Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tiểu luận bảo hiểm tiền gửi trong mạng an toàn tài chính quốc gia và thực tiễn tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.59 KB, 33 trang )

1


Mục lục

2


LỜI MỞ ĐẦU

Nền kinh tế thế giới đã trải qua cơn khủng hoảng tài chính năm 2008 với tầm ảnh
hưởng lan rộng và vẫn còn để lại dư chấn đến hiện tại. Nguyên nhân khủng hoảng kinh tế
ban đầu được xem là bắt nguồn từ hệ thống giám sát tài chính của Mỹ đã bộc lộ những
yếu điểm. Sau khủng hoảng, các quốc gia trên thế giới đều xem xét, đánh giá lại những
yếu kém của hệ thống tài chính hiện hành, từ đó có những giải pháp trong tương lai theo
hướng giảm thiểu rủi ro.
Câu chuyện khủng hoảng sẽ còn tồi tệ hơn nếu như không có sự can thiệp kịp thời
của các tổ chức bảo hiểm tiền gửi trước nguy cơ đe dọa đến các tài khoản tiền gửi của
hàng triệu người. Việt Nam chịu ảnh hưởng nhẹ từ cơn bão khủng hoảng do nền tài chính
chưa thực sự hội nhập nhưng đã giúp chính phủ thấy rõ tầm quan trọng của tổ chức bảo
hiểm tiền gửi trong việc giảm thiểu những rủi ro khi có sự đổ vỡ của ngân hàng, cũng
như trực tiếp giảm thiểu đi những bất ổn về chính trị, xã hội.
So với tuổi đời của tổ chức bảo hiểm tiền gửi Mỹ, Nhật, hay một số quốc gia khác,
tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có thể coi là quá non trẻ khi mới chính thức đi vào
hoạt động từ năm 1999. Tuy nhiên, chính sự mới mẻ, lạ lẫm cùng với tính cấp thiết của
lĩnh vực này đã khiến nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “Bảo hiểm tiền gửi trong
mạng an toàn tài chính quốc gia và thực tiễn tại Việt Nam” để nghiên cứu.
Vượt qua mục đích là hoàn thành một bài tập lớn, chúng em hi vọng đây là cơ hội
tìm hiểu kiến thức ở lĩnh vực mình chưa hiểu rõ, cũng như được cô hoàn thiện những
mảng kiến thức còn khuyết hay sai lệch trong quá trình tìm hiểu. Sau đây sẽ là phần trình
bày của nhóm về đề tài đưa ra.



3


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN BẢO HIỂM TIỀN GỬI TRONG MẠNG AN TOÀN
TÀI CHÍNH QUỐC GIA
1.1 Mạng an toàn tài chính quốc gia
Mạng an toàn tài chính là hệ thống các cơ quan có trách nhiệm giám sát, duy trì ổn
định hệ thống tài chính và ngăn ngừa khủng hoảng tại các quốc gia. Theo thông lệ quốc
tế, mạng an toàn tài chính của các nước bao gồm: Bộ Tài chính, Ngân hàng Trung ương,
Cơ quan giám sát tài chính, tổ chức BHTG và một số cơ quan khác
Chức năng của mạng an toàn tài chính: (1) Quản lý và giám sát an toàn; (2) Người
cho vay cuối cùng; (3) Xử lý đổ vỡ ngân hàng; (4) BHTG.
1.2 Khái niệm, bản chất, mục đích của BHTG
1.2.1 Khái niệm
Bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường của người bảo hiểm đối với người được bảo
hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro đã thỏa thuận gây
ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm đó và
nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm. (Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh, NXB.
Lao động xã hội, trường Đại học Ngoại thương 2006, trang 8).
Theo John Black trong Từ điển Oxford (1997): “Bảo hiểm tiền gửi là dịch vụ bảo
hiểm rủi ro các ngân hàng hay trung gian tài chính bị phá sản cho người gửi tiền tại các
ngân hàng hay các tổ chức trung gian tài chính đó”.
Tài liệu “Hướng dẫn xây dựng một hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả” trên Diễn
đàn ổn định tài chính (Financial Stability forum – 9/2001) định nghĩa “ Bảo hiểm tiền gửi
là một sự đảm bảo rằng số dư gốc và lãi cộng dồn của các tài khoản tiền gửi nhất định sẽ
được thanh toán tới một giới hạn nhất định khi các ngân hàng có tài khoản tiền gửi đó
lâm vào tình trạng phá sản và mất khả năng thanh toán”.
Bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ chức bảo hiểm tiền gửi đối với tổ

chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và người gửi tiền về việc tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ trả
tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị
chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền. (Cẩm nang cho tổ
chức bảo hiểm tiền gửi, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam www.div.gov.vn )

4


BHTG là một hệ thống được Chính phủ thiết lập để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
người gửi tiền tại tổ chức tín dụng và góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn của hệ
thống tài chính quốc gia.
1.2.2 Bản chất của BHTG
BHTG là hoạt động cung cấp dịch vụ BHTG nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người gửi tiền; duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia BHTG và phát triển an
toàn, lành mạnh hoạt động ngân hàng.
Dịch vụ BHTG là loại hàng hóa mang tính xã hội cao, là loại hàng hóa công cộng
không thuần túy. Điều này xuất phát từ tính không loại trừ tuyệt đối việc thụ hưởng các
lợi ích mà các dịch vụ BHTG mang lại cho các cá nhân hay tổ chức xã hội. Người gửi
tiền có tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm sẽ được hưởng lợi trực tiếp từ chính sách
BHTG qua việc họ được tổ chức BHTG chi trả tiền bảo hiểm khi ngân hàng nhận tiền gửi
của họ bị đóng cửa và mất khả năng thanh toán. Hệ thống tài chính ổn định giúp người đi
vay được hưởng lợi ích từ dịch vụ BHTG, giúp họ sử dụng tiền vay an toàn và thuận tiện,
giúp cho các ngành kinh tế khác phát triển thuận lợi.
1.2.3 Mục đích của hoạt động BHTG
Mỗi hệ thống BHTG có mục đích khác nhau song đều nhằm đạt một số mục tiêu
chính sau:
Một là, BHTG bảo vệ số đông người gửi tiền, những đối tượng dễ bị tổn thương
nhưng lại không có khả năng tự bảo vệ mình do thiệt hại của họ đến từ rủi ro của ngân
hàng và các định chế tài chính kinh doanh bằng đồng tiền của họ.
Hai là, BHTG góp phần đảm bảo cho hệ thống tài chính quốc gia ổn định và tạo điều

kiện cho các giao dịch tài chính hiệu quả hơn bằng cách phòng và tránh đổ vỡ ngân hàng;
tạo ra cơ chế BHTG chính thức trong việc xử lý đổ vỡ các ngân hàng.
Ba là, BHTG góp phần xây dựng một thị trường có tính cạnh tranh và bình đẳng cho
các tổ chức tài chính có quy mô và trình độ phát triển khác nhau.
Bốn là, BHTG tạo niềm tin và tâm lý an toàn cho người dân. Từ đó, khuyến khích
người dân gửi tiền tiết kiệm, qua đó thúc đẩy tăng trưởng thị trường tài chính - tiền tệ và
nền kinh tế.
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động BHTG
• Loại tiền gửi được bảo hiểm
5


Hầu hết các hệ thống BHTG trên thế giới đều xác định đối tượng được bảo hiểm tiền
gửi là nội tệ, các loại tiền khác như tiền gửi ngoại tệ, tiền gửi liên ngân hàng, chứng chỉ
tiền gửi không ghi danh và tiền gửi của các tổ chức chính trị - xã hội, các đơn vị kinh tế
không nằm trong nhóm đối tượng được bảo hiểm. Việc xác định loại tiền gửi thuộc đối
tượng được bảo hiểm có ảnh hưởng trực tiếp đến phí bảo hiểm, ảnh hưởng đến quỹ
BHTG, do đó có ảnh hưởng gián tiếp đến hiệu quả hoạt động BHTG trong việc thực hiện
các chính sách công.


