Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

bài thu hoạch di sản văn hóa thành nhà Hồ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.31 MB, 16 trang )

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA TIẾNG TRUNG QUỐC
------------

BÀI THU HOẠCH
MÔN HỌC: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

Di Sản Văn Hóa Thành Nhà Hồ

Tên sinh viên : Nguyễn Thanh Mai
Ngày sinh
: 17/09/2000
Lớp
: K25T5

Hà Nội - 2018


VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA TIẾNG TRUNG QUỐC
------------

BÀI THU HOẠCH
MÔN HỌC: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

Di Sản Văn Hóa Thành Nhà Hồ


I. Vị trí địa lí
Trong lịch sử các kinh đô của Việt Nam, mỗi kinh thành đều được định vị và xây dựng
trong từng bối cảnh – văn hóa cụ thể, đều có vị trí, vai trò và đặc điểm riêng, tạo nên một


bộ phận vô giá của di sản lịch sử và văn hóa dân tộc. Thành Nhà Hồ có nhiều đặc điểm
và giá trị văn hóa độc đáo không chỉ của Việt Nam mà của cả khu vực Đông Á và Đông
Nam Á. Thành nhà Hồ (hay còn gọi là thành Tây Đô, thành An Tôn, thành Tây
Kinh hay thành Tây Giai) là kinh đô nước Đại Ngu (quốc hiệu Việt Nam thời nhà Hồ).
Cách Hà Nội 150 km về phía Nam và cách thành phố Thanh Hóa 45 km về phía Tây Bắc,
Thành nhà Hồ là tên thường gọi của ''tòa thành trong'', một phức hợp kiến trúc bằng đá đồ
sộ còn khá nguyên vẹn giữa vùng đồng bằng lưu vực sông Mã và sông Bưởi, thuộc địa
bàn các thôn Tây Giai, Xuân Giai (xã Vĩnh Tiến) và Đông Môn (xã Vĩnh Long), huyện
Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Đây là tòa thành kiên cố với kiến trúc độc đáo bằng đá có quy
mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam, có giá trị và độc đáo nhất, duy nhất còn lại ở Đông Nam
Á và là một trong rất ít những thành lũy bằng đá còn lại trên thế giới. Thành được xây
dựng trong thời gian ngắn, chỉ khoảng 3 tháng (từ tháng Giêng đến tháng 3 năm 1397) và
cho đến nay, dù đã tồn tại hơn 6 thế kỷ nhưng một số đoạn của tòa thành này còn lại
tương đối nguyên vẹn.
Ngày 27 tháng 6 năm 2011, sau 6 năm đệ trình hồ sơ, Thành nhà Hồ đã được UNESCO
công nhận là di sản văn hóa thế giới. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt
Nam đưa vào danh sách xếp hạng 62 di tích quốc gia đặc biệt.

1


II. Quá trình hình thành và phát triển
Thành nhà Hồ được xây vào năm 1397 dưới triều Trần do quyền thần Hồ Quý Ly chỉ huy,
người không lâu sau (1400) lập ra nhà Hồ. Theo sử sách, thành bắt đầu xây dựng vào
mùa xuân tháng 1 năm Đinh Sửu niên hiệu Quang Thái thứ 10 đời vua Thuận Tông của
vương triều Trần. Người quyết định chủ trương xây dựng là Hồ Quý Ly, lúc bấy giờ giữ
chức Nhập nội Phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự, tước Tuyên Trung Vệ
quốc Đại vương, cương vị Tể tướng, nắm giữ mọi quyền lực của triều đình. Người trực
tiếp tổ chức và điều hành công việc kiến tạo là Thượng thư bộ Lại Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh
(có sách chép Mẫn). Hồ Quý Ly xây thành mới ở động An Tôn (nay thuộc địa phận các

xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), làm kinh đô mới với tên
Tây Đô, nhằm buộc triều Trần dời đô vào đấy trong mục tiêu chuẩn bị phế bỏ vương triều
Trần. Tháng 3 năm Canh Thân (26-3 đến 24-4-1400), vương triều Hồ thành lập (14001407) và Tây Đô là kinh thành của vương triều mới, thành Thăng Long đổi tên là Đông
Đô vẫn giữ vai trò quan trọng của đất nước. Vì vậy thành Tây Đô được dân gian quen gọi
là Thành nhà Hồ. Thành đá được xây dựng trong một thời gian kỷ lục, chỉ chừng 3 tháng.
Các cấu trúc khác như các cung điện, rồi La Thành phòng vệ bên ngoài, đàn Nam Giao...
còn được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cho đến năm 1402. Thành nhà Hồ được xây
dựng và tồn tại trong những biến động cuối thế kỷ XIV đầu thê kỷ XV, gắn liền với sự
nghiệp của nhà cải cách lớn Hồ Quý Ly và vương triều Hồ.

2


III.Đặc điểm
Theo chính sử, thành Tây Đô ở vào địa thế khá hiểm trở, có lợi thế về phòng ngự quân sự
hơn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá. Vị trí xây thành đặc biệt hiểm yếu, có sông
nước bao quanh, có núi non hiểm trở, vừa có ý nghĩa chiến lược phòng thủ, vừa phát huy
được ưu thế giao thông thủy bộ. Như mọi thành quách bấy giờ, thành bao gồm thành
nội và thành ngoại. Thành ngoại được đắp bằng đất với khối lượng gần 100.000 mét khối,
trên trồng tre gai dày đặc cùng với một vùng hào sâu có bề mặt rộng gần tới 50m bao
quanh.
Bên trong thành ngoại là thành nội có mặt bằng hình chữ nhật chiều Bắc - Nam dài
870,5m, chiều Đông - Tây dài 883,5m. Mặt ngoài của thành nội ghép thẳng đứng bằng đá
khối kích thước trung bình 2 m x 1 m x 0,70 m, mặt trong đắp đất. Bốn cổng thành theo
chính hướng Nam - Bắc - Tây - Đông gọi là các cổng tiền - hậu - tả - hữu (Cửa Tiền hay
còn gọi là Cửa Nam, Cửa Hậu còn gọi là Cửa Bắc, cửa Đông Môn và cửa Tây Giai). Các
cổng đều xây kiểu vòm cuốn, đá xếp múi bưởi, trong đó to nhất là cửa chính Nam. Các
phiến đá xây đặc biệt lớn (dài tới 7 m, cao 1,5 m, nặng chừng 15 tấn).
Thành Tây Đô thể hiện một trình độ rất cao về kĩ thuật xây vòm đá thời bấy giờ. Những
phiến đá nặng từ 10 đến 20 tấn được nâng lên cao, ghép với nhau một cách tự nhiên, hoàn

toàn không có bất cứ một chất kết dính nào. Trải qua hơn 600 năm, những bức tường
thành vẫn đứng vững.

3


IV. Cấu trúc
Thành hình gần vuông, mỗi cạnh trên dưới 800m và chu vi trên 3,5 km. Thành phía ngoài
xây bằng đá, bên trong xây bằng đất đầm nện chắc, mở bốn cửa theo bốn hướng Nam,
Bắc, Đông, Tây. Tường thành đá bên ngoài xây bằng những khối đá nặng trung bình 1016 tấn, có khối nặng đến trên 26 tấn, được đẽo gọt khá vuông vắn và lắp ghép theo hình
chữ công (I) tạo nên sự liên kết kiên cố. Đất đắp bên trong thoai thoải dần. Thành qua
thời gian trên 6 thế kỷ đã bị bào mòn và có chỗ bị sạt lở, nhưng di tích tường thành chỗ
còn lại vẫn dày khoảng 4-6m, chân thành rộng khoảng trên 20m.Theo sử liệu, trên thành
còn xây tường bằng gạch mà khảo cổ học đã phát hiện khá nhiều, trên nhiều viên gạch
còn khắc tên đơn vị các làng xã được điều động về xây thành. Ngoài ra còn nhiều kiến
trúc khác, trong đó đàn Nam Giao xây trên sườn phía Tây Nam núi Đốn Sơn bằng đá quy
mô khá lớn. Hiện các kiến trúc cung điện, tường gạch bên trên thành cùng các bộ phận
bằng gạch, gỗ bị sụp đổ, hủy hoại và tòa thành cũng không tránh khỏi có phần bị sạt lở,
nhưng gần như tổng thể kiến trúc bằng đá vẫn tồn tại.

