẦN 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Tuy rằng, các tư tưởng của Khổng Tử và Hàn Phi đã cách đây hàng nghìn năm
nhưng các tư tưởng đó vẫn luôn sống mãi với mọi thời đại, và ngày nay cũng vậy, “
Đức trị” và “ Pháp trị” luôn dành được sự chú trọng quan tâm của các doanh nghiệp
để có thể quản lý doanh nghiệp một cách thành công nhất có thể.
1.1. Thực trạng áp dụng của “Đức trị”
Bác Hồ đã từng nói:
“ Người có tài mà không có đức là người vô dụng
Người có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”

11


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, là nguyên nhân của mọi sự thành công.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là chìa khóa thành công của mọi doanh nghiệp. Tuy
nhiên có tài phải đi cùng với có đức, như câu nói của Bác Hồ người có tài mà không
có đức thì chỉ là đồ bỏ đi, có đức mà không có tài thì không dùng được. Người vừa có
đức, vừa có tài thực sự sẽ không cần quyền cao chức vọng mà chỉ muốn được xã hội
đánh giá, tôn vinh một cách xứng đáng. Họ có thể là một doanh nhân giàu có, một nhà
khoa học tài ba, một nhà giáo mẫu mực, một người suốt đời làm từ thiện hay một
chuyên gia cố vấn cho Chính phủ về một lĩnh vực nào đó, ở bất cứ đâu, khi nào cũng
có thể đóng góp được cho đất nước, cho xã hội. Người vừa có đức vừa có tài chắc
chắn có trí lớn tài cao, họ không dễ dàng bị khuất phục, chịu thất bại bởi những hoàn
cảnh bất lợi trong cuộc sống. Họ tìm mọi cách để chứng minh, để bộc lộ tài năng, đức
độ của mình ra ngoài xã hội.Họ chắc chắn không tham lam, ích kỷ. Họ biết cách chia
sẻ, đóng góp cho cộng đồng, cho xã hội.Họ thường khiêm tốn, không khoe khoang,

không tự khuyếch trương mình do đó cần phải phát hiện kịp thời, bảo vệ, ủng hộ để
cái tâm, cái tài của họ được thừa nhận và bộc lộ ra ngoài xã hội. Họ thực sự không coi
trọng lắm về vật chất, tuy nhiên, sự trong sáng, của các bậc kỳ tài luôn là tấm gương
toả sáng và là thương hiệu để họ dễ dàng có cuộc sống vật chất đầy đủ. Họ hoàn toàn
biết cách kiếm tiền và tồn tại như một sự khẳng định mình.
Trong xã hội hiện đại ngày nay,không ít các nhà quản trị doanh nghiệp không
chỉ thành công trong sự nghiệp kinh doanh mà còn có một uy tín xã hội cao. Nhất là
đối với thời đại ngày nay, khi công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước ngày càng phát
triển, Việt Nam ngày càng mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới thì doanh nhân
Việt Nam ngày càng có cơ hội thể hiện tài năng, trí tuệ cũng như đức độ của mình. Cơ
hội đó đối với doanh nhân hết sức to lớn nhưng thử thách đến với họ cũng hết sức lớn
lao.
Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, khi Việt nam trở thành thành viên chính thức
của WTO, và khi tệ nạn buôn lậu, trốn thuế, làm ăn gian lận, sản xuất, lưu thông hàng
giả, hàng kém phẩm chất, hàng chứa cả chất độc đang có chiều hướng gia tăng gây
thiệt hại cho lợi ích nhà nước và lợi ích người tiêu dùng, thậm chí có thể gây nguy
hiểm đến tính mạng người tiêu dùng, đòi hỏi chủ các doanh nghiệp cũng như người
12


