Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Mở cửa thị trường tài chính việt nam những lợi ích và rủi ro khi tham gia thị trường tài chính quốc tế (tự do hóa tài chính) của việt nam – minh họa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.6 KB, 22 trang )

Mục lục
Mở đầu......................................................................................................................................................................... 2
Nội dung....................................................................................................................................................................... 3

1. Khái niệm và thực trạng của tự do hóa tài chính tại Việt Nam.........................................3
1.1. Khái niệm...........................................................................................................................3
1.2. Phân loại............................................................................................................................. 3
1.3. Bản chất của tự do hóa tài chính.......................................................................................3
1.4. Quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam............................................................................4
1.4.1. Lãi suất ở thời kỳ thực thi cơ chế quản lý nền kinh tế theo phương thức quản lý kế hoạch
hóa tập trung (trước năm 1998).................................................................................................4
1.4.2. Lãi suất thời kỳ nền kinh tế bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước (từ năm 1988 đến 2006)..................4
1.5. Tình hình hạ mặt bằng lãi suất hiện nay...........................................................................5
2. Lợi ích và rủi ro của tiến trình tự do hóa tài chính............................................................6
2.1. Lợi ích của tiến trình tự do hóa tài chính..........................................................................6
2.2. Rủi ro của tiến trình tự do hóa tài chính...........................................................................9
2.2.1. Những rủi ro từ việc giảm thiểu sự can thiệp nhà nước....................................................9
2.2.2. Tác động tiêu cực của việc rửa tiền..................................................................................9
2.2.3. Tự do hóa có thể làm tăng khả năng xảy ra khủng hoảng tài chính...............................10
3. Ví dụ minh họa cụ thể - Ngành bảo hiểm của Việt Nam..................................................12
3.1. Các cam kết mở cửa của Việt Nam trong lĩnh vực hoạt động KDBH và nhận định ban
đầu về tác động của nó tới thị trường bảo hiểm Việt Nam.....................................................12
3.1.1. Cam kết cung cấp dịch vụ qua biên giới.........................................................................12
3.1.2. Các cam kết hiện diện thương mại.................................................................................13
3.1.3. Cam kết liên quan đến kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc................................13
3.1.4. Cam kết xoả bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc sau 1 năm...................................................14
3.2. Những thành tựu và hạn chế...........................................................................................14
3.2.1. Những thành tựu............................................................................................................. 14
3.2.2. Những vấn đề còn tồn tại................................................................................................20
3.2.3. Các giải pháp nhằm nâng cao năng lực của các doanh nghiệp bảo hiểm trong thời gian


tới............................................................................................................................................. 21

1


Mở đầu
Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã có nhiều cố gắng chủ động hội nhập tài chính và từng
bước thực hiện tự do hóa tài chính. Trước hết là việc thiết lập các mối quan hệ tài chính với các
tổ chức tài chính - tiền tệ thế giới như: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB);
thành viên chính thức của hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, ASEAN, tham gia các diễn đàn
kinh tế: Diễn đàn Á - Âu, Diễn đàn kinh tế châu Á - Thái Bình Dương APEC, tham gia khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)... gần đây nhất là thành viên của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO).
Tự do hóa tài chính không chỉ là yêu cầu bắt buộc để có thể tham gia sân chơi thế giới mà
còn là xu thế tất yếu của hội nhập kinh tế bởi những lợi ích vô cùng to lớn mà nó mang lại cho
các quốc gia. Quá trình tự do hóa tài chính sẽ giúp tạo ra một môi trường minh bạch, linh hoạt
và hiệu quả cho hệ thống tài chính, thu hút đầu tư, kích thích sự cạnh tranh lành mạnh, mang
lại động lực phát triển, khả năng tiếp cận công nghệ mới cho các tổ chức tài chính trong nước
cũng như cơ hội sử dụng các dịch vụ tài chính đa dạng, chất lượng cao.
Tuy nhiên, là một nước đang phát triển, ngoài những lợi ích nhận được khi tự do hóa tài
chính, Việt Nam cũng phải đối mặt với các rủi ro và thách thức không nhỏ do quá trình này
mang lại, như là việc tiếp nhận những khoản đầu tư có rủi ro cao, nguy cơ rút vốn ào ạt ra nước
ngoài hay nguy cơ vỡ nợ do sử dụng tiền vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn…
Để tìm hiểu rõ hơn về các lợi ích và rủi ro Việt Nam có thể gặp phải trong tiến trình tự do
hóa tài chính, nhóm em xin nghiên cứu đề tài “Mở cửa thị trường tài chính Việt Nam:
Những lợi ích và rủi ro khi tham gia thị trường tài chính quốc tế (tự do hóa tài chính) của
Việt Nam – minh họa tình huống hay sự kiện cụ thể”.

2



Nội dung
1. Khái niệm và thực trạng của tự do hóa tài chính tại Việt Nam
1.1. Khái niệm
Tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm soát của Nhà
nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống này hoạt động tự do
hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường.
1.2. Phân loại
Theo chiều dọc, có thể phân loại tự do hóa tài chính thành tự do hóa thị trường vốn và tự do
hóa thị trường tiền tệ. Nội dung cơ bản của tự do hóa tài chính theo chiều dọc bao gồm: Tự do
hóa lãi suất, tự do hóa hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại (NHTM), tự do hóa
hoạt động ngoại hối, tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính.
Theo chiều ngang, tự do hóa tài chính bao gồm tự do hóa tài chính trong nước và tự do hóa
tài chính với nước ngoài. Tự do hóa tài chính trong nước là cho phép các tổ chức tài chính
trong nước tự do thực hiện các dịch vụ tài chính theo nguyên tắc thị trường, các thị trường tài
chính trong nước được khuyến khích phát triển, các công cụ chính sách tiền tệ được điều hành
theo tín hiệu thị trường. Tự do hóa tài chính với nước ngoài bao gồm tự do hóa giao dịch vãng
lai và tự do hóa giao dịch vốn.
Theo công cụ thị trường, bao gồm tự do hóa thị trường sơ cấp, tự do hóa thị trường thứ cấp
và tự do hóa thị trường tài chính phái sinh.
1.3. Bản chất của tự do hóa tài chính
Có thể nói, bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại vốn có
của thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ chính phủ sang thị trường, mục tiêu là tìm
ra sự phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong việc thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ kinh tế – xã hội. Do đó, kết quả của tự do hóa tài chính thường được thể hiện bằng tỷ
số giữa tiền mở rộng (tiền mặt và tiền gửi trong hệ thống NHTM) trên thu nhập quốc dân.
Hạt nhân của tự do hóa tài chính là tự do hóa lãi suất và cần thiết phải kiểm soát quá trình tự
do hóa lãi suất. Tự do hóa lãi suất là một bộ phận quan trọng của tự do hóa tài chính, thực chất
của tự do hóa lãi suất chính là cơ chế điều hành lãi suất hoàn toàn để cho cung cầu vốn trên thị
trường xác định lãi suất cân bằng. Ngân hàng trung ương chỉ can thiệp bằng các công cụ để

điều chỉnh theo định hướng mà thôi. Hay nói cách khác: Tự do hóa lãi suất là việc trao cho thị
trường vốn toàn bộ việc xác định lãi suất cân bằng, ngân hàng trung ương chỉ sử dụng các
công cụ can thiệp một cách gián tiếp để điều chỉnh cho phù hợp chiến lược và mục tiêu đặt ra
trong từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.

3


1.4. Quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam
Quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam, chính là quá trình điều hành cơ chế lãi suất qua các
thời kỳ phát triển của nền kinh tế, quá trình đó được thể hiện như sau:
1.4.1. Lãi suất ở thời kỳ thực thi cơ chế quản lý nền kinh tế theo phương thức quản lý kế hoạch
hóa tập trung (trước năm 1998)
Đặc trưng cơ bản của lãi suất thời kỳ thực thi chế độ quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung kéo dài, đó là áp dụng chính sách lãi suất bao cấp khá nặng nề, lãi suất
đựơc xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới. Dẫn đến lãi suất thực thi trong thời kỳ
này với tình trạng “lãi giả và lỗ thật” làm cho ngân hàng không thể bảo toàn vốn của mình do
lạm phát tăng cao và lãi suất thực là số âm, vì tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa.
1.4.2. Lãi suất thời kỳ nền kinh tế bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước (từ năm 1988 đến 2006)
Bước ngoặt trong tiến trình đổi mới, cải cách nền kinh tế Việt Nam trong lĩnh vực ngân
hàng bắt đầu bằng Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ
tướng Chính phủ). Nghị định này chính là tiền đề cho hai pháp lệnh về NHNN và pháp lệnh về
ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày 23/05/1989 của Hội đồng nhà nước.
Hai pháp lệnh này có nội dung chủ yếu: Xóa hẳn mô hình ngân hàng một cấp và xây dựng mô
hình ngân hàng hai cấp phù hợp với mô hình của ngân hàng các nước có nền kinh tế thị trường
phát triển. Trong đó NHNN Việt Nam thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng, quản
lý hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế,
còn ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, thực hiện chức năng kinh doanh trực tiếp về
lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng trong nền kinh tế. Từ Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực

