Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

On thi mon kinh te chinh tri phan TBCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.89 KB, 26 trang )

Câu 1: Trình bày các chức năng, phương pháp khoa học của
kinh tế chính trị Mác-Lênin. Sự vận dụng những phương pháp đó
trong chương trình kinh tế chính trị đã học.
Lý giải tại sao C.Mác đã không tính tới công quản lý của nhà
tư bản khi phân tích bản chất của phương thức sản xuất TBCN?
Kinh tế chính trị học là một bộ môn khoa học nghiên cứu các quy
luật sản xuất xã hội và phân phối của cải vật chất trong các giai đoạn
phát triển khác nhau của xã hội loài người. Trong quá trình hình thành và
phát triển, KTCT học đã có nhiều trường phái khác nhau. Trong phương
thức sản xuất TBCN xuất hiện các trường phái KTCT học tư sản cổ điển,
KTCT học tư sản cận đại, KTCT học tư sản hiện đại. Các trào lưu này
đều bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản.
Phân tích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và tiếp thu có
phê phán những yếu tố khoa học trong kinh tế chính trị học tư sản cổ
điển, Mác và Anghen đã xây dựng nên kinh tế chính trị học vô sản thực
sự khoa học, được Lênin phát triển trong điều kiện lịch sử mới trở thành
KTCT học Mác-Lenin, là một bộ phận hợp thành quan trọng nhất của lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin, là vũ khí tư tưởng cho phong trào cộng sản
và phong trào công nhân quốc tế trong thời đại ngày nay.
Kinh tế chính trị học Mác-Lênin giúp ta có được phương pháp luận
đúng, một mặt để làm cơ sở cho các môn kinh tế khác, mặt khác nhờ
phương pháp luận đúng để có thể nhận thức được bản chất của các hiện
tượng của các quá trình kinh tế và từ đó tìm ra các quy luật kinh tế, bao
gồm các quy luật kinh tế chung là các quy luật có ở mọi nền kinh tế và
các quy luật đặc thù ở từng hình thức sản xuất của nền kinh tế, quy luật
riêng có trong từng phương thức sản xuất.
Trong phạm vi lớn, chức năng thực tiễn của kinh tế chính trị học
Mác-Lênin góp phần quan trọng để hình thành mô hình, đường lối chiến
lược kinh tế. Từ đó làm cơ sở cho các chính sách kinh tế ở từng thời kỳ
phát triển của các quốc gia. Trong phạm vi nhỏ là phạm vi doanh nghiệp,
các đơn vị sản xuất kinh doanh. Mục đích trực tiếp của các doanh nghiệp


là hiệu quả kinh tế, hay là lợi nhuận. Do vậy, các doanh nghiệp không thể
sử dụng một cách trực tiếp các nguyên lý của kinh tế chính trị học MácLênin vào trong quá trình kinh doanh để có được hiệu quả cao, lợi nhuận

1

nhiều, nhưng nó có thể giúp cho doanh nghiệp thích nghi được với các
quy luật kinh tế, nhờ đó mà phát triển bền vững hơn.
Vậy Kinh tế chính trị học Mác – Lê nin có những chức năng gì
đối với đời sống xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định ?
- Chức năng nhận thức: Nhận thức là chức năng chung của mọi
khoa học, là lý do xuất hiện của các khoa học trong đó có kinh tế chính
trị. Một môn khoa học nào đó còn cần thiết là vì còn có những vấn đề
cần phải nhận thức, khám phá. Kinh tế chính trị học nghiên cứu, giải
thích các hiện tượng và quá trình kinh tế theo bản chất của các hiện
tượng, các quá trình kinh tế của đời sống xã hội để từ đó phát hiện ra các
quy luật kinh tế : quy luật chung, quy luật đặc thù và những quy luật
riêng chi phối sự vận động của chúng, giúp con người vận dụng các quy
luật đó một cách có ý thức vào hoạt động thực tiễn nhằm đạt hiệu quả
kinh tế, xã hội cao.
- Chức năng thực tiễn: Cũng giống nhiều môn khoa học khác,
chức năng nhận thức của kinh tế chính trị không có mục đích tự thân,
không phải nhận thức để nhận thức, mà nhận thức để phục vụ cho hoạt
động thực tiễn có hiệu quả. Đó là chức năng thực tiễn của kinh tế chính
trị.
Thực tiễn là nơi xuất phát, là nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn của
lý luận kinh tế. Căn cứ để đánh giá tính đúng đắn của lý luận kinh tế là
sự phát triển của nền sản xuất xã hội, tính hiệu quả của hoạt động kinh
tế.
Nếu phân theo phạm vi, KTCT cũng có những chức năng
khác nhau. Với phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, KTCT góp

phần quan trọng vào hoạch định đường lối, chiến lược KT cho các
quốc gia ở từng thời ký phát triển. Với phạm vi doanh nghiệp,
KTCT góp phần tạo hành lang cho DN KD có được hiệu quả bền
vững hơn.
- Chức năng phương pháp luận : Kinh tế chính trị là nền tảng lý
luận cho các khoa học kinh tế. Những kết luận của kinh tế chính trị rút ra
mang tính bản chất, quy luật sẽ là cơ sở lý luận cho các khoa học kinh tế
cụ thể hơn: những môn KTCT cơ sở và chuyên ngành (như kinh tế công
nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, giao thông...) không những thế nó còn
cần thiết cho các môn KHXH khác (như địa lý kinh tế, dân số học, lịch

2


sử kinh tế quốc dân, lý thuyết về quản lý...) một cách trực tiếp hay gián
tiếp .

hóa có ý nghĩa nhận thức lớn lao, dng để loại bớt những quan hệ, yếu tố
không bản chất để tiếp cận được với những quan hệ, yếu tố bản chất hơn.

- Chức năng tư tưởng: KTCT học rất gần với nhà nước. Mỗi
nhà nước có bản chất XH không giống nhau và ngay ở một quốc gia
do một nhà nước thống trị cũng có những giai đoạn khác nhau. Đó là
cơ sở để góp phần hình thành đường lối chiến lược KT nên KTCT
thể hiện rõ chức năng tư tưởng trong mối quan hệ hai chiều với nhà
nước.

Phương pháp trừu tượng hóa khoa học được sử dụng để nâng từ
nhận thức kinh nghiệm lên thành nhận thức khoa học, từ trực quan sinh
động lên tư duy trừu tượng. Để sử dụng phương pháp này, người ta

thường tìm các biện pháp để loại bỏ những yếu tố, những quan hệ không
bản chất để tập trung vào những yếu tố và quan hệ bản chất hơn của các
sự vật và hiện tượng, hình thành các phạm trù, quy luật, rồi sau đó vạch
rõ mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng. Trong khoa học tự nhiên, để
phát hiện các quy luật, để chứng minh các giả thiết, có thể thực hiện
trong phòng thí nghiệm. Nhưng trong kinh tế chính trị, để chứng minh
cho một tư tưởng kinh tế chỉ có thể thông qua cuộc sống thực tế với tất
cả mối quan hệ xã hội hiện thực.

Là môn khoa học xã hội, kinh tế chính trị có chức năng tư tưởng.
Trong các xã hội có giai cấp, chức năng tư tưởng của kinh tế chính trị thể
hiện ở chỗ các quan điểm lý luận của nó xuất phát từ lợi ích và bảo vệ lợi
ích của những giai cấp hoặc tầng lớp xã hội nhất định. Các lý luận kinh
tế chính trị của giai cấp tư sản đều phục vụ cho việc củng cố sự thống trị
của giai cấp tư sản, biện hộ cho sự bóc lột của giai cấp tư sản.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin là cơ sở khoa học cho sự hình thành
thế giới quan, nhân sinh quan và niềm tin sâu sắc vào cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm xoá bỏ áp bức bóc lột
giai cấp và dân tộc, xây dựng thành công xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế chính trị học Mác-Lênin giúp ta có được phương pháp
luận đúng, một mặt để làm cơ sở cho các môn kinh tế khác, mặt khác
nhờ phương pháp luận đúng để có thể nhận thức được bản chất của các
hiện tượng của các quá trình kinh tế và từ đó tìm ra các quy luật kinh tế,
bao gồm các quy luật kinh tế chung là các quy luật có ở mọi nền kinh tế
và các quy luật đặc thù ở từng hình thức sản xuất của nền kinh tế, quy
luật riêng có trong từng phương thức sản xuất.
Để nghiên cứu kinh tế chính trị học Mác-Lênin phải có phương
pháp khoa học.
Kinh tế chính trị học có nhiều phương pháp, tựu chung lại có thể
phân thành 02 loại phương pháp sau:

a. Những phương pháp khoa học chung: là phương pháp mà
mọi môn KH đều phải dung tới, tuy nhiên cần nhấn mạnh đến 03
phương pháp sau:
Thứ nhất, phương pháp trừu tượng hóa. Trong kinh tế chính trị
cũng như trong các khoa học xã hội nói chung, phương pháp trừu tượng

3

Vì không hiểu đúng phương pháp trừu tượng hóa khoa học nên
có ý kiến cho rằng: Các học thuyết kinh tế của Mác thiếu tính thực tiễn
do sử dụng nhiều giả định khi phân tích. Thực ra, khi vận dụng một cách
đúng đắn thì trừu tượng hóa là sức mạnh của tư duy khoa học, không làm
cho tư duy xa rời hiện thực mà giúp hiểu rõ hiện thực ở cấp độ bản chất,
hiểu quy luật vận động của hiện thực, điều mà nhận thức cảm tính không
bao giờ có thể đạt được. Ví dụ để phát hiện bản chất của chủ nghĩa tư
bản có thể và cần phải trừu tượng hóa, không tính đến sản xuất hàng hóa
nhỏ của những thợ thủ công và nông dân các thể, mặc dù nó vẫn tồn tại ở
mức độ nhiều hay ít trong mỗi nước tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, không
được bỏ qua quan hệ hàng hóa-tiền tệ, nhất là không được bỏ qua việc
chuyển sức lao động thành hàng hóa vì không có quan hệ hàng hóa- tiền
tệ và không có hàng hóa sức lao động thì cũng không tồn tại chủ nghĩa tư
bản. Chính vì vậy mà có ý kiến cho rằng: “Do Mác đưa ra các giả thiết
khi nghiên cứu đã làm cho các kết luận xa rời thực tế cuộc sống khiến
chúng không còn mang tính khoa học” là ý kiến sai và đã được giải thích
ở trên.
Thứ hai, phương pháp logic kết hợp lịch sử trong nghiên cứu.
Quan hệ logic đó là quan hệ tất nhiên, nó nhất định xảy ra khi có những
tiền đề cho quan hệ đó. Lịch sử đó là những hiện thực của logic ở một
đối tượng cụ thể, trong một không gian và thời gian xác định. Sự thống
nhất giữa logic và lịch sử là xuất phát từ quan niệm cho rằng xã hội ở bất

cứ nấc thang phát triển nào cũng đều là một cơ thể hoàn chỉnh, trong đó

4


mỗi yếu tố đều nằm trong mối liên hệ qua lại nhất định. Lịch sử là một
quá trình phức tạp và nhiều vẽ, trong đó chứa đựng những ngẫu nhiên,
những sự phát triển quanh co. Tuy nhiên sự vận động của lịch sử là một
quá trình phát triển có tính quy luật. Phương pháp lịch sử đòi hỏi phải
nghiên cứu các hiện tượng và quá trình kinh tế qua các giai đoạn phát
sinh, phát triển và tiêu vong của chúng trong một không gian và thời gian
xác định. Phương pháp logíc lại đòi hỏi phải tìm ra cái chung cho mỗi sự
phát triển đó. Quan hệ logíc là quan hệ có tính tất nhiên, nhất định xảy ra
khi có tiền đề. Việc nghiên cứu lịch sử sẽ giúp cho việc tìm ra logíc nội
tại của đối tượng và sự nhận thức về cơ cấu nội tại của xã hội lại làm cho
nhận thức về lịch sử trở nên khoa học. Điều này thể hiện rõ trong công
trình nghiên cứu của Mác về chủ nghĩa tư bản.
Như đã biết tư bản thương nghiệp tồn tại từ lâu trước chủ nghĩa
tư bản. Nhưng khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, Mác không bắt đầu từ tư
bản thương nghiệp, sở dĩ như thế là vì đối tượng nghiên cứu của Mác là
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà trong lịch sử chủ nghĩa tư
bản ra đời bằng hai cách: Một là, người sản xuất hàng hóa nhỏ vươn lên
thành nhà tư bản, hai là người thương nhân lúc đầu chỉ đón lấy sản phẩm
thừa của người sản xuất nhỏ, dần dần nắm lấy sản xuất đầu tư xây dựng
xí nghiệp để đưa nhiều hàng hóa ra thị trường. Trong hai cách trên nhà tư
bản đều đảm nhận cả sản xuất và lưu thông. Sau này sự lớn lên của qui
mô kinh doanh mới dẫn đến sự phân công xã hội xuất hiện loại nhà tư
bản chuyên trách khâu lưu thông, tức là nhà tư bản thương nghiệp. Chính
vì vậy khi phân tích lôgíc, Mác đã giả định rằng tư bản công nghiệp là
một thể thống nhất đảm nhiệm cả khâu lưu thông, dịch vụ tiền tệ, thanh

toán. Rồi sau mới phân tích sự ra đời của tư bản thương nghiệp, tư bản
cho vay và tín dụng ngân hàng. Đây chính là biểu hiện của sự kết hợp
chặt chẽ lôgíc và lịch sử.
Thứ ba, phương pháp thống nhất: về nguyên tắc phải thống nhất
các khái niệm và phạm trù kinh tế vì chúng là các yếu tố của mọi kết
luận khoa học và nguyên lý khoa học. Khái niệm và phạm trù là cơ sở để
hình thành các nguyên lý khoa học, chúng phải được hình thành và sử
dụng một cách thống nhất, nhờ đó mà mang tính phổ biến.
Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp như thống kê, phân tích,
tổng hợp, đồ thị, sơ đồ, toán học… để thực hiện nghiên cứu KT.

5

b. Những phương pháp riêng của kinh tế chính trị học Mác-Lênin
bao gồm: đó là những phương pháp triết học Mac-Lênin như:
- Phương pháp cơ bản của KTCT Mac - Lênin là phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp này đòi hỏi phải có
quan điểm khách quan, trung thực, xem xét sự vật một cách toàn diện,
mang tính hệ thống, trong sự vận động và phát triển, có quan điểm lịch
sử cụ thể. Xem xét hiện tượng và quá trình kinh tế trong mối liên hệ
chung và sự tác động lẫn nhau trong trạng thái phát triển không ngừng,
trong đó, sự tích lũy những biến đổi về lượng sẽ dẫn đến những thay đổi
về chất.
Phương pháp duy vật biện chứng coi nguồn gốc của sự phát triển
là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Đây là phương pháp
chính mà C.Mác đã sử dụng trong tác phẩm Tư bản khi phân tích sự ra
đời, phát triển của phương thức sản xuất TBCN, vận dụng phương pháp
duy vật biện chứng để phân tích: "Con người không thể tự ý lựa chọn
QHSX nói chung và quan hệ sở hữu nói riêng một cách chủ quan duy ý
chí. Kiểu quan hệ SX - QHSH này hay kiểu QHSX - QHSH khác tùy

thuộc vào tính chất và trình độ của LLSX xã hội". Bất cứ một sự cải
biến nào về mặt QHSH đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những
LLSX mới. LLSX quyết định QHSX, khi trình độ và tính chất của LLSX
phát triển, biến đổi thì sớm hay muộn QHSX cũng phát triển, biến đổi
theo cho phù hợp. Tuy nhiên, QHSX không hoàn toàn thụ động, mà có
tác động trở lại LLSX, QHSX thúc đẩy LLSX phát triển khi nó phù hợp
với tính chất và trình độ LLSX. Trái lại, QHSX trở nên kìm hãm, trói
buộc LLSX khi nó lỗi thời hoặc vượt trước không phù hợp với tính chất,
trình độ LLSX.
Sự nhận thức khoa học các quá trình xã hội của kinh tế học chính
trị Mac - Lênin đòi hỏi phải dựa vào phương pháp logic thống nhất với
lịch sử. Quan hệ logic là tất nhiên, nhất định xảy ra khi có những tiền đề
cho quan hệ đó. Lịch sử là những hiện thực của logic ở một đối tượng cụ
thể, trong không gian và thời gian xác định. Sự thống nhất giữa logic và
lịch sử xuất phát từ quan điểm cho rằng xã hội ở bất kỳ nấc thang nào
cũng đều là một cơ thể hoàn chỉnh, trong đó mọi yếu tố đều nằm trong
mối liên hệ qua lại. Lịch sử là một quá trình phức tạp, trong đó chứa
đựng những ngẫu nhiên, những sự phát triển quanh co. Tuy nhiên, sự vận
động của lịch sử là một quá trình phát triển có tính quy luật. Phương

6


pháp lịch sử đòi hỏi phải nghiên cứu hiện tượng và quá trình kinh tế qua
các giai đoạn phát sinh, phát triển và tiêu vong của chúng trong một
không gian, thời gian xác định. Phương pháp logic lại đòi hỏi phải tìm ra
cái chung cho mỗi sự phát triển đó. Việc nghiên cứu lịch sử sẽ giúp cho
việc tìm ra logic nội tại của đối tượng và sự nhận thức về cơ cấu nội tại
của xã hội làm cho nhận thức về lịch sử trở nên khoa học. Điều này thể
hiện rõ trong công trình nghiên cứu của Mac về CNTB.