Loại hình tổ chức tham gia BHTG
Các tổ chức nhận tiền gửi hiện nay rất đa dạng. Ngoài các tổ chức truyền thống như
ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng hay quỹ tiết kiệm thì thực tế hiện nay, một số
tổ chức khác như công ty bảo hiểm, công ty nhận ủy thác đầu tư chứng khoán đều có hoạt
động huy động vốn từ các cá nhân. Việc xác định đối tượng nào cần tham gia BHTG và
dưới hình thức tự nguyện hay bắt buộc là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng đến hoạt động
của BHTG trong việc bảo vệ người gửi tiền cũng như giám sát hoạt động tài chính.




Phí BHTG
Phí BHTG là đóng góp tài chính của tổ chức tham gia BHTG cho tổ chức BHTG,
được tiến hành dưới hai hình thức là đóng góp một khoản tiền khi được chấp nhận tham
gia BHTG hoặc đóng góp phí BHTG định kì theo tháng, quý hoặc năm. Mức đóng này
được xác định theo công thức tổng quát:
Pa = r x D
Trong đó:

Pa: mức phí bảo hiểm tiền gửi hàng năm của một tổ chức tham gia BHTG
r: tỉ lệ phí bảo hiểm tiền gửi áp dụng đối với tổ chức tham gia BHTG
D: giá trị tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm. Thông thường lấy số bình quân
một ngày trong năm.



Hạn mức chi trả tiền bảo hiểm
Hạn mức chi trả bảo hiểm là khoản tiền tối đa mà tổ chức BHTG sẽ thanh toán cho
người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm tại các tổ chức tham gia BHTG bị mất khả
năng thanh toán và chấm dứt hoạt động. Hạn mức chi trả được xác định dựa trên 4 căn
6


cứ: tình hình kinh tế và hệ thống TC- NH; mức thu nhập bình quân đầu người; số lượng
người gửi tiền và năng lực tài chính của tổ chức BHTG và chính sách của chính phủ về
hoạt động này. Mức chi trả tối đa tiền gửi được bảo hiểm cho mỗi khách hàng gửi tiền
phụ thuộc vào năng lực tài chính của tổ chức BHTG.


Quy mô và mạng lưới hoạt động BHTG

BHTG có quy mô quỹ lớn sẽ dễ dàng thực hiện các nghiệp vụ của mình nhằm bảo

đảm an toàn tài chính quốc gia như hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia BHTG duy trì.
Mạng lưới hoạt động thể hiện qua số lượng chi nhánh và độ rộng của địa bàn quản
lý của tổ chức BHTG. Mạng lưới quản lý, giám sát rộng trong điều kiện đủ nguồn nhân
lực sẽ giúp tổ chức BHTG giám sát chặt chẽ và bao quát những biến động trong hoạt
động của hệ thống TC-NH, từ đó đưa ra những hành động kịp thời nhằm nhanh chóng
giải quyết vấn đề và đảm bảo cho hệ thống TC-NH hoạt động bình thường.
1.2.5 Vai trò của hoạt động BHTG
Hoạt động BHTG có vai trò rất quan trọng trong mạng an toàn tài chính quốc gia.
Điều này được thể hiện qua bốn chức năng chính.
Thứ nhất, BHTG giám sát để ngăn ngừa và cảnh báo rủi ro đối với hoạt động ngân
hàng thông qua hai hình thức là giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ, trong đó giám sát từ xa
là chủ yếu. Đây là nghiệp vụ quan trọng trong quá trình quản lý rủi ro đối với các tổ chức
tham gia BHTG nhằm đánh giá chính xác, khách quan mức rủi ro cũng như tính tuân thủ
pháp luật của tổ chức tham gia BHTG. Để đảm bảo hiệu quả, tránh chồng chéo và tiết
kiệm chi phí, hoạt động giám sát, kiểm tra được điều phối bởi một cơ quan điều phối
chung, theo đó mỗi cơ quan giám sát chịu trách nhiệm giám sát đối với một số ngân hàng
hoặc tổ chức tài chính nhất định.
Thứ hai, BHTG hỗ trợ tài chính đối với tổ chức tham gia BHTG gặp khó khăn về
thanh khoản thông qua các hình thức: cho vay hỗ trợ khi tổ chức tham gia BHTG có khó
khăn về khả năng thanh khoản và thanh toán; mua lại các tài sản có, đặc biệt là các tài sản
chưa đến hạn thanh toán của tổ chức tham gia BHTG để củng cố khả năng thanh toán của

7


tổ chức tham gia BHTG; bảo lãnh cho tổ chức tham gia BHTG đi vay vốn tại tổ chức tín
dụng khác.
Thứ ba, BHTG chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền tại tổ chức tham

gia BHTG bị giải thể, phá sản. Việc chi trả được thực hiện khi tổ chức tham gia BHTG bị
mất khả năng thanh toán phải chấm dứt hoạt động, ảnh hưởng tới niềm tin của người gửi
tiền đối với hoạt động ngân hàng của quốc gia. Đây là hoạt động nhằm đảm bảo quyền
lợi cho người gửi tiền, tạo tâm lý an tâm đối với người dân có tiền gửi, ngăn chặn việc rút
tiền hàng loạt tại các tổ chức tham gia BHTG khác từ đó góp phần đảm bảo cho hệ thống
ngân hàng hoạt động được ổn định.
Thứ tư, BHTG tham gia vào việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thông qua nghiệp
vụ tiếp nhận, xử lý: Đây là một trong những chức năng, nhiệm vụ rất quan trọng của tổ
chức BHTG theo mô hình giảm thiểu rủi ro, đặc biệt là trong giai đoạn xảy ra khủng
hoảng tài chính.
1.3 Kinh nghiệm BHTG của một số nước trong mạng an toàn tài chính quốc gia
1.3.1 Kinh nghiệm hoạt động BHTG của Nhật Bản
a, Tổ chức BHTG của Nhật Bản – DICJ
Năm 1970, đứng trước bối cảnh cạnh tranh mạnh mẽ đang diễn ra tại các thị trường
tài chính ở Nhật Bản, Ủy ban nghiên cứu tài chính Nhật Bản đã đề xuất triển khai chính
sách BHTG nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, duy trì một hệ thống tài chính có
trật tự. Ngày 1/4/1971 Luật BHTG được ban hành và 3 tháng sau đó Tổng công ty BHTG
Nhật Bản (DICJ) được thành lập. DICJ thực hiện 3 nội dung quan trọng: Một là, mua nợ
xấu từ tổ chức tài chính; hai là, hỗ trợ vốn cho tổ chức tài chính sáp nhập với tổ chức tài
chính có vấn đề; ba là, điều hành ngân hàng đổ bể được tiếp nhận.
Tham gia BHTG tại DICJ là bắt buộc đối với hầu hết tổ chức tài chính tư nhân. Vốn
hoạt động DICJ ban đầu hình thành từ ba nguồn đóng góp: Bộ tài chính Nhật Bản, Ngân
hàng trung ương và các tổ chức tài chính tư nhân, mức độ mỗi nguồn là 450 triệu Yên.
Vào tháng 4/1999, Tổng công ty thu hồi và xử lý (RCC) được thành lập theo hình
thức là một tổ chức trực thuộc DICJ. RCC có vai trò chính là thu hồi nhanh và hiệu quả
8