1.10.1990, đến ngày 1.10.1998 Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng ra đời
và có hiệu lực cho đến nay đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động kinh doanh
của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế.
Nhìn lại diễn biến của chính sách lãi suất qua từng thời kỳ, chúng ta thấy những bước phát
triển của mỗi thời kỳ tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế.
a. Cơ chế thức thi chính sách lãi suất cố định (1989-5/1992)
Đây là cơ chế lãi suất đã có từ trước nhưng có sự thay đổi căn bản, theo nguyên tắc của việc
xác định lãi suất là: Bảo toàn được vốn và có lãi, được áp dụng ở các doanh nghiệp của các
thành phần kinh tế. Cơ chế lãi suất này được điều chỉnh theo biến động của chỉ số giá, đặc biệt
là lãi suất ngoại tệ được áp dụng theo mức lãi suất của thị trường tiền tệ quốc tế. Thực tế vận
hành trong một thời gian (1989-1992), cơ chế lãi suất thời kỳ này đã bắt đầu phát huy tác dụng,
là bước chuyển của cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương.
b. Cơ chế điều hành khung lãi suất (6/1992-1995)
Đặc trưng của cơ chế này là NHNN điều hành cơ chế lãi suất theo khung lãi suất, quy định
rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại,
các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi suất của ngân hàng thương mại để đưa ra các lãi suất
4


thích hợp cho mình, thực chất là bước chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi
suất dương, đây là cơ chế lãi suất khởi đầu cho quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.
c. Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996-7/2000)
Nét cơ bản của cơ chế điều hành trần lãi suất, đó là NHNN đã thay đổi căn bản cơ chế điều
hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu đã thực hiện tự do hóa lãi suất huy động (lãi suất đầu vào
của ngân hàng thương mại) và linh hoạt trần lãi suất cho vay (lãi suất đầu ra).
d. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (8/2000-5/2002)
Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ là Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân hàng để thay thế cho cơ chế lãi suất trần.
Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trường hợp cần thiết, NHNN sẽ
công bố điều chỉnh kịp thời.

Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín
dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong
nước của từng loại ngoại tệ. Theo cơ chế lãi suất này cho thấy NHNN Việt Nam đã quyết tâm
đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị
trường khu vực và thế giới.
e. Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6/2002 – 2006)
Trong thực tế, cơ chế lãi suất này được NHNN chuyển đổi từng bước bắt đầu từ tháng 5
năm 2001 áp dụng cho hình thức vay bằng ngoại tệ, tiếp theo tháng 5 năm 2002 là áp dụng cơ
chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng trong nước. Trong năm 2008, NHNN Việt
Nam đã tăng lãi suất cơ bản 3 lần và tới thời điểm tháng 6 năm 2008, mức lãi suất đang là
14%, mức cao nhất ở Châu Á, từ mức 12% trước đó. NHNN cũng giảm giá đồng VND 2%
trong tháng này nhằm giải tỏa áp lực đối với đồng tiền trong nước.
Có thể nói quá trình đổi mới cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở Việt Nam từ khi có mô
hình ngân hàng hai cấp (1988) đến nay đã trải qua năm bước chuyển đổi căn bản, đó là những
bước đi khá thận trọng và khẳng định xu hướng tất yếu của quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt
Nam.
1.5. Tình hình hạ mặt bằng lãi suất hiện nay
Theo ông Vũ Viết Ngoạn, Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia cho rằng, đối với
những khoản cho vay ngoài nhóm ưu đãi (nông nghiệp, xuất khẩu…), mặt bằng lãi suất hiện
khoảng 20%, nếu kiềm chế được tốc độ lạm phát ở mức 9% như mục tiêu Chính phủ đặt ra, thì
năm 2012 hoàn toàn có thể giảm mặt bằng lãi suất cho vay thêm 4 điểm phần trăm so với hiện
nay, tức là 15 - 16%/năm. Thậm chí, nếu tiếp tục thực hiện quyết liệt các biện pháp được đặt ra
trong Nghị quyết 11/NQ-CP năm 2011 về các biện pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô, thì hoàn toàn có thể hạ lãi suất cho vay xuống mức 13 - 14%/năm.
Giả sử năm 2012, tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng là 9%, ngân hàng huy động tiền gửi
khoảng 10,5%/năm, thì người gửi tiền cũng đã có lợi, vì ngân hàng bảo đảm được lãi suất thực
dương. Thông thường, ngân hàng mất khoảng 2,5% chi phí cho hoạt động huy động và cho
5



vay, nếu ngân hàng chỉ lấy lợi nhuận 1 - 2%, thì mức lãi suất cho vay 14 - 15%/năm là hoàn
toàn phù hợp. Như vậy, người gửi tiền có lợi, ngân hàng có lợi, người vay vốn cũng có lợi và
nền kinh tế được hưởng lợi rất nhiều, bởi khi chi phí vốn giảm sẽ kích thích đầu tư, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, tăng thu ngân sách, tạo thêm việc làm.
Ông Nguyễn Văn Bình, Thống đốc NHNN Việt Nam, cho biết việc công bố hạ lãi suất của
NHNN diễn ra đúng kịch bản đã có trước đó, không phải chịu áp lực từ bất kỳ sự tác động nào.
Những biện pháp NHNN đang làm đối với hệ thống sẽ tạo ra sự vững chắc cho thị trường, tạo
chuyển biến tích cực, giảm mặt bằng lãi suất, khi đó, các nhà đầu tư sẽ chuyển sang đầu tư cho
chứng khoán, tạo điều kiện cho thị trường này phát triển.
Mặc dù đưa ra dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới khác nhau, nhưng hầu hết các tổ
chức tài chính quốc tế đều có chung nhận định rằng, tình hình kinh tế thế giới năm nay ảm đạm
hơn năm 2011. Tốc độ tăng GDP thế giới năm nay được dự báo ở mức 2,4 - 3,2%, thấp hơn
đáng kể so với tốc độ tăng trưởng 4% trong năm 2011. Tốc độ tăng trưởng GDP giảm, nhu cầu
về nguyên, nhiên, vật liệu giảm sẽ kéo theo giá hàng hoá, đặc biệt là nguyên vật liệu trên thị
trường thế giới (ngoại trừ giá dầu mỏ được dự báo ổn định) giảm xuống, thay vì tăng 20%
trong năm qua. Với tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam năm 2011 tương đương 89%
GDP (đạt 105,8 tỷ USD), thì khi giá cả trên thị trường thế giới giảm sẽ làm giảm đáng kể áp
lực đối với lạm phát của Việt Nam. Theo ông Vũ Viết Ngoạn, cộng cả việc tăng giá than, điện
và các loại hàng hoá, dịch vụ khác do Nhà nước định giá, thì tốc độ tăng giá tiêu dùng năm nay
tối đa cũng chỉ ở mức 9%. Đây là cơ hội rất lớn để giảm lãi suất cả huy động lẫn cho vay.
Như vậy, việc hạ mặt bằng lãi suất hiện nay tuy là quyết định của NHNN nhưng vẫn tuân
theo các quy luật của thị trường, đảm bảo lãi suất thực dương.
2. Lợi ích và rủi ro của tiến trình tự do hóa tài chính
2.1. Lợi ích của tiến trình tự do hóa tài chính
Tự do hóa tài chính không chỉ là yêu cầu bắt buộc để có thể tham gia sân chơi thế giới mà
còn là xu thế tất yếu của hội nhập kinh tế bởi những lợi ích vô cùng to lớn mà nó mang lại cho
các quốc gia. Quá trình tự do hóa tài chính sẽ giúp tạo ra một môi trường minh bạch, linh hoạt
và hiệu quả cho hệ thống tài chính, thu hút đầu tư, kích thích sự cạnh tranh lành mạnh, mang
lại động lực phát triển, khả năng tiếp cận công nghệ mới cho các tổ chức tài chính trong nước
cũng như cơ hội sử dụng các dịch vụ tài chính đa dạng, chất lượng cao cho người dân trong

nước…
Trước hết khi tự do hóa tài chính, sẽ có rất nhiều các tổ chức tài chính nước ngoài hoạt động
tại Việt Nam.Với tính chuyên nghiệp và quy mô của các tổ chức này, để có thể tồn tại và phát
triển tự bản thân các tổ chức tài chính trong nước phải nâng cao năng lực quản lý và hoạt động
của mình. Do áp lực cạnh tranh ngày càng tăng, các định chế tài chính ngày càng nâng khả
năng làm việc. Kết quả là việc đánh giá, thẩm định dự án được thực hiện nghiêm túc và đạt
hiệu quả cao hơn. Chính vì vậy, vốn đầu tư có thể được đưa vào những dự án mang tính sinh
lợi và có hiệu quả cao. Qua đó nâng cao hiệu suất sử dụng vốn đầu tư của toàn xã hội. Ngoài ra
chính sự cạnh tranh do tự do hoá mang lại sẽ làm tăng thêm chất lượng các dịch vụ tài chính
6


được cung cấp bởi lúc này sự độc quyền bị loại bỏ. Người tiêu dùng có thể được hưởng những
sản phẩm dịch vụ mới, đa dạng, tiện ích với chất lượng tốt nhất, chi phí thấp nhất và thời gian
ngắn nhất. Mặt khác như chúng ta đã biết một nhược điểm nổi bật của quá trình luân chuyển
tiền tệ là không thể chuyển hết toàn bộ số tiền tiết kiệm huy động được cho đầu tư, mà nó luôn
bị tiêu hao một phần cho các giao dịch phát sinh và đọng lại trong các tổ chức kinh doanh tài
chính (dưới dạng dự trữ bắt buộc hay tiền mặt chờ luân chuyển...). Việc tự do hoá tài chính như
đã nói sẽ cắt giảm đáng kể các khoản chi phí giao dịch, chi phí quản lý và đặc biệt là giảm sự
khác biệt giữa lãi suất cho vay và lãi suất vay vốn. Chính điều này làm tỷ trọng tiền tiết kiệm
dành cho đầu tư ngày càng gia tăng, giúp tăng thêm nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép thời kỳ 1988 - 2010
Số dự án
Tổng số
1988
1989
1990
1991
1992
1993

1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Sơ bộ 2010
(*)

13812
37
67
107
152
196
274
372
415
372
349

285
327
391
555
808
791
811
970
987
1544
1557
1208
1237

Tổng vốn đăng ký
(Triệu đô la Mỹ) (*)
214315,6
341,7
525,5
735,0
1291,5
2208,5
3037,4
4188,4
6937,2
10164,1
5590,7
5099,9
2565,4
2838,9

3142,8
2998,8
3191,2
4547,6
6839,8
12004,0
21347,8
71726,0
23107,3
19886,1

Tổng số vốn
thực hiện
(Triệu đô la Mỹ)
77945,5

328,8
574,9
1017,5
2040,6
2556,0
2714,0
3115,0
2367,4
2334,9
2413,5
2450,5
2591,0
2650,0
2852,5

3308,8
4100,1
8030,0
11500,0
10000,0
11000,0

Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước.

