Tải bản đầy đủ (.pdf) (362 trang)

Ky yeu hoi thao Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.54 MB, 362 trang )

KỶ YẾU HỘI THẢO

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC TẠI VIỆT NAM

− KỶ YẾU HỘI THẢO −

Thực trạng chất lượng

nguồn nhân lực
tại Việt Nam
trong khuôn khổ Đề tài
“Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
trong cơ chế thị trường”
Mã số KHGD/16-20.ĐT.019, thuộc Chương trình KHGD Quốc gia

10.2018

10. 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

− KỶ YẾU HỘI THẢO −


Thực trạng chất lượng

nguồn nhân lực
tại Việt Nam
trong khuôn khổ Đề tài
“Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
trong cơ chế thị trường”
Mã số KHGD/16-20.ĐT.019
thuộc Chương trình KHGD Quốc gia

10. 2018



MỤC LỤC
ĐỀ DẪN HỘI THẢO ........................................................................................................... 1
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC ............. 3
1. Một số vấn đề lý luận về khái niệm phát triển nguồn nhân lực...................................... 5
Lê Thị Kim Huệ
2. Định hướng mới của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện
nay theo tinh thần đại hội Đảng lần thứ XII ..................................................................... 11
Nguyễn Thị Hiếu
3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
và thực tiễn ở Đà Nẵng hiện nay ....................................................................................... 19
Lê Đức Thọ
4. Vai trò của vốn xã hội trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện
nay ...................................................................................................................................... 27
Từ Thị Thanh Mỵ
5. Lao động nữ và nghèo đô thị trong nền kinh tế phi chính quy..................................... 33

Dương Trường Phúc
6. Xây dựng tiêu chí đánh giá năng lực nguồn nhân lực giáo dục – đào tạo trong bối cảnh
hiện nay .............................................................................................................................. 44
Trần Thị Trang
7. Tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực khoa học công nghệ tại Việt Nam trước cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 ......................................................................................................... 54
Lê Thị Ngọc Lan; Chu Mai Phương; Lương Anh Phương
8. Phương pháp đánh giá chất lượng nguồn nhân lực trong ngành dịch vụ khách sạn .. 65
Phạm Thị Mai Anh
PHẦN 2: THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TẠI VIỆT NAM ............ 77
9. Mô hình phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu giáo dục của hộ gia đình Việt Nam
............................................................................................................................................ 79
Hoàng Thanh Nghị
10. Hoàn thiện thể chế tạo thuận lợi cho dịch chuyển lao động có tay nghề trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ............................................................................. 92
Hoàng Xuân Hòa
11. Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị chính sách
.......................................................................................................................................... 101
Trần Thị Thu Hương
12. Thực trạng nguồn nhân lực nữ Việt Nam hiện nay và giải pháp phát triển ............ 111
Nguyễn Thị Tố Uyên
13. Nguồn nhân lực nông thôn Việt Nam – Thực trạng và giải pháp............................. 122
Nguyễn Như Triển; Nguyễn Đỗ Trường Sơn


14. Tăng cường đào tạo nghề đối với lao động dân tộc thiểu số - yếu tố quan trọng góp
phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam..................................................... 127
Nguyễn Mai Phương
15. Vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay ................. 133
Nguyễn Thị Thủy

16. Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay............................................................................................................ 141
Thân Thị Hạnh
17. Phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao của tỉnh Quảng Ninh................. 149
Lê Thị Ngọc Lan; Nguyễn Thị Sâm
18. Chất lượng nhân lực ngành Nhà hàng – Khách sạn trong bối cảnh hội nhập quốc tế
hiện nay ............................................................................................................................ 160
Nguyễn Tấn Danh
19. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực ngành logistics tại Việt Nam ......................... 172
Lê Thị Thanh Ngân
20. Chất lượng nhân lực ngành đóng tàu –nghiên cứu từ các doanh nghiệp điển hình tại
Hải Phòng ......................................................................................................................... 183
Nguyễn Thái Sơn; Hoàng Thị Thuý Phương
21. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu hình thành và phát triển
trung tâm chế biến - chế tạo thế giới ở Việt Nam ........................................................... 196
Phan Thế Công
22. Nhân lực kế toán-kiểm toán tại Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế........... 211
Hà Thị Phương Dung
PHẦN 3: KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TẠI MỘT SỐ QUỐC
GIA TRÊN THẾ GIỚI .................................................................................................... 217
23. Chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân lực quốc gia của Singapore và các bài
học kinh nghiệm ............................................................................................................... 219
Nguyễn Thu Thủy; Nguyễn Thị Tùng Lâm
24. Phát triển nguồn nhân lực quốc gia của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm........ 238
Nguyễn Thu Thủy; Tăng Thị Thanh Thủy
25. Chính sách phát triển giáo dục đại học của Hoa Kỳ và một số bài học kinh nghiệm
.......................................................................................................................................... 250
Nguyễn Thị Tùng Lâm; Nguyễn Thu Thủy, Lê Thị Ngọc Lan
26. Chính sách thu hút nhân tài của Chính phủ Hoa Kỳ ............................................... 268
Đào Thị Thu Giang, Nguyễn Thị Tùng Lâm, Nguyễn Phương Chi; Vũ Thị Kim Oanh

27. Bài học kinh nghiệm về tuyển chọn nhân tài trong khu vực kinh tế tư nhân của Hoa
Kỳ ..................................................................................................................................... 297
Nguyễn Thị Tùng Lâm; Cao Đinh Kiên; Nguyễn Lệ Hằng
28. Bài học kinh nghiệm của úc trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực công vụ
.......................................................................................................................................... 311
Đào Thị Thu Giang; Nguyễn Phương Chi; Phan Thị Yến