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

tham gia quản lý doanh nghiệp trước hết không được để cho xí nghiệp của mình phạm
những tệ nạn nói trên, đồng thời còn phải tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh giữa
cái thiện cái ác trong kinh doanh nhằm xóa bỏ những tệ nạn ấy. Ðó cũng là một điểm
rất quan trọng thuộc về đạo đức kinh doanh của nhà doanh nghiệp ở nước ta. Các
doanh nghiệp cũng đã hực hiện đúng luật cạnh tranh, tham gia cạnh tranh lành mạnh,
không hại người để lợi riêng mình. Tuyệt đối không nên sử dụng độc quyền và các
biện pháp phi kinh tế, những thủ đoạn lừa đảo để gạt bỏ nhau. Cạnh tranh lành mạnh
là biểu hiện bản chất trong sáng của đạo đức kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Một vấn đề đạo đức nữa đặt ra đối với Doanh nhân Việt Nam hôm nay là, cần
phải giữ gìn được phẩm giá cao đẹp bằng một sự khôn ngoan chân chính trước những
tiêu cực của đời sống xã hội. Chúng ta biết rằng, trong lực lượng lãnh đạo quản lý đất
nước về chính trị, kinh tế, xã hội có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công
chức bị tha hóa biến chất: tham nhũng, tham ô, lợi dụng chức quyền vì lợi ích cá
nhân. Họ dùng quyền lực để nhũng nhiễu doanh nhân, lợi dụng doanh nhân và “câu
kết” với doanh nhân xấu để phục vụ cho lợi ích cá nhân
Bên cạnh những mặt tích cực thường thấy thì doanh nhân Việt Nam vẫn còn tồn
tại những tiêu cực, nhiều doanh nhân vì lợi ích của bản thân mình, lợi ích của doanh
nghiệp mà mình làm chủ đã chạy theo vụ lợi cá nhân, kinh doanh phi pháp như: buôn
lậu, lừa đảo, sản xuất kinh doanh hàng giả, hàng kém phẩm chất, thậm chí có cả hàng
chứa chất độc hại nguy cơ cho tính mạng của người tiêu dùng; Ðó là chưa kể đến
những hành vi gian lận trong cân đong đo đếm, đánh tráo chủng loại bằng những thủ
đoạn tinh vi ở lĩnh vực kinh doanh xăng dầu đã bị thanh tra phát hiện vừa qua. Những
hành vi xấu xa đó đã gây thiệt hại lớn đến lợi ích chung của toàn xã hội và lợi ích của
người tiêu dùng. Sự kinh doanh phi pháp đó đã đưa đến hậu quả một số nhà doanh
nghiệp phải vào tù hoặc bị đình chỉ kinh doanh, đánh mất chữ tín. Tình trạng phi đạo
đức kinh doanh trong một bộ phận không nhỏ nhà doanh nghiệp đã đến lúc báo động.
Hơn nữa, ngay chính trong doanh nghiệp, trong công việc cụ thể như sử dụng,
đãi ngộ, đào tạo nhân sự, Khổng Tử cũng đã chỉ rõ các nguyên tắc như: sử dụng người
phải phù hợp ,biết người ,đề bạt người chính trực lên trên người cong queo ;khách
quan ,không thành kiến ,phân phối quân bình ,không nên quá chênh lệnh trong phân
13


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

phối:”không sợ thiếu ,chỉ sợ không đều “; đào tạo bằng cách làm gương hoặc dạy
dỗ,thiếu cái gì dạy cái ấy ,nhà quản trị phải là cái gương để người dưới học tập.
Thật vậy, một trong những điều quan trọng nhất đối với một người lãnh đạo là

nghệ thuật sử dụng con người. Bởi vì phải có con người thì mới làm nên việc và một
doanh nghiệp muốn phát triển phải có được những con người có hoài bão lớn.
Đánh giá đúng năng lực của từng cá nhân, đặt họ vào đúng vị trí là một thách
thức đối với người quản trị. Như Bác Hồ đã từng nói :
“ Người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở.
Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở.
Dùng người như dùng gỗ.
Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng cong đều tuỳ chỗ mà dùng được”
Chính con người là yếu tố cấu thành nên tổ chức của doanh nghiệp , vận hành
doanh nghiệp và quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Vi vậy quản lý nhân lực
chính là yếu tố quan trọng nhất trong việc quản lý các hoạt động trong tổ chức, doanh
nghiệp, suy cho cùng mọi hoạt động quản lý đều được thực hiện bởi con người, quản
lý các nguồn nhân lực khác sẽ không có hiệu quả nếu như không quản lý tốt con
người.
Không có cái gì là hoàn hảo tuyệt đối, con người cũng vậy, người nào cũng có
điểm mạnh, điểm yếu, chỗ hay chỗ dở. Nhà quản trị phải biết nhìn ra được điểm
mạnh, điểm yếu của họ để có thể giúp nhân viên của mình phát huy những ưu điểm và
hạn chế những nhược điểm của bản thân.
Bên cạnh đó, nhà quản trị cũng cần phải phân tích tốt công việc để nắm rõ việc
thực hiện nhiệm vụ này, người thực hiện cần phải có những kiến thức, kỹ năng, tố
chất nào. Từ đó, hướng đến bốn đúng : đúng người – đúng việc – đúng lúc – đúng nơi.
Dùng người nên hướng vào việc khai thác điểm mạnh của nhân viên, sắp xếp công
việc xoay quanh điểm mạnh của họ để có thế phát huy hết tiềm năng thực sự của họ.
Nhà quản trị cũng cần mạnh dạn giao việc, và trong quá trình nhân viên thực hiện, cần
quan sát, theo dõi để nhận biết được những yếu tố giúp họ hoàn thành tốt công việc và
những yếu tố ngăn cản họ thực hiện công việc. Nhà quản trị cũng nên tránh tình trạng
giao công việc, giao nhiệm vụ cho cấp dưới không phù hợp với chuyên môn, khả năng
14



Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

của nhân viên, hay giao quá nhiều ,ôm đồm, sẽ làm cho nhân viên cảm thấy mệt mỏi,
hiệu quả làm việc thấp, dẫn đến không hoàn thành mục tiêu của doanh nghiệp.
Hiện nay, các doanh nghiệp cũng cần phải chú ý dùng người phải nhìn vào thực
tế. Khi tuyển chọn nhân viên, nhất là vào các vị trí then chốt trong sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, nhà quản trị tuyệt đối không được chỉ tin vào văn bằng,
thành tích học tập cũng như không chỉ tin vào những người chỉ quen “ đánh giặc trên
giấy” và “khéo mồm khéo miệng” mà phải biết chọn người biết làm thực sự để có thể
gánh vác được nhiệm vụ và trách nhiệm, hoàn thành tốt mục tiêu đã đề ra.
Muốn làm được thì phải hiểu nhân viên, phải biết họ đang làm gì, họ đang suy
nghĩ điều gì và liệu những điều đó có phù hợp với những định hướng phát triển của
công ty hay không? Vì vậy, nhà quản trị nên dành thời gian để nói chuyện trực tiếp
với nhân viên. Có thể thông qua nhiều cách tiếp cận nhân viên khác nhau mà không
làm cho họ cảm thấy e ngại.Ví dụ như : tham dự các cuộc họp giao ban hàng tuần lúc
thì ở bộ phận này, lúc sang bộ phận khác, dù không được mời. Qua những cuộc tiếp
xúc như thế nhà quản trị có thể hiểu chính xác người dưới quyền của mình cần gì, họ
nắm công việc đến đâu và có thực sự quyết tâm với công việc đang làm hay không...”.
Ngoài ra, nhà quản trị cũng nên quan tâm, chăm lo đến đời sống của nhân viên, tìm
hiểu hoàn cảnh để có thể hiểu rõ nhân viên của mình hơn.
Hiện nay, có thể thấy được một thực trạng “chạy chức chạy quyền” ngày càng
diễn ra rầm rộ và phát triển. Vì vậy, các nhà quản trị cần sáng suốt lựa chọn, nắm rõ
năng lực của các cá nhân để có thể đề bạt những nhân viên giỏi, những nhân viên có
năng lực lên các chức trách tương xứng.
Môi trường làm việc thân thiện, tạo cơ hội cho nhân viên thăng tiến, xây dựng
bầu không khí ấm cúng như gia đình... đó là điều mà hầu hết các chủ công ty đều áp
dụng để giữ nhân tài. Nhưng thực tế họ đều thấy rõ, mức lương là quan trọng hàng
đầu. Một mức lương hợp lý mới có thể giữ chân được nhân viên, nhất là các cấp quản
lý và thu hút được nguồn nhân lực giỏi, trẻ. Doanh nghiệp cũng nên đảm bảo tính
công bằng về thu nhập giữa các nhân viên để tạo dựng một môi trường công bằng,

minh bạch, xây dựng nền văn hoá doanh nghiệp phát triển.

15


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

Tuy nhiên ở các doanh nghiệp hiện nay thì việc quản trị nhân sự ở Việt Nam
còn bị hạn chế, phần lớn là do năng lực của nhà lãnh đạo còn chưa tốt, chưa thể là tấm
gương để cấp dưới noi theo và đạo đức trong quản trị doanh nghiệp là một chủ đề ít
được đề cập khi nói về đường lối lãnh đạo, nhưng xu thế chạy đua theo khẩu hiệu “to
hơn nữa - lớn hơn nữa - cao hơn nữa” đang từng ngày gặm nhấm khía cạnh này trong
đạo đức xã hội.
Điều tối thiểu mà mỗi chúng ta có thể làm chính là thành thật về những điều chúng ta
làm hàng ngày. Nghèo đói đang lan tràn khắp thế giới. Lòng tham chạy theo doanh
thu và lợi nhuận sẽ đẩy xã hội chúng ta lùi về thời kỳ mông muội. Đã đến lúc người
lãnh đạo cần phát huy tư chất đạo đức trong kinh doanh thay vì chỉ có năng lực tư duy
và tình cảm đơn thuần trước kia. Phẩm chất đạo đức đòi hỏi người lãnh đạo thực thụ
luôn trăn trở những câu hỏi như: Như thế nào thì được coi là quá nhiều? Lớn đến
chừng nào thì nên dừng lại? Chúng ta sẽ sẵn sàng đi xa đến đâu? Lợi nhuận hay sự tín
nhiệm quan trọng hơn? Mặc dù vai trò của người lao động trong các doanh nghiệp
đang ngày càng được cải thiện,các tổ chức công đoàn cũng hoạt động khá mạnh mẽ để
bảo về quyền lợi của người lao động nhưng cũng không ít trường hợp các nhà quản lý
có những hành động không tốt gây ảnh hưởng xấu tới hình ảnh của công ty, làm mất
lòng tin và sự trung thành của người lao động. Đặc biệt là ở một số doanh nghiệp tư
nhân…(ngược đãi công nhân, có hành động phản cảm, làm tăng ca mà lương ít, k
quan tâm tới đời sống tinh thần của công nhân...). Ví dụ như cuối tháng 11/2008, 1000
công nhân của Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thiên Mã 1 (Khu công nghiệp Trà
Nóc- Cần Thơ) đã từng đình công phản đối việc giảm 10% lương. Chiều 24/1 (tức 29
Tết), hơn 200 công nhân của Công ty lại đã trung trước cổng Công ty để phản đối việc