Tóm lại, để nghiên cứu kinh tế chính trị học Mác-Lênin cần có
phương pháp khoa học, tổng hợp nhiều phương pháp, trong đó phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là trọng tâm, kết hợp với các
phương pháp khác.
* Có ý kiến cho rằng “Các Mác đã không công bằng khi không
tính tới công quản lý của nhà TB, khi phân tích quá trình sản xuất giá trị
thặng dư trong PTSX TBCN”. Ý kiến đó là không đúng thực chất bởi vì
khi phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong PTSX TBCN,
C.Mác sử dụng PP trừu tượng hóa khoa học. Việc bác bỏ không tính
công quản lý của nhà TB là để nhằm mục đích tập trung vào việc nghiên
cứu làm rõ vấn đề lao động công nhân có bị bóc lột hay không trong
PTSX TBCN, cũng như làm rõ quan hệ giữa giai cấp tư sản và GCCN.
Mục đích của PTSX TBCN là sản xuất ra giá trị thặng dư, nhưng để tạo
ra được giá trị thặng dư nhà TB phải tìm ra trên thị trường một loại hàng
hóa đặc biệt, mà khi tiêu dùng giá trị sử dụng của nó không mất đi mà
được bảo tồn và chuyển sang giá trị sản phẩm hàng hóa mới với một
lượng lớn hơn bản thân nó đó là hàng hóa sức lao động. Với việc loại bỏ
công lao động của nhà quản lý TB và phân chia TB thành TB bất biến và
TB khả biến, Mác đã vạch rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư là do lao
động làm thuê của công nhân lao động làm ra và sản phẩm do công nhân
làm ra thuộc sở hữu của nhà TB nên giá trị tăng thêm của sản phẩm do
sức lao động của công nhân làm ra bị nhà TB chiếm đoạt. Như vậy, khi
nghiên cứu nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư trong PTSX TBCN chủ
yếu để làm rõ bản chất bóc lột của nhà TB và quan hệ giữa nhà TB với
giai cấp công nhân, vai trò quản lý của nhà TB đóng vai trò thứ yếu và
không cần đề cập đến.
Câu 2: Trình bày khái niệm, phân tích và cho ví dụ về các yếu
tố sản xuất cơ bản nền kinh tế xã hội. Quy luật ưu tiên sản xuất tư

7


liệu sản xuất trong tái sản xuất xã hội, liên hệ về vận dụng quy luật
đó trong nền kinh tế Việt nam.
Có quan điểm cho rằng : “Dù máy móc hiện đại đến đâu
chúng cũng không thay thế cho con người trong quá trình lao động”,
đồng chí cho biết ý kiến và giải thích.
* Sự phát triển của XH loài người gắn liền với quá trình SX vật
chất , mà trong đó bất kỳ nền sản xuất xã hội nào, kể cả nền sản xuất
hiện đại, đều bao gồm ba yếu tố cơ bản là: sức lao động của con người,
tư liệu lao động và đối tượng lao động.
- Sức lao động: là tổng hợp thể lực và trí lực của con người, là
điều kiện cơ bản của sản xuất ơ bất kỳ xã hội nào. Nói cách khác, sức lao
động là những năng lực của con người để hình thành khả năng lao động
sản xuất tạo ra những của cải vật chất và tinh thần cho đời sống xã hội.
Khi sức lao động hoạt động thì trở thành lao động. Lao động là hoạt
động riêng của loài người, nó khác về cơ bản với hoạt động bản năng của
động vật … Năng lực gồm hai loại:
Thứ nhất là thể lực, đó là năng lực để duy trì lao động có tính thể
lực của con người, nó bao gồm thể chất và khí chất. Trong đó thể chất là
năng lực nội sinh của con người đảm bảo năng lượng cần thiết cho người
trong quá trình lao động, thường được biểu hiện ra bằng tình trạng sức
khỏe của mỗi người. Khí chất là năng lực về mặt tâm lý để hình thành cá
tính của mỗi người trong hoạt động.
Thứ hai là trí lực, đó là năng lực sáng tạo của con người, là cơ sở
cho hoạt động trí tuệ, thường bao gồm những kinh nghiệm, những tri
thức đã được tích lũy cùng với khả năng vận dụng những kinh nghiệm và
tri thức đó trong quá trình hoạt động.
Yếu tố thể lực không thể thiếu đối với sức lao động, nhưng là yếu
tố có giới hạn cả về mặt tự nhiên cũng như mặt xã hội. Năng lực sáng
tạo của con người khác với yếu tố sản xuất vật chất khác ở chỗ nó không

mất dần đi trong quá trình sử dụng mà chỉ mất đàn đi khi không được sử
dụng. Càng sử dụng lại càng có năng lực cao hơn. Không những thế,
chính năng lực sáng tạo của con người mới làm cho quá trình lao động
của con người khác với những hoạt động có tính bản năng của thế giới
sinh vật.

8


- Đối tượng lao động: là những vật mà lao động của con người
tác động vào nhằm cải biến chúng phù hợp với nhu cầu của mình. Đối
tượng lao động gồm có: Loại có sẵn trong tự nhiên mà lao động của con
người chỉ cần tách nó khỏi môi trường tồn tại của nó là có thể sử dụng
được, như gỗ trong rừng nguyên thủy, cá ngoài biển, than ở mỏ… Loại
đã có sự tác động của lao động gọi là nguyên liệu, như thép thỏi trong
nhà máy cơ khí, gỗ ở xưởng mộc … Với sự phát triển của cách mạng
khoa học kỹ thuật, con người ngày càng tạo ra nhiều đối tượng lao động
có chất lượng mới.

lao động của con người ngày càng gián tiếp hơn và năng suất lao động
ngày càng cao hơn. Nhưng dù đạt tới trình độ hiện đại như thế nào, lao
động bao giờ cũng là lao động của con người, con người sử dụng máy
móc chứ không phải máy móc sử dụng con người.

- Tư liệu lao động: là toàn bộ là những vật mà con người dùng để
tác động vào đối tượng lao động, để truyền dẫn lao động của mình tới
đối tượng lao động làm biến đổi chúng theo yêu cầu của mình. Tư liệu
lao động gồm: Công cụ lao động là bộ phận quan trọng nhất của tư liệu
lao động, nó tác động trực tiếp với đối tượng lao động, quyết định trực
tiếp năng suất lao động. Trình độ công cụ lao động là cơ sở để phân biệt

sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế. Hệ thống các yếu tố vật chất phục
vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất như băng chuyền, ống dẫn, cần trục,
bể chứa… Những yếu tố vật chất khác không tham gia trực tiếp quá trình
sản xuất, nhưng có tác dụng quan trọng đến toàn bộ nền sản xuất xã hội,
như đường sá, các phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc, …
gọi chung là kết cấu hạ tầng của sản xuất xã hội. Nên sản xuất càng hiện
đại, càng đòi hỏi kết cấu hạ tầng sản xuất phát triển và hoàn thiện.

Trong các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, sức lao động luôn
luôn là yếu tố cơ bản, có tính chất quyết định. Tuy nhiên, bản thân sức
lao động có sự biến đổi căn bản về chất lượng phù hợp với trình độ của
tư liệu sản xuất. Nếu trong nền sản xuất thủ công, trình độ sức lao động
chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và sức cơ bắp thì trong nền sản xuất hiện
đại, trình độ sức lao động dựa vào trí tuệ, tri thức và “chất xám” nói
chung. Trong nền sản xuất hiện đại, kho tàng trí tuệ trở thành tài nguyên
quý giá nhất của mỗi dân tộc. Do đó, giáo dục và đào tạo được nhiều
quốc gia coi là quốc sách; ở nước ta, vấn đề này được đặt vào quốc sách
hàng đầu. Đại hội Đảng lần thứ IX của Đảng ta chủ trương: “phát triển
giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực
con người-yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh
và bền vững.” (văn kiện Đại hội IX, trang 108).

Tư liệu lao động và đối tượng lao động là các yếu tố vật chất của
quá trình sản xuất; chúng hợp thành tư liệu sản xuất. Quá trình lao động
là quá trình kết hợp và tác động của các yếu tố sản xuất nói trên, tức là
sự kết hợp của sức lao động và tư liệu sản xuất.
Tư liệu sản xuất là đối tượng chiếm hữu quan trọng nhất, nếu ai
là người chiếm hữu những tư liệu sản xuất thì người đó là người chủ của
quá trình kinh tế và nền kinh tế.

Đối tượng lao động có thể là những yếu tố vật chất, phi vật chất;
có thể do con người tạo ra hoặc tự nhiên tạo ra và một yếu tố nào đó có
thể là đối tượng lao động của nhiều ngành sản xuất khác nhau.
Trong tư liệu lao động, hệ thống máy móc công cụ được xác định
có vai trò quan trọng nhất, nó được phân biệt các thời đại kinh tế với
nhau, theo thời gian chúng sẽ ngày càng hiện đại, nhờ đó mà quá trình

9

Sự phát triển của nền sản xuất XH gắn liền với sự phát triển của
hoàn thiện của các yếu tố sản xuất. Quá trình chuyển biến nền sản xuất
nhỏ, lạc hậu sang nền sản xuất lớn, hiện đại đòi hỏi phát triển đồng bộ cả
ba yếu tố sản xuất của mục tiêu cuối cùng là trang bị công nghệ hiện đại,
tiên tiến trong các lĩnh vực của nền sản xuất XH.

* Quy luật ưu tiên SX TLSX
- Tái SX là quá trình SX được lặp đi lặp lại và biến đổi không
ngừng với các chu kỳ nhất định
- Theo quy mô, có thể phân chia thành TSX giãn đơn, TSX mở
rộng. Trong đó: TSX giãn đơn với quy mô không thay đổi, các yếu tố của
quá trình SX không đổi, chưa có sản phẩm thặng dư, nếu có thì rất ít
được cá nhân tiêu dùng hết, đặc trưng của nền SX nhỏ. TSX mở rộng là
quá trình TSX với quy mô ngày càng lớn so với chu kỳ trước, các yếu tố
SX tăng lên về số lượng và chất lượng. Nguồn gốc của TSXx mở rộng là
sản phẩm thặng dư. TSX mở rộng là đặc trưng của nền SX lớn, hiện đại.
- Theo phạm vi: tái SX diễn ra trong từng xí nghiệp gọi là tái SX
cá biệt. Tổng thể tái SX cá biệt trong mối lien hệ hữu cơ, tác động qua

1



lại lẫn nhau trong nền KT gọi là tái sản xuất XH. Tuy nhiên, ở bất kỳ giai
đoạn nào, XH nào, TSX cũng bao gồm các nội dung sau:
+ TSX SLĐ là nhân tố chủ yếu và đầu tiên. SLĐ là yếu tố
cơ bản của quá trình SX và trong quá trình SX đó bị hao mòn, do đó,
phải được TSX để thực hiện quá trình SX tiếp theo. TSX SLĐ còn bao
hàm việc đào tạo, đổi mới hệ thống LĐ cũ bằng hệ thống LĐ mới có chất
lượng cao hơn với trình độ mới của TLSX.

Tiền đề chung của các quá trìh SX fải được giữ tíh cân đối
giữa các yếu tố SX theo những tỷ lệ nhất định. Vi fạm tính cân đối tất
yếu ảnh hưởng đến quá trình SX bằng cách fân chia nền SX XH thành 2
khu vực: KV1: SX TLSX; KV2: SX TL tiêu dùng.
-Trong TSX giản đơn:
+ Gtrị SX ra ở kv1 fải bằg TLSX đã tiêu dùg hết ở kv2. Cầu về
TLSX ở kv2 bằg cung ở kv1. I(V+m) = II(C)

+ TSX CCVC bao gồm TSX tiêu dùng và TLSX, cũng là
nhân tố khách quan trong quá trình SX, không thể thiếu trong SXXH.
Vật phẩm tiêu dùng dùng để tái tạo SLĐ, còn TLSX để tiếp tục quá trình
SX phát triển. Do đó, phải thường xuyên TSX TLSX. Hơn nữa, nhu cầu
về đời sống và SX thường xuyên tăng lên, CCVC cần được TSX mở
rộng, làm tăng số lượng và cải tiến chất lượng. TSX CCVC biểu hiện ở
mức tăng tổng sản phẩm XH, thu nhập quốc dân.

+ Toàn bộ sphẩm ở kv1 bằg tống gtrị TLSX đã hao mòn cả 2 kv.
Tổng cung TLSX = tổng cầu TLSX ở 2 kv. I(C+V+m) = I(C) + II(C)

Chỉ tiêu để đánh giá KQ tái SX của cải VC là sự biến đổi của tổng SP
XH- là toàn bộ sản phẩm do lao động của các ngành SX-VC của một

nước SX ra trong một thời gian nhất định, thường là 01 năm, được đo
bằng chỉ tiêu hiện vật hoặc chỉ tiêu giá trị ( bằng tiển)

+ Gtrị SX ra ở kv1 fải lớn hơn TLSX đã tiêu dùg hết ở kv2. Cầu về
TLSX ở kv2 lớn hơn cung ở kv1. I(V+m) > II(C)

Về mặt giá trị: Tổng sản phẩm XH = C + V + M
Trong đó: C là giá trị của toàn bộ TLSX mà XH tiêu dung, V+M
là giá trị XH mới được tạo ra-là TN quốc dân của XH; trong đó V đi vào
tiêu dùng cá nhân của người lao động, M giá trị sản phẩm thặng dư.
Nếu loại bỏ phần hao phí lao động XH đã kết tinh trong các SP
trung gian thì tổng SPXH sẽ tương đồng với Tổng SP Quốc nội-GDP
+ TSX QHSX là quá trình phát triển, củng cố, hoàn thiện
quan hệ giữa người với người về QHSH, quản lý, phân phối làm cho
QHSX luôn thay đổi phù hợp với sự phát triển của LLSX.
+ TSX môi trường tự nhiên là quá trình cải tạo các điều
kiện tự nhiên của quá trình SX: khôi phục độ màu mỡ của đất đai, trồng
rừng, tái tạo nguồn tài nguyên, làm trong sạch nguồn không khí và
nước…
Quy luật ưu tiên SX-TLSX trong tái SX XH:

1

+ Toàn bộ gtrị sphẩm ở kv2 = tổng sphẩm mới tạo ra ở cả 2 kv.
Tổng cung về TL tiêu dùg XH = tổng cầu về TL tiêu dùg cả 2 kv.
I (C+V+m) = I (v+m) + II(v+m)
- Trong TSX mở rộng:

+ Toàn bộ sphẩm ở kv1 lớn hơn tống gtrị TLSX đã hao mòn cả 2
kv. I(C+V+m) > I(C ) + II( C).

+ Toàn bộ gtrị sphẩm ở kv2 > tổng sphẩm mới tạo ra ở cả 2 kv.
I (C+V+m) >I (v+m) + II(v+m).
Như vậy, quá trìh TSX mở rộng ở kv SX TLSX sẽ quyết địh quá
trìh tích lũy ở kv SX TL tiêu dùg. Cần fải ưu tiên sx TLSX vì nó quyết
định năng suất LĐ trog toàn bộ nền KT quốc dân.
Từ yêu cầu này C.Mác đã khái quát thành quy luật ưu tiên ptriển
TLSX. Lênin đã ptriển thêm: SX TLSX để Sx TLSX ptriển nhanh nhất,
SX TLSX để SX ra TL tiêu dùng và cuối cùng tăng chậm hơn là SX TL
tiêu dùng.
* Theo quan điểm:”dù máy móc ……. thay thế con người trong
quá trình lao động”, quan diểm trên là đúng trong mọi xã hội loài
người, từ XH có nền sản xuất lạc hậu đến xã hội có nền sản xuất tiên
tiến hiện đại hay XHCN, bởi vì từ xã hội lạc hậu cho đến xã hội tiến bộ
đến đâu đi chăng nữa, dù công nghệ tin học, công nghệ gì thì con người
vẫn là khởi nguồn của quá trình lao động sản xuất vì con người là người

1


sáng tạo ra và chế tạo ra máy móc thiết bị, điều khiển và đưa máy móc
thiết bị vào hoạt động tạo ra của cải vật chất mà không phải máy móc
sản sinh ra con người, điều khiển con người. Như vậy dù xã hội loài
người có phát tiển tới đâu thì máy móc cũng không thể thay thế cho con
người trong quá trình lao động.
Câu 3: Tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng và theo chiều
sâu, cho ví dụ về quan hệ về giữa hai loai tăng trưởng. Các quy luật
tái sản xuất và ý nghĩa của chúng.
Nêu định nghĩa của hai chỉ số: GDP và GNP, ý nghĩa của mỗi
chỉ số. Hãy cho biết trong những trường hợp nào chúng có trị số
bằng nhau ?