các khoản nợ xấu sử dụng các biện pháp công bằng và minh bạch, tối thiểu hóa việc sử
dụng quỹ công để giải quyết hậu quả của đóng cửa ngân hàng. DICJ đưa ra quy trình và

hướng dẫn hoạt động cho RCC đồng thời thực hiện những hoạt động đặc biệt theo thỏa
thuận với RCC,như:
 Đưa ra hướng dẫn và tư vấn cần thiết cho RCC để điều hành hoạt động của tổ

chức này.
 Kiểm tra tài sản của các con nợ trong các trường hợp có dấu hiệu của sự dấu diếm,
thiếu minh bạch hoặc gian lận.
 Thu hồi nợ từ các con nợ là những người mà tài sản đã bị cầm cố trong các trường
hợp phức tạp. Các hoạt động này nhằm tối thiểu hóa chi phí công bằng cách tối đa
hóa việc thu hồi nợ.
b, Kinh nghiệm hoạt động của DICJ
Thứ nhất, DICJ có thẩm quyền xử lý ngân hàng thông qua việc thành lập ngân hàng bắc
cầu (BB)
Trong trường hợp các cơ quan quản lý tài chính không thể tìm được một ngân hàng
tiếp quản ngay sau khi ngân hàng bị đổ vỡ, DICJ sẽ phải đứng ra thành lập một ngân
hàng bắc cầu. Chức năng của ngân hàng bắc cầu là tạm thời tiếp nhận, quản lý và duy trì
hoạt động của tổ chức tài chính bị đổ vỡ bằng một ban điều hành mới do DICJ chỉ định
cho đến khi đưa ra giải pháp xử lý cuối cùng nhằm tránh rủi ro hệ thống. Theo đó, ngân
hàng bắc cầu sẽ tiếp quản các tài sản tốt và các khoản tiền gửi được bảo hiểm nhằm tránh
rủi ro hệ thống.
Thứ hai, DICJ có quyền điều tra tài sản ngầm
Trên nguyên tắc chi phí tối thiểu, DICJ ủy quyền cho RCC thu hồi nợ xấu nhằm
tăng giá trị thu hồi, giảm bớt gánh nặng cho người nộp thuế. Theo Luật BHTG của Nhật
Bản, DICJ đã được trao quyền để tiến hành điều tra các tài sản ngầm bị che giấu. “Ban
điều tra đặc biệt” của DICJ bao gồm đội ngũ các chuyên gia từ: cơ quan thuế, cơ quan
công tố, cơ quan cảnh sát quốc gia, phòng hải quan, chuyên gia thuộc khối ngân hàng.

9



Hình 1.1: Mô hình phân tách trách nhiệm xử lý tổ chức tài chính bị đổ vỡ tại Nhật
Hội đồng các Cơ quan dịch vụ tài chính ban hành chỉ thịCơ
về quan
việc chuyển
quản (JFSA)

dịch vụgiao
tài chính
Áp dụng các thủ tục phục hồi dân sự

Tòa án
Các giao dịch liên tục; Tiền gửi, cho vay, vv
Những người gửi tiền
Những người vay tiền
Các chủ nợ thông thýờng

Cơ quan quản lý tài chính/Hỗ trợ tài chính

Tổ chức tài chính bị đổ vỡ
Định giá tài sản*

Chuyển quyền kinh doanh tạm thời
Trách nhiệm bảo trợ

Công ty xử lý và thu hồi nợ

Tài sản tốt

DICJ


Ngân hàng bắc cầu

Hỗ trợ tài chính
Hỗ trợ tài chính

Tổ chức tài chính tiếp quản

Tài sản xấu

Trong quá trình điều tra của mình, DICJ có quyền yêu cầu ngân hàng công khai
thông tin về tài khoản tiền gửi của các bên liên quan kể cả các thành viên gia đình chủ nợ,
các đối tác kinh doanh… Đồng thời, DICJ yêu cầu ngân hàng đệ trình hồ sơ về luồng tiền
mặt, phỏng vấn các bên liên quan để điều tra làm rõ luồng tiền mặt và tài sản.
Thứ ba, DICJ có quyền yêu cầu ngân hàng có kế hoạch khôi phục kinh doanh khả thi
Khi DICJ tiến hành hỗ trợ tài chính đối với tổ chức tài chính gặp khó khăn, DICJ có
quyền yêu cầu các tổ chức này thực hiện tái cơ cấu hoạt động của mình để tránh ảnh
hưởng tới các tổ chức lành mạnh nói riêng và toàn bộ khu vực kinh doanh nói chung.
Chính vì vậy, một trong những điều kiện cho việc cấp bổ sung vốn của DICJ thông qua
đăng ký mua cổ phiếu là tổ chức tài chính gặp khó khăn phải nộp một kế hoạch khôi
phục kinh doanh khả thi.
Thứ tư, DICJ có quyền yêu cầu cung cấp thông tin về người gửi tiền
Trong việc xử lý một tổ chức tài chính đổ vỡ, “Giải pháp ngày thứ 6 cuối tuần đến
thứ 2 đầu tuần” được áp dụng đối với biện pháp sử dụng ngân hàng tiếp nhận. Cụ thể,
việc chuyển giao tài khoản và thông tin khách hàng từ ngân hàng bị đổ vỡ sang ngân
hàng tiếp nhận chỉ diễn ra trong 2 ngày thứ bảy và chủ nhật ngay sau khi một ngân hàng
bị tuyên bố đóng cửa vào ngày thứ sáu. Đến ngày thứ hai tuần kế tiếp, tài khoản của
10


khách hàng ở ngân hàng bị đóng cửa lại được giao dịch bình thường tại ngân hàng tiếp