Thứ hai, khi tự do hóa tài chính, nếu môi trường đầu tư trong nước trở nên thuận lợi, cho
phép nhà đầu tư có thể tìm kiếm lợi ích, thì lập tức các nguồn tài chính từ bên ngoài sẽ nhanh
chóng vận hành vào thị trường trong nước để thỏa mãn các nhu cầu mở rộng, phát triển kinh
tế. Do đó tốc độ phát triển kinh tế cũng sẽ nhanh chóng tăng lên. Nguồn tài chính từ thị trường
quốc tế xâm nhập vào thị trường nội địa sẽ kéo theo sự xâm nhập của công nghệ, lao động tay
nghề cao và sự xâm nhập của các loại nguyên liệu, dịch vụ phục vụ cho quá trình phát triển sản
7


xuất kinh doanh. Tạo công ăn việc làm, tay nghề công nhân được nâng lên thỏa mãn được nhu
cầu thị trường quốc tế, hàng hóa chất lượng cao sẽ được sản xuất, kim ngạch xuất khNu tăng
lên nhanh chóng. Tất cả những điều này sẽ tạo tiền đề và động lực quan trọng cho phát triển
kinh tế xã hội.
Cùng với xu thế mở cửa, giao lưu quốc tế ngày càng tăng, nhu cầu chi trả, thanh toán cho
các giao dịch vãng lai ngày càng lớn, nhưng đây chủ yếu là những khoản thanh toán, chi trả
cho các nhu cầu thường xuyên cần thiết với kim ngạch không lớn. Việc tự do hoá các giao dịch
này sẽ giảm bớt chi phí xã hội, giảm bớt phiền hà cho người dân khi có nhu cầu mua ngoại tệ
chuyển ra nước ngoài vì những mục đích hợp pháp, các nhà đầu tư chuyển lợi nhuận về nước
khi kinh doanh có lãi; xoá bỏ cơ chế xin-cho; làm giảm tâm lý cất giữ ngoại tệ, mang ngoại tệ
lậu ra nước ngoài…
Ngoài ra việc tự do tài chính còn đẩy mạnh việc sử dụng vốn nhàn rỗi của tư nhân vào tiến

trình đầu tư, bởi vì lúc này những ràng buộc về thủ tục vay vốn sẽ được đơn giản hoá, lãi suất
huy động tương đối thấp do sự cạnh tranh của các tổ chức đầu tư tài chính. Từ đó nguồn vốn
được đưa vào nền kinh tế một cách thuận lợi và hiệu quả góp phần vào việc tạo ra hàng hóa,
của cải vật chất cho xã hội
Hơn nữa, quá trình tự do tài chính sẽ giúp cho các cá nhân dễ dàng tiếp cận được các nguồn
tín dụng. Thông qua việc kinh doanh hoặc học tập bằng các nguồn tín dụng vay mượn được,
mỗi cá nhân có thể nâng cao kiến thức của mình. Ngoài ra, hiệu ứng lan tỏa về “vốn tri thức”
sẽ làm cho mặt bằng kiến thức của xã hội không ngừng nâng cao. Chính vì vậy, chất lượng
nguồn nhân lực của xã hội được cải thiện một cách đáng kể.
Việc tự do hoá tài chính sẽ đảm bảo cho lãi suất thực được dương bởi vì sự cân bằng giữa
cung và cầu vốn trên thị trường tài chính. Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính cũng góp
phần thúc đẩy chính phủ các nước chủ nhà cải tiến phương pháp quản lý vĩ mô nền kinh tế và
thay đổi cách thức can thiệp vào thị trường, đồng thời thúc đẩy việc hoàn thiện hàng lang pháp
lý và hệ thống kiểm tra, giám sát của chính phủ đối với những lĩnh vực dịch vụ này.
Các nhà nghiên cứu lập luận rằng sở dĩ tự do hoá tài chính có tác động tích cực đến nền
kinh tế chính là nhờ tác động lợi thế của kinh tế quy mô, do vậy các tổ chức tài chính có thể hạ
giá thành phục vụ. Bên cạnh đó, việc loại bỏ yếu tố độc quyền, tăng cường sự cạnh tranh là
nhân tố có tính quyết định trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá các loại hình
sản phẩm và mở rộng cơ hội lựa chọn cho người tiêu dùng.
Tóm lại, lợi ích to lớn nhất của tự do hoá tài chính là tạo ra một sự cạnh tranh bình đẳng
trong một thị trường trước đây vốn được đặc trưng bằng những yếu tố độc quyền. Cạnh tranh
chính là động lực thúc đẩy việc giảm thiểu chi phí, nâng cao chất lượng phục vụ, phân tán rủi
ro và tạo cơ hội phát huy lợi thế kinh tế quy mô, tăng cường chuyển giao công nghệ và tạo môi
trường thay đổi chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trên cơ sở đó, tăng cường năng lực cạnh
tranh và sẵn sàng đối phó với những bất thường có thể xảy ra trên bình diện quốc tế.

8


2.2. Rủi ro của tiến trình tự do hóa tài chính

Những rủi ro trong tiến trình tự do hóa tài chính thường được nhắc đến như là việc tiếp
nhận những khoản đầu tư có rủi ro cao, nguy cơ rút vốn ào ạt ra nước ngoài hay nguy cơ vỡ nợ
do sử dụng tiền vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn. Từ những vấn đề riêng lẻ, chúng ta có thể tổng
kết được hai vấn đề lớn mà Việt Nam phải đối mặt trong tiến trình hội nhập tài chính hiện nay.
2.2.1. Những rủi ro từ việc giảm thiểu sự can thiệp nhà nước
Như chúng ta đã biết, thị trường tài chính được xem như là một công cụ điều tiết vĩ mô và là
một lĩnh vực hết sức đặc biệt mà Nhà nước sử dụng để thực hiện mục tiêu điều hành nền kinh
tế của quốc gia. Trong khi đó, tiến trình tự do hóa tài chính là việc giảm dần sự can thiệp của
nhà nước vào lĩnh vực tài chính, và đây chính là vấn đề đầu tiên mà chúng ta phải đối mặt
trong quá trình tự do hóa. Việc mở cửa thị trường, giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước có thể
làm hạn chế phần nào chức năng điều tiết vĩ mô của thị trường tài chính. Đặc biệt hơn, nếu như
chúng ta thực hiện việc mở cửa thị trường trong điều kiện hệ thống tài chính nội địa chưa được
chuẩn bị tốt, khả năng cạnh tranh chưa cao, thì nền tài chính có nguy cơ bị thống trị bởi các tổ
chức, doanh nghiệp tài chính nước ngoài, và khi đó quyền kiểm soát và điều tiết thị trường tài
chính của Nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại, và do đó có thể làm ảnh hường đến mục tiêu chiến
lược của quốc gia.
Bên cạnh đó, việc chính phủ thực hiện chính sách quản lý thông thoáng có thể tạo điều kiện
cho những hoạt động phi pháp diễn ra, như là tình trạng lừa đảo, buôn lậu và đặc biệt là hoạt
động rửa tiền.
2.2.2. Tác động tiêu cực của việc rửa tiền
Rửa tiền nếu được hiểu một cách khái quát là là những hoạt động nhằm mục đích hợp pháp hóa
những tài sản có được từ các hoạt động phi pháp. Một cách rửa tiền phổ biến là việc đầu tư vào
những nước đang phát triển thông qua các ngân hàng. Từ những ngân hàng này, lượng “tiền
bẩn” này sẽ được đem đi đầu tư vào những công cụ tài chính nhằm là giảm “tính bẩn” của đồng
tiền. Và cuối cùng là hội nhập trở lại lượng tiền này vào nền kinh tế như những dòng tiền bình
thường khác.
Chúng ta có thể thấy những nước đang phát triển như Việt Nam, với sự kiểm soát lỏng lẻo đối
với hệ thống tài chính quốc gia sẽ là đối tượng của hoạt động rửa tiền này. Câu hỏi đặt ra ở đây
là nền kinh tế của những quốc gia này chịu những ảnh hưởng tiêu cực gì từ hoạt động rửa tiền?
Có những lập luận cho rằng nếu như chúng ta bỏ qua nguồn gốc bất chính của những dòng tiền