29. Chiến lược phát triển giáo dục đại học và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực – Phân
tích từ kinh nghiệm của Malaysia ................................................................................... 325
Nguyễn Thu Thủy; Lê Thị Ngọc Lan; Nguyễn Phương Hạnh
30. Kinh nghiệm quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ ........... 335
Lê Thị Ngọc Lan; Hoàng Anh Duy; Nguyễn Thanh Thanh Huyền
31. Nâng cao hiệu quả quản trị nguồn nhân lực của Việt Nam từ kinh nghiệm thực tiễn
của một số quốc gia trên thế giới ..................................................................................... 346
Đặng Thị Phước Toàn



ĐỀ DẪN HỘI THẢO
Nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Các nghiên cứu và số liệu thống kê cho thấy Việt Nam
đang ở thời kỳ cơ cấu dân số vàng với lại nhiều lợi thế về nguồn nhân lực cho phát triển kinh
tế - xã hội. Đồng thời, năng suất lao động của người Việt Nam không ngừng tăng trong các năm
qua, góp phần không nhỏ thu hẹp dần khoảng cách tương đối của năng suất lao động Việt Nam
so với nước ASEAN. Bên cạnh đó, đào tạo và dạy nghề tại Việt Nam đã bước đầu gắn với nhu
cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động; cơ cấu ngành nghề đào tạo từng bước được điều
chỉnh theo cơ cấu ngành nghề sản xuất, kinh doanh; đã mở thêm nhiều nghề đào tạo mới mà thị
trường lao động có nhu cầu và các nghề phục vụ cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và giải
quyết việc làm cho người lao động. Việt Nam đã phát triển được đội ngũ cán bộ khoa học và

công nghệ đông đảo. Nhiều nhà kinh tế, cán bộ khoa học của Việt Nam đã tiếp thu và tiếp cận
được với nhiều tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới; nhiều công nhân, lao động
Việt Nam thông qua xuất khẩu lao động và các chuyên gia nước ngoài đã có điều kiện tiếp cận
được với những máy móc thiết bị hiện đại và tác phong lao động công nghiệp…, nhờ đó chất
lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng đã được nâng cao hơn.
Mặc dù vậy, nguồn nhân lực Việt Nam cũng còn khá nhiều hạn chế. Tại Việt Nam, lực
lượng lao động đông về số lượng nhưng chất lượng chưa cao do thiếu lao động có tay nghề cao,
sức bền còn hạn chế, kỹ năng quản lý còn nhiều bất cập. Sự mất cân đối về kỹ năng giữa người
lao động và yêu cầu của thị trường lao động dẫn tới không đáp ứng được yêu cầu của thị trường
này. Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so với nhu cầu xã
hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất là để tham gia vào chuỗi giá trị
toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị đó.
Quá trình hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường đã mở ra nhiều cơ hội mới đối với
lao động Việt Nam. Với việc Việt Nam gia nhập WTO, thực hiện các cam kết mở cửa thị trường
đã thúc đẩy sản xuất, kinh doanh trong nước phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài tăng đã mở
ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, đặc biệt là trong các ngành sử dụng nhiều lao động
với giá trị xuất khẩu cao như: Ngành dệt may, thủy sản, thủ công mỹ nghệ, nông nghiệp, v.v.
Cạnh tranh với hàng nhập khẩu tăng lên và yêu cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu cao hơn
cũng thúc đẩy các ngành sản xuất trong nước nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, do
vậy đòi hỏi nâng cao trình độ kỹ năng của người lao động. Bên cạnh sự cạnh tranh về việc làm,
việc tập trung cho sản xuất các mặt hàng có hàm lượng lao động cao cũng tác động đến công
tác đào tạo, dạy nghề, làm tăng tỷ trọng lao động được đào tạo nghề, có trình độ chuyên môn
kỹ thuật trong tổng lực lượng lao động.
Nhìn chung, kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập có tác động tích cực thúc đẩy
tạo ra nhiều việc làm mới với yêu cầu về trình độ kỹ năng cao. Những thay đổi này sẽ tiếp tục
góp phần thúc đẩy phát triển lực lượng lao động cả về chất và lượng; là cơ hội để Việt Nam có
một thị trường lao động phát triển, nâng cao dần chất lượng NNL quốc gia.
Do hội nhập trong nền kinh tế thị trường sẽ mở ra nhiều cơ hội việc làm với nhiều yêu
cầu cao hơn đối với người lao động và tiêu chí tuyển dụng cao hơn nên đòi hỏi nguồn nhân lực
phải có nhiều kỹ năng khác ngoài kiến thức chuyên môn như: khả năng giao tiếp, sử dụng vi

tính, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng báo cáo, kỹ năng tìm hiểu và xử lý thông tin. Muốn thành
công trong môi trường cạnh tranh, người lao động Việt Nam phải có ý thức mở rộng kiến thức
1