nhận.
Các tổ chức tài chính sẽ được yêu cầu phải lưu trữ thông tin của người gửi tiền theo
cách thức được DICJ quy định cụ thể và duy trì hệ thống máy tính cần thiết để lưu trữ
thông tin.
c. Nguyên nhân thành công của DICJ
Thứ nhất, nền tảng hình thành và cơ cấu tổ chức BHTG. Xuất phát điểm, Nhật Bản
khởi xướng triển khai chính sách BHTG theo mô hình chức năng hẹp, chỉ giới hạn thực
hiện chức năng chi trả. Trong hơn 20 năm đầu hoạt động, chính sách ‘‘ngân hàng không
thể đổ vỡ’’ đã làm cho sự tồn tại và phát triển của chính sách BHTG dường như bị lãng
quên và trở nên không cần thiết. 10 năm sau đó, DICJ tiếp cận và triển khai một số hoạt
động của chính sách BHTG theo mô hình giảm thiểu rủi ro để xử lý tức thời các đổ bể
ngân hàng xảy ra.
Thứ hai, sự nỗ lực của đội ngũ nhân sự tham gia triển khai chính sách BHTG ở Nhật
Bản, góp phần quyết định thành công của những đổi mới trong hoạt động BHTG ở Nhật
Bản trong hơn 10 năm gần đây, là kinh nghiệm quý báu cần được tham khảo. So với số
liệu nhân sự năm 2001, năm 2004 đội ngũ nhân sự tăng hơn 24 lần và năm 2010 tăng hơn
24 lần. Tính đến cuối năm 2010, DICJ đã truy cứu trách nhiệm của cá nhân có liên quan
tới sai sót gây đổ bể ngân hàng và thu hồi được 658,9 tỉ Yên (DICJ, 2010, tr.76).
Thứ ba,hoạt động nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế của DICJ được triển khai
bài bản, tích cực, là nền tảng cho đề xuất đổi mới, mở rộng vai trò của chính sách BHTG
ở Nhật Bản.
Thứ tư, nền tảng pháp lý triển khai chính sách BHTG được nghiên cứu và ban hành
trước khi triển khai chính sách. Trong quá trình triển khai, khi hoạt động BHTG được
nhận thức đầy đủ hơn về vai trò và chức năng, các thay đổi về nội dung hoạt động đã
được cụ thể hóa bằng các điều chỉnh, sửa đổi và bổ sung của Luật định.
1.3.2 Kinh nghiệm hoạt động BHTG của Mỹ
a, Tổ chức bảo hiểm tiền gửi của Mỹ - FDIC
11



Tổ chức BHTG đầu tiên trên thế giới được thành lập là Bảo hiểm tiền gửi liên bang
Mỹ (FDIC), chính thức hoạt động từ 2/1934. FDIC ra đời trong hoàn cảnh các vụ đổ vỡ
ngân hàng đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng đối với nước Mỹ. Ngay từ khi mới
thành lập, FDIC đã có 13.021 ngân hàng tham gia và 214 tổ chức tiết kiệm. Cho tới nay,
FDIC đã trở thành tổ chức điển hình trong việc triển khai đồng bộ ba loại nghiệp vụ và
phát huy tối đa hiệu quả của chính sách BHTG trong bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền,
kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng, là mô hình được nhiều nước trên thế giới
tham khảo để thành lập và cải tiến hoạt động BHTG.
Thành công gần đây nhất, kể từ khi khủng hoảng tài chính tại Mỹ xảy ra đến
30/6/2009, là việc FDIC đã xử lý êm thấm 123 ngân hàng bị đổ vỡ với tổng số dư tiền gửi
là 265 tỷ USD. Trong số đó có ngân hàng lớn như IndyMac với tổng tài sản 32 tỷ USD,
số dư tiền gửi hơn 19 tỷ USD, và hơn 270.000 tài khoản. Trong 90 ngày, FDIC đã hoàn
thành việc xử lý, chi trả cho người gửi tiền, mang lại uy tín cho FDIC nói riêng, hệ thống
tài chính Mỹ nói chung và khôi phục niềm tin của người gửi tiền đối với hệ thống tài
chính Mỹ.
b, Kinh nghiệm hoạt động của FDIC
Thứ nhất, cách thức tiến hành và xử lý đổ vỡ của FDIC. Khi tổ chức tham gia
BHTG bị phá sản, FDIC được chỉ định làm người tiếp nhận và chịu trách nhiệm xử lý tài
sản nhằm thu hồi một cách nhanh nhất với giá trị tối đa có thể. Ngay sau khi cơ quan có
thẩm quyền ra lệnh đóng cửa ngân hàng, FDIC tiến hành soạn thảo hợp đồng mua bán và
sang nhượng cho ngân hàng thứ ba. Ngân hàng này sẽ tiếp quản các khoản tiền gửi và
một phần hoặc toàn bộ tài sản của ngân hàng đổ vỡ. Công tác chuyển giao được thực hiện
trong hai ngày cuối tuần. Đến ngày thứ hai tuần kế tiếp, toàn bộ tiền gửi được giao dịch
bình thường tại ngân hàng tiếp nhận. Khách hàng vẫn có thể giao dịch bình thường thông
qua việc kí phát séc, dùng ATM và thẻ tín dụng.
Nếu chưa có ngân hàng nào đứng ra mua lại, FDIC sử dụng nghiệp vụ ngân hàng
bắc cầu để tái cơ cấu và quản lý hoạt động ngân hàng đổ vỡ dưới tên gọi mới cho đến khi
có ngân hàng mua lại.
12



Thứ hai, biện pháp khắc phục tình trạng thiếu vốn của FDIC.
Biện pháp đảm bảo thanh khoản tạm thời
FDIC quy định tạm thời tăng giới hạn cơ bản hạn mức chi trả BHTG liên bang cho
(i)

các ngân hàng, các định chế huy động tiền tiết kiệm và các quỹ tín dụng từ mức 100.000
USD lên 250.000 USD đối với mỗi người gửi tiền cho đến ngày 31/12/2013.Từ ngày
01/1/2014 mức này sẽ trở lại 100.000 USD đối với tất cả danh mục tài khoản tiền gửi
ngoại trừ tài khoản tiền gửi hưu trí vẫn giữ ở mức 250.000 USD. Với khoản tăng này,
Chính Phủ Mỹ hy vọng sẽ tăng thêm bình ổn cho người dân Mỹ. Đặc biệt các doanh
nghiệp nhỏ sẽ được hưởng lợi vì phần lớn các doanh nghiệp loại này gửi vượt hạn mức
chi trả trước đó. Đồng thời cũng tạo thêm tính thanh khoản cho hệ thống tài chính Mỹ vì
tránh được các trường hợp rút tiền ồ ạt của người gửi tiền.
Trong vòng 30 ngày đầu thực hiện chương trình, những đối tượng tham gia không bị
tính phí. Điều đáng chú ý là chương trình này không dựa trên những quỹ từ nguồn thu
thuế, hoặc dựa trên Quỹ BHTG. Các khoản bảo đảm FDIC cung cấp là những khoản lớn
và có sự hỗ trợ bảo đảm hoàn toàn của Chính Phủ Mỹ, Luật tạm thời quy định phí tham
dự để bù đắp chi phí.
(ii)