này thì nó vẫn được xem như là những nguồn vốn đầu tư bình thường khác, vẫn có thể góp phần
vào sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia nếu chúng ta biết sử dụng nó một cách hợp lý. Tuy
nhiên, những dòng vốn có nguồn gốc phí pháp này lại chứa đựng những tác động tiêu cực to lớn
khác, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế
Thứ nhất, hoạt động rửa tiền có thể làm suy yếu hệ thống tài chính quốc gia. Điều này có
thể giải thích bằng hai lý do. Lý do trước hết là rửa tiền sẽ làm suy yếu từ bên trong hệ thống
tài chính thông qua việc mua chuộc chính những nhân viên trong những tổ chức tài chính
này. Từ đó, làm sai lệch đi những quyết định đầu tư và làm giảm tính hiệu quả quá hệ thống
9


tài chính. Nguyên nhân thứ hai xuất phát từ việc làm giảm sự tin tưởng của khách hàng đối
với hệ thống ngân hàng. Bất cứ một thông tin nào cho thấy việc các ngân hàng tiếp tay cho
những hoạt động phi pháp như là rửa tiền có thể dẫn đến sự mất lòng tin vào hệ thống ngân
hàng, từ đó anh hưởng đến sự phát triển của hệ thống này. Trong trường trượng xấu nhất có
thể dẫn đến khủng hoảng hệ thống ngân hàng nếu như những khách hàng bị lôi kéo bởi tâm
lý bầy đàn và rút vốn ào ạt.
Thứ hai là hoạt động rửa tiền sẽ gây ra tác động tiêu cực đến hiệu quả đầu tư của nền kinh
tế. Mục đích đầu tư của những nguồn tiển phi pháp không phải là lợi nhuận, do đó chúng chủ
yếu sẽ chảy vào những kênh đầu tư ít rủi ro, làm cung nguồn vốn trong những khu vực này
tăng cao quá mức và làm giảm tỷ suất sinh lợi trong những lĩnh vực này. Thậm chí những
khoản đầu tư từ những nguồn vốn phi pháp này còn không quan tâm đến khả năng sinh lợi
của dự án, điều này càng hạ thấp hơn tỷ suất sinh lợi bình quân, ảnh hưởng xấu đến sự tăng
trưởng của nền kinh tế.
Ngoài ra hoạt động rửa tiền còn có những tác động tiêu cực khác như việc làm giảm các
nguồn vốn đầu tư hiệu quả từ nước ngoài, từ đó hạn chế những lợi thế có được từ những đầu
tư này như là sự tiếp nhận các công nghệ hiện đại, kỹ thuật lao động hay là những kinh
nghiệm quản lý từ những quốc gia phát triển. Bên cạnh đó, hoạt động này còn có thể tạo ra
sự cân bằng giả tạo trong cán cân thanh toán, khi chu kỳ rửa tiền hoàn tất, việc rút ra ồ ạt của
lượng tiền này sẽ làm thâm hụt cán cân thanh toán, trầm trọng hơn có thể dẫn đến khủng

hoảng tài chính.
Từ những phân tích trên chúng ta có thể thấy được hoạt động rửa tiền không những có ảnh
hưởng xấu về mặt xã hội mà còn gây ra những tác động tiêu cực đến nền kinh tế của Việt Nam.
Việc mở cửa thị trường, giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước là điều chúng phải thực hiện.
Tuy nhiên, đi đôi với việc tự do hóa cần phải có những biện pháp phù hợp để tiến trình tự do
hóa không làm phương hại đến những mục tiêu của quốc gia và hạn chế những kẽ hở luật pháp
tạo điều kiện cho những hoạt động phi pháp diễn ra.
2.2.3. Tự do hóa có thể làm tăng khả năng xảy ra khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính thường là điều mà các chính phủ lo ngại khi thực hiện mở cửa thị
trường. Một nghiên cứu phân tích về các cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới đã cho thấy
18 trong 25 trường hợp được nghiên cứu, khủng hoảng tài chính đã diễn ra theo sau việc tự do
hoá tài chính khoảng. Do vậy, nhiều người cho rằng khủng hoảng ngân hàng là sự kiện kéo
theo của việc cải cách hệ thống tài chính theo hướng mở cửa. Thậm chí, nhiều chính phủ còn
xem đó là cái giá phải trả cho tiến trình tự do hoá.
Tuy nhiên, tiến trình tự do hóa tài chính bản thân nó không phải là nguyên nhân thực sự dẫn
đến khủng hoảng. Việc mở cửa thị trường chỉ làm bộc lộ những yếu kém sẵn có của hệ thống
tài chính trong nước cũng như những thiếu sót trong chính sách tài chính vĩ mô, từ đó làm tăng
thêm những rủi ro dẫn đến khủng hoảng tài chính. Nói cách khác, nguyên nhân chính của các
cuộc khủng hoảng tài chính lại chính là những yếu kém tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng, sự
thiếu lành mạnh của hệ thống chính sách quản lý vĩ mô, và sự thiếu vắng của một chế độ giám
10


sát, kiểm tra có hiệu quả, chứ không phải xuất phát từ bản thân quá trình tự do hoá tài
chính.
Nội dung phần phân tích này sẽ tập trung vào việc phân tích những rủi ro mà Việt Nam có
thể sẽ đối mặt trong tiến trình hội nhập, và bằng cách nào những rủi ro này dẫn đến tình trạng
khủng hoảng tài chính.
Đầu tiên là tình trạng nợ xấu gia tăng có thể đẫn đến nguy cơ vỡ nợ ở các ngân hàng. Khi
tiến trình tự do hóa tài chính được thực hiện, chính phủ bắt đầu nới lỏng những quy định đối

với thị trường tài chính, điều kiện cho vay tín dụng của các ngân hàng cũng trở nên thông
thoáng hơn, và khi đó, hoạt động tín dụng của các ngân hàng bắt đầu được gia tăng. Nếu như
trong lúc này việc giám sát, theo dõi của những cơ quan quản lý từ chính phủ không được thực
hiện tốt, và chính bản thân các ngân hàng cũng thiếu khả năng trong việc thẩm định các dự án
cũng như theo dõi hoạt động sử dụng nguồn vốn của các đối tượng cho vay, thì tất yếu là
nhữug khoản nợ xấu bắt đầu gia tăng, ảnh hưởng đến nguồn vốn kinh doanh của các ngân
hàng. Một khi tình trạng nợ xấu này kéo dài, nguồn lực từ các ngân hàng bị bào mòn thì khả
năng vỡ nợ ở các ngân hàng là hết sức đáng ngại. Hậu quả thứ hai của tình trạng nợ xấu này là
việc khả năng cho vay tín dụng của các ngân hàng bị giảm sút. Khi hoạt động cho vay không
còn được tiếp tục, thì điều tất yếu là khả năng sản xuất sẽ bị thu hẹp, và làm ảnh hưởng đến
tổng thể nền kinh tế.
Vấn đề thứ hai mà Việt Nam sẽ phải đối mặt trong tiến trình tự do hóa là nguy cơ khủng
hoảng cán cân thanh toán. Như chúng ta đã biết tình trạng thâm hụt đã tồn tại trong suốt những
năm vừa qua trong cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam, và sự thâm hụt này được bù đắp
bằng những nguồn tài trợ đến từ sự thặng dư trong cán cân tài khoản vốn. Tuy nhiên, vấn đề
đáng lưu tâm là tính ổn định của những nguồn tài trợ này.
Những nguồn tài trợ có thể kể đến là FDI và FII. Đầu tư trực tiếp FDI từ nhiều năm qua đã
là nguồn vốn chủ đạo trong việc bù đắp thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Tuy nhiên theo dự
báo thì xu hướng nhập siêu trong năm 2008 sẽ tăng mạnh và với tốc độ giải ngân FDI hiện nay
thì khó có thể bù đắp cho lượng thâm hụt này.
Bên cạnh nguồn vốn FDI thì FII cũng là một nguồn vốn quan trọng đóng góp vào cán cân
thanh toán. Nguồn vốn này có đặc điểm mới xuất hiện trong những năm gần đây, với tốc độ
tăng khá nhanh (năm 2005 là 14,1 triệu USD, năm 2006 là 1.339 triệu USD, năm 2007 là
6.500 triệu USD). Mặc dù vậy, nhưng tính ổn định và khả năng “đảo chiều” của nguồn vốn FII
lại chính là rủi ro dẫn đến sự khủng hoảng trong cân cân thanh toán. Dòng vốn FII chảy vào
Việt Nam chủ yếu thông qua các quỹ đầu tư nước ngoài và được đầu tư chủ yếu vào những
công cụ tài chính và bất động sản trong thời gian qua. Với tính chất nhạy cảm của nguồn vốn
này, nếu như nhà đầu tư cảm nhận được những sự suy giảm của thị trường thì khả năng đảo
chiều của nguồn vốn này là rất lớn. Và nếu hiện tượng rút vốn ào ạt này diễn ra, thì tình trạng
khủng hoảng cán cân thanh toán là điều tất yếu.