nghề nghiệp, nâng cao năng lực tư duy khoa học, độc lập, lao động sáng tạo, phát huy sáng
kiến, áp dụng công nghệ mới không ngừng phát triển kỹ năng nghề nghiệp… để hình thành tri
thức, bản lĩnh, vững vàng hội nhập. Trên thực tế, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn
thấp và có khoảng cách khá lớn so với các nước trong khu vực, và ngay cả so với nhu cầu của
thị trường lao động trong nước.
Đề tài NCKH cấp Nhà nước “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực Việt Nam trong cơ chế thị trường”, mã số KHGD/16-20.ĐT.019 thuộc
Chương trình KHGD Quốc gia, do PGS.TS. Nguyễn Thu Thủy làm chủ nhiệm đề tài, đã được
đề xuất triển khai, với mục tiêu phân tích mối quan hệ giữa chất lượng nguồn nhân lực và sự
phát triển của nền kinh tế thị trường, đánh giá chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam và đề xuất
các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong cơ chế thị trường.
Hội thảo với chủ đề “Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực tại Việt Nam” trong
khuôn khổ của Đề tài đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học và nhà quản lý. Ban
Tổ chức đã nhận được hơn 40 bài viết, trên cơ sở đó lựa chọn và biên tập được 32 bài nghiên
cứu phù hợp với chủ đề của hội thảo. Các bài viết tập trung phân tích các vấn đề lý luận và thực
tiễn về nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn
nhân lực, thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam nói chung và trong các lĩnh vực cụ thể nói
riêng, đồng thời chỉ ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu từ nhiều quốc gia trên thế giới.
Kỷ yếu được biên soạn thành ba phần chính, bao gồm:
Phần I: Cơ sở lý luận chung về phát triển nguồn nhân lực
Phần II: Thực tiễn phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam
Phần III: Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở một số quốc gia trên thế giới
Ban Tổ chức xin trân trọng cảm ơn sự đóng góp của các tác giả, các diễn giả và độc giả
để hội thảo thành công tốt đẹp!
Chủ nhiệm đề tài

PGS. TS. Nguyễn Thu Thủy

2


PHẦN 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

3


4


MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁI NIỆM
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Lê Thị Kim Huệ1
Tóm tắt
Phát triển nguồn nhân lực là một trong những chiến lược quan trọng và quyết định để
phát triển kinh tế bền vững cho bất kỳ một quốc gia hay khu vực nào. Chính vì vậy mà hiện nay,
thuật ngữ “phát triển nguồn nhân lực” được sử dụng một cách phổ biến. Tùy theo mục đích
nghiên cứu mà các tác giả trong và ngoài nước có những cách định nghĩa khác nhau về khái
niệm “phát triển nguồn nhân lực”. Bài viết này nhằm mục đích tìm hiểu những khía cạnh tiếp
cận khác nhau về khái niệm “phát triển nguồn nhân lực”, từ đó tác giả đưa ra một cách tiếp
cận phù hợp với bối cảnh của Việt Nam hiện nay. Để đạt được mục tiêu đó, nội dung bài viết
gồm 2 nội dung chính: Một là, một số quan điểm về phát triển nguồn nhân lực. Hai là, quan
điểm phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Nguồn nhân lực; phát triển; phát triển nguồn nhân lực.
1. Một số quan điểm về phát triển nguồn nhân lực

Khái niệm “phát triển nguồn nhân lực” (“phát triển nguồn lực con người” hay “phát
triển tài nguyên con người”) được hình thành và phát triển như một khái niệm khoa học từ thập
niên 70 của thế kỷ XX. Cho đến nay, tùy theo mục đích phân tích mà người ta có những cách
định nghĩa khác nhau về phát triển nguồn nhân lực.
Các nhà nghiên cứu của Chương trình phát triển Liên Hiệp quốc (UNDP) nghiên cứu
về các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực. UNDP cho rằng, phát triển nguồn
nhân lực chịu sự tác động, chi phối của 5 nhân tố: giáo dục - đào tạo, sức khỏe và dinh dưỡng,
môi trường, việc làm và sự giải phóng con người. Trong quá trình tác động đến sự phát triển
nguồn nhân lực, những nhân tố này luôn gắn bó, phụ thuộc và hỗ trợ lẫn nhau; trong đó, giáo
dục - đào tạo là nhân tố nền tảng, là cơ sở của các nhân tố khác. Những nhân tố sức khỏe và
dinh dưỡng, môi trường, việc làm và giải phóng con người là những nhân tố thiết yếu để duy
trì và đáp ứng sự phát triển bền vững của nguồn nhân lực. Nền sản xuất càng phát triển, thì phần
đóng góp của trí tuệ thông qua giáo dục - đào tạo ngày càng chiếm tỷ trọng lớn so với đóng góp
của các yếu tố khác trong cơ cấu giá trị sản phẩm của lao động.
Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) cho rằng phát
triển nguồn nhân lực là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn luôn phù hợp với sự phát
triển của đất nước. Cách hiểu này là gắn phát triển nguồn nhân lực với phát triển sản xuất và
chỉ giới hạn trong phạm vi phát triển kỹ năng lao động và đáp ứng yêu cầu việc làm. Tổ chức
lao động quốc tế (ILO) cho rằng phát triển nguồn nhân lực bao hàm không chỉ sự chiếm lĩnh
trình độ lành nghề, mà bên cạnh phát triển năng lực, là làm cho con người có nhu cầu sử dụng
năng lực đó để tiến đến có được việc làm hiệu quả cũng như thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc
sống cá nhân (Đỗ Minh Cương - Mạc Văn Tiến, 2004, 15). Cách hiểu này ngoài khía cạnh kinh
tế, còn nhấn mạnh khía cạnh xã hội của phát triển nguồn nhân lực. Cách tiếp cận này khá gần
với lý thuyết về phát triển con người. Tương tự như vậy, Tổ chức phát triển công nghiệp Liên
Hiệp Quốc (UNIDO) cũng cho rằng phát triển nguồn nhân lực là phát triển con người một cách
hệ thống, vừa là mục tiêu, vừa là đối tượng của sự phát triển của mỗi quốc gia. Nó bao gồm
mọi khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã hội. Như nâng cao khả năng cá nhân, tăng năng lực sản
1