Ban giám đốc giảm tiền thưởng của công nhân. Tuy nhiên ban giám đốc đã không có
những giải đáp thích hợp với người lao động. Hay là vào năm 2005, có khoảng 250
CN của 2 chuyền sản xuất trong tổng số 850 CN toàn Cty Noblan (ở KCN Tân Thới
Hiệp, Q.12) đã tự phát đình công. Theo phản ánh của CN: Thời gian gần đây CN bị
các chuyên gia kỹ thuật Hàn Quốc vắt kiệt sức lao động.... Còn ở một số doanh
nghiệp nhà nước lại xuất hiện tình trạng chạy chức quyền hay lạm dụng chức quyền
làm mất công bằng trong doanh nghiệp đồng thời cũng làm cho các nhân viên khác
16


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

không thỏa mãn, gây sự bất đồng…và từ đó dễ gây cho họ có thái độ không tốt với
doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, môi trường kinh doanh ngày nay biến động không ngừng đòi hỏi
người lãnh đạo phải tự mình thay đổi nhanh hơn nếu muốn doanh nghiệp của mình
tồn tại. Muốn thích ứng được với những điều kiện khách quan như thế, nhà quản trị
nên tìm tòi, học hỏi, học để cập nhật kiến thức, để có thể tự tin khi đưa ra những quyết
sách và những ứng xử với nhân viên.
Nhà quản trị nên học để biết để hướng dẫn cấp dưới thực hiện, học để biết cách
xây dựng một đội ngũ kế thừa tinh nhuệ, học và cập nhật nhanh kiến thức để làm
gương cho các đồng sự. Có như vậy thì doanh nghiệp mới có thể đi lên và phát triển.
Các doanh nghiệp nên đào tạo một cách thường xuyên cho các nhân viên không
chỉ về kỹ thuật công nghệ, kỹ năng làm việc nhóm mà còn có các kỹ năng mềm khác
như ngoại ngữ, giao tiếp. Tạo cơ hội cho nhân viên cọ xát với thực tế. Nhà quản trị lúc
này vừa là thầy, vừa là bạn và là đồng nghiệp của nhân viên, tạo cho nhân viên nhiều
cơ hội tiếp cận với đối tác, khách hàng, hiểu được cách thức phát triển và nhu cầu của
chính doanh nghiệp mình. Không có cách đào tạo nào tốt hơn là để cho nhân viên cọ
xát thực tế, gánh vác trách nhiệm, nhằm tạo ra những con người biết học hỏi để vươn
ra thế giới.

Trách nhiệm của người lãnh đạo cao nhất là tạo nên sức mạnh văn hóa, tinh
thần và niềm tin để nhân viên làm việc và sáng tạo. Người lãnh đạo là hình mẫu cho
nhân viên noi theo. Các nhân viên sẽ theo đó rèn luyện kỹ năng giao tiếp, bản lĩnh thị
trường và quan trọng là họ biết tự tin vào mình hơn người khác tin vào họ”.
1.2. Thực trạng áp dụng của “ Pháp trị”
1.2.1.Đối với pháp luật của nhà nước
Các doanh nghiệp phải kinh doanh trong khuôn khổ luật pháp quy định. Nhà doanh
nghiệp trước hết phải thực hiện đúng các quy định về kinh doanh do luật pháp nhà
nước ban hành. Gây được lòng tin với các cơ quan quản lý, giữ được chữ "tín" với
khách hàng chính là đã tạo ra điều kiện tốt cho xí nghiệp của mình phát triển đi lên.
Từng nhà doanh nghiệp phải thường xuyên học tập, rèn luyện nâng cao năng lực tổ
chức quản lý kinh doanh và chấp hành đúng luật pháp. Nhà nước phải quan tâm việc
17


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

giáo dục đạo đức kinh doanh cho các nhà doanh nghiệp bằng nhiều biện pháp như:
Mở lớp đào tạo bồi dưỡng, nêu gương người tốt việc tốt, kiểm tra giám sát và có hình
thức kỷ luật thích đáng với nhà doanh nghiệp không thực hiện đúng luật pháp trong
kinh doanh. Ở nước ta hiện nay, trong đội ngũ các nhà doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế, không phải tất cả đều đã có đạo đức kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Vì vậy
việc giáo dục và tự rèn luyện đạo đức kinh doanh lành mạnh - đạo đức kinh doanh xã
hội chủ nghĩa với các nhà doanh nghiệp là cần thiết, phải làm một cách có kế hoạch,
bài bản và thường xuyên.
1.2.2.Đối với đối tác kinh doanh .
Trên thương trường, bất kể hoạt động kinh doanh nào của doanh nghiệp với đối
tác bên ngoài cũng đều được thể hiện thông qua hợp đồng. Đây chính là ràng buộc
pháp lý về nghĩa vụ của các bên trong kinh doanh. Khá nhiều các tranh chấp kinh
doanh ngày nay đều xuất phát từ những bất cập của hợp đồng. Nhiều công ty, tập đoàn