Một rủi ro tiềm ẩn khác là hiện tượng bong bóng tài sản và tình trạng tăng giảm bất thường
của thị trường chứng khoán và bất động sản. Những bong bóng tài sản này hình thành từ mong
muốn làm giàu nhanh chóng của các nhà đầu tư. Một hệ lụy tất yếu của vấn đề này là các
11


nguồn lực quốc gia thay vì được sử dụng để đưa vào quá trình sản xuất thì lại đổ vào thị trường
chứng khoán hay bất động sản. Và khi quả bóng này xì hơi thì hậu quả để lại là vô cùng đáng
ngại. Người đi vay sẽ mất khả năng trả nợ do tiền đã đổ vào những tài sản tài chính mà giá trị
đã sụt giảm nặng nề. Khi đó hệ thống ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng do những tài
sản thế chấp cũng là những chứng khoán hay bất động sản mà giá trị thanh khoản không đủ để
bù đắp cho những khoản tín dụng ban đầu. Điều này làm nảy sinh những vấn đề về “rủi ro đạo
đức” và “lựa chọn đối nghịch” mà sẽ được phân tích rõ hơn trong phần khủng hoảng tài chính
bên dưới.
Vấn đề cuối cùng nhưng cũng hết sức đáng ngại trong tiến trình tự do hóa của Việt Nam là
khả năng bị tấn công tiền tệ từ các hoạt động đầu cơ. Tấn công tiền tệ là 1 cách đầu cơ tiền, và
gom tiền ngoại tệ dự trữ của nhà nước và trong dân chúng bằng cách bơm tiền vào mua nội tệ,
trái phiếu, công trái của 1 quốc gia neo giữ giá trị tiền của mình vào đồng USD bằng chính
sách tiền tệ. Có thể hiểu là tạo nên sức hút giả với đồng tiền buộc chính phủ in thêm tiền ra,
sau đó khi bong bóng tiền tệ lên cao thì bán hết để buộc chính phủ phải mở kho dự trữ mà ổn
định tỷ giá. Nếu như chính phủ dự trữ không đủ thì nguy cơ đồng tiền bị đánh sập là rất lớn, và
khi đó thì coi như là giới đầu cơ tiền thu được khoản dự trữ quốc gia của nước đó. Điều kiện để
các hoạt động đầu cơ này diễn ra xuất phát từ những vấn đề rủi ro tiềm ẩn trong nền kinh tế và
khi những yếu kém này bộc lộ thì đó là lúc hoạt động tấn công tiền tệ bắt đầu.
Một ví dụ về rủi ro tiềm ẩn ở Việt Nam là vấn đề thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Với tình
trạng nhập siêu kéo dài, nhu cầu ngoại tệ vẫn cứ tiếp tục gia tăng thì trước sau gì việc mất giá đồng
nội tệ cũng sẽ xảy ra. Nhưng lý do để rủi ro này vẫn còn là tiềm ẩn đến từ việc những nguồn
vốn đầu tư nước ngoài vẫn chảy vào Việt Nam, bù đắp lượng cung ngoại tệ trong nước. Tuy
nhiên, nếu nguồn vốn này đột ngột đảo chiều, thì chúng ta sẽ mất lượng ngoại tệ bù đắp cho sự
thâm hụt này, và một khi đồng nội tệ mất giá chính là lúc hoạt động đầu cơ bắt đầu diễn ra.

3. Ví dụ minh họa cụ thể - Ngành bảo hiểm của Việt Nam
3.1. Các cam kết mở cửa của Việt Nam trong lĩnh vực hoạt động KDBH và nhận định ban
đầu về tác động của nó tới thị trường bảo hiểm Việt Nam
3.1.1. Cam kết cung cấp dịch vụ qua biên giới
Ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, các doanh nghiệp bảo
hiểm nước ngoài sẽ được phép cung cấp các dịch vụ bảo hiểm như bảo hiểm vận tải quốc tế,
tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm, dịch vụ đánh giá rủi ro, giải quyết khiếu nại và tư vấn bảo
hiểm và đặc biệt là được phép cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các dự án, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà không cần thành lập pháp nhân tại Việt Nam.
Trong thời gian đầu, các cam kết này có thể sẽ ảnh hưởng mạnh tới một số loại hình bảo
hiểm phi nhân thọ và giới hạn trong nhóm đối tượng người nước ngoài và các dự án có vốn
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian trung hạn thì với sự lớn mạnh của
các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trong nước (xét về mặt uy tín và năng lực tài chính)
thì các cam kết này không có ảnh hưởng nhiều.
12


3.1.2. Các cam kết hiện diện thương mại
DNBH có vốn nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam: kể từ ngày 1/1/2008 các DNBH
100% vốn đầu tư nước ngoài được phép kinh doanh các dịch vụ BH bắt buộc. Đối với chi
nhánh của DNBH nước ngoài: Sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO, DNBH nước ngoài được
phép thành lập chi nhánh bảo hiểm Phi nhân thọ tại Việt Nam, căn cứ vào các qui định quản lý
thận trọng.
Có thể nói, các cam kết cho phép thành lập pháp nhân thực hiện kinh doanh dịch vụ bảo
hiểm là những cam kết mang tính chất tự do hoá thị trường bảo hiểm và có ảnh hưởng lớn nhất
đối với các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đã hoạt động trên thị trường cũng như tới tình hình
chung của thị trường.
Việc cho phép thêm các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài tham gia cung
cấp dịch vụ bảo hiểm tại thị trường Việt Nam sẽ tăng thêm năng lực khai thác bảo hiểm của thị
trường bảo hiểm. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài với kinh nghiệm hoạt

động lâu năm trên phạm vi quốc tế sẽ giúp chuyển giao công nghệ khai thác bảo hiểm và đào
tạo đội ngũ cán bộ làm công tác bảo hiểm tại Việt Nam.
Với năng lực tài chính mạnh, các doanh nghiệp bảo hiểm mới tham gia thị trường này cũng
sẽ cho ra đời các sản phẩm bảo hiểm mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Trong điều
kiện cung cấp dịch vụ tốt hơn, khách hàng sẽ là đối tượng hưởng lợi nhiều nhất. Đặc biệt, chi
phí bảo hiểm là một cấu phần ngày càng quan trọng trong chi phí sản xuất và kinh doanh của
các đơn vị kinh tế khi nền kinh tế ngày càng phát triển, vì vậy giảm giá thành đầu vào đối với
chi phí bảo hiểm sẽ giúp giảm một cách tương đối giá thành sản xuất sản phẩm và dịch vụ đầu
ra của các doanh nghiệp Việt Nam và là cơ sở để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
nói chung trong điều kiện toàn cầu hoá ngày càng được đẩy mạnh.
Có thể nói, việc cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham gia vào thị trường
bảo hiểm Việt Nam sẽ đem lại những lợi ích tổng thể cho thị trường.
Tuy nhiên, song song với các khía cạnh tích cực như vậy, điều kiện thị trường bảo hiểm với
sự có mặt của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài cũng sẽ đặt ra một số vấn đề như cạnh
tranh không lành mạnh, hệ thống pháp lý chưa đủ mạnh để kiểm soát hoạt động đa dạng của
các doanh nghiệp này, song các vấn đề này có thể được kiểm soát tốt nếu có những bước đi
phù hợp trong công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động của thị trường.
3.1.3. Cam kết liên quan đến kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc
Việt Nam cho phép cho phép các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài từ 1.1.2008 có thể
kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc.
Hiện nay, bảo hiểm bắt buộc theo luật định gồm: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không đối với hành khách;
bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật; bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; Bảo hiểm cháy, nổ; và các loại bảo hiểm
khác được quy định theo điều kiện phát triển của nền kinh tế.
13


Trong những năm gần đây, tỷ trọng phí bảo hiểm thu từ bảo hiểm bắt buộc khá lớn trong
tổng phí bảo hiểm phi nhân thọ. Tuy nhiên, tỷ trọng phí bảo hiểm từ loại hình bảo hiểm bắt

buộc này sẽ giảm tương đối qua thời gian khi các nhu cầu bảo hiểm tiềm năng trên thị trường
được khai thác tốt hơn do các doanh nghiệp ngày càng trưởng thành về năng lực vốn cũng như
về trình độ chuyên môn. Do đó, việc cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước
ngoài cung cấp các dịch vụ này sẽ không ảnh hưởng nhiều đến thị trường bảo hiểm mà chỉ ảnh
hưởng đến thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị trường và chỉ trong lĩnh
vực phi nhân thọ.
3.1.4. Cam kết xoả bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc sau 1 năm
Hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm khi thực hiện tái bảo hiểm ra nước ngoài đều phải
thực hiện tái bảo hiểm bắt buộc tối thiểu 20% với Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm Quốc gia
Việt Nam (VINARE). Vì vậy thực hiện cam kết xoá bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc này sẽ có
tác động kép, trước tiên là ảnh hưởng tới hoạt động của VINARE, đồng thời ảnh hưởng đến
tổng mức phí giữ lại của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.
Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm khác trên thị trường, cam kết này nếu được áp dụng
chung sẽ tạo điều kiện cho họ linh hoạt hơn trong công tác tái bảo hiểm và tạo điều kiện tái
bảo hiểm có lợi hơn xét về mặt kinh tế.
3.2. Những thành tựu và hạn chế
3.2.1. Những thành tựu
a. Thị trường bảo hiểm tăng trưởng cao, ổn định và an toàn, đóng góp vào sự phát triển
của nền kinh tế-xã hội
- Số lượng doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phát triển nhanh chóng
Năm 2001, thị trường bảo hiểm có 18 DNBH, đến 31/12/2011, toàn thị trường có 57 doanh
nghiệp bảo hiểm (DNBH) thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó 29 DNBH phi nhân thọ, 14
DNBH nhân thọ, 12 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm (DNMGBH) và 02 doanh nghiệp tái bảo
hiểm. Do được lựa chọn theo các tiêu chí chặt chẽ, công khai, minh bạch nên hầu hết các chủ
đầu tư góp vốn thành lập DNBH, DNMGBH đều là các tổ chức kinh tế, tài chính có uy tín và
tiềm lực mạnh trong nước và quốc tế, góp phần vào sự phát triển an toàn, ổn định của thị
trường bảo hiểm (TTBH) Việt Nam. Ngoài ra, sự có mặt của 32 Văn phòng đại diện của các tổ
chức bảo hiểm hàng đầu thế giới trên TTBH cũng góp phần cải thiện môi trường đầu tư và
tăng lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài khi đến kinh doanh tại Việt Nam.
Bảng số lượng các doanh nghiệp trên TTBH giai đoạn 2001-2011