* Trước tiên ta khái niệm tăng trưởng KT là gì
Tăng trưởng kinh tế là kết quả của tái sản xuất để phản ánh mức độ
tăng lên của nền kinh tế, phản ánh mức tăng lên của tổng sản phẩm trong một
thời kỳ nhất định. Có hai loại:
+ Tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng: Để chỉ nền kinh tế tăng trưởng
do có sự tăng lên về số lượng của các yếu tố sản xuất.
+ Tăng trưởng theo chiều sâu: Để chỉ sự tăng trưởng của nền của nền
kinh tế do có sự đầu tư thêm về chất lượng của các yếu tố sản xuất.
Tăng trưởng theo chiều rộng là hình thức tăng trưởng cần thiết nhưng
có giới hạn. Tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu thường ít bị giới hạn hơn và
được có ích là tăng trưởng bền vững. Giữa hai loại tăng trưởng có mối liên hệ
lẫn nhau theo quy luật “lượng – chất”.
Để phân biệt hình thức tăng trưởng kinh tế người ta thường so sánh
mức tăng trưởng với mức đầu tư mới ở trong cùng một thời gian. Nếu mức
tăng trưởng nhanh hơn mức đầu tư đó là có dấu hiệu tăng trưởng theo chiều
sâu. Nếu chúng bằng nhau là có dấu hiệu tăng trưởng theo chiều rộng (A tăng
trưởng / A Đầu tư) một thời gian >=1.
Do của cải được biểu hiện chủ yếu dưới hình thái giá trị nên tăng
trưởng kinh tế được đo bằng mức gia tăng về tổng giá trị mà xã hội tạo ra.
Hiện nay, người ta thường tính tổng của cải xã hội được tạo ra trong thời kỳ
nhất định bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc dân hoặc tổng sản phẩm
quốc nội.

1

* Các quy luật của tái sản xuất và ý nghĩa của chúng. : Có nhiều quy
luật nhưng chủ yếu là quy luật cân đối và quy luật liên hệ:
Quy luật cân đối: yêu cầu phải duy trì các quan hệ tỷ lệ cân đối
giữa các yếu tố, bộ phận, khu vực của nền kinh tế trong quá trình thực
hiện tái SX. Có thể quy thành 03 mối quan hệ cơ bản:

+ Cân đối giữa các yếu tố SX (TLSX với SLĐ)
+ Cân đối giữa khâu tái SX (khoa học công nghệ)
+ Cân đối giữa các khu vực của nền KT(KV SX TLSX, KV SX
TL tiêu dùng)
Các tỉ lệ cân đối được xác lập trog qui luật cân đối được coi là
cơ sở của các chỉ tiêu KT trog hệ thốg kế hoạch hóa.
- Qui luật liên hệ: Tái sx xh có thể fân thành các khâu: sx – fân
fối – trao đổi – tiêu dùng. Trog đó sx là khâu mở đầu, trực tiếp tạo ra của
cải. Fân fối và trao đổi là các khâu trung gian nối sx với tiêu dùg. Phân
phối thường gồm phân phối các yếu tố sản xuất và sản phẩm; phân phối
cho SX và cho tiêu dung cá nhân. Trao đổi thường gồm trao đổi hoạt
động trong SX và trao đổi SP sau quá trình SX. Tiêu dung là khâu cuối
cùng kết thúc một quá trình hay một chu kỳ SX. Tiêu dung có thể là tiêu
dung SX hay tiêu dùng cá nhân. Tiêu dùng tạo ra nhu cầu và mục đích
cho SX và được thực hiện bởi SX, PP và trao đổi. Các khâu tái SX có thể
phân thành hai quá trình lớn quá trình SX và quá trình lưu thông ( gồm
PP,TĐ,TD). Các khâu và các quá trình tái SX vừa có vị trí, chức năng
độc lập với nhau, vừa có mối liên hệ quyết định đối với nhau
 Các quyết định quản lí sẽ có hiệu quả hơn khi quyết định đó có
tính tới mối liên hệ giữa các khâu và các quá trình trong tái sx xh.
Tiền đề kinh tế chung của quá trình SX là phải giữ được tính cân đối
giữa các yếu tố SX theo những tỉ lệ nhất định. Vì phạm vi tính cân đối tất yếu
làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất bằng cách phân chia nền SX xã hội thành
2 khu vực. Khu vực I đó là khu vực SX TLSX; Khu vực II là khu vực SX
TLTiêu dùng.
Mác đã rút ra quy luật vận động tái SX xã hội như sau:
- Tái SX giản đơn:

1



+ Thứ nhất, giá trị SX ra ở khu vực I, phải bằng TLSX đã tiêu dùng
hết ở khu vực II. Cầu về TLSX ở khu vực II bằng cung ở khu vực I.
I (v+m) = II (c)
+ Thứ hai: Toàn bộ giá trị sản phẩm ở khu vực I phải bằng tổng giá trị
TLSX đã hao mòn ở cả hai khu vực. Tổng cung TLSX bằng tổng cầu TLSX ở
cả hai khu vực.
I (c+v+m) = I (c) + II (c)
+ Thứ ba: Toàn bộ giá trị sản phẩm ở khu vực II phải bằng tổng giá trị
sản phẩm mới sáng tạo ra ở cả hai khu vực. Tổng cung về TL tiêu dùng XH
bằng tổng cầu TL tiêu dùng ở cả hai khu vực.
II (c+v+m) = I (v+m) + II (v+m)
- Tái sản xuất mở rộng:
+ Thứ nhất: Giá trị mới ở khu vực I phải lớn hơn giá trị TLSX đã tiêu
dùng ở khu vực II: I (v+m) > II (c)
+ Thứ hai, tòan bộ giá trị và sản phẩm khu vực I phải lớn hơn tổng giá
trị tư liệu SX đã tiêu dùng ở cả 2 khu vực: I(C+V+m) > I(C)+II(C).
Thứ ba, tòan bộ giá trị mới ở cả 2 khu vực phải lớn hơn giá trị sản
phẩm ở khu vực II.
I(V+m)+ II(V+m) > II(C+V+m)
Ý nghĩa của chúng:
Qua quy luật tái sản xuất xã hội cho chúng ta thấy như sau:
Tái SX giản đơn chỉ đạt mức đủ nuôi sống con người, chưa có sản
phẩm thặng dư hoặc số ít sản phẩm thặng dư nhưng lại tiêu dùng hết cho cá
nhân. Đây là đặc trưng của nền sx nhỏ thủ công. Còn tái sản xuất mở rộng
đòi hỏi phải đạt trình độ năng suất lao động vượt qua số lượng sản phẩm tất
yếu và tạo ra sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều, tiết kiệm trong SX , trong
tiêu dùng song đến cùng đều tiết kiệm thời gian , giảm lao động tất yếu,
tăng cường lao động thặng dư.
Trong quá trình SX luôn luôn duy trì tính cân đối chung của các yếu

tố SX theo những tỷ lệ nhất định nếu vi phạm sẽ ảnh hưởng đến quá trình
tái SX.

1

Trong nền kinh tế thị trường thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tất
cả những điều kiện này điều biến đổi thành bấy nhiêu điều kiện cho một quá
trình không bình thường của tái sản xuất, thành bấy nhiêu khả năng khủng
hoảng, bởi vì tính tự phát của nền sản xuất, bản thân sự cân bằng chỉ là sự
ngẫu nhiên.
Tái sản xuất của vật chất (gồm các vật phẩm tiêu dùng và TLSX) là
nhân tố khách quan không thể thiếu của sản xuất xã hội. Trong quá trình sản
xuất, sản phẩm xã hội thường được tiêu dùng cho cá nhân và cho sản xuất,
vật phẩm tiêu dùng để tái sản xuất sức lao động, còn tư liệu sản xuất để tiếp
tục quá trình sản xuất. Vì vậy, phải thường xuyên tái sản xuất ra chúng. Hơn
nữa nhu cầu về đời sống và SX thường xuyên tăng lên, do đó của cải vật
chất cần được tái SX mở rộng, làm cho số lượng thường xuyên tăng lên và
chất lượng được cải tiến nâng lên.
Trong trường hợp nền KT phát triển tự phát, các tỉ lệ cân đối hình
thành một cách tự phát sau thời kỳ khủng hoảng KT. Khi đó khoa học KT
chính là biện pháp tự bảo vệ của quy luật cân đối. Đối với nền KT phát triển
có ý thức, những tỉ lệ cân đối sẽ là cơ sở cho các chỉ tiêu trong hệ thống kế
hoạch hóa.
Về quy luật liên hệ : Quá trình tái sản xuất bao gồm nhiều khâu và
nhiều quá trình các khâu và các quá trình đó có vị trí chức năng đối lập với
nhau, nhưng chúng có mối quan hệ nhưng chúng còn có mối quan hệ quyết
định lẫn nhau ở trong một chu kỳ tái sản xuất, các khâu của quá trình lưu
thống sẽ do quá trình SX quyết định. Đến lược chúng các khâu của quá trình
lưu thông sẽ quyết định đối với quá trình sản xuất ở chu kỳ tái sản xuất kế
tiếp. Người quản lý phải ra quyết định điều chỉnh SX cho chu kỳ kế tiếp

bằng tác động bằng khâu lưu thông trước đó. Tác động SX sẽ làm ảnh
hưởng lưu thông sau đó.
* Về chỉ số GDP và GNP :
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): là tổng gía trị tính bằng tiền của
những hàng hóa và dịch vụ mà 1 nước sản xuất ra từ các yếu tố sản xuất của
mình (dù là sản phẩm ở trog nước hay nước ngoài). Tổng sphẩm quốc dân
thườg được nêu ra trước tiên để so sánh, đánh giá quy mô, mức độ phát
triển, thành tựu KT và mức sống giữa các nước.

1


Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị tính bằng tiền của
những toàn bộ hàng hóa và dịch vụ mà một nước SX ra trên lãnh thổ nước
đó ( dù nó thuộc về ai, thuộc người trog nước hay người nước ngoài).
So sánh tổng sphẩm quốc dân GNP với tổng sphẩm trog nước GDP
ta thấy: GNP = GDP + Thu nhập ròng từ tái sx ở nước ngoài.
Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài bằng thu nhập chuyển về
nước của người nước đó làm việc ở nước ngoài trừ đi thu nhập chuyển ra
khỏi nước của người nước ngoài làm việc tại nước đó.
* Thông số GNP = GDP có 3 trường hợp sau:
+ Thông số tổng hợp trên qui mô toàn thế giới ( không phân biệt
quốc gia, lãnh thổ và của sở hữu).
+ Những quốc gia có nền kt hoàn toàn khép kín (không đầu tư kinh
doanh sản xuất ở nước ngoài cũng như không liên doanh nhận đầu tư ở
nước ngoài. Ví dụ trog thời kỳ Việt Nam “bế quan tỏa cảng” và bị Mỹ cấm
vận, việc chuyển thu nhập về nước của kiều bào Việt Nam không đáng kể,
Việt Nam không đầu tư ở nước ngoài, các nhà đầu tư ở nước ngoài không
đầu tư vào Việt Nam, lúc này tổng sản phẩm quốc dân GNP bằng tổng sản
phẩm trog nước GDP.

+ Nước có phần gía trị thu về từ nước ngoài cân bằng với phần gía
trị phải trả cho người nước ngoài ở trog nước. Ví dụ thu nhập chuyển về
nước của người nước đó làm việc ở nước ngoài là 10 triệu USĐ và chuyển
ra khỏi nước của người nước ngoài làm việc trog nước đó là 10 triệu USĐ
thì tổng sản phẩm trog nước GDP và tổng sản phẩm quốc dân GNP bằng
nhau.
Câu 4: Phân biệt hàng hoá sức lao động với các hàng hoá
khác.Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng khủng hoảng thừa trong
kinh tế hàng hoá. Phải chăng sản xuất hàng hóa chỉ ra đời và tồn tại
trong nền kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất?
Trong bất cứ chế độ XH nào, SLĐ cũng là điều kiện cơ bản của
SX. Nhưng SLĐ trở thành HH trong những điều kiện LS nhất định.
Người lao động phải được tự do về thân thể, có như vậy anh ta
mới thực sự làm chủ SLĐ, tự do chi phối SLĐ của mình, kể cả tự do đem
bán.

1

Người LĐ bị tước đoạt hết TLSX chủi trong điều kiện ấy, người
LĐ mới bán SLĐ của mình, vì họ không còn cách nào khác để sinh sống,
chỉ khi nào SLĐ trở thành một thứ HH thì SX HH giản đơn mới trở
thành SXHH TBCN đó là thời điểm ra đời của CNTB.
Chính tác dụng làm phân hóa người SX của QL giá trị những tích
lũy nguyên thủy của TB đã làm cho 2 điều kiện nói trên xuất hiện nhanh
chóng.
Là HH, SLĐ cũng có 2 thuộc tính: giá trị và giá trị sd riêng đặc
biệt của HH SLĐ là ở chổ nó bao hàm yếu tố tinh thần và LS. Giá trị HH
SLĐ cũng do thời gian lao động XH tất yếu để SX và tái SX ra nó quyết
định, SX và tái SX SLĐ trước hết được thực hiện qua tiêu dùng của công
nhân. Bởi vậy giá trị SLĐ là giá trị toàn bộ các SH cần thiết để duy trì

đời sống của công nhân.
Giá trị HH SLĐ bao gồn những bộ phận hợp thành như sau: giá
trị các TL SH cần thiết cho công nhân, phí tổn đào tạo công nhân, giá trị
các TLSH cần thiết cho gia đình công nhân.
Giá trị SD của HH SLĐ biểu hiện ở chổ: thỏa mãn nhu cầu nào
đó của người mua.Nhưng khác với các hàng hóa khác, nó có một giá trị
SD đặc biệt là tạo ra được một lượng giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó.
Chính giá trị SD đặc biệt này là chìa khóa để giải đáp mâu thuẩn của
công thức chung của TB và nó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc
nghiên cứ quá trình SXTBCN. Chính quá trình này chỉ rỏ động cơ, mục
đích và kết quả vận động của TB. Do đó nó cũng vạch trần sự bóc lột
tinh vi của GC TS đối với GC CN làm thuê được che dậy bằng những
khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái”, vạch rỏ cơ sở khách quan của cuộc
đấu tranh GC giữa GC VS & GCTS, khẳng định rằng CHTB tất yếu sẽ
được thay thế bằng một PTSX cao hơn.
Sự khác nhau giữa HH SLĐ với các HH khác:
Mua bán SLĐ chính là thuê và cho thuê quyền SD SLĐ trong
một khoảng thời gian nào đó với những điều kiện và giá cả nhất định.
Người LĐ trao quyền SD SLĐ nhưng vẫn giữ nguyên tư hữu đối với
SLĐ của mình.

1


Hàng hóa SLĐ là một HH đặc biệt, có tính nhân văn, không
giống với bất cứ một loại HH thông thường nào. Nó có những khác biệt
với HH thông thường và cả những HH đặc biệt khác ở các điểm sau:
- Về sự tồn tại: SLĐ tồn tại trong cơ thể sống của một con người
cụ thể, không thể tách rời con người ấy nên nó tùy thuộc vào tuổi tác,
giới tính, đặc điểm dân tộc, trình độ VH trình độ chuyên môn nghiệp vụ,

tay nghề, sức khỏa của người LĐ.
- Tính nhân văn SLĐ sẽ được phát huy nếu việc SD phù hợp với
giới hạn tâm sinh lý của người LĐ.
- Về chất lượng HH: chất lượng HH SLD thể hiện ở năng suất LĐ,
trình độ tay nghề, kinh nghiệm, tùy thuộc phần lớn vào quá trình giáo
dục và đào tạo của người LĐ, vào việc chăm sóc sức khỏe và cả ý thức
thái độ (tích cực sáng tạo) của người LĐ.
- Về thuộc tính giá trị, giá trị HH SLĐ được đo gián tiếp qua giá trị
TLTD và mang các yếu tố tinh thần LS.
- Về thuộc tính giá trị SD: HH SLĐ có một công dụng độc đáo mà
không một loại HH nào khác có được đó là khả năng tạo ra giá trị mới
lớn hơn giá trị của nó khi được SD trong quá trình sản xuất.
* Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng khủng hoảng thừa trong
nền kinh tế hàng hoá ?
Khủng hoảng thừa trong nền kinh tế hàng hoá hay còn là khủng
hoảng sản xuất hàng hoá thừa nghĩa là hàng hoá sản xuất ra không tiêu
thụ được ,tư bản không thu hồi được chi phí sản xuất ,bị phá sản,đóng
cửa xí nghiệp .Việc mất khả năng thanh toán ,phá sản của một nhà tư bản
dẫn đến sự sụp đổ ,phá sản của hàng loạt doanh nghiệp khác trong xã hội
.Hàng hoá bị phá huỷ ,sản xuất đình đốn ,người lao động thát nghiệp .Đố
không phải là sản xuất thừ tuyệt đối ,mà là sản xuất “thừa “so với sức
mua ,với khsr năng thanh toán hạn hẹp của người lao động
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa còn dẫn tới phát
hiện ra hai xu hướng vận động trái ngược nhau :Khối lượng của cải vật
chất ngày càng tăng lên đi đôi với khối lượng giá trị của nó ngày càng
giải xuống hơạc không đổi .Quan hệ giữa lao động cụ thể và lưu động
trừu tượngbiểu hiện mâu thuẫn giữa tính tư nhân và tính xã hội của lao