Có thể nói các cổng thành là tuyệt tác của kỹ thuật dựng Thành nhà Hồ. Các cửa thành
đều được mở ở chính giữa tường thành và đều được xây theo kiểu vòm cuốn, với một kỹ
thuật tương đối giống nhau: bên dưới đặt những khối đá lớn làm nền, các khối đá chữ
nhật phía bên trên tạo thành thân cửa, phần vòm cửa hình bán viên được chế tác bằng các

4


khối đá hình thang hơi cong và được lắp đặt với độ chính xác cao tạo nên nét đặc sắc của
tòa thành. Trong bốn cửa, cửa Nam được xây dựng lớn nhất, mở ra ba vòm trong khi các

cửa còn lại chỉ có một vòm. Cửa phía Nam (cửa Tiền) có chiều dài 34,85m, độ cao hiện
còn từ mặt nền là 7,65m, dày 15m được xây thành 3 vòm cuốn, vòm giữa cao 8,50m,
rộng 5,85m, hai vòm bên cao 7,80m, rộng 5,45m và 5,47m. Cửa phía Bắc có chiều dài
21,34m, độ cao hiện còn 8,10m, dày 13,55m tạo một vòm cuốn cao 5,42m, rộng 5,80m,
trên nóc vòm cuốn được lát đá tạo thành một mặt bằng rộng 12,70m, dài 20m. Cửa phía
Đông có chiều dài 23,30m, dày 13,40m, rộng 5,80m, vòm cuốn chiều cao còn lại 6,80m,
nơi đây các phiến đá trên nóc cửa và hai bên cánh bị vỡ nhiều nhưng vẫn còn nhận rõ dấu
vết hèm cửa. Cửa phía Tây dài 19,30m, dày 13,40m, rộng 5,70m, vòm cuốn cao 6,16m.

Cửa Nam nhìn từ cửa Bắc

Cửa Bắc

5


Bao quanh các bức tường thành còn có hệ thống hào thành được Lưu Công Đạo ( thế kỉ
XIX) mô tả: ‘’Hệ thống hào còn được gọi là trì, trì rộng 36 tầm, bốn cửa đều có cầu đá
vào thành’’. Tuy nhiều phần của hào đến nay đã bị lấp cạn nhưng vẫn có thể nhận rõ dấu
tích của hào thành phía Bắc, phía Đông và một nửa phía Nam. Theo ghi nhận, khoảng
cách từ hào đến tường phía Nam khoảng 65-70m, đến tường phía Bắc khoảng 70m, đến
tường phía Đông khoảng 100m và đến tường phía Tây khoảng 120m. Tại góc Đông Nam
của hào thành còn nhận rõ một con kênh nối thông với sông Bưởi.

Cửa Đông

Cửa Tây

V.Hệ thống công trình tại khu di tích
1.Tường thành và Hào thành

Từ bên ngoài, có thể thấy toàn bộ các bức tường của tòa thành được xây bằng các khối đá
khổng lồ có hình khối chữ nhật hoặc gần vuông, xếp không trùng mạch theo hình chữ