Đơn vị: số lượng DN
Loại hình DNBH

2001

2003

2005

2008

2011

Phi nhân thọ

11

14

16

27

29

Nhân thọ

4

5


8

11

14
14


Tái bảo hiểm

1

1

1

1

2

Môi giới bảo hiểm

2

5

7

10


12

Tổng cộng

18

25

32

49

57

- Thị trường bảo hiểm tăng trưởng cao so với tốc độ tăng trưởng GDP
Tổng doanh thu toàn TTBH giai đoạn 2001-2011 tăng trưởng bình quân 21,36%/năm, cao
hơn nhiều tốc độ tăng trưởng GDP. Trong đó, doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân
18,94%/năm, doanh thu hoạt động đầu tư tăng 42,31%/năm. Tương ứng với số tuyệt đối,
doanh thu ngành bảo hiểm tăng từ 6.756 tỷ đồng lên 46.817 tỷ đồng. Trong đó, doanh thu phí
bảo hiểm tăng từ 6.456 tỷ đồng lên 36.594 tỷ đồng, doanh thu đầu tư tăng từ 300 tỷ đồng lên
10.223 tỷ đồng. Đóng góp của ngành bảo hiểm vào GDP đạt 1,85% năm 2011.
Bảng tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm giai đoạn 2001-2011
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu

2001

2003


2005

2007

2009

2010

2011

Tăng
bình quân

1. Doanh thu phí bảo hiểm

6.456

10.390

13.616

17.650

25.593

30.605

36.594

+ Bảo hiểm phi nhân thọ


3.671

3.815

5.486

8.213

13.754

17.017

20.600

25,6%

23,7%

20,5%

11.839

13.589

15.994

11,1%

14,7%


14,8%

16%

6.623

7.228

7.370

10.223

42,31%

24.273

32.819

37.975

46.817

21,36%

Tăng so với năm trước
+ Bảo hiểm nhân thọ

2.785


Tăng so với năm trước

15,1%
6.575

-

2. Doanh thu đầu tư

300

3. Tổng doanh thu

6.756

8.130
5,4%

986

1.944

11.376

15.561

28,3%
9.437

18,94%

18,86%
19,1%

- Thị trường bảo hiểm phát triển an toàn và ổn định
Điều đáng ghi nhận lớn nhất trong giai đoạn này là mặc dù TTBH đã phát triển nhanh về cả
quy mô và số lượng doanh nghiệp, song vẫn đảm bảo tính an toàn và ổn định. Về cơ bản tất cả
các DNBH đảm bảo khả năng thanh toán và có nguồn vốn chủ sở hữu đáp ứng quy định về
vốn pháp định, một số DNBH có quy mô vốn lớn, khả năng thanh toán cao vượt xa so với quy
định. Tổng các quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhằm sẵn sàng đáp ứng nghĩa vụ chi trả bồi
thường cho khách hàng của các DNBH đã tăng từ 13.152 tỷ đồng năm 2003 lên 64.231 tỷ đồng
năm 2011.
- Thị trường bảo hiểm đóng góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội
+ Hoạt động kinh doanh bảo hiểm (KDBH) đã đóng vai trò tích cực đến việc ổn định nền
kinh tế-xã hội và đời sống nhân dân. Tổng số tiền bảo hiểm các DNBH đã giải quyết bồi
thường, trả tiền bảo hiểm trong giai đoạn 2001-2011 là 67.844 tỷ đồng, trung bình mỗi năm chi
trả 6.168 tỷ đồng (trong đó nhiều vụ tổn thất lớn đã được các DNBH bồi thường hàng chục,
hàng trăm tỷ đồng/vụ). Việc giải quyết bồi thường và trả tiền bảo hiểm đã giúp các tổ chức và
người dân nhanh chóng ổn định sản xuất, kinh doanh và đời sống, giảm bớt gánh nặng cho
ngân sách nhà nước, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
15


+ Các doanh nghiệp bảo hiểm đã tạo lập nguồn vốn lớn và dài hạn cho đầu tư phát triển
kinh tế-xã hội. Tổng số tiền các DNBH đã huy động để đầu tư trở lại cho nền kinh tế tăng từ
5.781 tỷ đồng năm 2001 lên 78.530 tỷ đồng năm 2011 (tăng 13,6 lần). Đây là nguồn vốn có ý
nghĩa, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn, thị trường tài chính cũng như của
nền kinh tế.
+ Giải quyết công ăn việc làm cho xã hội: Số lượng lao động hoạt động trong ngành bảo
hiểm tăng nhanh chóng theo sự gia nhập thị trường của các công ty bảo hiểm mới và mở rộng
hoạt động kinh doanh của các công ty bảo hiểm hiện có. Tính đến 31/12/2011, ngoài gần

20.000 cán bộ làm việc trong ngành bảo hiểm còn có gần 285.500 đại lý làm việc cho các
DNBH, góp phần tạo ra số lượng công ăn việc làm lớn và tương đối ổn định cho xã hội.
+ Nâng cao nhận thức của nhân dân về bảo hiểm: Bảo hiểm ngày càng trở thành khái niệm
quen thuộc đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh và dân cư. Nhiều cá nhân, tổ chức đã quan
tâm hơn đến bảo hiểm trong việc bảo vệ gia đình, bảo vệ sản xuất kinh doanh, coi đây là giải
pháp ổn định tài chính mà không trông đợi vào các hoạt động cứu trợ, bao cấp từ ngân sách
nhà nước. Theo số liệu thống kê, phí bảo hiểm bình quân đầu người tăng từ 80.000 đồng năm
2001 lên 415.000 đồng năm 2011.
b. Hệ thống pháp luật về KDBH được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch
và bình đẳng cho các chủ thể tham gia TTBH
Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về KDBH là nền tảng cơ bản để TTBH đạt được những
kết quả sau:
- Phát triển toàn diện các nhân tố thị trường với sự đa dạng hoá sở hữu, loại hình các DNBH
trên thị trường. Các tiêu chí cấp phép được qui định công khai, minh bạch và được lượng hoá
(về năng lực tài chính và năng lực quản trị điều hành của chủ đầu tư). Nhìn chung, các tiêu chí
và thủ tục cấp phép hiện tại đã đảm bảo sàng lọc, lựa chọn các chủ đầu tư thực sự có uy tín, có
năng lực tài chính và tiềm năng phát triển mạnh, cam kết làm ăn lâu dài tại Việt nam.
- Tạo sự bình đẳng cho các chủ đầu tư góp vốn thành lập DNBH, DNMGBH (nhà nước, tư
nhân, nước ngoài,…) thông qua xoá bỏ các rào cản, phân biệt đối xử. Các công ty bảo hiểm
trong nước và nước ngoài đều được điều chỉnh bởi cùng một khung pháp lý. Các quy định về
gia nhập thị trường như vốn tối thiểu, đặt cọc, thủ tục cấp phép, các quy định về đảm bảo khả
năng thanh toán đều được áp dụng chung cho cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Một số
lĩnh vực, nhà đầu tư nước ngoài bị hạn chế hơn nhà đầu tư trong nước quy định tại các văn bản
trước đây đã được xóa bỏ sau khi Việt Nam gia nhập WTO (hạn chế về phạm vi hoạt động, đối
tượng khách hàng, số lượng nghiệp vụ bảo hiểm được triển khai, tái bảo hiểm bắt buộc...).
- Phát triển cơ chế cạnh tranh lành mạnh trên thị trường bảo hiểm: Quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm, các nguyên tắc khai thác bảo hiểm, các hành vi vi phạm
pháp luật về KDBH,… đã được pháp luật quy định cụ thể hơn, tạo cơ chế cạnh tranh lành
mạnh cho các chủ thể tham gia hoạt động trên thị trường.
- Bảo đảm sự phát triển an toàn và lành mạnh của thị trường thông qua các quy định về tài

chính như: vốn điều lệ phải phù hợp với quy mô và mức độ rủi ro hoạt động của DNBH;
16