lớn trên toàn thế giới đã tổ chức bộ phận pháp lý riêng để xem xét, đánh giá và tư vấn
cho mình trước khi ký kết các hợp đồng. Mỗi hợp đồng sẽ là cơ sở tạo thành các yếu
tố liên quan, từ đó thiết lập các quan hệ kinh doanh giữa các đối tác như nhân lực,
khách hàng, nhà thầu, chi phí, quyền lợi và trách nhiệm… Thực tế cho thấy đã có
nhiều trường hợp các bên giao kết hợp đồng với nhau và tiến hành các hoạt động kinh
doanh, nhưng rồi khi một tranh chấp nhỏ xảy ra, một trong hai bên đối tác lại lợi dụng
sự thiếu chặt chẽ trong hợp đồng để thu lợi riêng cho mình. Chẳng hạn, nếu đối tác ký
kết hợp đồng với doanh nghiệp chưa có giấy phép đăng ký kinh doanh và quá trình
thực hiện hợp đồng kinh doanh có phát sinh tranh chấp, mà đến trước thời điểm phát
sinh tranh chấp họ vẫn chưa hoàn tất thủ tục pháp lý đó để thực hiện phần việc đã thoả
thuận trong hợp đồng, thì hợp đồng kinh doanh này bị coi là vô hiệu toàn bộ. Lúc này,
người thiệt hại sẽ là doanh nghiệp bởi doanh nghiệp là người kinh doanh hợp pháp,
nhưng trong trường hợp này doanh nghiệp sẽ không có căn cứ để yêu cầu bên đối tác
kinh doanh thực hiện các nghĩa vụ đã ký kết.
Vì vậy, để bảo đảm an toàn pháp luật trong các giao dịch hợp đồng giữa các
bên, cũng như để bảo vệ trật tự pháp luật và lợi ích kinh doanh đối với một số loại
hợp đồng pháp luật đòi hỏi người chịu trách nhiệm ở công ty giao kết hợp đồng phải
18


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

tuân theo những hình thức nhất định, ngược lại, hợp đồng đó sẽ không có hiệu lực. Vì
thế, yếu tố hình thức hợp đồng kinh doanh và ảnh hưởng của nó đến hiệu lực của hợp
đồng sẽ rất quan trọng trong các hoạt động kinh doanh.
Nhất là trước khi tiến hành ký kết hợp động kinh doanh với các đối tác nước
ngoài, bạn cần xem xét và nắm vững các quy định pháp luật về hợp đồng của nước
đó.
1.2.3.Đối với nhân viên trong công ty
Không ít nhà quản lý đau đầu vì nhân viên không phát huy hết năng suất làm

việc vì gặp phải những sai sót không đáng có. Vì vậy, hầu hết doanh nghiệp nào cũng
phải có biện pháp chế tài, nhưng áp dụng kỷ luật khắt khe rất dễ khiến nhân viên bất
mãn, giảm nhiệt tình làm việc, thậm chí bỏ việc. Nếu như vậy, nhà quản lý đã đẩy môi
trường làm việc theo hướng “pháp” nhiều hơn “lễ”. “Lễ” hướng người ta những việc
nên làm và không nên làm, từ đó hành động của họ xuất phát từ mong muốn và ý
thức. Công việc được thực hiện trên cơ sở ý thích và ý thức luôn đem lại kết quả cao
hơn so với tình trạng bị ép buộc. Do đó, hình thức chế tài chỉ cần thiết khi nhân viên
đã hiểu rõ cần có nó để môi trường làm việc được công bằng và hiệu quả hơn. Chế tài
nếu được xây dựng và thực hiện tốt cũng hạn chế được sự “mất hình ảnh” của cấp trên
đối với nhân viên vì không cần phải la mắng mới làm nhân viên ý thức được sai
phạm.
Chế tài chỉ cần đủ nặng để nhân viên ý thức được vấn đề, chứ không phải vì
mục đích bóc lột nhân viên, đồng thời đủ nhẹ để không ảnh hưởng mạnh đến quyền
lợi của người lao động. Khi xây dựng hình thức chế tài, cần tỉ mỉ và chi tiết để khi
thực hiện được công bằng. Chế tài bằng cách trừ tiền cũng chỉ nên thực hiện với
những tình huống đặc biệt nghiêm trọng. Ngoài ra, hình thức phạt, dù là tài chính như
trừ tiền hay không thưởng, hoặc phi tài chính như khiển trách, hạ mức đánh giá…
cũng cần được thực hiện song song với cơ chế thưởng phạt và với thù lao ổn định của
nhân viên (bao gồm lương lẫn các yếu tố mềm như phúc lợi, cơ hội phát triển…). Nếu
cơ chế phạt không đi đôi với cơ chế thưởng, nhân viên sẽ bị áp lực về mặt tâm lý vì
cảm thấy bị phạt nhiều hơn là được khích lệ. Tỷ lệ thưởng cũng cần phải nhiều hơn tỷ
lệ phạt, ví dụ phạt chỉ xảy ra khi có phát sinh sai phạm, còn thưởng thì theo định kỳ
19


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

cho những người có hiệu quả làm việc cao nhất. Định kỳ thưởng càng ngắn thì nhân
viên càng được khích lệ thường xuyên. Tất nhiên, một khi định kỳ ngắn thì nên hạn
chế số người được thưởng để làm tăng giá trị phần thưởng.