6


Công "I". Trên thực tế, tường thành được cấu tạo bởi ba lớp gắn kết chặt chẽ với nhau
bằng một kỹ thuật xây dựng đặc biệt:
Lớp ngoài: tường thành được xây dựng bằng "những khối đá vôi to lớn, được đẽo gọt và
ghép một cách tài tình". Tất cả các khối đá được đẽo gọt công phu thành các khối vuông
thành sắc cạnh, với kích thước trung bình 2,2 x 1,5 x 1,2m, cá biệt có khối có kích thước
tới 4,2 x 1,7 x 1,5m và 5,1 x 1 x 1,2m. Những khối đá lớn nhất nặng tới khoảng 26,7 tấn.
Đại Việt sử ký toàn thư cũng cho biết, năm Tân Tỵ (1401) "Hán Thương hạ lệnh cho các
lộ nung gạch để dùng vào việc xây thành. Trước đây xây thành Tây Đô, tải nhiều đá tới
xây, ít lâu sau lại bị sụp đổ, đến đây mới xây trên bằng gạch, dưới bằng đá". Đến nay, qua
nghiên cứu sưu tầm, Trung tâm Bảo tồn Di sản Thành Nhà Hồ đã phát hiện có 294 địa
danh hành chính trong cả nước đóng góp xây dựng Thành Nhà Hồ.
Để hoàn chỉnh công trình này, con số ước tính hơn 100,000m3 đất đã được đào đắp, hơn
20,000m3 đá, trong đó có nhiều khối đá nặng trên 20 tấn đã được khai thác, vận chuyển
và lắp đặt.
Bao quanh các bức tường thành đồ sộ là hệ thống hào thành, như thường thấy ở các tòa
thành Đông Á. Ngày nay, nhiều phần của hào thành đã bị lấp cạn. Tuy nhiên, vẫn có thể
nhận thấy rất rõ dấu tích của hào thành ở bốn phía với chiều rộng trung bình 50m.
2.La Thành
Bao quanh toàn bộ tòa thành đá và hào thành là La Thành.
Đại Việt sử ký toàn thư cho biết Hồ Quý Ly "sai Trần Ninh đốc suất người phủ Thanh
Hóa trồng tre gai ở phía Tây thành, phía Nam từ Đốn Sơn, phía Bắc từ An Tôn đến tận
cửa Bào Đàm, phía Tây từ chợ Khả Lãng ở Vực Sơn đến sông Lỗi Giang (sông Mã), vây
quanh làm tòa thành lớn bọc phía ngoài. Dân chúng ai lấy trộm măng thì bị xử tử" (Đại
Việt sử ký toàn thư 1998a: 198).

Đại Nam nhất thống chí chép: "Phía ngoài thành lại đắp đất làm La Thành, phía tả từ tổng
Cổ Biện, phía Đông qua các xã Bút Sơn và Cổ Điệp ven theo sông Bảo (nay là sông
Bưởi) chạy về núi Đốn Sơn, phía hữu từ tổng Quan Hoàng, huyện Cẩm Thủy theo ven
sông Mã chạy về Đông thẳng đến núi Yên Tôn mấy vạn trượng" (Đại Nam nhất thống chí
2006: 313 - 314).

7


La Thành hiện còn là một tòa thành đất cao khoảng 6m, mặt cắt dạng hình thang với bề
mặt rộng 9,20m, chân thành rộng khoảng 37m. Mặt ngoài dốc đứng, phía trong thoai
thoải kiểu bậc thang, mỗi bậc cao 1,50m, một số vị trí có trộn thêm sạn sỏi gia cố.
Kết quả thám sát năm 2010 ở khu vực thôn Xuân Áng, xã Vĩnh Long cho thấy, đất đắp
La Thành bằng các loại đất sét màu vàng, màu xám hoặc xám xanh có lẫn các đá sạn
laterít.

Một đoạn La thành - Thành Nhà Hồ
Toàn bộ La Thành được đào đắp dựa theo địa hình tự nhiên, có đoạn thì nối liền với núi
đá, lấy núi đá làm bức tường thành thiên nhiên hùng vĩ, có đoạn thì nương theo các dòng
sông.
Ngày nay, trên thực địa, La Thành vẫn còn dấu vết từ núi Đốn Sơn (xã Vĩnh Thành) đến
núi Hắc Khuyển (xã Vĩnh Long), các núi Xuân Đài, Trác Phong, Tiến Sỹ (xã Vĩnh Ninh),
núi Kim Ngọ (xã Vĩnh Tiến), núi Ngưu Ngọa, núi Voi (Xã Vĩnh Quang). Trong đó có
những đoạn là đê của sông Bưởi và sông Mã.
Sự kiên cố, cấu trúc lũy thành với mặt ngoài thẳng đứng trong thoai thoải cho thấy rõ tính
chất phòng vệ quân sự của La Thành. Mặt khác La Thành cũng triệt để nối các quả núi tự
nhiên như núi Voi, núi Đốn, nhiều đoạn chạy theo thế uốn của sông Bưởi và sông Mã
mang thêm chức năng là đê phòng lũ lụt cho toàn bộ kinh thành. Đây cũng là truyền
thống đắp thành của người Việt đã từng hiện diện ở các di tích như thành Cổ Loa (Hà
Nội) thế kỷ 3 trước CN, thành Hoa Lư (Ninh Bình) thế kỷ 10, thành Thăng Long (Hà