nguồn vốn chủ sở hữu phải luôn duy trì không thấp hơn vốn pháp định trong suốt quá trình
hoạt động. Hoạt động đầu tư vốn cũng được quy định chặt chẽ về hạn mức đầu tư. Biên khả
năng thanh toán phải loại trừ các tài sản có tính thanh khoản thấp. Nhìn chung, các quy định về
chế độ tài chính của DNBH đảm bảo hạn chế được các ảnh hưởng tiêu cực từ khủng hoảng
kinh tế tài chính tác động lên các DNBH.
Ngoài ra, các quy định về công tác quản trị điều hành như xây dựng và thực hiện các quy
trình nghiệp vụ, kiểm toán độc lập, kiểm toán nội bộ và công khai hoá thông tin tài chính
doanh nghiệp, tiêu chuẩn nguời quản trị điều hành,... được ban hành đã góp phần cải thiện
công tác quản trị doanh nghiệp, từng bước chuẩn hoá chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý điều
hành của doanh nghiệp.
- Phát triển và nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động trung gian bảo hiểm: Pháp luật
quy định cụ thể hơn về điều kiện thành lập, hoạt động của các tổ chức, cá nhân hoạt động môi
giới, đại lý bảo hiểm. Chương trình đào tạo, thời gian đào tạo, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
đào tạo, đội ngũ giảng viên đào tạo đại lý bảo hiểm cũng được quy định rõ, nhằm từng bước
chuẩn hoá đội ngũ đại lý hoạt động trên thị trường.
- Đơn giản hoá và thuận tiện các thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước về hoạt động
KDBH.
c. Chất lượng dịch vụ bảo hiểm từng bước được cải thiện, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
khách hàng
- Số lượng sản phẩm bảo hiểm phát triển nhanh chóng
Nếu năm 2001, thị trường bảo hiểm Việt Nam có khoảng 300 sản phẩm bảo hiểm thì đến
nay, thị trường đã có trên 800 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ thuộc cả 3 lĩnh vực
bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm, từng bước đáp ứng nhu cầu
của người tham gia bảo hiểm.
Trong bảo hiểm nhân thọ, cơ cấu sản phẩm đã chuyển dần từ ngắn hạn sang dài hạn, các sản
phẩm về quyền lợi y tế đã và đang được các DNBH nhân thọ chú trọng triển khai. Bên cạnh

các sản phẩm bảo hiểm truyền thống, từ năm 2007, các DNBH đã triển khai các loại hình sản
phẩm mới (bảo hiểm liên kết đầu tư), vừa kế thừa được các đặc trưng của sản phẩm bảo hiểm
truyền thống (tính bảo vệ), vừa tích hợp được một số đặc trưng của sản phẩm ngân hàng và
chứng khoán (tính đầu tư). Các loại hình sản phẩm này ra đời đã giúp khách hàng vừa được
bảo vệ trong trường hợp xảy ra rủi ro, vừa tận dụng được cơ hội kinh doanh trên các thị trường
dịch vụ tài chính khác. Bên cạnh đó, sản phẩm bảo hiểm vi mô trong bảo hiểm nhân thọ cũng
được Bộ Tài chính cho phép triển khai thử nghiệm bước đầu tương đối thành công nhằm
hướng tới đối tượng khách hàng là người nông dân có thu nhập thấp.
Trong bảo hiểm phi nhân thọ, ngoài các sản phẩm do các DNBH chủ động triển khai, trong
thời gian qua, các quy định chi tiết liên quan đến một số loại hình bảo hiểm bắt buộc (như bảo
hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, bảo hiểm cháy nổ) đã được ban hành, góp phần đảm
bảo an sinh xã hội, đồng thời tạo ra các sản phẩm bảo hiểm chuẩn mực trên thị trường bảo
hiểm. Ngoài ra, một số chính sách khuyến khích phát triển các loại hình bảo hiểm đặc thù cũng
17


được ban hành, như chính sách triển khai thí điểm bảo hiểm nông nghiệp giúp người nông dân
giảm thiểu rủi ro (đặc biệt là rủi ro thiên tai) trong nông nghiệp; chính sách triển khai thí điểm
bảo hiểm tín dụng xuất khẩu giúp đảm bảo an toàn tài chính cho các thương nhân xuất khẩu
trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài. Các chính sách này ra đời đã góp phần thúc
đẩy các DNBH thiết kế các sản phẩm bảo hiểm mới nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế-xã
hội. Theo số liệu thống kê, trong cơ cấu phí bảo hiểm theo nghiệp vụ năm 2010, bảo hiểm xe
cơ giới chiếm 31,8%, bảo hiểm tài sản và thiệt hại chiếm 23,8%, bảo hiểm tàu và hàng hoá
chiếm 18%, bảo hiểm sức khoẻ và tai nạn con người chiếm 14,6%, các nghiệp vụ còn lại
chiếm 21,8%.
- Chất lượng sản phẩm được nâng cao
Các DNBH đã chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng thêm quyền lợi cho
các khách hàng tham gia bảo hiểm, mở rộng phạm vi bảo hiểm, xây dựng các sản phẩm bảo
hiểm trọn gói với mức phí bảo hiểm hợp lý, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Quy tắc điều
khoản bảo hiểm được quy định rõ ràng hơn về trách nhiệm và quyền lợi của DNBH cũng như

của khách hàng, tạo thuận lợi cho các bên khi tham gia thực hiện.
- Chất lượng phục vụ có bước cải tiến đáng kể
Các doanh nghiệp đã chú trọng hơn đến công tác chăm sóc khách hàng. Các DNBH nhân
thọ đã thành lập bộ phận phục vụ khách hàng độc lập, đảm bảo giải quyết bồi thường nhanh
chóng, đầy đủ theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Ngoài ra, các DNBH đã xây dựng
website riêng để quảng bá sản phẩm, đồng thời hỗ trợ công tác bồi thường cũng như thu nhận
và xử lý các thông tin phản hồi từ khách hàng.
d. Các kênh phân phối sản phẩm phát triển và ngày càng đa dạng
- Các kênh phân phối truyền thống
Kênh môi giới bảo hiểm phát triển với số lượng các DNMGBH tăng từ 2 doanh nghiệp năm
2001 lên 12 doanh nghiệp năm 2011. Các công ty môi giới bảo hiểm nước ngoài có mặt trên
thị trường đều là các công ty lớn, có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động môi giới bảo hiểm.
Việc cấp phép cho các DNMGBH đều thực hiện theo nguyên tắc thận trọng, minh bạch, đảm
bảo vì sự phát triển lành mạnh của thị trường. Các DNMGBH đã góp phần thúc đẩy sự phát
triển của TTBH phi nhân thọ, giúp cho các DNBH và khách hàng tiết kiệm được thời gian, chi
phí cho các giao dịch bảo hiểm với việc tham gia từ khâu tư vấn cho khách hàng đánh giá và
lựa chọn rủi ro cần bảo hiểm, lựa chọn DNBH và sản phẩm phù hợp với mức phí hợp lý, đến
khâu hỗ trợ giải quyết bồi thường,... Theo số liệu thống kê, tỷ lệ phí bảo hiểm phi nhân thọ thu
xếp qua môi giới bảo hiểm năm 2011 đạt gần 22 % tổng số phí bảo hiểm phi nhân thọ, tăng cao
so với tỷ lệ 4% năm 2001.
Kênh đại lý bảo hiểm được phát triển đáng kể về số lượng, từ gần 76.000 đại lý năm 2001
lên gần 283.500 đại lý năm 2011 trong cả lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân
thọ. Với việc Bộ trưởng Bộ Tài chính thành lập Trung tâm nghiên cứu và đào tạo bảo hiểm
(Trung tâm) thuộc Cục quản lý, giám sát bảo hiểm năm 2009, việc đào tạo và thi cấp chứng chỉ
đào tạo đại lý bảo hiểm đã được Trung tâm giám sát chặt chẽ. Chất lượng các đại lý bảo hiểm
18


từng bước được nâng cao. Các đại lý bảo hiểm đã dần khẳng định được vai trò là cầu nối giữa
doanh nghiệp và khách hàng. Theo số liệu thống kê, trên 95% doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ

và gần 80% doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ được thu xếp qua đại lý bảo hiểm.
- Các kênh phân phối phi truyền thống
Ngoài việc sử dụng các kênh phân phối truyền thống (môi giới, đại lý), các DNBH còn sử
dụng các kênh phi truyền thống (ngân hàng, bưu điện,...) để phân phối sản phẩm bảo hiểm.
Các kênh phân phối phi truyền thống đang dần dần khẳng định ưu thế và góp phần thúc đẩy sự
phát triển của thị trường bảo hiểm. Theo số liệu thống kê, phí bảo hiểm (cả nhân thọ và phi
nhân thọ) được thu xếp qua các kênh phân phối phi truyền thống chiếm khoảng 5% tổng doanh
thu phí bảo hiểm năm 2011.
Kênh phân phối qua ngân hàng, bưu điện,... đã giúp khách hàng được hưởng mức phí bảo
hiểm thấp hơn do DNBH tiết kiệm được chi phí khi phối hợp kinh doanh với các tổ chức này.
Kênh bán hàng qua ngân hàng còn giúp khách hàng có cơ hội sử dụng các sản phẩm dịch vụ
tài chính trọn gói với mức phí và các tiện ích phù hợp nhất với nhu cầu của mình mà họ có thể
không có được nếu Ngân hàng và DNBH hoạt động riêng rẽ với nhau.
Ngoài ra, các DNBH cũng bắt đầu triển khai bán hàng trực tiếp qua internet đối với các sản
phẩm bảo hiểm đơn giản, đã được chuẩn hoá và thủ tục thẩm định rủi ro đơn giản, cho các đối
tượng khách hàng là các tổ chức, cá nhân có điều kiện tiếp cận với công nghệ thông tin hiện
đại. Kênh phân phối này cũng giúp khách hàng được hưởng mức phí bảo hiểm thấp hơn do tận
dụng được tối đa ưu thế của công nghệ thông tin trong bán hàng.
e. Năng lực hoạt động của các doanh nghiệp được cải thiện
- Năng lực tài chính:
Thực hiện quy định mới của Chính phủ về tăng vốn pháp định (Nghị định 46/2007/NĐ-CP),
các DNBH được cấp phép thành lập và hoạt động từ năm 2007 đã đáp ứng ngay quy định về
mức vốn điều lệ mới (300 tỷ đồng đối với DNBH phi nhân thọ và 600 tỷ đồng đối với DNBH
nhân thọ); các DNBH được cấp phép trước năm 2007 đến nay cũng đã hoàn tất việc tăng vốn,
thậm chí là vượt so với quy định. Nguồn vốn thực có của các DNBH đến 31/12/2011 đạt
khoảng 32.030 tỷ đồng. Về cơ bản tất cả các DNBH đảm bảo khả năng thanh toán.
- Năng lực quản trị điều hành
Thực hiện các quy định của pháp luật về quản trị doanh nghiệp, hầu hết các DNBH đã xây
dựng được các quy trình nghiệp vụ (khai thác, giám định và bồi thường, đầu tư, kiểm soát nội
bộ,…), góp phần từng bước chuẩn hoá các khâu trong hoạt động kinh doanh của DNBH. Phần