1


động sản xuất hàng hóa .Mâu thuẫn này chứa đựng mầm mống của sự
sản xuất thừa trong nền kinh tế hàng hóa .
Khả năng khủng hoảng kinh tế đã có mầm mống từ nền sản xuất
kinh tế hàng hoá giản đơn nhưng chưa có khả nang trở thành hiện
thực .Trong nền kinh tế TBCN ,Khủng hoảng kinh tế mới trở thành hiện
thực .Bởi vị CNTB dựa trên cơ sở sản xuất đại công nghiệp cơ khí ,phân
công lao động phát triển,năng suất lao động cao,khủng haongr kinh tế có
điều kiện xảy ra .
Nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng kinh tế là mâu thuẫn cơ
bản của CNTB ,mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình
thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất .Mâu thuẫn
đó được biểu hiện thành các mâu thuẫn sau :
* Mâu thuẫn giữa tính có tổ chức ,có kế hoạch trong từng xí
nghiệp và tình trạng sản xuất vô chính phủ trong toàn xã hội .Vì mục
đích chạy theo lợi nhuận nên ,các nhà tư bản một mặt tìm cách hợp lý
hoá tổ chức xí nghiệp để giảm chi phí đầu vào ; mặt khác chỉ dầu tư kinh
daonh vào những ngành có lợi nhuận cao và cạnh tranh quyết liệt với
nhau. Kết quả làm phá hoại sự cân đối giữa các ngành sản xuất, quan hệ
cung-cầu bị rối loạn nghiêm trọng ,đến một mức độ nào đó thì xảy ra
khủng hoảng kinh tế .
* Mâu thuẫn giữa xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn của CNTB
với sức mua có hạn của quần chúng lao động .Do theo đuổi lợi nhuận
siêu ngạch ,các nhà tư bản dã ra sức mở rộng sản xuất ,cải tiến kỹ thuật
và cạnh tranh rất gay gắt ;của cải snar xuất ra ngày càng nhiều và sức
mua của quần chúng theo không kịp do(bị bần cùng hóa dẫn tới hàng hóa
bị ứ thừa trên thị trường .
*Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động: Nhà tư bản là người sở hữu
tư liệu sx nhưng không lao động, còn công nhân lao động làm ra của cải
nhưng lại bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất. Sản phẩm làm ra ,hầu hết
thuộc về nhà tư bản .Sự tách rời tư liệu san xuất và sức lao động đã dẫn

đến nền kinh tế đến sự phát triển “mù quáng” ,chay theo lợi nhuận ,làm
cho khủng hoảng trở nên hiện thực.
Khắc phục Khủng hoảng kinh tế mang tính chu kỳ theo quy luật
khách quan của sự phát triển thế nên chúng ta không thể làm triệt tiêu
chu kỳ của khủng hoảng kinh tế mà chỉ can thiệp ,điều tiết bằng cách sử

2


dụng một loạt các hệ thống công cụ điều tiết đa dạng ,lin h hoạt như các
chính sách tài chính,tiền tệ ,tín dụng ,chính sách xuất ,nhập khẩu; chính
sách đầu tư,mở rộng tiền tệ trong thời kỳ khủng hoảng ,hạn chế cầu ,hạn
ché đầu tư thắt chặt tiền tệ khi nền kinh tế hoạt động quá nóng ,lạm phát .
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa:
Phân công lao động xã hội: là sự chuyên môn hóa trong lao động
sản xuất dẫn tới hình thành các ngành nghề, cáclĩnh vực khác nhau.
Trong phân công lao động, mỗi người chỉ sản xuất ra một vài loại sản
phẩm mà mình có ưu thế nhất, song nhu cầu của họ là đa dạng, từ đó tất
yếu dẫn tới trao đổi sản phẩm cho nhau. Không phải bất cứ có sự trao đổi
sản phẩm nào cũng diễn ra dưới hình tức mua bán HH: trong công xã ấn
độ thời cổ giữa các phân xưởng trong một xí nghiệp, giữa các thành viên
trong hình thức kinh tế hộ gia đình… có phân công LĐ, có trao đổi SP,
song không có sự mua bá HH.
Sự tác biệt tương đối vế mặt KT của những người SX: trong QT
hình thành & PT của LS, sự tách biệt về KT do các kiểu quan hệ sở hữu
khác nhau về TLSX mà khởi thủy là chế độ tư hữu về TLSX qui định.
Tiếp đến trong nền SX lớn, với sự tách rời giũa quyền SH và quyền SD
thì sự tách rời về KT giữa những người SX, giữa những doanh nghiệp
thuộc cùng một chế độ SH có tính tự chủ kinh doanh qui định. Sự khác
nhau về QHSX về lợi ích KT làm cho LĐ của người SX mang tính chất

tư nhân. Trong hoàn cảnh này, muốn tiêu dùng SP của nhau tất nhiên
phải thông qua mua bán SP, tức là trao đổi dưới hình thái HH.Do vậy
SXHH tồn tại tất yếu trong các XH dựa trên SH tư nhân (nô lệ, phong
kiến, tư bản). SXHH tồn tại ngay cả khi CNXH phát triển và tất nhiên cả
trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH./.
Có ý kiến nói kinh tế hàng hóa chỉ tồn tại và phát triển trong nền
kinh tế có chế độ tư hữu là chưa đúng và chưa đủ
Kinh tế hàng hóa xuất hiện cùng với sự xuất hiện của chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế của xã hội loài
người. Song, nó tồn tại, phát triển và ngày càng hoàn thiện qua một số
phương thức sản xuất tiếp theo phát triển phổ biến nhất, phát triển cao
nhất trở thành hình thức sản xuất hàng hóa điển hình, nổi bật trong lịch
sử là trong giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa và nó tiếp tục tồn tại,
phát triển ngay dưới chế độ xã hội chủ nghĩa khi mà chế độ tư hữu đã

2

không còn thống trị, chế độ công hữu đã được hình thành củng cố và lớn
mạnh.
Tóm lại, chỉ đúng khi kinh tế hàng hóa mới ra đời. Nó không còn
đúng trong chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, vì kinh tế hàng hóa không
những tồn tại trong chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội, nó vẫn
tồn tại và hoàn thiện cao hơn. Vì vậy, câu này không đúng và không đủ.
Ngày nay ở việt nam ta cũng phải áp dụng nền KT SX hàng hóa
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa XH.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa XH ở việt nam sự tồn tại của
SX hàng hóa là một tất yếu khách quan, với những lợi thế về phát triển
hàng hóa đối với nước ta là một nhiệm vụ KT cấp bách để chuyển nền
KT lạc hậu thành nền KT hiện đại, hội nhập với sự phân công lao động
quốc tế, đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng SX, để thực

hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Thực tiễn những năm đổi mới đã cho chúng ta thấy việc chuyển
sang mô hình KT hàng hóa là đúng đắn, nhờ mô hình này mà chúng ta đã
khai thác được tiềm năng trong nước thu hút được đầu tư nước ngoài,
giải phóng được năng lực SX trong XH , phát triển lực lượng SX .
Theo Mác thì SX hàng hóa chỉ tồn tại trong một số phương thức
XH gắn với những điều kiện lịch sử nhất định. Vì vậy đến thời đại cộng
sản chủ nghĩa lực lượng SX vô cùng lớn mạnh, năng lực SX vô cùng dồi
dào lúc này sản phẩm làm ra không phải đi trao đổi mua bán, chế độ sở
hữu tư liệu SX của tư nhân không còn, lúc này con người làm việc theo
năng lực hưởng theo nhu cầu thì không còn nền KT SX hàng hóa.
Câu 5: Khái niệm các loại cấu tạo tư bản, cho ví dụ về sự
khác nhau giữa cấu tạo giá trị với cấu tạo hữu cơ tư bản. Các
phương pháp nâng cao bóc lột giá trị thặng dư trong nền kinh tế
TBCN, cho ví dụ minh họa? Hãy bình luận câu:” Tiền nào của đó”
trong điều kiện hiện nay.
Để thu được m và M, vốn đầu tư của TB phải được phân chia hợp
lý để mua các yếu tố sản xuất và sử dụng hợp lý các yếu tố sản xuất ấy.
Sự phân chia này tạo ra các cấu tạo TB sau:

2


- Cấu tạo giá trị TB: là mối quan hệ tỷ lệ giữa số tiền mua tư liệu
sản xuất và số tiền mua sức lao động. Công thức cấu tạo của giá trị là c/v
(c và v ở đây là số lượng tiền)
- Cấu tạo kỹ thuật của TB: là mối quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư
liệu sản xuất đã mua so với số người đã thuê để sử dụng TLSX ấy. Công
thức cấu tạo kỹ thuật là c/v (nhưng c là số lượng tư liệu máy móc, còn v
là số lượng lao động).

- Cấu tạo hữu cơ TB: là mối quan hệ biện chứng, hữu cơ giữa cấu
tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị. Nhà TB phải căn cứ vào yêu cầu kỹ thuật
cân đối, hợp lý giữa số lượng TLSX và số lượng lao động, sử dụng
TLSX để không có sự lãng phí mà phân chia TB để mua sắm tạo thành
cấu tạo giá trị. Mác định nghĩa: Cấu tạo hữu cơ TB là cấu tạo giá trị của
TB khi nó phản ánh kỹ thuật và do cấu tạo kỹ thuật TB quy định. Công
thức cấu tạo hữu cơ là c/v.

TB. Vì vậy, Mác coi bóc lột giá trị thặng dư đó là quy luật tuyệt đối trong
nền kinh tế TBCN.
Ví dụ minh họa :
70C + 30 V + 30 m (1)
m
30
p’=-------- = ----------x100% =
C+V
70+30
m’=100%
C
70
----- = ------- = 7/3
V
30

Cấu tạo giá trị TB là tỷ lệ theo đó TB phân thành: TB bất biến
(hay giá trị của TLSX) và TB khả biến (hay giá trị của sức lao động) cần
thiết để tiến hành sản xuất.

80C + 20 V + 20 m (2)


Cấu tạo hữu cơ của TB tăng lên nhanh chóng ở thời kỳ công
nghiệp hóa TBCN, hoặc ở những thời kỳ nền kinh tế TB thay đổi cơ cấu
kinh tế. Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của TB làm cho khối lượng
TLSX tăng lên, trong đó sự tăng lên của máy móc, thiết bị là điều kiện
để tăng năng suất lao động, còn nguyên liệu tăng theo năng suất lao
động.

m’=100%

Cùng với sự phát triển của CNTB, do tác động thường xuyên của
tiến bộ khoa học và công nghệ, cấu tạo hữu cơ của TB cũng không
ngừng biến đổi theo hướng ngày càng tăng lên. Sự tăng lên đó biểu hiện
ở chổ bộ phận TB bất biến tăng nhanh hơn bộ phận TB khả biến, TB bất
biến tăng tuyệt đối và tăng tương đối, còn TB khả biến thì có thể tăng
tuyệt đối nhưng lại giảm xuống 1 cách tương đối.
Mác nói: TB là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột
người lao động làm thuê, đối với các nhà TB hoạt động kinh tế mà không
thu được giá trị thặng dư thì sẽ không còn là TB nữa
Quá trình sản xuất TB, bất luận ở đâu, nơi nào, thời gian nào cũng vì
mục đích giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà

2

30%

m
20
p’= ----- = -------x 100% = 20%
C+V 80+20
C

80
----- = ------- = 4/1
V
20
Nếu tỷ suất lợi nhuận (m’) không đổi m’(1)=m’(2) nhưng khi cấu tạo
hữu cơ tăng (2) thì tỷ suất giá trị thặng dư giảm, đây là mối quan hệ
nghịch biến.
Để khắc phục, nhà TB dùng biện pháp tăng tỷ suất giá trị thặng dư bằng
cách giảm giá cả sức lao động (V) thông qua con đường ngoại thương
thuê lao động và mua TLSX ở nước ngoài và bán sản phẩm ở nước
ngoài.
* Các phương pháp nâng cao bóc lột giá trị thặng dư trong nền kinh
tế TBCN, cho VD minh họa :

2


Muốn thu được nhiều giá trị thặng dư thực tế (m’) và có nhiều khối
lượng giá trị thặng dư trong năm, các nhà TB đã căn cứ vào thời gian lao
động tất yếu và thời gian lao động thặng dư của người lao động trong
ngày, để thực hiện 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư như sau:

Trong quá trình sản xuất hàng hóa TBCN, bằng lao động cụ thể của
mình công nhân sử dụng những TLSX và chuyển giá trị của chúng vào
hàng hóa và bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn
hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó là GTTD.

- Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp để tăng thêm giá
trị thặng dư nhà TB đã tìm cách kéo thời gian lao động thặng dư ra bằng
cách kéo thời gian lao động trong ngày trong khi năng suất lao động, giá

trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không đổi.

Để hiểu rõ quá trình sản xuất GTTD ta lấy việc sản xuất sợi của một
nhà TB làm ví dụ:

Lấy ví dụ: Giáo trình KTCT Mác Lê Nin trang 165
- Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp làm tăng
thêm giá trị thặng dư bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu nhờ
vậy sẽ có thêm giá trị thặng dư trong khi thời gian lao động trong ngày
không đổi.
Lấy ví dụ: Giáo trình KTCT Mác Lê Nin trang 166
Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải tìm cách hạ thấp giá trị
sức lao động. Điều này chỉ có thể thực hiện bằng cách tăng năng suất lao
động trong các ngành sản xuất ra tư liệu tiêu dùng hoặc các ngành sản
xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra tư liệu tiêu dùng.
Như vậy, sử dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
phải gắn với ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ để tăng năng suất
lao động xã hội. Do đó Mác đã coi giá trị thặng dư siêu ngạch đạt được
trong các xí nghiệp TB do ứng dụng tiến bộ KH-CN mới chỉ là hình thức
biến tướng của GTTD tương đối.
Hai phương pháp sản xuất ra GTTD trên đây thường được áp dụng
đồng thời trong quá trình sản xuất TB, tùy sự phát triển mà sử dụng
phương pháp nào tập trung hơn.
Ngày nay do sự phát triển mạnh mẽ của KH-CN có ý kiến cho rằng
không còn tồn tại phương pháp sản xuất GTTD tuyệt đối nữa, đó là 1 ý
kiến sai lầm bởi dù sử dụng máy móc công nghệ tiên tiến thì chỉ giảm sự
hao phí thể lực, nhưng hao phí về trí lực, thần kinh, trí tuệ của người
công nhân lại tăng lên. Do đó, sức lao động của người lao động vẫn tiếp
tục hoa phí để tăng thêm GTTD cho nhà TB khi kéo dài được thời gian
lao động thặng dư.


Để chế tạo ra 1kg sợi nhà TB phải ứng ra số tiền 20.000 đơn vị tiền tệ
mua 1kg bông, 3.000 đơn vị cho hao phí máy móc và 5.000 đơn vị mua
sức lao động của công nhân điều khiển máy móc.
Trong quá trình sản xuất, bằng lao động cụ thể công nhân sử dụng
máy móc để chuyển 1kg bông thành 1kg sợi, theo đó giá trị của bông và
hao mòn máy móc cũng được chuyển vào sợi bằng lao động trừu tượng,
công nhân tạo ra giá trị mới nhập vào sợi. Giả định ngày làm việc của
công nhân có thể kéo dài từ 5 giờ đến 10g, mà chỉ trong 5g công nhân đã
chuyển xong 1kg bông thành 1kg sợi thì giá trị 1kg sợi được tính là:
- Giá trị 1kg bông chuyển vào: 20.000 đơn vị
- Hao mòn máy móc: 3.000 đơn vị
- Giá trị mới tạo ra (trong 5g lao động, bằng giá trị sức lao động):
5.000 đơn vị.
Tổng cộng 28.000 đơn vị
Nếu quá trình lao động ngừng ở đây thì nhà TB chẳng thu được 1 tí
GTTD nào. Nhưng nhà TB đã mua sức lao động trong 1 ngày với 10g
chứ không phải 5g. Trong 5g lao động tiếp theo nhà TB không phải trả
công nữa mà chỉ cần chi thêm 20.000 đơn vị để mua 1kg bông và 3.000
đơn vị hao mòn máy móc, nhưng sẽ có thêm 1kg sợi. Tổng số tiền nhà
TB chi ra để có được 2kg sợi là:
- Tiền mua bông: 20.000 x 2 = 40.000 đơn vị
- Hao mòn máy móc (máy chạy 10g): 3.000 x 2 = 6.000 đơn vị
- Tiền lương công nhân sản xuất cả ngày (trong 10g nhưng vẫn tính
theo giá trị sức lao động bằng 5.000 đơn vị)
Tổng cộng bằng 51.000 đơn vị
Trị giá sợi nhà TB thu được 2 x 28.000 = 56.000 đơn vị

2


2


Như vậy, nhà TB thu được lượng GTTD:
56.000 – 51.00 = 5.000 đơn vị
Từ ví dụ trên có thể đi đến kết luận, GTTD là giá trị mới do lao
động của người công nhân tạo ra ngoài giá trị sức lao động – là kết quả
lao động không công của công nhân cho nhà TB. Cho nên Mác viết: “Bí
quyết của sự tự tăng thêm giá trị của TB quy lại là ở chỗ TB chi phối
được một số lượng lao động không công nhất định của người khác”. Bản
chất bóc lột của CNTB là ở đó. Sở dĩ nhà TB chi phối được số lao động
không công ấy vì nhà TB là người chiếm hữu TLSX. Do điều kiện này
mà nền sản xuất trở thành nền SX TBCN.
* Bình luận câu : “tiền nào của đó”
Đối với học thuyết giá trị thặng dư, ngày nay mặc dù vai trò của
quản lý, của trí tuệ và kỹ thuật ngày càng cao trong nền SXTB vẫn
không bác bỏ những giá trị của học thuyết giá trị thặng dư của Mác. Mặc
dù cơ cấu lao động SX ra giá trị thặng dư trong XHTB có những biểu
hiện thay đổi khác biệt, nhưng xét đến cùng giá trị thặng dư cũng bắt
nguồn từ lao động sống của tất cả những người lao động chân tay và lao
động trí óc.
Câu “tiền nào của đó” không chỉ đơn thuần là quan hệ mua, bán mà
chứa đựng bao hàm ý nghĩa sâu xa trong quan hệ sản xuất hàng hóa, quy
mô sản xuất và mối quan hệ giữa người với người trong SX hàng hóa và
trong lưu thông hàng hóa.
Trong quan hệ SX hàng hóa với nhà TB bóc lột giá trị thặng dư
vẫn là mục đích cuối cùng, cao nhất mà phương thức SX TB hiện đại
muốn đạt tới, nó vẫn là quy luật kinh tế nói lên bản chất của CNTB, mặc
dù hình thức biểu hiện có những điểm mới, tinh vi hơn và việc không trả
công xứng đáng như câu “tiền nào của đó” là nguồn gốc của việc bóc lột

giá trị thặng dư của CNTB đối với người công nhân bán sức lao động
chính vị vậy đã dẫn đến những mâu thuẫn ngày càng gay gắt, không thể
điều hòa được giữa g/c TS và g/c công nhân .
Câu 6: Phân biệt tư bản cho vay với tư bản ngân hàng? Cổ
phiếu với trái phiếu? Cho các ví dụ về lợi ích của việc nâng cao tốc
độ chu chuyển.