Triển khai chương trình cho vay kế thừa

Bộ tài chính Mỹ và FDIC thiết lập cho vay kế thừa (LPP) để xóa các khoản nợ và
các tài sản khác có vấn đề tại các ngân hàng. Chương trình này là cần thiết bởi vì sự thiếu
chắc chắn về giá trị của các tài sản này làm cho các ngân hàng khó nâng cao nguồn vốn
và đảm bảo sự tài trợ ổn định để hỗ trợ việc cho vay đối với các hộ gia đình và doanh
nghiệp. Tất cả các định chế nhận tiền gửi được bảo hiểm đều thích hợp để tham gia
chương trình này.
Bảng 1.1 BHTG của FDIC trước khi có thay đổi năm 2008

(Tất cả các tỷ lệ phí bảo hiểm được niêm yết bằng cent cho mỗi 100USD)

Tiêu chuẩn về vốn

Mức độ rủi ro do các cơ quan giám sát đánh giá
Nhóm A

Nhóm B

Nhóm C

Tốt

0

3bps

17bps

Hợp lý

3bps

10bps

24bps
13


Thiếu hụt


10bps

24bps

27bps

sau khi có thay đổi
Tiêu chuẩn về vốn Mức độ rủi ro do các cơ quan giám sát đánh giá
Nhóm A

Nhóm B

Nhóm C

Tốt

I (12bps-16bps)

II (22bps)

III (32bps)

Hợp lý

II (22bps)

Thiếu hụt

III (32bps)


IV (45bps)

Nguồn: FDIC ( BHTG liên bang Mỹ)

c, Nguyên nhân thành công của FDIC
Thứ nhất, trước những hoang mang của người gửi tiền tại các ngân hàng bị mất khả
năng thanh toán, nhờ quy trình xử lý các vụ đổ vỡ ngân hàng rõ ràng, nhanh chóng và kịp
thời, với biện pháp được sử dụng là ngân hàng tiếp nhận và nghiệp vụ ngân hàng bắc cầu,
FDIC đã dập tắt sự hoang mang dao động của công chúng.
Thứ hai, cơ sở pháp lý cho hoạt động BHTG của Mỹ rất vững chắc. Các bộ luật, quy
định chi phối hoạt động của FDIC khá hoàn thiện.
Thứ ba, nguồn tài chính và cơ chế huy động tài chính thích ứng với đặc thù và vai
trò quan trọng của chính sách BHTG trong giải quyết rủi ro của lĩnh vực tài chính-ngân
hàng. Sau 75 năm hoạt động, FDIC đã xây dựng được một quỹ BHTG lên đến 52 tỷ USD
và hiện tại số dư quỹ là 45 tỷ USD. Theo luật BHTG Mỹ, tỷ lệ dự trữ trên tổng số tiền
được bảo hiểm cần đạt được dao động từ 1.15% tới 1.5%, đây là mức cao thứ 9 trên thế
giới. Tâm lý người dân được xoa dịu khi FDIC quyết định tăng hạn mức chi trả bảo hiểm
cho mọi đối tượng lên tối đa 250.000 USD trên mỗi tài khoản nhằm bảo vệ tốt hơn quyền
lợi của người gửi tiền ( năm 1934 tối đa là 2500 USD trên mỗi tài khoản).

14


Thứ tư, nguồn nhân lực thực hiện công tác giám sát hoạt động ngân hàng ở Mỹ được
đầu tư đáng kể so với nhiều quốc gia khác. FDIC đã cử 4.000 kiểm tra viên thực hiện
công tác kiểm tra, giám sát các ngân hàng nhằm đánh giá tiêu chí là thành viên của FDI.

15



CHƯƠNG II
VAI TRÒ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM TRONG MẠNG AN
TOÀN TÀI CHÍNH QUỐC GIA
2.1 Chính sách bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam
2.1.1 Đối tượng được bảo hiểm
Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của người gửi tiền là cá
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi, trừ những trường hợp sau đây:
 Tiền gửi của người gửi tiền là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ

trên 10% vốn cổ phần có quyền bỏ phiếu của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
đó.
 Tiền gửi của người gửi tiền là thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Tổng
giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi đó.
 Tiền gửi dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người gửi tiền.
 Tiền mua các giấy tờ có giá, trừ một số giấy tờ có giá theo hướng dẫn của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
2.1.2 Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi
Các tổ chức tín dụng và tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được phép thực hiện
một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng có nhận tiền
gửi của tổ chức, cá nhân phải tham gia BHTG bắt buộc.
Các tổ chức tham gia BHTG phải niêm yết công khai về việc tham gia bảo hiểm tiền
gửi tại trụ sở và các địa điểm giao dịch.
Trong hoạt động BHTG có ba đối tác có liên quan trực tiếp trong hợp đồng BHTG.
Đó là: tổ chức BHTG (là đối tác nhận đóng góp tài chính từ tổ chức tham gia BHTG và
có trách nhiệm thực hiện chi trả tiền bảo hiểm tới người gửi tiền thuộc đối tượng được
bảo hiểm khi tổ chức tham gia BHTG mất khả năng thanh toán), tổ chức tham gia BHTG
là các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng có hoạt động huy động tiền gửi

16


và người gửi tiền có tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG
(những người gửi tiền này không phải đóng góp tài chính cho tổ chức BHTG nhưng có
quyền yêu cầu tổ chức BHTG thanh toán tiền gửi kể cả tiền lãi tích lũy trên tiền gửi đó
trong hạn mức chi trả hoặc thanh toán toàn bộ tiền gửi).
2.1.3 Phí BHTG
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà tổ chức tham gia BHTG phải nộp cho tổ chức BHTG
để thực hiện việc BHTG cho người gửi tiền khi có sự kiện bảo hiểm phát sinh. Như vậy,
có thể hiểu, khi tham gia vào quan hệ BHTG thì tổ chức nhận tiền gửi từ các tổ chức, cá
nhân sẽ phải nộp cho tổ chức nhận BHTG một khoản tiền nhất định – đó là phí bảo hiểm.
Theo quy định tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP, Nghị định 109/2005/NĐ-CP và
Thông tư số 03/2006/TT-NHNN ngày 25/04/2006 thì hàng năm, tổ chức tham gia BHTG
phải nộp phí BHTG cho DIV là 0.15% tính trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền
gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Khoản phí này phải được tổ chức tham
gia BHTG nộp cho tổ chức nhận bảo hiểm theo định kỳ hàng quý – một năm 4 lần, và
chậm nhất là ngày 20 tháng đầu tiên của từng quý.
2.1.4 Hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm
Hạn mức chi trả BHTG của Việt Nam qua thời gian hình thành và phát triển đã trải
qua một số thay đổi. Từ khi thành lập BHTG Việt Nam năm 2000, hạn mức chi trả BHTG
của Việt Nam đã ở mức 30 triệu đồng. Từ đó đến nay chỉ có một lần hạn mức chi trả
BHTG được tăng lên mức tối đa 50 triệu đồng cho mỗi người gửi tiền tại một tổ chức
tham gia BHTG vào năm 2005, và hạn mức này được duy trì cho đến nay.
Tuy nhiên, nếu so sánh quá trình này với tình hình lạm phát của Việt Nam, thì hạn
mức chi trả BHTG hiện nay đang khá là bất cập. Trước năm 2005, lạm phát ở Việt Nam
được duy trì ở mức thấp, thậm chí còn có thời kỳ giảm phát, tuy nhiên từ sau năm này trở
đi, lạm phát ở mức cao, cá biệt là năm 2008 (23,1%) và năm nay (2011) mới 7 tháng đầu
năm mà chỉ số giá tiêu dùng đã lên đến 14,6% so với đầu năm. So sánh với tương quan
tốc độ tăng trưởng GDP trong các năm thì lạm phát hiện nay đã trở nên rất cao so với thời