Học viện Ngân hàng - Phân viện Phú Yên; Email:


5


xuất và khả năng sáng tạo, bồi dưỡng chức năng chỉ đạo thông qua giáo dục, đào tạo nghiên
cứu và hoạt động thực tiễn. Tiếp cận ở góc độ hẹp hơn, Tổ chức lương thực và nông nghiệp của
Liên Hiệp Quốc (FAO) cho rằng phát triển nguồn nhân lực như một quá trình mở rộng các khả
năng tham gia hiệu quả vào phát triển nông thôn bao gồm cả tăng năng lực sản xuất.
Đứng trên quan điểm xem “con người là nguồn vốn - vốn nhân lực”, Yoshihara Kunio
- nhà kinh tế học người Nhật Bản - cho rằng: “Phát triển nguồn nhân lực là các hoạt động đầu
tư nhằm tạo ra nguồn nhân lực với số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân” (Yoshihara Kunio, 1992,
95).
Một số ý kiến khác thiên về vai trò của giáo dục đào tạo khi xem xét phát triển nguồn
nhân lực. Ví dụ theo Nadler và Nadler thì phát triển nguồn nhân lực và giáo dục đào tạo (theo
nghĩa rộng) là những thuật ngữ có cùng nội hàm. Theo các tác giả này: “Phát triển nguồn nhân
lực là làm tăng những kinh nghiệm học được trong một khoảng thời gian xác định để tăng cơ
hội nâng cao năng lực thực hiện công việc” (Nadler & Nadler, 1990, 1). Cách lập luận của
Nadler và Nadler là muốn nhấn mạnh vai trò của giáo dục đào tạo đối với phát triển nguồn nhân
lực. Thật vậy, trong các công trình nghiên cứu ban đầu từ những năm 1940 của các nhà lý thuyết
nguồn vốn con người như Milton Freidman, Simon Kuznets và Gary Becker, khái niệm nguồn
vốn nhân lực được gắn liền với giáo dục. Học thuyết nguồn vốn nhân lực coi giáo dục là một
dạng tư bản có thể tạo ra tỷ lệ thu hồi vốn thông qua phân tích so sánh chi phí lợi ích của các
chương trình giáo dục cụ thể. Mặc dù ngày nay, khái niệm vốn nhân lực được mở rộng cho cả
sức khỏe và dinh dưỡng, song giáo dục vẫn là một nội dung quan trọng nhất của khái niệm này.
Ngày nay, không thể phủ nhận rằng giáo dục là yếu tố chủ yếu đóng góp cho sự phát triển. Đối
với mỗi hộ gia đình, giáo dục là một tài sản quan trọng trong tham gia thị trường lao động.
Nhiều nghiên cứu đã khẳng định rằng những người lao động được giáo dục tốt hơn, thì có việc
làm tốt hơn và thu nhập cao hơn. Đối với một quốc gia, trình độ giáo dục cao hơn thường đi
kèm theo mức tăng trưởng kinh tế cao, bền vững hơn và là một “thế lực cạnh tranh” hữu hiệu
hơn. Tuy nhiên, dù xem xét nguồn nhân lực ở khía cạnh giáo dục và đào tạo hay rộng hơn (bao

gồm cả sức khỏe) thì phát triển nguồn nhân lực là một hoạt động cần được thực hiện thường
xuyên và lâu dài. Liên quan đến chính sách và kế hoạch phát triển nguồn nhân lực.
Trong một trường hợp khác, Marquardt và Engel (1993) lại xác định phát triển nguồn
nhân lực gồm 3 lĩnh vực: (1) đào tạo và phát triển; (2) phát triển tổ chức và (3) phát triển sự
nghiệp để tăng cường kết quả cá nhân, nhóm và tổ chức. Theo hai ông, có tới 35 năng lực được
xếp thành 4 nhóm cần được phát triển năng lực đó là: (1) năng lực kỹ thuật, (2) năng lực kinh
doanh (thực hiện công việc), (3) năng lực liên nhân cách và (4) năng lực trí tuệ. Nghiên cứu của
Marquardt và Engel đã hàm ý rằng phát triển nguồn nhân lực là gắn đào tạo tăng cường năng
lực với sử dụng các năng lực đó nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Phát triển nguồn nhân lực là
một hoạt động có mục tiêu. Muốn vậy, cần kết hợp đào tạo với phát triển, gắn sự phát triển của
cá nhân với phát triển tổ chức, coi sự phát triển của mỗi cá nhân là điều kiện cần thiết cho sự
phát triển của tổ chức và ngược lại, sự phát triển của tổ chức là môi trường không thể thiếu cho
sự phát triển của mỗi cá nhân. Các năng lực được phân nhóm và xếp theo thứ tự từ thấp lên cao,
từ đơn giản đến phức tạp, với hàm ý trong phát triển nguồn nhân lực cần tiến hành tuần tự từng
bước từ thấp lên cao. Năng lực kỹ thuật có thể có được thông qua đào tạo. Năng lực kinh doanh
có được đòi hỏi ngoài đào tạo phải có những kinh nghiệm tích lũy nhất định. Năng lực liên nhân
cách thể hiện những tiềm năng nhất định về kỹ năng sống và tổ chức công việc. Năng lực trí
6