Hãy giải thích mâu thuẫn : Mặc dù tỷ suất lợi nhuận có xu
hướng giảm sút trong quá trình tích lũy, nhưng nhà tư bản vẫn
không ngừng mở rộng quy mô tích lũy.
Trog CNTB, tiền tệ có 1 "gtrị sdụg phụ thêm" là dùg làm TB cho
vay để đem lại lợi tức cho chủ sở hữu TB. Nó trở thàh hhóa đbiệt, gọi là
hhóa TB, có thể đem nhượng lại, tức là cho vay để thu lợi nhuận do chủ
sở hữu tư bản cho vay và lợi nhuận của chủ xí nghiệp sử dụng tư bản cho
vay vào sản xuất. vì vậy, nó trở thành 1 loại hàng hóa đặc biệt gọi là
hàng hóa tư bản có thể đem nhượng lại tức là cho vay.
.-Tư bản cho vay: TB cho vay trong CNTB là 1 bộ phận trong TB
tiền tệ trong tuần hoàn của TB côgnghiệp tách ra và vđộng độc lập. trog
quá trình tuần hoàn của TB xuất hiện hiện tượng có 1 số tiền tạm thời
nhàn rỗi, tiền dự trữ để mua ngyên, nhiên liệu, quỹ để dành trả lương cho
côg nhân nhưg chưa dùg tới; gía trị thặng dư dành cho tích lũy chưa đủ
mức TB hóa quỹ khấu hao máy móc thiết bị…có thể đem cho vay để thu
lợi tức. trong khi đó, 1 số hà TB khác lại đang cầ tiền mua sắm vạt tư,
nguyên liệu để du trì SXKD trong khi chưa bán đc hàng;cần tiền để cảI
tiến kỹ thuạt, áp dụg côgnghệ mới hoặc mở rộng SXKD mà vốn tích lũy
chưa đủ cần vay thêm, từ nhữg qhệ cung-cầu về vốn, tiền tệ đó là hình
thàh và ptriển TB cho vay.
TB cho vay trong CNTB là loại TB đặc biệt. TB cho vay là TB
mà quyền sở hũu tách rời quyền sdụg. cùng 1 TB nhưg đối với người cho
vay nó là TB thuộc quyền sở hữu của anh ta chỉ tạm trao vào tay người

đI vay sdụg trong 1 thgian nhất địh.
TB cho vay biểu hiện như 1 hag hóa đặc biệt. TB cho vay là hàg
hóa, vì nó cũng có gtrị và gtrị sdụg, có ng mua có ng bán, có gí cả và giá
cả của nó cũng lên xuống theo qhệ cung-cầu. nhưg TB cho vay là loại
hàg hóa đặc biệt bỡi ng mua và ng bán ko mất quyền sở hữu. khi ng mua
sdụg thì gtrị sdụg và gtrị của nò ko mất đI mà còn tăg lên: gía cả của nó
ko do gtrị mà do gtrị sdụg, do khả năng tạo ra mà nó quyết địh. TB cho
vay là TB sùng báI nhất côgthức vđộng của TB cho vay là: T-T’.
Thực ra sự vđộng của TB cho vayko thể tách rời sự vđộng thực tế
của TB côg nghiệp. sở dĩ tiền tệ dưới dạng TB cho vay tăg thêm đc là do
trong thực tế nó vđộng theo côg thức: T-T”-H__slđ
-TLSX +SX…H-T”-T

2

2


Trong đó T-T” và T”-T chỉ là điểm mở đầu và điểm kết thúc, là sự
chuẩn bị và kết quả và sự vđộng tuần hoàn.
TB ngân hàng : là 1 TB xí nghiệp TBCN kinh doanh TB tiền tệ và
làm môI giới giũa ng cho vay và ng đI vay. mđích của hoạt động ngân
hàng là thu lợi huận như các xí nghiệp, côgthươg nghiệp TBCN khác.
ngân hàng TB ra đời từ 2 nguồn gốc: từ nhữg TB thươg nhân kinh doanh
tiền tệ thời trug cổ; từ nhữg hội tín dụg do TB côgthươg nghiệp lập nên.
TB côgthươg nghiệp ko thể vay nặng lãI đã hợp tác với nhau lập nên các
hội tín dụg ngân hàng, trở thàh môI giới tín dụg giữa ng cho vay và ng đI
vay là ng tổng quản lý TB tiền tệ ngân hàng còn biến các khỏan thu nhập
và tiết kiệm của các tầng lớp XH thàh TB tạo ra côgcụ tín dụg lưu thông
thay cho tiền làm trug gian thanh toán giửa các doanh nghiệp.

Hoạt động cbản của ngân hàng là đI vay để cho vay, ngoài ra
ngân hàng còn tiến hành các nghiệp vụ khác như: chuyển tiền, thu chi hộ
mua bán các chứng khóan, fát hành tiền mặt, kiểm soát và điều tiết các
hoạt động kt.
Lợi nhuận ngân hàng( Pnh) và tỷ suất lợi nhuận(P’nh).
Pnh = Zcv-Zg-chi phí dịch vụ
Zcv: lợi tức cho vay; Zg: lợi tức nhận gtrị.
Trong môI trường cạnh trah tự do thì: Pnh= P
Pnh: tỷ lệ % lợi nhuận nghàng thu đc
Trong 1 năm với vốn tự có của ngân hàng( K tự có).
Trong môI trường cạnh trah tự do: Pnh= P lđ của nhân viên ngân
hàng là lđộng cùng làm thuê nhưg ko sx, ko tạo ra gtrị thặng dư. tuy vậy
họ vẫn bị bóc lột trong quá trình giúp chủ ngân hàng chiếm đc 1 phần
gtrị thặng dư do lđộng làm thuê trong sx tạo ra.
Cổ phiếu và trái phiếu:
Cổ phiếu: là giấy cn quyền sở hữu của cổ đông, khi thàh lập cty
cổ phần thì TB thực tế đã đầu tư vào qúa trình sx, còn tờ cổ phiếu chỉ là
bản sau của TB thực tế đã đầu tư đó. cổ phiếu có nhiều loại như: cổ
phiếu thườg, cổ phiếu đặc quyền. trị giá cổ phiếu ko phụ thuộc vào gtrị
danh nghĩa ghi trên mặt cổ phiếu hay mệnh giá cổ phiếu mà phụ thuộc
vào lợi tức cổ phiếu và lợi tức tiền gửi ngân hàng.

2

trị giá cổ phiếu = lợi tức cổ phiếu
tỷ suất lợi tức ngân hàng
trị giá cổ phiếu luôn biến động, 1 phần là do sự biến động của tỷ
suất lợi tức ngân hàng, phần vì đánh giá tình hình hoạt động của cty cổ
phần về lợi tức cổ phần dự đoán sẽ thu đc.
TráI phiếu: là nhữg phiếu nợ do các cty, các ngân hàng hay nhà

nước fát hành để vay nợ của nhữg ng mua traí phiếu. khác với cổ phếu,
các tráI phiếu fát hành có kỳ hạn và lợi tức cố địh đc hòan trả và kèm
theo lợi tức khi đến hạn.
Nguời có tráI phiếu cty chỉ là chủ nợ cty, chứ ko phảI là ng đồng
sở hữu cty, nên ko có quyền tham gia quản lý cty như ng có cổ phiếu
nhiều. ngoài ra cổ phiếu và tráI phiếu còn có 1 số khác nhau nữa đó là:
ng mua cổ phiếu ko đc rút vốn trở lại, còn ng mua tráI phiếu đc hoàn vốn
khi đến hạn; cổ phiếu rủi ro cao, tráI phiếu rủi ro thấp.
VD về lợi ích của việc nâng cao tốc độ chu chuyển:tăg tốc độ
chu chuyển của TB hay rút ngắn thgian chu chuyển của TB có ý nghĩa
quan trọng trong việc tăg hiệu quả hoạt động của TB. Trước hết tăg tốc
độ chu chuyển của TB cố địh sẽ tiết kiệm đc chi phí bảo quản, tránh đc
hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. đối với TB lưu động, việc tăg tốc
độ chu chuyển hay rút ngắn thgian chu chuyển sẽ cho phép tiết kiệm đc
TB ứng trước khi quy mô sx như cũ hay có thể mở rộng mà ko cần có
TB phụ thêm. Ví dụ: 1 TB có th gian chu chuyển 9 tuần gồm:5 tuần sx, 4
tuần lưu thông. quy mô sx đòi hỏi 1 llượng TB cho 5 tuần sx là:
100x5=500. nhưg sau đó sphẩm phảI qua 4 tuần lưu thông, do vậy 100x4
= 400 => 500+ 400 = 900. nếu rút xuống còn 8 tuần thì => 100x8 = 800.
tiết kiệm đc 100.
Giả sử TB lưu động nếu sử 900 thì 900:8= 112, 5 chứ ko phảI là
100.
Cuối cùng, đối với TB khả biến, việc tăg tốc độ chu chuyển có
ảnh hưởng trực tiếp tới việc làm. ví dụ: có 2 tư bản A và B đều có lượng
TB khả biến cho mỗi tuần sx là 100. m’= 100% khác nhau th gian chu
chuyển A là 5 tuần, B là 50 tuần để sx liên tục A cần 100x 5= 500; B cần
100x50 = 5000. cùng m’= 100 sau 5 tuần tư bản A tạo ra gtrị thặng dư:
5x100= 500 => 50 tuần tạo ra 100x50= 5000. nhưg luôn luôn cần 1 lượg

3



TB khả biến ứng trước là 500. còn tư bản B sau 50 tuần 100x50 = 5000.
cần TB khả biến là 5000. chúg ta gọi tỷ suất thặng dư hàng năm ( M’) là
tỷ lệ tính bằng % khối lượng hàng năm ( M) TB khả biến ứng trước là V.
Ta có M’ = M:Vx100 % = M x W: V x100% = m’. n
Trong đó m’ là gtrị thặng dư tạo ra trong 1 vòng chu chuyển
m/v : tỷ suất gtrị thặng dư; V: số vòng chu chuyển trong năm ở
tư bản A, tỷ suất gtrị thặng dư: M’= 5000/500 x100% = 1000%( 1000x10
vòng)
Tư bản B: M’= 5000/5000x100% = 100% ( 100%x 1 vòng).
Như vậy, mặc dù có tỷ suất gtrị thặng dư (M’) phản ánh trình độ
bóc lột ở 2 tư bản A và B như nhau, nhưg tỷ suất gtrị thặng dư hàng năm
( M’) phản anh hiệu quả hoạt động của 2 TB đó lại khác nhau. bỡi vậy
việc lựa chọn ngành có th gian chu chuyển là 1 trong nhữg biện pháp để
nâng cao hiệu quả sdụg vốn của các doanh nghiệp.
Giải thích mâu thuẫn: cấu tạo hữu cơ tăg lên là nguyên nhân làm
cho tỷ suất lợi nhuận giảm. cấu tạo hữu cơ của TB là tỷ số về gtrị giữa
TB bất biến với TB khả biến, phản ánh cấu tạo hữu cơ kỹ thuật của TB,
tức tỷ số giữa khối lượng TLSX. Sự thay đổi của cấu tạo hữu cơ của TB
có ảnh hưởng:
-nếu m’ là đại lượng ko đổi thì P’ vận động ngược chiều
-nếu c/v là 1000/1000 thì v’ là 1000/2000 = 50%
-nếu C/V là 4000/1000 thì P’ là 1000/5000 = 20%
Với m’ = 100% nếu cấu tạo hữu cơ TB (C/V) tăg từ 1/1 lên 4/1
thì p’ giảm 20%.
Ví dụ : 6000 C + 4000 V + 4000 m => p’ = 40% và P = 400
17. 600 C + 4. 400 V + 4. 400 m => p= 20% và P = 44
Tóm lại cấu tạo hữu cơ của TB tăg lên, 1 mặt làm cho p’ giảm,
mặt khác lại làm cho khối lượng lợi nhuận tăg lên. Mác gọi đó là hình

thức hai mặt của quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm.
Khối lượng tiền tệ mà ngân hàng tập trug được và sdụg làm Tb
cho vay là từ nhiều nguồn.

3

TB tiền tệ tự có của chủ ngân hàng.
TB của nhà TB côgthươg chu chuyển đến.
TB tiền tệ của các nhà TB thực lợi sống dựa vào lợi tức nhữg
khoản tiền tiết kiệm dành dụm tất cả các nguồn vốn đó của TB ngân
hàng.
Tiền mặt, các chứng khoán như kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu.
Câu 7: Xuất khẩu tư bản, những lợi thế của xuất khẩu tư bản
so với xuất khẩu hàng hoá ở giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền?
Phân biệt giá trị với giá cả, lợi nhuận bình quân với lợi nhuận doanh
nghiệp. Tại sao tư bản cho vay không tham gia vào phân phối lợi
nhuận bình quân?
Sự phát triển của LLSX dưới tác động của KHKT, một mặt làm
xuất hiện những ngành SX mới có trình độ tích tụ cao, đòi hỏi phải có
những hình thức kinh tế tổ chức mới, mặt khác làm tăng năng suất lao
động, tăng sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Bên cạnh đó, tự do cạnh
tranh tác động mạnh đến tích tụ và tập trung tư bản. Các xí nghiệp vừa
và nhỏ không đủ sức cạnh tranh hoặc là bị phá sản hoặc buộc phải thỏa
hiệp với các nhà tư bản lớn trong cùng ngành nghề hoặc một số ngành để
tồn tại. Ngoài ra, tác động của khủng hoảng kinh tế, tín dụng TBCN
được mở rộng, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tập trrung sản xuất, nhất là
hình thành các công ty cổ phần, là tiền đề cho các tổ chức độc quyền.
Đây là đặc trưng kinh tế cơ bản của PTSX TBCN ở giai đoạn chủ nghĩa
đế quốc.
Tổ chức độc quyền là liên minh giữa các nhà TB lớn để tập trung

vào trong tay một phần lớn (hay toàn bộ) sản phẩm của một ngành, sự
liên minh này phát huy ảnh hưởng quyết định đến quá trình sản xuất và
lưu thông của ngành đó. Trong CNTB độc quyền, các đồng minh độc
quyền chiếm ưu thế trong nền kinh tế; chúng có thể dùng nhiều phương
pháp khác nhau để giữ giá cao cho hàng hóa đêr thu được lợi nhuận độc
quyền cao. Một trong những đặc trưng của CNTB độc quyền khác với
CNTB tự do cạnh tranh là xuất khẩu TB.
Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu QHSX TBCN ra nước ngoài (đầu
tư TB ra nước ngoài) nhằm mục đích bóc lột giá trị thặng dư và các
nguồn lợi khác của các nước nhập khẩu TB. Xuất khẩu TB trở thành tất

3


yếu vì trong những nước TBCN phát triển đã tích lũy được một khối
lượng lớn TB và nảy sinh tình trạng " thừa TB". Tình trạng này không
phải là tuyệt đối mà chỉ mang tính tương đối, có nghĩa là nhà tư bản
không tìm được nơi đầu tư có lợi nhuận cao trong nước.

tự cung, tự cấp thành kinh tế hàng hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
thuần nông sang nong - công nghiệp mặc dù còn lệ thuộc vào nền kinh tế
của chính quốc.