kỳ trước năm 2005. Ðiều này làm giảm đáng kể giá trị đồng tiền (cụ thể đồng VND mất
17


giá khoảng 30% so với USD từ năm 2005), khiến cho hạn mức chi trả BHTG trở thành
không còn phù hợp diễn biến giá cả.
2.2 Vai trò hoạt động BHTG Việt Nam trong mạng ATTCQG
2.2.1 Hoạt động thu phí BHTG
Phí BHTG là nguồn thu quan trọng của hệ thống BHTG nhằm đảm bảo nguồn tài
chính để triển khai nghiệp vụ BHTG do đó công tác thu phí bảo hiểm có vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo quỹ BHTG đủ lớn để triển khai hoạt động BHTG hiệu quả. Về
phía tổ chức tham gia BHTG, phí BHTG là một khoản chi phí cho hoạt động kinh doanh.
Từ khi thành lập đến nay, phí bảo hiểm được tính và áp dụng theo cơ chế phí đồng hạng.
Các tổ chức tham gia BHTG không phân biệt loại hình sở hữu, quy mô hoạt động, hiệu
quả kinh doanh,… đều nộp cùng một mức phí là 0,15%/năm trên số dư tiền gửi được bảo
hiểm. Tuy nhiên, việc áp dụng mức phí BHTG đồng hạng đối với tổ chức tham gia
BHTG đã bộc lộ những hạn chế, khi nền kinh tế chuyển dịch mạnh sang lĩnh vực tài
chính ngân hàng. Từ đó đòi hỏi việc nghiên cứu và triển khai hệ thống phí trên cơ sở đo
lường mức độ rủi ro theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Cuối năm 2008, Bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam (DIV) đã hoàn thành đề án nghiên cứu “Hệ thống phí bảo hiểm tiền gửi
theo mức độ rủi ro” để trình lên Chính Phủ. Đề án được xây dựng trên cơ sở các thông lệ
quốc tế, tham chiếu các quy định của NHNN và tính thử trên số liệu thực tế.
Từ năm 2004, 100% nguồn thu phí bảo hiểm được DIV bổ sung vào Quỹ nghiệp vụ
BHTG. Tính đến 31/12/2008, BHTG Việt Nam thu phí BHTG đối với 1103 đơn vị với
tổng số phí thực nộp năm 2008 khoảng 684 tỷ đồng, tăng 42% so với năm 2007.
Biểu đồ 2.1. Kết quả thu phí BHTG giai đoạn 2000 – 2008
Đơn vị: tỷ VNĐ
Nguồn: Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

Tổng số phí bảo hiểm tiền gửi thu được lũy kế đến cuối năm 2010 đạt 4.468 tỷ

đồng, số thu phí hàng năm tăng trung bình trên 20%. Có thể nói, đây là nguồn lực quan
trọng nhằm đảm bảo nguồn vốn thực hiện các hoạt động nghiệp vụ BHTG, chi trả cho
người gửi tiền hoặc xử lý các tổ chức tài chính gặp vấn đề.

18


2.2.2 Hoạt động chi trả tiền bảo hiểm và thu hồi nợ sau chi trả tiền BH
Các tổ chức tham gia BHTG bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là không
có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn, trong vòng 60 ngày kể từ ngày cơ
quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản yêu cầu tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
chấm dứt các giao dịch để tiến hành thanh lý hoặc kể từ ngày Toà án quyết định mở thủ
tục thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật về
phá sản, DIV có trách nhiệm tiến hành trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại tổ chức
tham gia BHTG.
Cho đến nay, DIV đã thực hiện trả tiền bảo hiểm đối với 37 QTDND cơ sở tại 11
tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, Bắc Giang, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Kiên
Giang, Long An, Nam Định, Quảng Ngãi, Thái Bình và Vĩnh Phúc. Tổng số tiền DIV đã
chi trả trong những năm qua là 18,79 tỷ đồng cho 1.519 người gửi tiền, chiếm 0,27%
tổng nguồn vốn của DIV. Sau khi trả tiền BH cho người gửi tiền, tổ chức BHTG trở thành
chủ nợ của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đối với số tiền BHTG. Thực tế, sau khi chi
trả cho người gửi tiền tại QTDND cơ sở bị đổ vỡ, DIV tham gia Hội đồng thanh lý với tư
cách là chủ nợ của QTDND cơ sở bị đổ vỡ. Số tiền thu hồi được từ việc thanh lý QTDND
cơ sở được bù đắp cho quỹ BHTG.
Trong năm 2010, DIV tiếp tục theo dõi và tham gia thanh lý tại 35 QTDND bị giải
thể nằm trên địa bàn 10 tỉnh, thành phố. Tổng số tiền DIV thu hồi được trong năm 2010
là 2 tỷ đồng, lũy kế đến hết năm 2010 là 10.6 tỷ đồng. Đến tháng 12/2010, tổng số tiền
DIV đã thu hồi được là hơn 7,63 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 40% so với tổng số tiền mà DIV đã chi
trả. Việc thu hồi số tiền đã chi trả góp phần bù đắp cho quỹ BHTG để bảo đảm dự phòng
chi trả cho các trường hợp phải chi trả tiếp theo.