tuệ đòi hỏi những tố chất nhất định về tư duy sáng tạo trên nền những kiến thức cơ bản được
đào tạo và kinh nghiệm trong công việc và cuộc sống.
Ở Việt Nam cũng đã có nhiều quan niệm và định nghĩa về “phát triển nguồn nhân lực”
được đề xuất. Dưới đây, tác giả chỉ nêu một số quan niệm, định nghĩa về “phát triển nguồn nhân
lực” mà theo chúng tôi là tương đối tiêu biểu và phù hợp.
Nguyễn Hữu Dũng quan niệm “Phát triển nguồn nhân lực là một quá trình làm biến đổi
về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nền
kinh tế - xã hội” (Nguyễn Hữu Dũng, 2003, 13).
Trong tác phẩm “Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,
Giáo sư Phạm Minh Hạc đã đề xuất một cách hiểu rằng: “Phát triển nguồn nhân lực được hiểu

về cơ bản là tăng giá trị cho con người, trên các mặt như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể
lực… làm cho con người trở thành những người lao động có những năng lực và phẩm chất mới
và cao, đáp ứng được những yêu cầu to lớn của sự phát triển kinh tế - xã hội, của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Phạm Minh Hạc, 1996, 4). Tương tự như vậy, trong
tác phẩm “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, PGS.TS.
Nguyễn Thanh quan niệm: “Phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực tựu trung là gia
tăng giá trị cho con người, cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như
kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng lực và phẩm
chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự phát triển kinh
tế - xã hội, của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Nguyễn Thanh, 2002, 105).
Trong công trình “Những chuyên đề triết học” của PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa quan
niệm: “Phát triển nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự biến đổi tăng trưởng về số lượng và chất
lượng nguồn nhân lực; đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng chúng để đáp ứng ngày càng tốt
hơn sự phát triển bền vững của đất nước” (Nguyễn Thế Nghĩa, 2007, 632). Quan niệm này coi
phát triển nguồn nhân lực là sự biến đổi tăng trưởng những yếu tố trong con người có thể huy
động, sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội để thúc đẩy sự phát triển bền
vững của đất nước.
2. Quan điểm phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh Việt Nam hiện nay
Các quan điểm phát triển nguồn nhân lực nêu trên tiếp cận với nhiều góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, tác giả cho rằng để phát triển nguồn nhân lực một cách bền vững, trước hết cần phải
xem xét khái niệm phát triển nguồn nhân lực một cách toàn diện, theo khái niệm rộng và có
tính chất bền vững. Đa phần các quan điểm nghiên cứu đều nhấn mạnh đến khía cạnh phát triển
nguồn nhân lực là tập trung phát triển về số lượng nguồn nhân lực, về chất lượng nguồn nhân
lực và cơ cấu nguồn nhân lực. Quan điểm này đúng, nhưng thực sự chưa nhấn mạnh đến khía
cạnh phát huy giá trị sử dụng của nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Có
nghĩa là, chưa nhấn mạnh đến khía cạnh nâng cao hiệu quả sử dụng của nguồn nhân lực trong
khái niệm “phát triển nguồn nhân lực”. Đây là vấn đề thực sự cần thiết trong bối cảnh của Việt
Nam hiện nay. Bởi vì: xét đến cùng, việc phát triển chất lượng, số lượng, cơ cấu nguồn nhân
lực cũng chỉ đáp ứng một mục tiêu duy nhất là nguồn nhân lực đó được sử dụng như thế nào,
có hiệu quả không? Đồng thời, hiệu quả sử dụng của nguồn nhân lực cũng là “phép thử” để

đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.
Thực tế những năm qua, một trong những ưu thế của lao động Việt Nam là nguồn nhân
lực dồi dào và cơ cấu dân số trẻ. Với ưu thế này nếu được khai thác triệt để sẽ là yếu tố quan
trọng cho phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, nhờ chính sách cải cách đổi mới phát triển
7


kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực đã được nâng cao nhiều. Trình độ học vấn và dân trí của
nguồn nhân lực Việt Nam là khá cao. Trong những năm qua do Đảng và nhà nước ưu tiên phát
triển giáo dục đào tạo nên đã đạt được một số thành tựu nhất định. Việt Nam được Liên Hợp
Quốc đánh giá cao về chỉ số phát triển con người. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn
nhân lực không ngừng được nâng cao. Nguồn nhân lực nước ta còn có lợi thế là được tiếp thu
truyền thống lịch sử của đất nước: Truyền thống cần cù, siêng năng, chịu khó, yêu lao động.
Người lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh, cần cù, khéo léo, có trình độ dân trí,
học vấn khá cao so với mức thu nhập quốc dân, tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ của thế giới. Đây là lợi thế so sánh có ý nghĩa đối với nguồn nhân lực Việt Nam
trong quá trình tham gia hội nhập. Tuy nhiên, một bài toán khó mà Việt Nam đang phải đối mặt
đó là: tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam, đặc biệt là ở đội ngũ trí thức, vẫn còn cao và luôn luôn xảy
ra tình trạng “chảy máu chất xám”.
Vì vậy, theo tác giả, trong khái niệm “phát triển nguồn nhân lực” cần nhấn mạnh đến
việc tạo ra sự biến đổi theo chiều hướng từ thấp đến cao về số lượng, chất lượng nguồn nhân
lực và đặc biệt phải nhấn mạnh đến việc gia tăng giá trị sử dụng của nguồn nhân lực. Tác giả
cho rằng: “Phát triển nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự biến đổi về số lượng và chất lượng
nguồn nhân lực nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng của chúng để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của vùng. Phát triển nguồn nhân lực chính là nâng
cao vai trò của nguồn lực con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội, qua đó làm gia tăng
giá trị sử dụng của con người”. Do đó, phát triển nguồn nhân lực đòi hỏi có sự quan tâm và
can thiệp của nhà nước bằng các phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và
nâng cao sức lao động xã hội nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh
tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển.