Mục đích của xuất khẩu TB là nâng cao tỷ suất và khối lượng lợi
nhuận. Nguyên nhân của xuất khẩu TB là do ở các nước TBCN phát
triển, những thành tựu KHKT đã dẫn đến tăng cấu tạo hữu cơ của TB và
hạ thấp tỷ suất lợi nhuận. Còn ở những nước kém phát triển về kinh tế,
nhất là ở các nước thuộc địa, tài nguyên thiên nhiên dồi dào, giá nhân
công rẻ nhưng lại thiếu vốn và kỹ thuật.


- Thu được lợi nhuận cao hơn đầu tư trong nước, nhất là khi tiến
hành đầu tư ở những nước có nền kinh tế chậm phát triển (sức lao động
giá rẻ, nguồn tài nguyên thiên dồi dào).

Xét về hình thức đầu tư, có thể phân chia xuất khẩu TB thành
xuất khẩu TB trực tiếp và gián tiếp. Xuất khẩu TB trực tiếp: là đưa TB ra
nước ngoài để trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao bằng cách đầu tư
xây dựng các nhà máy, xí nghiệp mới hoặc mua lại các nhà máy xí
nghiệp đang hoạt động ở các nước nhập khẩu TB. Xuất khẩu TB gián
tiếp là cho vay để thu lợi tức. Ngày nay, hình thức này còn được thực
hiện bằng việc mua chứng khoảng, cổ phiếu của các công ty ở các nước
nhập khẩu TB.

- Thúc đẩy nhanh quá trình phân công lao động và quốc tế hóa
đời sống kinh tế của nhiều nước.

Xét về chủ thể có thể chia thành XKTB nhà nước, do nhà nước
TB lấy TB từ ngân quỹ để đầu tư vào các nước nhập khẩu TB hoặc bằng
các hình thức viện trợ nhằm thực hiện mục đích kinh tế, chính trị, quân
sự; và XKTB tư nhân do TB tư nhân thực hiện. Ngày nay, hình thức này
do các công ty xuyên quốc gia tiến hành thông qua các hoạt động đầu tư,
kinh doanh.

Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn một nhu cầu
nào đó của con người thông qua việc trao đổi mua - bán. Hàng hóa là
một phạm trù lịch sử. Sản phẩm lao động trở thành HH khi nó là đối
tượng của mua - bán trên thị trường. HH có hai thuộc tính:

Xét về hình thức hoạt động: lập các chi nhánh của các công ty
xuyên quốc gia; thông qua hoạt động tài chính tín dụng của các ngân

hàng hay các trung tâm tín dụng; việc chuyển giao công nghệ, đây là
biện pháp chủ yếu mà các nước XKTB thường sử dụng để khống chế nền
kinh tế của các nước nhập khẩu TB.
Việc XKTB là việc mở rộng QHSX TBCN ra nước ngoài, là công
cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị của TB tài chính trên phạm vi
toàn thế giới. Các nước nhập khẩu TB trở thành đối tượng bị bóc lột về
kinh tế và nô dịch về chính trị dưới những hình thức và mức độ khác
nhau. Tuy nhiên, về khách quan, XKTB có ý nghĩa tích cực trong việc
thúc đẩy nền kinh tế phát triển ở các nước nhập khẩu TB: chuyển kinh tế

3

Lợi thế của XKTB:

- Làm cho QHSX TBCN mở rộng và phát triển trên phạm vi toàn
thế giới.

- Thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa các
nước.
* Phân biệt giá trị và giá cả.
Để hiểu rõ phạm trù giá trị và giá cả, cần tìm hiểu thế nào là hàng
hóa và thuộc tính của nó.

- Giá trị sử dụng của HH là công dụng của một vật phẩm có thể
thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa quy
định là nội dung vật chất của của cải. Giá trị sử dụng của hàng hóa không
phải cho người trực tiếp SX mà là cho người khác, cho XH. Giá trị sử
dụng đến tay người khác ( người tiêu dùng) thông qua mua bán. Trong
KT hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.

-

Giá trị của HH là lao động XH của người SX hàng hóa kết tinh
trong HH.

Chất của giá trị là số lượng lao động, lượng của giá trị là số lượng lao
động của người SX kết tinh trong hành hóa. Giá trị là cơ sở của giá trị
trao đổi, còn GTTĐ là hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị.

3


Do đó, có thể phân biệt giá trị và giá cả như sau:
Giá trị là lao động XH của người sản xuất HH kết tinh trong HH;
là toàn bộ chi phí hao tổn để tạo ra HH đó; là biểu hiện mối quan hệ
kinh tế giữa những người SXHH. Và là nội dung, là cơ sở của giá cả.
Giá cả: trong nền SXHH, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao
đổi (gọi lf giá cả); giá cả biểu hiện mối quan hệ về số lượng, một tỷ lệ
tức trao đổi giữa những HH có giá trị sử dụng khác nhau. Giá cả của HH
là giá trị của HH đó trên thị trường, có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị
của HH. Giá cả là hình thức biểu hiện của giá trị ra bên ngoài.
* Phân biệt lợi nhuận bình quân và lợi nhuận doanh nghiệp:
Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận mà một nhà tư bản đầu tư thu
được tính theo tỷ suất lợi nhuận bình quân mà không kể cấu tạo hữu cơ
của nó là như thế nào. Lợi nhuận bình quân che dấu nguồn gốc, bản chất
của nó, dù các nhà tư bản cá biệt sản xuất ra giá trị thặng dư khác nhau
song lại thu về lợi nhuận bình quân như nhau. Thực tế lợi nhuận bình
quân chỉ là sự bình quân giá trị thặng dư của các ngành. Xét chung toàn
xã hội thì tổng lợi nhuận bình quân = tổng giá trị thặng dư.
Lợi nhuận doanh nghiệp là một phần lợi nhuận trung bình sau khi

đã trừ đi phần lợi tức, tức là một phần lợi nhuận trung bình mà các nhà tư
bản công, thương nghiệp thu được khi sử dụng tư bản cho vay vào hoạt
động sản xuất - kinh doanh thu lợi nhuận, trả cho nhà tư bản cho vay. Sự
phân chia lợi nhuận trung bình thành hai bộ phận chỉ là sự phân chia về
lượng giữa hai người có cùng quyền đối với cùng một tư bản và cùng
một lợi nhuận. Điều này tạo cảm giác: lợi tức là kết quả tự nhiên của
quyền sở hữu TB, còn lợi nhuận doanh nghiệp được hiểu là công lao hoạt
động của nhà TB biểu hiện là tiền công của lao động quản lý.
Tại sao tư bản cho vay không tham gia vào phân phối lợi nhuận
bình quân. Trong XH tư bản, tư bản cho vay là tư bản tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi mà người chủ của nó cho nhà tư bản khác sử dụng trong thời
gian nhất định để nhận được tiền lời nào đó gọi là lợi tức. Tư bản cho
vay có đặc điểm là quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng và tư bản cho
vay là một hàng hoá đặc biệt mà người cho vay không mất quyền sở hữu
và người đi vay chỉ được mua quyền sử dụng trong thời gian nhất định.
Tư bản cho vay vận động theo công thức: T – T’. Nó cho thấy sự phát
triển của hàng hoá tiền tệ đến một trình độ nhất định.

3

Lợi tức là một phần của lợi nhuận bình quân mà tư bản đi vay trả cho tư
bản cho vay về quyền sở hữu tư bản để quyền được sử dụng tư bản trong
một thời gian nhất định, kí hiệu là Z.
Người cho vay và người đi vay sẽ thoả thuận với nhau về tỷ suất
lợi tức Z’. Đó là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức Z và số tư bản tiền
tệ cho vay Kcv trong một thời gian nhất định. Ta có: Z’ = Z/K . 100%.
Tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận bình quân và quan
hệ cung - cầu về tư bản cho vay. Tỷ suất lợi nhuận bình quân luôn lớn
hơn 0 và nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Tóm lại, thực chất thì lợi tức cũng có nguồn gốc là giá trị thặng

dư. Đó chính là phần giá trị thặng dư nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà
tư bản cho vay để có quyền sử dụng tư bản trong một thời gian nhất định.
Câu 8: Phân biệt: tiền với tư bản, tư bản với vốn; bóc lột
trong phương thức sản xuất TBCN với các hình thức bóc lột trong
các phương thức sản xuất khác trong lịch sử.
Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hóa, là sản phẩm của quá
trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa, là phương tiện được thừa
nhận chung cho việc trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ. Hàng hóa là sự
thống nhất giữa hai mặt giá trị sử dụng và giá trị. Trong lịch sử phát
triển của trao đổi hàng hóa, hình thái giá trị cũng phát triển từ thấp đến
cao, từ hình thái giản đơn ngẫu nhiên, tới hình thái mở rộng, hình thái
chung, hình thái tiền tệ. Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên: hàng đổi lấy
hàng. Có nghĩa là giá trị hàng hóa này trở thành hình thức biểu hiện giá
trị của hàng hóa kia. Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên là mầm mống
phôi thai hình thành hình thái tiền tệ; và hàng hóa đóng vai trò vật ngang
giá là hình thái phôi thai của tiền tệ. Khi lực lượng sản xuất và phân công
lao động xã hội phát triển, năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng
dư nhiều, do đó, trao đổi trở nên đều đặn và thường xuyên hơn. Giá trị
hình thái đầy đủ hay mở rộng. Trong quá trình trao đổi đã xuất hiện hàng
diện được mọi người thừa nhận là đại biểu cho giá trị, có thể dùng để đổi
lấy mọi hàng hóa khác. Đây là hình thái chung của giá trị.. Các hàng hóa
đều biểu hiện giá trị của mình ở giá trị sử dụng của một thứ hàng hóa đặc
biệt đóng vai trò vật ngang giá chung.
Khi LLSX và phân công lao động XH phát triển cao hơn, SXHH
và thị trường ngày càng mở rộng, xuất hiện tình trạng có nhiều vật ngang

3


giá chung làm cho trao đổi gặp khó khăn, do đó, cần có một hình thái vật

ngang giá chung thống nhất, đó là tiền tệ. Bản chất của tiền tệ là hàng
hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng
hóa, nó thể hiện lao động XH và biểu hiện quan hệ giữa những SXHH.

đều là HH, tiền chỉ đóng vai trò trung gian. Ngược lại, lưu thông của tiền
với tư cách là tư bản bắt đầu bằng hành vi mua (T-H) và kết thúc bằng
hành vi bán (H-T'), tiền vừa là điểm xuất phát vừa là điểm kết thúc của
quá trình, còn HH đóng vai trò trung gian.

Tiền không ra đời cùng với sự ra đời của kinh tế HH. Nó chỉ xuất
hiện khi SXHH đạt tới một trình độ phát triển nhất định, khi đó, một HH
được xem là vật ngang giá chung cho tất cả các HH khác, gọi là tiền.
Tiền là hình thái cao nhất của giá trị. Khi tiền là HH có các chức năng:
thước đo giá của HH; môi giới trong trao đổi lưu thông HH; phương tiện
cất trữ; phương tiện thanh toán; và phương tiện thanh toán quốc tế.

- Mục đích lưu thông HH giản đơn là giá trị sử dụng nên HH trao
đổi với nhau có giá trị khác nhau. Còn mục đích của lưu thông tư bản là
giá trị và giá trị lớn hơn nên số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra.
Với tư cách là tư bản, tiền vận động theo công thức: T - H - T', trong đó,
T' = T + t (t là số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra, gọi là giá trị thặng
dư).

Ngày nay, thị trường ngày càng mở rộng, khối lượng HH ngày
càng lớn, tiền được rút vào chức năng cất trữ, thanh toán… Tiền là sản
phẩm của lưu thông HH, đồng thời, cũng là hình thức biểu hiện đầu tiên
của tư bản. Trên thị trường tư bản được biểu hiện trước hết bằng một
lượng tiền nhất định, tuy nhiên không phải lúc nào tiền cũng là tư bản.

- T - H - T' (T' = T +m) là công thức vận động chung của tư bản,

vì tư bản dù ở hình thái cụ thể nào cũng đều tạo ra giá trị thặng dư.
- Về bản chất xã hội: tiền đóng vai trò là vật ngang giá, trao đổi
giữa người và người trên cơ sở thuận mua vừa bán

Tiền trong lưu thông HH giản đơn vận động theo công thức H - T

Còn tư bản thể hiện mối quan hệ bóc lột giữa người chủ và lao
động làm thuê, do chế độ quy định quyền tư hữu về TLSX

Tiền với tính cách là tư bản vận động theo công thức T-H-T'.

- Chức năng: tiền có 05 chức năng là thước đo giá trị, môi giới
trong lưu thông hàng hóa, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán và
chức năng tiền tệ quốc tế.

- H.
So sánh hai công thức lưu thông để phân biệt tiền và tư bản:
* Giống nhau: đều cấu thành bởi hai nhân tố hàng và tiền, đều
chứa đựng hai hành vi đối lập nhau là mua và bán, đều biểu hiện quan hệ
kinh tế giữa người mua và người bán.
* Khác nhau:

Còn TB có 01 chức năng duy nhất là vận động để tạo ra giá trị
thặng dư cho nhà TB
- Về cơ cấu:
Tư bản chia ra là TBCĐ- TBLĐ, TBBB-TBKB trong khi tiền thì
không có

- Lịch sử ra đời:
Tiền xuất hiện từ lâu cùng với hàng hóa (tiền bản chất cũng là

hàng hóa) trong khi TB xuất hiện từ tK XV-XVI
Tiền là hình thái đầu tiên để hình thành TB
Do sự phát triển của hình thái ngang giá (đơn nhất.. đến hình thái
cao nhất là tiền)
- Quá trình lưu thông:
- Lưu thông HH giản đơn bắt đầu bằng hành vi bán (H-T) và kết
thúc bằng hành vi mua (T-H). Điểm xuất phát và kết thúc của quá trình

3

Tóm lại, tiền chỉ trở thành tư bản khi tiền được chuyển thành HH
để thu được giá trị thặng dư. Vì vậy, trong quá trình tạo ra giá trị, và làm
tăng giá trị thì "tư bản là tiền, tư bản là HH".
Theo quan niệm của kinh tế cổ điển: tiền là vốn, đồng thời tiền
cũng là tư bản. Khi lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng
lên, sản phẩm thừa ngày càng nhiều, những người tổ chức sản xuất bán
hàng hóa và thu được một số tiền, số tiền nhàn rỗi này trở thành vốn, tư
bản khi người sở hữu nó ứng ra trước để mua tư liệu sản xuất và hàng
hóa sức lao động hay gọi là tổ chức sản xuất. Tuy nhiên, theo quan niệm

3


của kinh tế chính trị Mác - Lênin, để phân biệt vốn và tư bản dựa trên
mục đích và bản chất của việc sử dụng tiền nhàn rỗi: tiền là tư bản khi nó
mang yếu tố bóc lột giá trị thặng dư; tiền là vốn khi tiền được mang đi
đầu tư kinh doanh nói chung. Ngoài ra, vốn còn được hiểu là toàn bộ của
cải vật chất do con người tạo ra được tích lũy lại và những của cải của tự
nhiên như đất đai, khoáng sản…
Giá trị thặng dư do công nhân kao động làm thuê tạo ra bị nhà tư

bản chiếm đoạt nên tư bản là mối quan hệ giữa nhà tư bản với người lao
động làm thuê. Chính quy luật sản xuất giá trị thặng dư đã làm rõ bản
chất bóc lột của CNTB.
Để hiểu rõ bóc lột trong PTSX TBCN với các hình thức bóc lột
trong PTSX khác trong lịch sử, ta cần tìm hiểu điều kiện ra đời, phát
triển và đánh giá vai trò của PTSX TBCN
Hình thức sản xuất của một nền kinh tế là cách thức tổ chức của
nền kinh tế đó, trong lịch sử phát triển của XH loài người, có các hình
thức sản xuất: SX tự cung, tự cấp, SX mang tính hành chính và SXHH.
SXHH là sản xuất mà trong đó mọi hàng vi SX và trao đổi HH để thỏa
mãn những vấn đề cơ bản của con người, của XH. Nó tồn tại trong PTSX
chiếm hữu nô lệ, phong kiến và TBCN. Như vậy sự ra đời của SXHH
gắn liền với sự phân công lao động XH và sự tách biệt tương đối về kinh
tế giữa những người SXHH. Trong các PTSX nói trên đều dựa trên chế
độ tư hữu tư nhân về TLSX nhưng với tính chất và trình độ khác nhau.
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến, tổ chức SX chỉ
dưới hình thức giản đơn, nhỏ lẻ người trực tiếp SX ra HH là những nô lệ
hoặc những người nông dân không có TTSX, bị các chủ nô, địa chủ
cưỡng bức sức LĐ bóc lột bằng cách chiếm đoạt sản phẩm của họ làm ra
(CHNL) và bằng hình thức địa tô (Phong kiến).
LLSX phát triển, năng suất LĐ tăng cao, sản phẩm làm ra ngày
càng nhiều, nhu cầu về trao đổi HH càng lớn, trong quá trình trao đổi của
quy luật giá trị, sự biến động của giá cả, cạnh tranh đã làm phân hóa
những người sản xuất thành người giàu, trở thành ông chủ, những người
nghèo trở thành người làm thuê. Bên cạnh đó, quá trình tích lũy ban đầu
của TB bằng bạo lực đã tạo cho người giàu đủ điều kiện xây dựng nhà
máy, mua nguyên vật liệu và thuê công nhân SX với quy mô lớn hơn
nhằm thu lợi nhuận, PTSX TBCN được hình thành.