2.2.3 Hoạt động kiểm tra, giám sát của tổ chức BHTG đối với các tổ chức tham gia
BHTG
Quyết định 218/1999/QĐ-TTg đã trao cho DIV nhiệm vụ kiểm tra việc chấp hành
các quy định về BHTG và các quy định về an toàn trong hoạt động của các tổ chức tham
gia BHTG. Với mục tiêu tạo điều kiện cho các NH phát triển ổn định, an toàn, DIV thực
hiện chức này thông qua hai hình thức là giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ, trong đó giám
19


sát từ xa là chủ yếu. Việc kiểm tra tại chỗ chủ yếu tập trung vào việc chấp hành các quy
định về bảo hiểm tiền gửi như niêm yết chứng nhận, chế độ thông tin báo cáo, việc tính
và nộp phí. Năm 2010, BHTG đã hoàn thành việc kiểm tra hệ thống Ngân Hàng Đầu Tư
và Phát Triển Việt Nam (BIDV), hệ thống NH Công Thương Việt Nam (Vietinbank), 21
NH TMCP, 9 Chi nhánh NHNN, 179 QTDND và 6 tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Công tác giám sát được thực hiện định kỳ hàng quý đối với các tổ chức tham gia
BHTG, tập trung vào việc chấp hành các chỉ tiêu an toàn hoạt động của tổ chức tham gia
BHTG như khả năng về vốn, chất lượng tín dụng, khả năng thanh khoản. Việc giám sát từ
xa được coi là hệ thống cảnh báo sớm để xác định những rủi ro tiềm ẩn của các tổ chức
tham gia BHTG, từ đó đề xuất biện pháp giúp họ sớm khắc phục và phòng ngừa. Các chỉ
tiêu giám sát của DIV được xây dựng trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu đánh giá chung của
NHNN về hoạt động của TCTD. Tính đến 31/12/2010 thì BHTGVN đã thực hiện giám
sát định kỳ với 100% tổ chức tham gia BHTG bao gồm 80 NHTM, 11 TCTD phi ngân
hàng, QTDND Trung Ương và 1018 QTDND cơ sở.
Qua quá trình giám sát, kiểm tra đối với các tổ chức tham gia BHTG, DIV đã phát
hiện ra các sai phạm, chủ yếu liên quan đến việc thực hiện quy định của pháp luật về
BHTG. Tính đến hết tháng 12/2010, DIV đã tiến hành 2.722 cuộc kiểm tra. Hoạt động
thanh tra, giám sát của tổ chức bảo hiểm tiền gửi chủ yếu tập trung vào kiểm tra QTDND
với 2.439 cuộc (chiếm 89,6% tổng số cuộc kiểm tra), trong khi đó số cuộc kiểm tra
NHTM trong nước chỉ là 167 cuộc (6,1%), chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 86 cuộc
(3,2%), ngân hàng 100% vốn nước ngoài là 04 cuộc (0,1%) và công ty tài chính là 27

cuộc chiếm 1%. Qua kiểm tra, DIV đã phát hiện hơn 86 trường hợp tính thiếu phí BHTG
và thu về cho quỹ BHTG trên 32 tỷ đồng. Ngoài ra, DIV đã phát hiện và kiến nghị khắc
phục các tồn tại, sai phạm về niêm yết Chứng nhận BHTG, về quản lý, hạch toán tiền gửi
thuộc đối tượng bảo hiểm, chấp hành quy định thông tin báo cáo đối với DIV. Các kiến
nghị của DIV đã được các tổ chức tham gia BHTG tiếp thu chỉnh sửa nghiêm túc và có
chuyển biến tích cực.
Biểu đồ 2.2: Các tổ chức tham gia BHTG được kiểm tra đến hết 12/2010

20


Nguồn: Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

2.2.4 Hoạt động hỗ trợ tài chính đối với các tổ chức tham gia BHTG
Cho vay hỗ trợ tài chính đối với tổ chức tham gia BHTG có nguy cơ mất khả năng
chi trả là trách nhiệm của DIV và là quyền lợi của tổ chức tham gia BHTG. Tuy nhiên,
trong điều kiện tiềm lực tài chính của DIV còn hạn chế, các cơ chế xử lý rủi ro chưa được
ban hành đồng bộ, việc tổ chức tham gia BHTG sử dụng các hỗ trợ tài chính để chi trả sẽ
có nhiều khả năng làm tăng rủi ro cho DIV, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu và áp dụng
thận trọng. Sau 3 năm triển khai thực hiện đề án thí điểm nghiệp vụ hỗ trợ tài chính,
chương trình cho vay hỗ trợ tài chính đối với QTDND cơ sở của DIV đã có những thành
công nhất định. Cho đến nay thì DIV đã tiếp nhận xử lý trên 40 bộ hồ sơ đề nghị vay vốn
hỗ trợ. Tính đến thời điểm 31/12/2010, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã thí điểm cho vay
hỗ trợ đối với 05 QTDND cơ sở với tổng số tiền là 6.932 triệu đồng, chiếm 0,1% tổng
nguồn vốn của DIV. Trong số 05 QTDND cơ sở được hỗ trợ, 04 quỹ đã hoạt động trở lại
bình thường và hoàn trả đầy đủ số tiền hỗ trợ cho DIV.
2.2.5 Hoạt động tuyên truyền
Theo quy định tại Quyết định 218/1999/QĐ-TTg và Quyết định 75/2000/QĐ-TTg,
DIV có nhiệm vụ tuyên truyền về bảo hiểm tiền gửi đối với công chúng. Công tác thông
tin tuyên truyền đã được đổi mới như truyền thông qua các hội nghị, hội thảo, triễn lãm,

xuất bản tờ thông tin DIV và thường xuyên cập nhật thông tin các tin bài liên quan trên
website của DIV, phối hợp với các cơ quan truyền thông, thực hiện tuyên truyền trên các
phương tiện thông tin đại chúng về chính sách và hoạt động của DIV. Việc đẩy mạnh hoạt
động quan hệ công chúng trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã góp phần tạo
dựng lòng tin của người dân yên tâm gửi tiền vào ngân hàng, không gây ra sự cố rút tiền
hàng loạt khi có thông tin về đổ vỡ ngân hàng trên thế giới, qua đó nâng cao vị thế, vai
trò của DIV trong việc đảm bảo cho hệ thống ngân hàng phát triển ổn định, bền vững.
2.3 Đánh giá hoạt động BHTG Việt Nam trong mạng an toàn tài chính quốc gia
2.3.1 Thành tựu
Sau hơn 10 năm hoạt động, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) đã có những
đóng góp quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, tạo tâm lý an toàn và
21


niềm tin của người dân đối với các tổ chức huy động tiền gửi, và bảo đảm sự phát triển
ổn định của hệ thống TC – NH, tránh đổ vỡ dây chuyền. Cụ thể, DIV đã đạt được thành
tựu ở những mặt sau:
Thứ nhất, DIV đã từng bước công khai hoá chính sách BHTG: quy định bắt buộc
đối với các tổ chức tín dụng tham gia BHTG, đối tượng tiền gửi được bảo hiểm, hạn mức
chi trả BHTG, phí BHTG,… để các tổ chức tín dụng và người gửi tiền biết và hiểu rõ.
Thứ hai, thông qua công tác chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền, DIV
đã làm tốt vai trò bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Sau một thời gian đi vào hoạt
động, DIV đã thực hiện chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền tại một số
QTDND hoạt động không hiệu quả, buộc phải giải thể. Cho đến nay, DIV đã thực hiện
chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho 1.519 người gửi tiền tại 37 QTDND cơ sở tại 11 tỉnh,
thành phố với tổng số tiền 18,79 tỷ VNĐ, chiếm 0,27% tổng nguồn vốn của DIV. Việc chi
trả kịp thời này đã góp phần tạo lập lòng tin của người gửi tiền với hệ thống ngân hàng,
ngăn chặn sự đổ vỡ dây chuyền trong hệ thống QTDND.
Thứ ba, DIV thực hiện giám sát 100% các tổ chức tham gia BHTG, đưa ra kiến
nghị, cảnh báo, giúp các tổ chức khắc phục sai phạm và có biện pháp phòng ngừa rủi ro.