Trong quản lý doanh nghiệp, người quản lý nếu biết huy động đầy đủ sức sáng
tạo và tính tích cực của nhân viên sẽ khiến cho nhân viên thực sự hoà mình vào doanh
nghiệp, phát huy được hết và khả năng giá trị của họ. Vì vậy, doanh nghiệp nhất định
phải coi trọng việc khen thưởng, khích lệ đối với nhân viện, đồng thời xây dựng một
cơ chế khen thưởng khích lệ hoàn thiện.
Các doanh nghiệp hiện nay đã áp dụng những phương pháp khen thương khích
lệ chủ yếu như sau:

 Khen thưởng khích lệ vật chất cần kết hợp với khen thưởng khích lệ tinh thần
Khen thưởng khích lệ vật chất là biện pháp kích thích thông qua vật chất, khơi
dậy tính tích cực làm việc của nhân viên. Hình thức thể hiện chủ yếu gồm khen
thưởng khích lệ thuận và khen thưởng khích lệ ngược.
Khen thưởng khích lệ thuận như phát lương, tiền thưởng, trợ cấp, phúc lợi; còn
khen thưởng khích lệ ngược như phạt tiền... Nhu cầu vật chất là nhu cầu hàng đầu của
con người, và là động cơ chính để mọi người thực hiện mọi hoạt động xã hội. Vì thế,
khen thưởng khích lệ vật chất là mô hình chủ yếu của khen thưởng khích lệ, cũng là
mô hình khích lệ mà hiện nay trong nội bộ các doanh nghiệp áp dụng phổ biến.
Con người ngoài nhu cầu về vật chất, có nhu cầu về mặt tinh thần. Doanh
nghiệp chỉ dùng khen thưởng khích lệ vật chất không thôi chưa chức đã có tác dụng,
cần phải kết hợp giữa khen thưởng khích lệ vật chất tới khen thưởng khích lệ tinh thần
thì mới có thể thực sự huy động được tính tích cực của đông đảo nhân viên.

 Thực thi cơ chế khen thưởng khích lệ nhiều cách, nhiều tầng nấc
Cơ chế khen thưởng khích lệ là một hệ thống mở cửa vĩnh viễn, không ngừng
thay đổi cùng với sự thay đổi của thời đại môi trường, hình thức thị trưởng.
Điều nào trước tiên thể hiện ở việc doanh nghiệp có những cơ chế khen thưởng
khích lệ khác nhau trong những thời kỳ khác nhau.

20



Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

Một trong những vấn đề đạo đức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn nêu gương
để toàn dân noi theo là chấp hành pháp luật. Trong tư tưởng của Người, để người dân
thực sự hạnh phúc, để đất nước thực sự văn minh thì phải ngăn chặn được cái ác, cái
xấu trong mỗi con người. Biện pháp của Ngườilà kết hợp giữa giáo dục đạo đức và
thực hành pháp luật.
Như Bác Hồ đã từng nói : “Pháp luật là phương tiện để ngăn chặn cái ác, cái
xấu còn đạo đức là phương tiện để nâng đỡ cái thiện, cái tốt tồn tại trong mỗi con
người”. Vì vậy, trong các doanh nghiệp hiện nay cần đề cao cả “ Đức trị” và “ pháp
trị” Tránh tình trạng quá đề cao cái này mà bỏ qua cái kia.

CHƯƠNG 2: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐỨC TRỊ VÀ PHÁP TRỊ
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Nhà quản trị có vai trò quyết định đối với doanh nghiệp, một nhà quản trị giỏi
có thể giúp cho doanh nghiệp ngày càng phát triển, lớn mạnh, tuy nhiên một nhà quản
trị tồi cũng có thể làm cho công đó đi theo chiều hướng suy thoái. Các nhà quản trị
Nhật Bản và Hàn quốc đã khéo léo áp dụng phong cách truyền thống của họ kết hợp
với cách kinh doanh của người Mỹ và họ đẫ làm nên những thành tựu khiến một
cường quốc như Mỹ phải kinh ngạc, phong cách quản trị “nhân hòa” của họ là một bài
học rất bổ ích cho chúng ta.
Các lãnh đạo thực thụ không bao giờ quản lý doanh nghiệp bằng cách gò ép cấp
dưới tuân thủ hàng loạt các quy định và luật lệ. Mọi lãnh đạo cần thấy được rằng quản
trị doanh nghiệp không nên chỉ thiên về lập chính sách hay áp đặt mà chính việc xây
dựng sự tín nhiệm và niềm tin như một phần cốt lõi trong văn hoá doanh nghiệp mới
là điều căn bản của nghệ thuật quản trị.
21



Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

Sự tín nhiệm là liều thuốc duy nhất giúp doanh nghiệp vượt qua mọi cơn thập
tử nhất sinh trong mỗi chu kỳ phát triển. Vì vậy, trong doanh nghiệp cần có sự minh
bạch, rõ ràng.Tính minh bạch có thể được xây dựng từ các cách làm hết sức đơn giản
mà hiệu quả, ví dụ những cuộc đối thoại trực tiếp và cởi mở giữa CEO hay các nhà
quản lý với cấp dưới của họ: nói chuyện trực diện hoặc thông qua các phương tiện
tương tác như blog, khảo sát nội bộ, trưng cầu ý kiến, công khai kết quả với nhân viên
và điều kiện tiên quyết là mọi kìm buộc trong việc tiếp cận những phương thức này
đều phải được dỡ bỏ.
 Nghệ thuật dùng người là chìa khóa thành công
Một trong những điều quan trọng nhất đối với một người lãnh đạo là nghệ thuật
sử dụng con người. Bởi vì phải có con người thì mới làm nên việc và một doanh
nghiệp muốn phát triển phải có được những con người có hoài bão lớn.
Đánh giá đúng năng lực của từng cá nhân, đặt họ vào đúng vị trí là một thách
thức đối với người quản trị. Muốn làm được thì phải hiểu nhân viên, phải biết họ đang
làm gì, họ đang suy nghĩ điều gì và liệu những điều đó có phù hợp với những định
hướng phát triển của công ty hay không? Vì vậy, nhà quản trị nên dành thời gian để
nói chuyện trực tiếp với nhân viên. Có thể thông qua nhiều cách tiếp cận nhân viên
khác nhau mà không làm cho họ cảm thấy e ngại.Ví dụ như : tham dự các cuộc họp
giao ban hàng tuần lúc thì ở bộ phận này, lúc sang bộ phận khác, dù không được mời.
Qua những cuộc tiếp xúc như thế nhà quản trị có thể hiểu chính xác người dưới quyền
của mình cần gì, họ nắm công việc đến đâu và có thực sự quyết tâm với công việc
đang làm hay không...”. Ngoài ra, nhà quản trị cũng nên quan tâm, chăm lo đến đời
sống của nhân viên, tìm hiểu hoàn cảnh để có thể hiểu rõ nhân viên của mình hơn.
 Học để tồn tại:
Môi trường kinh doanh ngày nay biến động không ngừng đòi hỏi người lãnh đạo
phải tự mình thay đổi nhanh hơn nếu muốn doanh nghiệp của mình tồn tại. Muốn
thích ứng được với những điều kiện khách quan như thế, nhà quản trị nên tìm tòi, học
hỏi, học để cập nhật kiến thức, để có thể tự tin khi đưa ra những quyết sách và những

ứng xử với nhân viên.

22


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

Nhà quản trị nên học để biết để hướng dẫn cấp dưới thực hiện, học để biết cách
xây dựng một đội ngũ kế thừa tinh nhuệ, học và cập nhật nhanh kiến thức để làm
gương cho các đồng sự. Có như vậy thì doanh nghiệp mới có thể đi lên và phát triển.
 Đào tạo nhân viên
Các doanh nghiệp nên đào tạo một cách thường xuyên cho các nhân viên không
chỉ về kỹ thuật công nghệ, kỹ năng làm việc nhóm mà còn có các kỹ năng mềm khác
như ngoại ngữ, giao tiếp. Bên cạnh đó, cũng nên cho nhân viên cọ xát với thực tế.
Nhà quản trị lúc này vừa là thầy, vừa là bạn và là đồng nghiệp của nhân viên, tạo cho
nhân viên nhiều cơ hội tiếp cận với đối tác, khách hàng, hiểu được cách thức phát
triển và nhu cầu của chính doanh nghiệp mình. Không có cách đào tạo nào tốt hơn là
để cho nhân viên cọ xát thực tế, gánh vác trách nhiệm, nhằm tạo ra những con người
biết học hỏi để vươn ra thế giới.
Trách nhiệm của người lãnh đạo cao nhất là tạo nên sức mạnh văn hóa, tinh thần và
niềm tin để nhân viên làm việc và sáng tạo. Người lãnh đạo là hình mẫu cho nhân
viên noi theo. Các nhân viên sẽ theo đó rèn luyện kỹ năng giao tiếp, bản lĩnh thị
trường và quan trọng là họ biết tự tin vào mình hơn người khác tin vào họ”.
 Đưa ra mức lương tương xứng cho nhân viên
Môi trường làm việc thân thiện, tạo cơ hội cho nhân viên thăng tiến, xây dựng bầu
không khí ấm cúng như gia đình... đó là điều mà hầu hết các chủ công ty đều áp dụng
để giữ nhân tài. Nhưng thực tế họ đều thấy rõ, mức lương là quan trọng hàng đầu.
Một mức lương hợp lý mới có thể giữ chân được nhân viên, nhất là các cấp quản lý và
thu hút được nguồn nhân lực giỏi, trẻ. Hai cách trả lương mà nhiều doanh nghiệp đang
áp dụng để giữ người tài: tăng khoản thưởng cuối năm thật cao tuỳ thuộc vào kết quả