Nội) thể kỷ 11 – 18.

8


Nhiều đoạn La Thành trải qua 6 thế kỷ vẫn còn khá nguyên vẹn với các lũy tre trải dài bát
ngát, tương truyền cũng là dấu tích lâu đời gợi nhớ đến việc nhà Hồ cho trồng tre gai bảo
vệ kinh thành cuối thế kỷ 14.
3.Đàn Nam Giao

Giếng Vua, Nam Giao - Thành Nhà Hồ
Trong các nghi lễ của các kinh đô phương Đông cổ truyền, đàn Nam Giao và nghi thức tế
lễ Nam Giao hàng năm của các vương triều là một bộ phận văn hóa tinh thần quan trọng
vào bậc nhất nhằm cầu mong cho đất nước thịnh trị, vương triều trường tồn. Bởi vậy,
trong việc kiến thiết kinh đô, nhà Hồ đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng đàn tế Nam
Giao. Đàn tế được xây dựng ở phía Nam Thành Nhà Hồ, phía trong La Thành, dựa theo
sườn Tây Nam núi Đốn Sơn. Dấu tích kiến trúc đàn tế đã xuất lộ chạy theo hướng Bắc –
Nam là 250m, hướng Đông – Tây là 150m với tổng diện tích 35.000m2.

Ngói đầu đao - Thành Nhà Hồ

9


Thống đất nung - Thành Nhà Hồ
Đàn được chia làm nhiều tầng giật cấp cao dần lên, trong đó tầng đàn trung tâm cao
21,70m so với mực nước biển, chân đàn có độ cao khoảng 10,50m so với mực nước biển.
Hiện nay, bước đầu đã khai quật được khoảng 15.000m2 và phát lộ được cấu trúc tổng
thể của phần đàn trung tâm bao gồm 3 vòng tường đàn bao bọc lẫn nhau.
+ Vòng đàn ngoài cùng đã xuất lộ một phần dài 145m, rộng 113m có hai đầu lượn tròn.

+ Vòng đàn giữa gần hình vuông 65m x 65m.
+ Vòng đàn trong cùng hình đa giác (60,60m x 52m) có hai cạnh trên vát chéo.
Toàn bộ 3 vòng đàn trên đây ôm trọn toàn bộ nền đàn tế hình chữ nhật 23,60m x 17m.
Trong lòng nền đàn có dấu tích đàn tế hình tròn (Viên đàn), đường kính 4,75m. Nền đàn
được đầm nện bằng các loại đá dăm núi, móng tường đàn và tường đàn được xây dựng
bằng các loại đá xanh và gạch ở hai bên, ở giữa nhồi đất. Tường đàn có mái lợp các loại
ngói mũi sen, ngói mũi lá và ngói âm dương. Mặt nền đàn được lát bằng loại gạch vuông
cỡ lớn. Các đường đi trong đàn được lát đá.
Trong khu vực đàn tế còn tìm thấy dấu tích của hàng chục nền móng của các kiến trúc
phụ, 5 cửa, dấu tích đường đi và dấu tích của 10 cống nước được xây dựng và bố trí hết
sức khoa học nhằm đảm bảo cho việc tiêu thoát nước cho một công trình kiến trúc có
diện tích rộng hàng chục nghìn mét vuông.
Góc Đông Nam đã tìm thấy một giếng nước lớn có cấu trúc 2 phần: phần thành giếng
được xây bằng các khối đá có mặt bằng hình vuông (13m x 13m) có bậc đi xuống nhỏ
giật vào trong lòng theo lối "thượng thách hạ thu", phần lòng giếng hình tròn, mặt cắt