lớn các DNBH nước ngoài đã thực hiện nghiêm túc các quy trình này.
Các DNBH đã đổi mới phương thức quản lý theo hướng chuyên nghiệp hơn. Một số DNBH
đã triển khai ứng dụng thành công công nghệ thông tin trong công tác quản lý. Trình độ đội
ngũ cán bộ cũng được cải thiện rõ rệt, đặc biệt trình độ của các cán bộ quản trị điều hành,
chuyên gia quản lý rủi ro, thẩm định và định phí bảo hiểm, trích lập dự phòng nghiệp vụ và
tính biên khả năng thanh toán,...
19


- Việc sắp xếp lại các DNBH nhà nước góp phần cải thiện hiệu quả hoạt động kinh doanh
của các DNBH này
Trong thời gian từ 2001-2011, các DNBH nhà nước đã hoàn thành việc sắp xếp lại theo
hướng chuyển đổi thành công ty cổ phần như Bảo Việt, Bảo Minh, PVI, Vinare, trong đó có
Bảo Việt hoạt động theo mô hình tập đoàn công ty mẹ, công ty con. Nhìn chung, sau khi
chuyển đổi hình thức doanh nghiệp, các DNBH nói trên đều hoạt động tốt, phát huy thế mạnh
sẵn có và tận dụng lợi thế của các cổ đông chiến lược, góp phần phát triển thị trường bảo hiểm
Việt Nam. Điều này cho thấy chính sách sắp xếp lại các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước hoạt
động trên thị trường là hoàn toàn đúng đắn.
- Số lượng doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài phát triển, một số DNBH được
sắp xếp lại góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm cung cấp trên thị trường
Trong những năm qua, nhiều nhà đầu tư là các công ty bảo hiểm hàng đầu thế giới và trong
khu vực đã được cấp phép thành lập DNBH tại Việt Nam. Ngoài ra, các thương vụ mua bán,
chuyển nhượng doanh nghiệp thành công của một số DNBH có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam đã giúp TTBH tiếp tục có được các chủ đầu tư nước ngoài có năng lực và uy tín, góp
phần nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trong nước.
Theo số liệu thống kê, với số lượng DNBH có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 6 DN vào năm
2001 lên 24 DN vào năm 2011, tỷ trọng nguồn vốn đầu tư trở lại nền kinh tế của khối DN này
tăng từ 24,1% lên 55,4%, tỷ trọng bồi thường và trả tiền bảo hiểm tăng từ 6,1% lên 21%, thị
phần trong bảo hiểm phi nhân thọ tăng từ 5% lên 15%, thị phần trong bảo hiểm nhân thọ tăng
từ 38% lên 71%. Các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp ngày càng quan trọng vào sự

phát triển của thị trường bảo hiểm.
3.2.2. Những vấn đề còn tồn tại
- Một là, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp vẫn tồn tại như giảm
phí, mở rộng điều kiện bảo hiểm, tăng mức khấu trừ… Công tác giải quyết bồi thường đôi khi
còn phức tạp, gây khó khăn cho khách hàng. Tình trạng trục lợi bảo hiểm diễn ra ngày càng
nhiều với quy mô ngày càng lớn( ) nên hiệu quả kinh doanh bảo hiểm gốc không cao. Mặt dù
các DNBH có được mức tăng trưởng nhanh về mặt doanh thu nhưng chưa thực sự bền vững,
chưa chú trọng đến chất luợng và hiệu quả kinh doanh. Thêm vào đó, các doanh nghiệp vẫn
chưa chú trọng công tác khai thác cũng như đánh giá rủi ro, đề phòng hạn chế tổn thất mà phần
lớn vẫn chạy theo doanh thu.
Bảng 4: Số tiền bồi thường bảo hiểm các năm
Doanh thu

Số tiền bồi thường

Tỷ lệ bồi thường

(tỷ đồng)

(tỷ đồng)

(%)

2008

21.194

9.083

42,86 %


2009

25.473

10.323

40,53 %

06/2010

14.427

3.985

27,62 %

Năm

20


Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm Việt nam
- Hai là, chưa tạo ra những kênh hữu hiệu để tuyên truyền rộng rãi mục đích, ý nghĩa, tác
dụng của bảo hiểm khiến phần lớn khách hàng tham gia bảo hiểm đều là do Nhà nước bắt buộc
(chẳng hạn như khi vay vốn ngân hàng, xuất nhập khẩu…). Với một thị trường hơn 85 triệu
dân như Việt Nam, tiềm năng là không nhỏ nhưng để khai thác được tiềm năng lớn lao này,
việc tuyên truyền rộng rãi đến các tổ chức quần chúng nhân dân là một điều cần đặc biệt quan
tâm đối với ngành bảo hiểm. Hiện nay, nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm mang tính bị
động, khi họ gặp rủi ro bản thân họ cũng không biết mình được bồi thường bao nhiêu, từ đó

dẫn đến tranh chấp diễn ra khá phổ biến. Chính tình trạng không minh bạch trong các khâu và
những yếu kém trong tuyên truyền đã dẫn đến tình trạng hoạt động của thị trường bảo hiểm,
trong một chừng mực nhất định, vẫn thiếu tính chuyên nghiệp. Tình trạng này nếu kéo dài sẽ
ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình hội nhập sâu rộng của ngành bảo hiểm.
- Ba là, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm, Hiệp hội
bảo hiểm và các DNBH, vô hình chung đã tạo nên những ảnh hưởng không tốt đến môi trường
kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm.
- Bốn là, các DNBH còn thiếu định hướng dài hạn cho hoạt động kinh doanh, chưa đầu tư
đúng mực vào công tác quy hoạch đào tạo – tuyển dụng – sử dụng cán bộ, công tác phát triển
nghiệp vụ cũng như công tác dự báo thống kê và định phí. Đã có không ít sai phạm trong lĩnh
vực kinh doanh bảo hiểm bị phát hiện, điển hình là các sai phạm trong quản trị doanh nghiệp,
vi phạm các quy định về cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm, thời hạn nộp phí, tái bảo hiểm, chi trả
bồi thường và quyền lợi bảo hiểm, hoạt động đầu tư.
3.2.3. Các giải pháp nhằm nâng cao năng lực của các doanh nghiệp bảo hiểm trong thời gian tới
a. Quản trị doanh nghiệp:
- Tập trung triển khai xây dựng và thực hiện đề án tái cấu trúc doanh nghiệp. trong đó tập
trung rà soát, hoàn thiện mô hình quản trị doanh nghiệp, rà soát cơ cấu ngành nghề, chiến lược
phát triển nhằm mục tiêu tăng hiệu suất sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của
doanh nghiệp.
- Hoàn thiện mô hình quản trị, mô hình tổ chức, nâng cao vai trò và trách nhiệm của người
đại diện vốn.
b. Quản trị tài chính:
Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tài chính kế toán thong qua : đảm bảo an toàn vốn
và tài sản doanh nghiệp; duy trì khả năng thanh toán tốt; nâng cao chất lượng quản lý cân đối
tài sản nợ có; hoàn thiện mô hình tổ chức và quy trình nghiệp vụ tài chính kế toán
c. Đầu tư và quản lý rủi ro:
- Hoàn thiện các quy chế, quy trình nghiệp vụ đầu tư, thường xuyên đánh giá, quy định hạn
mức tín dụng của các tỏ chức tín dụng, các đối tác.
- Kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý, áp dụng công nghệ để đánh giá rủi ro và quản lý, giám
sát vốn đầu tư.

21


d. Phát triển nguồn nhân lực:
- Tập trung đầu tư, phát triển nguồn nhân lực, hoàn thiện và mở rộng áp dụng hệ thống quản
lý hiệu quả làm việc và trả lương theo hiệu quả công việc
- Đẩy mạnh hoạt động đào tạo, thực hiện công tác đào tạo cán bộ quy hoạch và phát triển
cán bộ có tiềm năng, tuyển dụng và thu hút nhân sự trình độ cao.
e. Phát triển thị trường, sản phẩm, dịch vụ khách hang, kênh phân phối:
- Đẩy mạnh việc phát triển, triển kai sản phẩm mới, tăng cường phát triển sản phảm bán lẻ,
phối hợp nghiên cứu các sản phẩm dịch vụ tài chính trọn gói, đa tiện ích.
- Triển khai bảo hiểm nông nghiệp và bảo hiểm tín dụng xuất khảu theo chủ trương của
chính phủ.
- Tiếp tục phát triển hệ thống đại lý, phát triển kênh phan phối mới qua thương mại điện tử.

22



×