Tuy nhiên, phát triển nguồn nhân lực ở đây không phải là khái niệm trừu tượng mà nó
gắn với phát triển con người cụ thể. Do vậy khái niệm phát triển con người và khái niệm phát
triển nguồn nhân lực có mối quan hệ qua lại với nhau, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với
nhau.
Trên thực tế, phát triển con người là khái niệm rộng: từ phát triển thể chất, tâm lý, tình
cảm, nhu cầu đến ý thức, năng lực, trí tuệ, kỹ năng… tức là phát triển toàn diện con người với
tính cách là chủ thể của tự nhiên và xã hội. Còn khái niệm phát triển nguồn nhân lực hẹp hơn
so với khái niệm phát triển con người. Phát triển nguồn nhân lực, xét về tổng thể đó là quá trình
phát triển nguồn lực con người từ dạng tiềm năng thành vốn con người - vốn nhân lực và chuyển
vốn này vào hoạt động kinh tế - xã hội. Xét ở góc độ cá nhân con người, thì phát triển nguồn
nhân lực chính là việc nâng cao sức khỏe, tri thức, trình độ chuyên môn, lành nghề, kỹ năng
thực hành để tăng năng suất lao động, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Tóm lại, về mặt giá trị, phát triển con người là gia tăng giá trị nói chung của con người,
còn phát triển nguồn nhân lực là gia tăng giá trị sử dụng của con người. Như vậy, phát triển
nguồn nhân lực chủ yếu là phát triển mặt công cụ ở con người, như một nguồn tài nguyên, một
nguồn vốn và một nguồn động lực trong quá trình phát triển.
Nội dung cơ bản để phát triển nguồn nhân lực
Để nâng cao giá trị nguồn lực con người, phát triển nguồn nhân lực cần phải và nhất
thiết phải được tiến hành với ba nội dung cơ bản: phát triển nguồn nhân lực về số lượng, phát
triển nguồn nhân lực về chất lượng và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực.
Số lượng nguồn nhân lực được quy định bởi quy mô dân số (số lượng dân, mật độ dân
8


số, tốc độ tăng dân số) và lực lượng lao động (cơ cấu tuổi tác, giới tính, phân bố lao động theo
lãnh thổ và theo lĩnh vực ngành nghề). Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực về số lượng là nâng
cao số lượng dân số và lực lượng lao động với quy mô và cơ cấu hợp lý nhằm bảo đảm lực
lượng lao động dồi dào với cơ cấu trẻ. Để làm được điều này cần chú ý đến một số yếu tố quan
trọng: đảm bảo tỷ lệ sinh đẻ hợp lý tương ứng với quy mô và tốc độ phát triển, tăng trưởng kinh
tế, bảo đảm cơ cấu về giới tính và độ tuổi cân đối, thích hợp với từng giai đoạn phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước. Một quốc gia có quy mô dân số hợp lý với lực lượng lao động dồi dào
và cơ cấu khá trẻ - đó là điều kiện tốt để phát triển nguồn nhân lực về chất lượng.
Chất lượng nguồn nhân lực là một khái niệm tổng hợp, bao gồm những nét đặc trưng
về trạng thái thể lực, trí lực, đạo đức và phẩm chất. Vì vậy phát triển chất lượng nguồn nhân
lực là nâng cao thể lực, trí lực và phẩm chất đạo đức… tức là nâng cao giá trị nguồn lực con
người.
Nâng cao thể lực chính là nâng cao sức khỏe - một trong những phương tiện để phát
triển trí tuệ và hiện thực hóa sức mạnh của trí tuệ trong thực tiễn. Đối với mỗi cá nhân con
người thì sức khỏe là vốn quý. Một cơ thể yếu về cơ bắp, kém về các khí quan, thiếu sự dẻo
dai, linh hoạt của hệ thống thần kinh thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong hoạt động thực tiễn. Trái
lại, một cơ thể mạnh về cơ bắp, có độ nhạy bén của các khí quan, khỏe mạnh, linh hoạt của hệ
thống thần kinh đó là điều kiện vật chất kích thích, thúc đẩy năng lực sáng tạo của trí tuệ và khả
năng thích ứng với hoàn cảnh.
Nâng cao trí lực, trước hết là nâng cao năng lực tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng
để nhận thức và cải tạo thế giới. Đó còn là việc nâng cao trình độ học vấn, văn hóa, khoa học
kỹ thuật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề...
Nâng cao đạo đức và phẩm chất chính là nâng cao những giá trị đạo đức, trong đó có
giá trị đạo đức nghề nghiệp, gắn với tác phong lao động, ý thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm,
làm việc nhóm…
Việc phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng chỉ đạt được kết quả một
khi gắn nó với việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Nói cách khác, hiệu quả sử
dụng nguồn nhân lực vừa là yếu tố cấu thành quá trình phát triển nguồn nhân lực, vừa là một
trong những tiêu chí chủ yếu để đánh giá sự phát triển của nguồn nhân lực trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực là xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính
sách, phương pháp, nghệ thuật dùng người. Việc dùng người yêu cầu không chỉ “đặt đúng
người, đúng việc” mà còn phải bồi dưỡng, tạo điều kiện tối ưu để con người có thể phát huy
được năng lực sáng tạo và sở trường của mình để hoàn thành tốt nhất công việc được giao. Có
thể nói, con người với tiềm năng vô tận, nếu được tự do phát triển, tự do tư duy sáng tạo và
cống hiến thì tiềm năng vô tận đó của nguồn nhân lực sẽ được khai thác và phát huy, trở thành