10


hình phễu, phần miệng tròn có đường kính khoảng 6,50m, độ sâu tính từ miệng giếng
vuông 4,90m.
Với tổng diện tích trên 35.000m2, có thể nói Nam Giao là một kiến trúc đàn tế khá hoành
tráng trong tổng thể khu di tích Thành Nhà Hồ. Không những thế, qua những di vật còn
lại, chúng ta còn thấy Nam Giao cũng được trang trí khá độc đáo ở trên các kiến trúc có
mái. Đó là thành bậc đá chạm sấu thần, tượng đầu chim phượng, uyên ương, hệ thống lá
đề, hệ thống gạch trang trí chạm rồng, hoa cúc. nhiều mô típ cho thấy có sự ảnh hưởng
mạnh mẽ của nghệ thuật Phật giáo trong trang trí Nam Giao. Trong thời đại hạn chế Phật
giáo thì đây cũng là điều hết sức đáng lưu ý của di tích đàn tế Nam Giao nói riêng và
nghệ thuật thời Hồ nói chung.
Thêm vào đó, các phần núi non phía sau đàn đều được lưu giữ khá nguyên vẹn kết hợp

hài hòa với các thành phần kiến trúc đàn tế, làm tăng thêm vẻ đẹp, tính hấp dẫn riêng có
của đàn tế Nam Giao Thành Nhà Hồ.
4.Đôi rồng đá mất đầu
Ngoài kỹ thuật xây thành, đôi rồng đá mất đầu cũng là câu hỏi hiện chưa có lời giải thỏa
đáng. Nằm ở trung tâm tòa thành, hai con rồng mất đầu nằm song song hai bên đường đi
xuyên qua thành nối từ cổng Nam lên cổng Bắc. Nhà Hồ thất thủ, đôi rồng đá mất tích bí
ẩn. Năm 1938, tượng rồng đầu tiên được một nông dân phát hiện khi đang cày ruộng
trong thành. Cho rằng đã là tượng rồng ở cung vua thì nhất thiết phải có cặp nên các chức
dịch trong làng đã cho đào bới khắp vùng mới tìm được tượng rồng đá thứ hai.

Cặp rồng được chạm khắc rất tỉ mỉ. Thân rồng thon nhỏ dần về phía đuôi, uốn bảy khúc,
phủ kín vảy. Rồng có bốn chân, mỗi chân ba móng với các túm lông lượn mềm mại. Đầu

11


rồng hiện đã bị mất nhưng vẫn còn phần bờm dài lượn chín nếp. Các khoảng trống dưới
bụng và ô tam giác ghép thành bậc đều được chạm hoa cúc và móc hoa lượn mềm.
Theo nhiều nhà nghiên cứu điêu khắc, đôi rồng này là loại được chạm khắc trên thềm bậc
của các cung điện như hiện thấy ở điện Kính Thiên, Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội),
chính điện Lam Kinh (Thanh Hóa).

12


MỤC LỤC
I. Vị trí địa lí………………………………………………………………….....................1
II. Quá trình hình thành và phát triển…………………………………...................………2
III. Đặc điểm…………………………………………………………………....................3
IV. Cấu trúc…………………………………………………………………......................4

V. Hệ thống công trình tại khu di tích……………………………………….....................6

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bảo tàng lịch sử quốc gia
2.Sách Thành Nhà Hồ Thanh Hóa Nhà xuất bản KHXH năm 2011
3.Sách Đại Việt sử ký toàn thư 1998a: 198.
4.Sách Đại Nam nhất thống chí 2006: 313 - 314

Website:
1. Baothanhhoa.vn
2. Thanhnhaho.vn
3. Vietnamtourism.com.vn
4. Vnexpress.net
5. Wikipedia.org

14



×