Thứ tư, DIV hỗ trợ tài chính đối với các tổ chức tham gia BHTG tạm thời gặp khó
khăn về chi trả, giúp các tổ chức này hoạt động bình thường trở lại. Hiện nay, nghiệp vụ
này mới chỉ áp dụng cho các QTDND cơ sở.
Thứ năm, DIV đã hoàn thành đề án “Hệ thống phí bảo hiểm tiền gửi theo mức độ
rủi ro”. Nếu được áp dụng, hệ thống này sẽ giúp cho hệ thống tài chính quốc gia minh
bạch và khách quan hơn, khuyến khích các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn hơn, nâng
cao niềm tin của người gửi tiền với tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính quốc gia.
Thứ sáu, DIV đã tích cực hội nhập khu vực và quốc tế, thông qua việc gia nhập
Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI), thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính lớn
như WB, ADB,…, học hỏi kinh nghiêm về xử lý các ngân hàng trong và sau khủng
hoảng, kinh nghiệm phối hợp với các cơ quan trong mạng an toàn tài chính.

22


2.3.2 Hạn chế
Thứ nhất, tiền gửi được bảo hiểm chỉ được giới hạn ở VND. Theo khảo sát của Bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam tháng 6/2007, tổng số tiền bằng USD đạt 12,401 triệu USD. Số
khách hàng tham gia gửi tiền USD đạt 1,28 triệu, trong đó khách hàng cá nhân đạt 1,1
triệu. Như vậy, thực tế, có một số lượng lớn người gửi tiền không được bảo vệ.
Thứ hai, năng lực tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi thấp (tổng nguồn vốn của
DIV đạt 6.939,8 tỷ VNĐ tính đến hết 31/12/2010), chỉ đạt xấp chỉ 1% tổng số dư tiền gửi
được bảo hiểm, trong khi thông lệ quốc tế là 1,5%-5%. Hạn chế về năng lực tài chính sẽ
khiến DIV gặp khó khăn trong quá trình triển khai các nghiệp vụ, nhất là can thiệp, xử lý
đối với tổ chức tham gia BHTG khi xảy ra khủng hoảng mang tính hệ thống.
Thứ ba, phí BHTG được tính trên cơ sở đồng hạng, tổ chức tín dụng hoạt động tốt
cũng đóng phí như tổ chức tín dụng hoạt động kém, không tạo ra khả năng kích thích tính
cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng.
Thứ tư, hạn mức chi trả hiện nay của DIV là 50 triệu VND, còn thấp so với
GDP/người là khoảng 1000USD. Trong khi đó, theo thông lệ quốc tế, hạn mức chi trả

tiền gửi dao động từ 1 đến 9 lần GDP/người. Hạn mức chi trả tiền gửi thấp chưa đủ sức
tạo niềm tin đối với người gửi tiền.
Thứ năm, DIV hoạt động theo mô hình chi trả với quyền hạn mở rộng, còn thụ
động. Quy chế pháp lý hiện hành quy định DIV chỉ được hỗ trợ tài chính cho các tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi khi NHNN có văn bản xác định rằng việc giải thể, phá sản của
tổ chức đó có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự an toàn của hệ thống tài chính. Như vậy,
việc hỗ trợ tài chính của DIV phụ thuộc vào quyết định của NHNN, trong khi đó, DIV
phải có trách nhiệm đứng ra chi trả tiền gửi được bảo hiểm nếu tổ chức tham gia BHTG
bị giải thể, phá sản.
Thứ sáu, công tác kiểm tra, giám sát còn nhiều bất cập. Hệ thống thông tin khách
hàng còn yếu và phân tán. Công tác giám sát từ xa chủ yếu dựa vào việc phân tích các
báo cáo tài chính do tổ chức tham gia BHTG cung cấp, số liệu không phải lúc nào cũng
đầy đủ, chính xác.
23


Thứ bảy, chưa có sự phối hợp giữa DIV với các cơ quan khác trong hệ thống giám
sát tài chính quốc gia trong việc chia sẻ thông tin, giám sát hoạt động của hệ thống tài
chính – ngân hàng. Pháp luật không quy định rõ về nội dung, thời điểm giám sát, việc
phân cấp trong quá trình giám sát của thanh tra NHNN và DIV dẫn đến sự chồng chéo
hoặc bỏ trống trong công tác giám sát.

24


CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI
TRONG MẠNG AN TOÀN TÀI CHÍNH QUỐC GIA
3.1 Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động BHTG tại Việt Nam
So với Nghị định 89/1999/NĐ-CP, Nghị định 109/2005/NĐ-CP được đánh giá có

nhiều tiến bộ hơn như: Xác định rõ hơn vị thế của BHTGVN trong hệ thống tài chính
quốc gia; Bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền (Ngoài cá nhân,
đối tượng người gửi tiền được bảo hiểm đã mở rộng thêm gồm hộ gia đình, tổ hợp tác,
DN tư nhân và Công ty hợp danh); Mức tiền chi trả bảo hiểm được nâng lên tối đa là 50
triệu đồng; Mức phí BHTG được điều chỉnh theo sự đánh giá của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền về chất lượng hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi;…
Tuy nhiên, nhiều vấn đề đòi hỏi cần được tiếp tục chỉnh sửa và hoàn thiện khi ban
hành Luật BHTG, cụ thể:
3.1.1 Tiền gửi được bảo hiểm
Theo Nghị định 109/2005/NĐ-CP, tiền gửi được bảo hiểm là đồng Việt Nam, bao
gồm các loại tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn của cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác,
DNTN và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia BHTG. Thực tế hiện nay hoạt động
gửi tiền bằng đồng ngoại tệ tại Việt Nam vẫn chưa thuộc đối tượng được bảo hiểm. Từ
thực tiễn hoạt động BHTG, TC - NH, Luật BHTG cần mở rộng tiền gửi được bảo hiểm,
bao gồm cả tiền gửi nội tệ và ngoại tệ để đảm bảo công bằng và bình đẳng trong nền kinh
tế, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền bằng ngoại tệ.
Xuất phát từ mục đích của chính sách BHTG là bảo vệ người gửi tiền và phát triển
hoạt động ngân hàng, việc mở rộng loại tiền gửi được bảo hiểm còn thu hút nhiều tiền
gửi, hoạt động ngân hàng được ổn định và phát triển, hệ thống tài chính quốc gia ổn định.
3.1.2 Phí bảo hiểm tiền gửi
Khung pháp lý hiện tại quy định phí BHTG đồng hạng và khi đủ điều kiện sẽ áp
dụng theo mức độ rủi ro đối với tổ chức tham gia BHTG. Phí BHTG trên cơ sở rủi ro là
một loại phí tiên tiến, theo đó, các tổ chức tham gia BHTG phải nộp phí theo mức tương
25


×