kinh doanh; hoặc chia lợi tức bằng cổ phần trong công ty để tăng mối gắn kết lợi
nhuận.
 Đặt ra yêu cầu và mục đích công việc rõ ràng cho nhân viên
Nên đặt ra cho nhân viên những mục đích cụ thể, rõ ràng (chỉ cần một mục đích,
nhiệm vụ thật chuẩn). Phải làm sao cho người lao động hiểu được rằng họ phải phấn
đấu như thế nào. Có những công ty đưa ra những quy chuẩn thưởng trên cơ sở 14-15
mục đánh giá phẩm chất nhân viên. Vậy nhưng, người lao động lại làm việc hiệu quả,
23


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

và nếu như trong một khoảng thời gian nhất định nào đó mà họ được công nhận là
"đáp ứng được yêu cầu đánh giá" thì đối với họ, đây có lẽ là một món quà tinh thần
rất lớn.
Những mục tiêu, nhiệm vụ mà nhà quản trị đặt ra cho nhân viên nên được thay đổi
thường xuyên. Chế độ khuyến khích và đãi ngộ lao động tại một công ty kinh doanh
nọ được coi là tương đối lý tưởng bởi các nhiệm vụ, mục đích đặt ra cho các cán bộ
phụ trách kinh doanh thường được điều chỉnh nửa, hoặc một năm một lần.Ví dụ
nhiệm vụ trước tiên của một cán bộ kinh doanh mới là tìm được một lượng X khách
hàng, sau đó là nhiệm vụ giữ được các khách hàng đó, tiếp theo là nhiệm vụ bán hàng
để đạt được một mức doanh thu nào đó. Và cứ như vậy, qua mỗi lần thay đổi nhiệm
vụ, những khả năng làm việc tiềm ẩn của người lao động sẽ có cơ hội để bộc lộ và
phát huy tác dụng.
 Tạo ra sự liên kết hiệu quả giữa tiền thưởng với kết quả công việc:
Chỉ có khoảng ba trong số mười nhân viên cảm thấy công ty mình đang áp dụng và
thực hiện thành công việc liên kết tiền thưởng với kết quả họ đạt được trong công
việc.Vì vậy nhà quản trị nên quan tâm đến vấn đề này vì chính tiền thưởng sẽ tạo
động lực thúc đẩy nhân viên có những cống hiến hơn nữa cho doanh nghiệp. Và đi
kèm với nó nhà quản trị nên có các lời khen, tuyên dương trước các nhân viên khác để

có thể kết hợp nhịp nhàng giữa vật chất và tinh thần.
 Tạo cho nhân viên cơ hội được thể hiện và tận dụng hết khả năng và năng lực cuủa
họ.
Một phần ba số nhân viên không cảm nhận thấy họ đã được sử dụng hết những khả
năng và năng lực mà họ có. Cảm giác được sử dụng hết những kỹ năng có giá trị và
năng lực làm việc rất có ý nghĩa đối với các nhân viên. Nếu không có cảm giác đó, họ
sẽ nhanh chóng mất đi những hứng thú đối với công việc.
Để tận dụng tối đa những khả năng của mọi người, nhà quản trị nên hỏi xem họ
thích làm việc gì, sau đó tạo cơ hội cho họ thể hiện và áp dụng các khả năng mà họ
có. Nhưng bên cạnh đó, nhà quản trị cũng nên trao gửi niềm tin đối với các nhân viên,
giao quyền hạn đi kèm với giao trách nhiệm

24


Bài tâp quan tri nhân luc – Nhóm 1- L07- GVHD: ThS.Nguyên Quang Trung

Vì vậy, để thực hiện tốt chiến lược con người, nhà quản trị cần phải thực hiện tốt các
chính sách từ khâu tuyển dụng nhân sự, đến bố trí và sử dụng nhân sự, dào tạo và phát
trỉển nhân sự và đãi ngộ nhân sự. Bốn khâu này có mối liên quan chặt chẽ, bổ sung và
quy định lẫn nhau. Tuyển dụng là tiền đề của bố trí, sử dụng, đào tạo và phát trỉển; Bố
trí, sử dụng sẽ tác động đến tuyển dụng, đào tạo và đãi ngộ…Đặc biệt, các nhà quản
trị cũng nên chú trọng đến vấn đề đãi ngộ để có thể tạo được sự gắn bó, trung thành
của nhân viên với doanh nghiệp, nhất là các nhân viên giỏi.

25


×