3

9

PTSX TBCN ra đời từ sự chuyển kinh tế HH giản đơn thành KT
HH TBCN, chúng phải có hai điều kiện: có sự tập trung một số tiền lớn
tay một số ít người đủ để lập các xí nghiệp, nhà máy; và có một số người
tự do, không có TLSX buộc phải bán sức LĐ cho nhà TB.
Mục đích của PTSX TBCN là tạo ra giá trị thặng dư thông qua
việc bóc lột sức LĐ của người công nhân làm thuê. Khác với các hình
thức bóc lột khác, bóc lột trong PTSX TBCN: bên bóc lột là nhà TB, bên
bị bóc lột là SLĐ của người công nhân làm thuê. Nhà TB mua được HH
đặc biệt là HH SLĐ, khai thác, sử dụng triệt để tạo ra giá trị lớn hơn nó,
mà người LĐ làm thuê không được hưởng để tái tạo SLĐ mà do TB
chiếm đoạt toàn bộ. Các hình thức bóc lột giá trị thặng dư:
- Tăng thời gian lao động tất yếu (tăng giờ làm, không tăng
lương).
- Tăng thời gian lao động thặng dư (tăng cường độ lao động).
- Rút ngắn thời gian lao động, hạ thấp tiền lương.
Tóm lại, PTSX TBCN có sự thống nhất giữa quá trình sản xuất
với quá trình lưu thông TB dựa trên cơ sở nền sản xuất đại công nghiệp
và chế độ tư hữu TBCN về TLSX. Điểm khác nhau cơ bản của PTSX
TBCN với các PTSX khác là ở tính chất, quy mô và trình độ tổ chức sản
xuất cũng như trình độ bóc lột giá trị thặng dư đối với sức lao động của
người công nhân làm thuê ở mức cao hơn, tinh vi hơn.
Bản chất của PTSX TBCN là bóc lột giá trị thặng dư, nhưng nó
cũng có ý nghĩa to lớn: giải phóng sức lao động, lần đầu tiên trong lịch
sử loài người SLĐ trở thành HH, người lao động được sở hữu SLĐ của
mình; tích lũy và tạo ra một khối lượng của cải vật chất khổng lồ cho xã
hội; kiểu tổ chức SX dựa trên nền SX đại công nghiệp, từ đó phát triển
đội ngũ công nhân có trình độ cao, tính kỷ luật; làm chủ được nền KHKT
hiện đại, nắm xu thế về vốn; tạo lập được thị trường thế giới thống nhất,

hình thành các tổ chức kinh tế, mạng lưới kinh doanh có hiệu quả. Là
điều kiện tiền đề cho sự ra đời của PTSX mới - PTSX cộng sản chủ
nghĩa.
Chứng minh: TB vừa sản xuất trong lưu thông vừa ngoài lưu
thông, vừa ngoài SX, vừa trong quá trình SX. Theo công thức lưu thông
T - H - T': hiểu theo nghĩa đơn giản: nhà TB ứng trước một lượng TB

4


nhất định để tổ chức SX rồi thu về một lượng TB lớn hơn trước. Xét cho
cùng TB vừa sinh ra trong lưu thông và ngoài lưu thông, vừa trong quá
trình SX vừa ngoài SX, cả 4 quá trình đều tạo ra giá trị thặng dư.
- Lưu thông: là quá trình trao đổi giữa mua và bán. Trong quá
trình trao đổi nếu ngang giá thì giá trị HH trước và sau khi mua - bán
không đổi; trong trường hợp trao đổi không ngang giá, giá trị cao hơn giá
trị sử dụng thì người bán có lãi, ngược lại thì người mua hưởng được lợi,
như vậy tổng giá trị XH không thay đổi. Do đó, lưu thông trong TB là
hình thức bóc lột, đầu cơ hoặc lợi dụng thị trường khan hiếm để nâng cao
giá trị thặng dư.
- Trong quá trình SX: bằng mọi hình thức, TB đều mang lại giá
trị thặng dư theo công thức: T' = T + t. T' có được chủ yếu nhờ vào sức
Lđ của công nhân làm thuê tại ra bị nhà TB chiếm đoạt.
Như vậy, trong SX giá trị thặng dư của nhà TB vừa tạo ra trong
SX, vừa tạo ra trong lưu thông. Nếu như tiền không đầu tư cho SX thì
không mang lại giá trị cao hơn, HH không tham gia quá trình lưu thông
thì không tạo ra được giá trị thặng dư.
Câu 9: Hãy phân biệt Sản phẩm và Hàng hóa? Điều kiện của
kinh tế hàng hóa? Ý nghĩa của việc nhận thức các điều kiện đó đối
với điều kiện kinh tế VN hiện nay.

Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn một nhu cầu
nào đó của con người và đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi mua bán.
Nhưng không phải bất kỳ vật phẩm nào cũng là hàng hóa. Những vật
phẩm tiêu dùng nhưng không thông qua trao đổi mua bán thì nó không
phải là hàng hóa. Thí dụ: thóc, ngô, khoai của nông dân làm ra nếu chỉ để
tiêu dùng cho bản thân họ thì không phải là hàng hóa, mà chỉ là sản
phẩm do lao động làm ra Mác chỉ ra rằng: không phải yếu tố vật chất
quyết định sản phẩm là hàng hóa, mà phải qua mua bán trao đổi. Cho
nên sản xuất hàng hóa và hàng hóa là phạm trù lịch sử. Vì trong lúc này
nó là hàng hóa, trong lúc khác nó không là hàng hóa. Sản phẩm do con
người làm ra với mục đích là chỉ để tiêu dùng nhưng không đem ra thị
trường trao đổi mua bán thì nó là hàng hóa. Những sản phẩm đem nộp tô
cũng không phải là hàng hóa.
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Đó cũng là
hai mặt chất và lượng của hàng hóa.

4

Giá trị sử dụng là công dụng, là tính có ích của hàng hóa giúp thỏa
mãn nhu cầu các của con người, của xã hội, có thể là nhu cầu cá nhân, có
thể là nhu cầu tiêu dùng trong sản xuất như máy móc, nguyên liệu … có
thể là nhu cầu vật chất hay tinh thần . Chính công dụng của vật phẩm đã
làm cho nó trở thành một giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng của vật phẩm
do thuộc tính tự nhiên của vật phẩm quy định. Xã hội loài người càng
phát triển thì càng phát hiện ra nhiều thuộc tính tự nhiên và tạo ra nhiều
loại giá trị sử dụng khác nhau. Căn cứ vào giá trị sử dụng, vào công dụng
có thể phân biệt được các loại hàng hóa khác nhau. Vì vậy, giá trị sử
dụng nói lên mặt chất của hàng hóa. Giá trị sử dụng xuất phát từ thuộc
tính cơ lý hóa tự nhiên của vật chất nên nó là một phạm trù vĩnh viễn.
Hàng hóa đem trao đổi sẽ có giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan

hệ tỷ lệ, tức là quan hệ về số lượng giữa những hàng hóa có giá trị sử
dụng khác nhau. Thí dụ: 1mét vãi đổi được 10kg thóc. Vải và thóc là hai
hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau, trao đổi được với nhau vì chúng
thuộc hai sở hữu khác nhau và họ cần đến sản phẩm của nhau. Chúng
trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định, vì chúng có cơ sở chung là:
đều là sản phẩm của lao động; kết tinh lượng hao phí lao động như nhau.
Cơ sở chung này được gọi là giá trị của hàng hóa.
Như vậy giá trị của hàng hóa là hao phí lao động xã hội của người
sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Nó biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội
của những người sản xuất hàng hóa và cho thấy thực chất của trao đổi
hàng hóa chính là trao đổi hao phí lao động cho nhau. Giá trị hàng hóa là
phạm trù lịch sử riêng có của sản phẩm hàng hóa.
Vậy, sản phẩm k hác với hàng hóa ở chỗ: sản phẩm chỉ có thuộc
tính giá trị sử dụng; còn hàng hóa có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá
trị kết tinh trong hàng hóa, hai thuộc tính này song song cùng tồn tại
trong một hàng hóa.
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng vì lao động
sản xuất có tính chất hai mặt. Hai mặt đó là: lao động cụ thể tạo ra giá trị
sử dụng của hàng hóa; lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.
Lao động cụ thể là lao động có ích, dưới một hình thức cụ thể của
những nghề nghiệp chuyên môn nhất định như: lao động của người thợ
xây, thợ mộc, thợ may.. kết quả của lao động cụ thể là tạo ra một công cụ
nhất định, tức là tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.

4


Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa biểu
hiện sự hao phí sức lao động của con người về cơ bắp, tinh thần… trong
quá trình lao động chung của con người không kể hình thức cụ thể của

nó như thế nào. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.
Lao động cụ thể và lao động trừu tượng là hai mặt vừa thống nhất
vừa mâu thuẫn của lao động sản xuất hàng hóa, chúng phản ảnh cơ bản
của sản xuất hàng hóa “lao động tư nhân mâu thuẫn với lao động xã hội”
Sự ra đời của sản xuất hàng hóa gắn liền với sự phát triển của phân
công lao động và trao đổi. Sản xuất hàng hóa nó tồn tại trong chế độ
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa. Trước
chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hóa giản đơn chiếm ưu thế, phổ biến, nó
tiếp tục tồn tại và phát triển trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Do đó hàng hóa và sản xuất hàng hóa là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất
hiện và tồn tại trong những điều kiện lịch sử như sau:
Một là có Sự phân công lao động xã hội. Sự phân công lao động xã
hội là sự phân chia lao động xã hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản
xuất , tạo nên sự chuyên môn hóa lao động. Do có sự phân công lao
động, mỗi người chỉ sản xuất một thứ hay vài thứ sản phẩm, nên người
sản xuất này phải dựa vào người sản xuất khác , phải trao đổi mua bán
sản phẩm của nhau. Tuy nhiên, trong mỗi công xưởng ngày nay, có sự
phân công lao động, nhưng không có sự trao đổi mua bán của nhau, nên
sản phẩm cũng không phải là hàng hóa. Chỉ có sản phẩm của lao động tư
nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như
những hàng hóa. Vậy sản xuất hàng hóa ra đời không phải chỉ có điều
kiện phân công lao động mà còn điều kiện thứ hai nữa.
Hai là, có sự tách biệt tương đối về kinh tế của những người sản
xuất hàng hóa: sự tách biệt này do lao động tư nhân độc lập và không
phụ thuộc vào nhau của những người sản xuất hàng hóa. Đó là sự tách
biệt do chế độ sở hữu quy định. Ngoài ra, sự tách biệt còn do chế độ sử
dụng, sự khác nhau giữa các loại lao động có ích với tư cách là công việc
của những chủ thể sản xuất độc lập, của những ngành nghề lao động
khác nhau. Trong những điều kiện đó khi muốn tiêu dùng sản phẩm của
nhau họ phải thông qua mua bán sản phẩm, tức là phải trao đổi dưới hình

thức hàng hóa, làm cho sản xuất hàng hóa ra đời.

4

Trong kinh tế hàng hóa giản đơn, người sản xuất trực tiếp là người
sở hữu tư liệu sản xuất, hoặc thuê tư liệu sản xuất để sản xuất, làm cho
sản xuất phát triển. Dưới sự trao đổi của quy luật giá trị, sự biến động
của giá cả, của cạnh tranh đã làm phân hóa những người sản xuất thành
người giàu, trở thành ông chủ, và những người nghèo trở thành người
làm thuê. Thêm vào đó, quá trình tích lũy ban đầu của tư bản bằng bạo
lực đã tạo thêm điều kiện để người giàu có đủ điều kiện để xây dựng nhà
máy, mua nguyên vật liệu và thuê công nhân sản xuất nhằm thu về lợi
nhuận, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được hình thành.
Như vậy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời từ sự
chuyển kinh tế hàng hóa giản đơn thành kinh tế hàng hóa tư bản chủ
nghĩa phải có hai điều kiện: có sự tập trung một số tiền lớn vào trong tất
yếu một số ít người đủ để lập ra các xí nghiệp; có một lớp người tự do,
không phải là nô lệ, họ không có tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao
động cho nhà tư bản.
Trong người sản xuất tư bản chủ nghĩa, người sản xuất trực tiếp là
những công nhân làm thuê, không phải là người sở hữu tư liệu sản xuất,
còn tư liệu sản xuất thuộc nhà tư bản, sản phẩm lao động do công nhân
làm thuê tạo ra thuộc về chủ sở hữu tư liệu sản xuất.
Đối với nước ta, trước đổi mới, chúng ta chưa nhận thức đúng hai
điều kiện của kinh tế hàng hóa, phân công lao động bất cập, còn đối xử
phân biệt giữa các hình thức sở hữu, có ích sở hữu tư nhân là đối tượng
cải tạo xã hội chủ nghĩa. Do đó làm cho kinh tế đất nước chậm phát triển.
Sang thời kỳ đổi mới, chúng ta đã làm tốt hai điều kiện trên, với
việc tổ chức phân công lại lao động xã hội , với việc thực hiện tốt đa
dạng hóa các hình thức sở hữu đang đóng góp tích cực cho người sản

xuất nước ta phát triển đi lên định hướng xã hội chủ nghĩa.
Có ý kiến nói kinh tế hàng hóa chỉ tồn tại và phát triển trong nền
kinh tế có chế độ tư hữu là chưa đúng và chưa đủ.
Kinh tế hàng hóa xuất hiện cùng với sự xuất hiện của chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế của xã hội loài
người. Song, nó tồn tại, phát triển và ngày càng hoàn thiện qua một số
phương thức sản xuất tiếp theo phát triển phổ biến nhất, phát triển cao
nhất trở thành hình thức sản xuất hàng hóa điển hình, nổi bật trong lịch
sử là trong giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa và nó tiếp tục tồn tại,

4


phát triển ngay dưới chế độ xã hội chủ nghĩa khi mà chế độ tư hữu đã
không còn thống trị, chế độ công hữu đã được hình thành củng cố và lớn
mạnh.
Tóm lại, chỉ đúng khi kinh tế hàng hóa mới ra đời. Nó không còn
đúng trong chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, vì kinh tế hàng hóa không
những tồn tại trong chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội, nó vẫn
tồn tại và hoàn thiện cao hơn. Vì vậy, câu này không đúng và không đủ.
Ngày nay ở việt nam ta cũng phải áp dụng nền KT SX hàng hóa trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa XH.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa XH ở việt nam sự tồn tại của
SX hàng hóa là một tất yếu khách quan, với những lợi thế về phát triển
hàng hóa đối với nước ta là một nhiệm vụ KT cấp bách để chuyển nền
KT lạc hậu thành nền KT hiện đại, hội nhập với sự phân công lao động
quốc tế, đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng SX, để thực
hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Thực tiễn những năm đổi mới đã cho chúng ta thấy việc chuyển
sang mô hình KT hàng hóa là đúng đắn, nhờ mô hình này mà chúng ta đã

khai thác được tiềm năng trong nước thu hút được đầu tư nước ngoài,
giải phóng được năng lực SX trong XH , phát triển lực lượng SX .
Theo Mác thì SX hàng hóa chỉ tồn tại trong một số phương thức
XH gắn với những điều kiện lịch sử nhất định. Vì vậy đến thời đại cộng
sản chủ nghĩa lực lượng SX vô cùng lớn mạnh, năng lực SX vô cùng dồi
dào lúc này sản phẩm làm ra không phải đi trao đổi mua bán, chế độ sở
hữu tư liệu SX của tư nhân không còn, lúc này con người làm việc theo
năng lực hưởng theo nhu cầu thì không còn nền KT SX hàng hóa.
BÀI TẬP MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ-PHẦN TBCN
Bài 1a. Một hãng có tổng tư bản 100 triệu trong đó TB cố định là 60 triệu. Biết tốc
độ chu chuyển giá trị là 4,92v/ năm và thời gian chu chuyển TB cố định 5 năm. Hãy
tính:
-Thời gian chu chuyển TB lưu động ?
-Chi phí về TB thực tế của hãng trong năm ?
Giải
1/ Thời gian chu chuyển của TB lưu động
Theo công thức K=c+v. Tính được TBLĐ
v=K-c = 100.000.000 – 60.000.000 = 40.000.000
Giá trị chu chuyển của TBCĐ một năm = tổng TBCĐ / thời gian chu chuyển
của TBCĐ
60.000.000
=--------------- = 12.000.000

5

Từ công thức tính tốcđộ chu chuyển của TB
giá trị CC TBCĐ một năm + giá trị CC
TBLĐ một năm
n= --------------------------------------------------------Tổng tư bản ứng trước
Ta có:

12.000.000 + GTCC TBLĐ 1 năm
4,92=------------------------------------------100.000.000
èGTCCTBLĐ=(4.92x100.000.000)-12.000.000
= 48.000.000
Giá trị chu chuyển tư bản lưu động trong năm là 48.000.000
Từ công thức, tính tốc độ chu chuyển của TBLĐ:
GTCC TBLĐ
480.000.000
N=------------------ = ------------------=12 vòng/năm
TBLĐ
40.000.000
Từ công thức tính thời gian chu chuyển của TBLĐ:
CH
12
n = ------ = -------= 1 tháng/vòng
ch
12
Vậy thời gian chu chuyển của TBLĐ là 1 vòng/năm.
2/Chi phí sản xuất của TB đó trong năm:
Chi phí SX thực tế trong năm của hãng là giá trị chu chuyển một năm của
TBCĐ cộng với giá trị chu chuyển một vòng của TBCĐ hoặc tổng TB ứng trước trừ đi
giá trị còn lại của TBCĐ trong năm đó:
12.000.000 + 40.000.000 = 52.000.000
hoặc: 100.000.000 – (60.000.000 – 12.000.000) = 52.000.000
Vậy, chi phí sản xuất của TB đó trong năm là 52.000.00
Bài 1b. Xác định chi phí tư bản trong năm và thời gian chuyển của TBLĐ khi biết:
tổng tư bản ứng trước là 400 triệu USD (tốc độ chu chuyển 2,14 vòng/năm); tư bản cố
định là 160 triệu USD (sử dụng 10 năm).
Bài làm
- Tính chi phí tư bản trong năm (tư bản tiêu dùng trong năm):

Với N là tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng trước. Ta có:
Chi phí TB trong năm
N = --------------------------Tổng TB ứng trước
Suy ra:
Chi phí TB trong năm = Tổng TB ứng trước x N
= 400 triệu x 2,14 = 856 triệu USD.
- Tính thời gian chu chuyển của tư bản lưu động (ch):
Giá trị chu chuyển của TBCĐ trong năm:
1
GccTBCĐ = GTBCĐ X nTBCĐ = 160 triệu x ----- =16 triệu USD.
10
Giá trị chu chuyển của TBLĐ trong năm (GccTBLĐ):
GccTBLĐ = Chi phí TB trong năm - GccTBCĐ
= 856 triệu – 16 triệu = 840 triệu USD.
Giá trị tư bản lưu động (GTBLĐ).
GTBLĐ = Tổng tư bản ứng trước - GTBCĐ
= 400 triệu – 160 triệu = 240 triệu USD.
Tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động (nTBLĐ)
GTBLĐ
840 triệu
nTBLĐ = ---------- = --------------- = 3,5 vòng/năm


GccTBLĐ
240 triệu
Từ công thức:
CH
CH
12
nTBLĐ = -------- ; suy ra ch = --------- = ------- = 3,4 tháng/vòng

ch
nTBLĐ
3,5
Vậy, thời gian chu chuyển của TBLĐ = 3,4 tháng/vòng, tương đương 104
ngày/vòng.
Bài 2 : Một hãng đầu tư và hoạt động theo luật Việt Nam. Có cấu tạo hữu cơ
là 9/1 (giả thiết giá trị cố định khấu hao hết trong năm)
- Để có thể tăng tỷ suất lợi nhuận của hãng từ 10% lên 20%. Hãng phải sử
dụng phương pháp gì để không vi phạm luật lao động hiện hành.
- Hãy tính cơ cấu thời gian một ngày lao động của hãng trước và sau khi tỷ
suất lợi nhuận tăng lên.
- Giả thiết tình hình kinh của hãng ổn định, hãy tính lợi nhuận của hãng
trong năm sau khi tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Biết rằng chi phí thuê CN
là 10USD/ngày, số CN là 1.000, thời gian làm việc trong năm 300 ngày, tỷ suất
lợi nhuận cho vay 6%.
BÀI TOÁN 2 : Một TB có cấu tạo hữu cơ 9/1. Muốn tăng tỷ suất lợi nhuận
từ 10% lên 20% mà không vi phạm luật lao động 8 giờ/ ngày ở Việt Nam
hiện nay. Nhà TB phải dùng phương pháp gì. Hãy tính cơ cấu thời gian của
ngày lao động trong trường hợp đó.
Bài làm
1. Cấu tạo hữu cơ C/V = 9/1.
Thời gian làm làm việc: 8 giờ / ngày.
Tỷ suất lợi nhuận P’ = 10%.
Yêu cầu: Khi lợi nhuận tăng 20% ( P’ = 20% ). Tính lại cơ cấu thời gian trong ngày là
việc, tức là tính thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư.
Vì phải giữ nguyên thời gian lao động theo đúng luật lao động của Việt Nam ngày
làm việc 8 giờ nên nhà tư bản muốn đạt được lợi nhuận 20% thì phải bằng cách nâng
giá trị thặng dư tương đối ( tức là tìm cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu).
2. Theo công thức m’ = m/V ( 100%).
Theo đầu bài P’ = 10%.

Mà P’ = m’/ ( C/V +1) = m’/ (9/1 + 1) = 10%
(Công thức 1)
Vậy m’ = 10% x (9/1 + 1) = 100%
Tức là khi P’ = 10% thì giá trị thặng dư ( m’ ) là 100%,
Ta có m’ = t’/tty = 100%
Suy ra ta có t’ = tty ( thời gian lao động thặng dư bằng thời gian lao động tất yếu).
Như vậy khi P’ = 10% thì thời gian làm việc 8 giờ / ngày sẽ có cơ cấu thời gian làm
việc là 4 giờ lao động tất yếu và 4 giờ lao động thặng dư.
Khi P’ = 20% thay vào công thức 1 ta có:
P’ = m’/ ( C/V +1) = m’/ (9/1 + 1) = 20%
Vậy m’ = 20% x (9/1 + 1) = 200%
Tức là khi P’ = 20% thì giá trị thặng dư ( m’ ) là 200%,
Ta có m’ = t’/tty = 200%
Suy ra ta có t’ = 2tty ( thời gian lao động thặng dư bằng 2 lần thời gian lao động tất
yếu).
Ta có hệ phương trình:
t’ = 2tty
t’ + tty = 8 giờ.
Suy tty = 8 giờ /3 = 2 giờ 40 phút.
T’ = 8 giờ – 2 giờ 40 phút = 5 giờ 20 phút.

Đáp so : Để tạo ra lợi nhuận 20% thì nhà tư bản phải rút ngắn thời gian lao động
tất yếu còn 2 giờ 40 phút và tăng thời gian lao động thặng dư lên 5 giờ 20 phút.
3. Tính lợi nhuận doanh nghiệp của hãng
v=10USD/người/ngy x 1.000 người x 300 ngy = 3.000.000 USD.
Cấu tạo hữu cơ c/v=9/1 thì c=9v=9x3.000.000 USD = 27.000.000 USD.
Vậy K=c+v = 30.000.000 USD
Lợi nhuận của doanh nghiệp :
P’ = P/K, suy ra : P=P’xK = 20%x30.000.000 USD = 6.000.000 USD.
Do nh tư bản phải vay với lợi tức 6%/năm :

30.000.000 USD x 6% = 1.800.000 USD.
Suy ra : P = 6.000.000 USD – 1.800.000 USD = 4.200.000 USD
Vậy lợi nhuận của DN thu được trong năm 4.200.000 USD
Bài 4 : Một hảng dệt thuê 2.000 công nhân, tiền thuê 1 người là 10 USD/1 ngày
công. Nếu cứ 1 giờ sản xuất, công nhân tạo ra được 1 giá trị mới là 5 USD trong hàng
hóa, do đó tỷ suất GTTD của hãng là 300%
a. Hãy tính độ dài chung của ngày công lao động.
b. Hãy tính thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư
trong 1 ngày sản xuất của hãng.
c. Cho biết khối lượng GTTD (M) một ngày của hãng là bao nhiêu khi
tỷ suất GTTD tăng lên 1/3, trong khi giá cả sức lao động không thay đổi?
Để có được điều kiện đó, hãng áp dụng phương pháp gì?
Bài làm
1/- Xác định thời gian ngày lao động:
Ta có:
v của DN 1 ngày = 10USD x 2000 CN
= 20.000USD
v của doanh nghiệp 1 giờ xác định như sau:
* v của 1 CN 1 giờ được xác định theo công thức: v + m = 5USD (1)
m’ = m/v * 100%
Mà trong đó: m/v = 300% = 3 => m = 3v (2)
Thay (2) vào (1) ta có: v + 3v = 5 USD
4v = 5 USD => v = 5/4 = 1,25 USD
* v của doanh nghiệp 1 giờ là:
1,25 USD x 2000 CN = 2500USD
Vậy thời gian ngày lao động của doanh nghiệp là: 20.000/2500 = 8 giờ.
2/- Xác định thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư:
Nếu gọi thời gian lao động tất yếu là tv;
Thời gian lao động thặng dư là tm.
Ta có: tm/tv*100% = 300% => tm = 3tv (3).

Mặt khác: tm + tv = 8 (4)
Thay (3) vào (4), ta có:
T = 3tv + tv = 8 => 4tv = 8 => tv = 8/4 = 2h (5)
Thay (5) vào (4), ta có:
T = tm + 2 = 8 => tm = 8 – 2 = 6 giờ
3/- Khi tỷ suất giá trị tăng 1/3, thì ta có giá trị thặng dư lao động ký
hiệu m1’
m1’ = (m’ x 1/3) + m’
= (300% x 1/3) + 300% = 400%
Vậy khối lượng giá trị thặng dư của hãng khi tăng 1/3: M = m1’ x v = 400%
x 20.000USD (400% x 2000 CN x 10 USD) = 80.000 USD
Xác định phương pháp sx giá trị thặng dư:
Có hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đó là: phương pháp tuyệt đối
và phương pháp tương đối.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là kéo dài thời gian ngày
lao động vượt quá tv.


- Phương pháp xác định giá trị thặng dư tương đối là rút ngắn tv, do đó làm
thời gian thặng dư tăng
Ở đây khi m’ = 300% thì tv = 2 giờ.
Nếu m’ tăng thêm 1/3, tức m’ = 400%, trong trường hợp này tv sẽ là:
tm/tv = 400% = 4 => tm = 4tv
ta có tm = tv = 8 giờ (4)
Thay vào (4), ta có:
4tv + tv = 8 => 5tv = 8 => tv = 8/5 = 1 giờ 36 phút.
Như vậy tv giảm từ 2 giờ còn 1 giờ 36 phút, do đó việc tăng m’ lên 1/3
thì nhà TB sử dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Bài 3: Một doanh nghiệp đầu tư vào Việt nam có số CN làm việc 2000 người, với
năng xuất làm việc như hiện nay thì chỉ cần 4 giờ để tạo ra được lượng giá trị tiên

công là 60.000 đ. Giả thuyết DN hoạt động theo luật Việt nam. Hãy tính 1 ngày sản
xuất của DN :
- Thời gian lao động thặng dư và tỷ suất giá trị thăng dư
- Khối lượng giá trị thặng dư
- Nếu chi phí vật liệu (c2) gấp đôi chi phí tiền công của công nhân thì vốn lưu động
cho một ngày sản xuất là bao nhiêu?
1. Xác định thời gian lao động thặng dư và tỷ suất giá trị thặng dư
Theo đề bài doanh nghiệp trả lương mỗi công nhân 60.000/ 1 ngày ( 8h). Nhưng trong thực tế
chỉ cần 4h 1 người công nhân đã tạo ra được lượng giá trị tiền công 60.000.
Gọi :
t : Thời gian lao động tất yếu
t’ : thời gian lao động thặng dư
m’ : tỷ suất giá trị thặng dư
Ta có :
Thời gian làm việc theo luật Việt nam : 8h /ngày
Thời gian lao động thặng dư :
t’ = 8 – t = 8 t'
4
Tỷ suất giá trị thặng dư : m’= ----= ------------ = 100%
t
4
2. Khối lượng giá trị thặng dư :
Khối lượng giá trị thặng dư tùy thuộc và 2 yếu tố :
- Tỷ suất giá trị thặng dư : m’
- Tổng tư bản khả biến được sử dụng trong thời gian trên : V
Với V : số lượng công nhân trong doanh nghiệp : V= 2000
Khối lượng giá trị thặng dư :
M= m’ x V = 100% x 2000x60.000 = 120.000.000 đ
3. Vốn lưu động cho một ngày sản xuất :
Gọi :

T1 : Chi phí tiền công của 2000 công nhân
T2 : Chi phí vật liệu
Chi phí thực tế tiền công của công nhân là 120.000.000 trong đó doanh nghiệp thu lợi nhuận 100%.
Như vậy khi chi phí vật liệu gấp đôi chi phí tiền công tức là :
T2 = 2T1 = 2 x 120.000.000 = 240.000.000
Tổng chi phí sản xuất :
T =T1 + T2 = 120.000.000 + 240.000.000 = 360.000.000đ
Ví dụ: 1 TB có th gian chu chuyển 9 tuần gồm:5 tuần sx, 4 tuần lưu thông. quy mô sx đòi hỏi 1
llượng TB cho 5 tuần sx là: 100x5=500. nhưg sau đó sphẩm phảI qua 4 tuần lưu thông, do vậy 100x4 = 400
=> 500+ 400 = 900. nếu rút xuống còn 8 tuần thì => 100x8 = 800. tiết kiệm đc 100.
Giả sử TB lưu động nếu sử 900 thì 900:8= 112, 5 chứ ko phảI là 100.

Cuối cùng, đối với TB khả biến, việc tăg tốc độ chu chuyển có ảnh hưởng trực tiếp tới việc làm.
ví dụ: có 2 tư bản A và B đều có lượng TB khả biến cho mỗi tuần sx là 100. m’= 100% khác nhau th gian chu
chuyển A là 5 tuần, B là 50 tuần để sx liên tục A cần 100x 5= 500; B cần 100x50 = 5000. cùng m’= 100 sau 5
tuần tư bản A tạo ra gtrị thặng dư: 5x100= 500 => 50 tuần tạo ra 100x50= 5000. nhưg luôn luôn cần 1 lượg
TB khả biến ứng trước là 500. còn tư bản B sau 50 tuần 100x50 = 5000. cần TB khả biến là 5000. chúg ta gọi
tỷ suất thặng dư hàng năm ( M’) là tỷ lệ tính bằng % khối lượng hàng năm ( M) TB khả biến ứng trước là V.
Ta có M’ = M:Vx100 % = M x W: V x100% = m’. n
Trong đó m’ là gtrị thặng dư tạo ra trong 1 vòng chu chuyển
m/v : tỷ suất gtrị thặng dư; V: số vòng chu chuyển trong năm ở tư bản A, tỷ suất gtrị thặng dư:
M’= 5000/500 x100% = 1000%( 1000x10 vòng)

3

Tư bản B: M’= 5000/5000x100% = 100% ( 100%x 1 vòng).
Như vậy, mặc dù có tỷ suất gtrị thặng dư (M’) phản ánh trình độ bóc lột ở 2 tư bản A và B như
nhau, nhưg tỷ suất gtrị thặng dư hàng năm ( M’) phản anh hiệu quả hoạt động của 2 TB đó lại khác nhau. bỡi
vậy việc lựa chọn ngành có th gian chu chuyển là 1 trong nhữg biện pháp để nâng cao hiệu quả sdụg vốn của
các doanh nghiệp.

Giải thích mâu thuẫn: cấu tạo hữu cơ tăg lên là nguyên nhân làm cho tỷ suất lợi nhuận giảm. cấu
tạo hữu cơ của TB là tỷ số về gtrị giữa TB bất biến với TB khả biến, phản ánh cấu tạo hữu cơ kỹ thuật của
TB, tức tỷ số giữa khối lượng TLSX. Sự thay đổi của cấu tạo hữu cơ của TB có ảnh hưởng:
-nếu m’ là đại lượng ko đổi thì P’ vận động ngược chiều
-nếu c/v là 1000/1000 thì v’ là 1000/2000 = 50%
-nếu C/V là 4000/1000 thì P’ là 1000/5000 = 20%
Với m’ = 100% nếu cấu tạo hữu cơ TB (C/V) tăg từ 1/1 lên 4/1 thì p’ giảm 20%.
Ví dụ : 6000 C + 4000 V + 4000 m => p’ = 40% và P = 400
17. 600 C + 4. 400 V + 4. 400 m => p= 20% và P = 44
Tóm lại cấu tạo hữu cơ của TB tăg lên, 1 mặt làm cho p’ giảm, mặt khác lại làm cho khối lượng
lợi nhuận tăg lên. Mác gọi đó là hình thức hai mặt của quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm.
TÓM TẮT CÔNG THỨC
1/- Công thức tỷ suất giá trị thặng dư: (m’)
m
m’ = ----- * 100%
(%)
v
Nếu có:
tv : thời gian tất yếu.
tm : thời gian thặng dư.
Thì ta có:
tm
m
---- = ----(2)
tv
v
tm
Từ (1) và (2) è m’ = ----- * 100%
tv
2/- Công thức tỷ suất lợi nhuận: (p’).

m
p’ = -------(3)
c+v

(1)

(%)
m : giá trị thặng dư.
c : TLSX (tư bản bất biến)
v : sức lao động (tư bản khả biến)


×