nguồn vốn vô cùng to lớn (vốn con người, vốn nhân lực). Khai thác tối đa tiềm năng con người,
đặc biệt là tiềm năng trí tuệ và tay nghề là một trong những chỉ báo quan trọng phản ánh trình
độ phát triển của một quốc gia.
Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ở
nước ta, vấn đề huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực có ý nghĩa
đặc biệt qNuan trọng. Nó quyết định năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế; và do
đó, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường
trong nước và quốc tế. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực thường chịu ảnh hưởng
9


trực tiếp của quy luật cung cầu lao động trên thị trường, vào chất lượng nguồn nhân lực và các
chính sách lao động, việc làm… đặc biệt là môi trường làm việc, chế độ đãi ngộ đối với người
lao động.
Tóm lại, trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay,
việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực hợp lý về số lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ
về cơ cấu ngành nghề và đặc biệt là khả năng sử dụng tốt nguồn nhân lực là yêu cầu cấp bách
trên bình diện quốc gia cũng như ở mỗi địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến, 2004, Phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam - Lý luận
và thực tiễn, NXB Lao động - Xã hội.
2. Nguyễn Hữu Dũng, 2003, Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam, NXB Chính
trị quốc gia.
3. Phạm Minh Hạc, 1996, Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
NXB Chính trị quốc gia.
4. Nadler & Nadler, 1990, The hand book of human resource development, John Wiley.
5. Nguyễn Thế Nghĩa, 2007, Những chuyên đề triết học, NXB Khoa học xã hội.
6. Nguyễn Thanh, 2002, Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, NXB Chính trị quốc gia.
7. Yoshihara Kunio, 1992, Kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai, NXB Khoa học

xã hội.

10


ĐỊNH HƯỚNG MỚI CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY THEO
TINH THẦN ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ XII
Nguyễn Thị Hiếu2
Tóm tắt
Trong thời đại hiện nay, khi toàn cầu hóa đã trở thành xu thế khách quan, tất yếu; hội
nhập quốc tế đã trở thành xu thế phổ biến, thành đòi hỏi bức thiết, một quốc gia, dân tộc muốn
phát triển, nhất là phát triển nhanh và bền vững, thì nhất thiết phải hội tụ đủ các nguồn lực cần
thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội, như tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ,
con người - nhân lực,... Trong các nguồn lực cần thiết đó thì nguồn nhân lực (đồng nhất với
nguồn lực con người) là quan trọng nhất, có tính chất quyết định. Từ khi đổi mới, trong các kỳ
Đại hội, Đảng đều quan tâm đến các chính sách phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn
nhân lực chất lượng cao. Tiếp tục đường lối đã được xác định trong các Đại hội trước, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII tiếp tục nhấn mạnh hơn nữa vấn đề phát triển nguồn nhân lực,
nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện
nay.
Từ khóa: Đại hội, nguồn nhân lực chất lượng cao, kinh tế - xã hội.
Đặt vấn đề
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, khi cuộc cách mạng khoa học, công
nghệ hiện đại phát triển đưa khoa học thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và kinh tế
tri thức ngày càng chiếm ưu thế trong sự phát triển kinh tế - xã hội thì vấn đề đặt ra của các
quốc gia, dân tộc là: cần phải có điều chỉnh nhất định về mô hình tăng trưởng; đánh giá, xác
định lại vị trí, vai trò của các nguồn lực trong hệ thống các nguồn lực được sử dụng cho phát
triển kinh tế - xã hội mà trong đó, vị trí chiến lược, vai trò quyết định đã được dành cho việc
phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhận

thức sâu sắc vị trí chiến lược và tầm quan trọng đặc biệt của nguồn nhân lực nói chung, nguồn
nhân lực chất lượng cao nói riêng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững của
đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã tiếp tục kế thừa những quan điểm
của các Đại hội đi trước và có những định hướng mới về phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt
nguồn nhân lực chất lượng cao. Đồng thời, những định hướng mới đó của Đại hội XII đặt ra và
gợi mở nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn mà giới nghiên cứu lý luận nước ta cần phải tập trung
nghiên cứu và làm rõ trong thực tiễn phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu
chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước giai đoạn hiện nay.
1. Quá trình phát triển tư duy chiến lược về phát triển nguồn nhân lực của Đảng Cộng
sản Việt Nam
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn rất quan tâm đến vấn đề nguồn nhân lực, đến
công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, nhất là những người trí thức và nhân tài để bổ sung nguồn
nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đảng ta cũng đã có nhiều chính sách thu
hút các nhà khoa bảng, nhà khoa học, doanh nhân giỏi tham gia vào Chính phủ để gánh vác
những công việc nặng nề, phức tạp của đất nước. Đây chính là quá trình Đảng ta đưa ra những
chiến lược đào tạo, sử dụng và đãi ngộ nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp
cách mạng của dân tộc.
2

Trường Đại học Công đoàn; Email: haiphong 1812@ yahoo.com

11


Với tầm nhìn chiến lược chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng cao, trước mắt phục vụ
cuộc kháng chiến cứu nước và về lâu dài là phục vụ công cuộc kiến thiết đất nước, từ những
năm đầu 1960, mặc dù cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc đang diễn ra rất ác
liệt, Bộ Chính trị (khóa III) đã ra Nghị quyết về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nguồn nhân lực,
trong đó khẳng định: “Muốn học sinh giỏi vào các trường đại học, phải có kế hoạch phát triển
và bồi dưỡng học sinh giỏi ngay từ lớp 7, lớp 8”.

Kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, đất nước thống nhất, nhiệm vụ khôi phục và phát triển
đất nước, xây dựng xã hội chủ nghĩa trên cả nước đặt ra yêu cầu cấp bách cần phải có lực lượng
nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn nhân tài. Nhiều Nghị quyết của Bộ Chính trị (khóa IV)
về vấn đề này đã được đưa ra như Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 11/01/1979, Nghị quyết số
37- NQ/TW ngày 20/4/1981.
Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: Phát triển
con người Việt Nam toàn diện vừa là mục tiêu, vừa là động lực; chăm lo đầy đủ đến con người
là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của đất nước; đầu tư cho con
người là đầu tư mang tính chiến lược, đầu tư cho phát triển và là cơ sở chắc chắn nhất cho sự
phát triển bền vững; phát triển nguồn nhân lực là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất, là yếu tố
cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII(1991), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định: “phát huy nhân tố con người trên cơ sở
bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh
tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu
trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”(Đảng Cộng
sản Việt Nam, 1991, 13).
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được Đại hội VIII của Đảng khẳng định với
tính chất là chiến lược thì vấn đề phát triển nguồn nhân lực càng được chú trọng. Đại hội VIII
của Đảng khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người
Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 1996, 114- 115).
Nguồn lực cơ bản, to lớn, quyết định này phải có hàm lượng trí tuệ, phẩm chất ngày một
cao mới có thể đáp ứng được sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa to lớn này. Phát triển trí
tuệ của người Việt Nam được thể hiện qua các chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Phát triển nguồn
lực con người một cách toàn diện về cả trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, thái độ…; Phát triển nguồn
nhân lực phải là sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội bằng nhiều
biện pháp, trong đó giáo dục và đào tạo là then chốt. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (121996) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng về phát triển nguồn
nhân lực. Nghị quyết nêu: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững” (Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, 1997, 85).
Những quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã nhanh chóng được cụ
thể hóa bằng các cơ chế, chính sách, chương trình, dự án, kế hoạch hằng năm và kế hoạch 5
12


năm nhằm thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đại hội IX (2001) của Đảng nêu rõ nhận thức “đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn
nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Đại hội IX tiếp tục nhấn mạnh đến chiến lược phát triển nguồn nhân lực và khẳng định phương
hướng: “Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển khai thực
hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại;
từng bước phát triển kinh tế tri thức” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 45). Phương hướng này
đã được cụ thể hóa bằng một hệ thống giải pháp khả thi đi vào công cuộc đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Quan điểm “phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao” đã được Đảng chính thức đưa ra
và khẳng định tại Đại hội X, khi xác định mục tiêu và phương hướng phát triển đất nước giai
đoạn 2006 – 2010 với mô hình tăng trưởng là phát triển nhanh đi đôi với nâng cao tính bền
vững; tăng trưởng về số lượng đi liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế; trong khi khai thác các yếu tố phát triển theo chiều rộng, phải đặc biệt coi trọng
các yếu tố phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Đại hội X thể hiện rõ quyết tâm
phấn đấu để giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng
đầu, tập trung đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, chấn hưng giáo dục Việt Nam để phát
triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Đại hội xác định "tập trung đổi mới toàn diện giáo dục
và đào tạo, chấn hưng giáo dục để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao" (Đảng Cộng

sản Việt Nam, 2006, 160).
Có thể thấy rằng, chủ trương chuyển sang mô hình tăng trưởng mới của Đảng ta là hoàn
toàn đúng đắn không chỉ về phương diện lý luận mà cả về phương diện thực tiễn. Trên thực
tiễn, mô hình tăng trưởng theo chiều rộng được áp dụng từ khi đổi mới năm 1986 và duy trì liên
tục trong 10 năm (2001 -2010) bên cạnh những thành tựu đạt được cũng đã bộc lộ rõ những hạn
chế trước những đòi hỏi ngày càng trở nên bức thiết của sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh và
bền vững. Bởi vì, mô hình tăng trưởng mà chúng ta đã áp dụng là mô hình tăng trưởng sử dụng
nhiều vốn, công nghệ lạc hậu, với đa số lao động tay nghề thấp, lại chủ yếu làm gia công, lắp
ráp, khai thác và bán rẻ tài nguyên thô hoặc mới qua sơ chế. Mô hình tăng trưởng nhờ vào sản
xuất với lợi thế nhân công rẻ, chi phí thấp không còn phù hợp với sự phát triển đòi hỏi tăng
trưởng với chất lượng cao, hiệu quả và bền vững. Thực chất đây là mô hình tăng trưởng chủ
yếu dựa vào nguồn lao động chất lượng thấp. Trước yêu cầu phát triển của kinh tế thế giới, khu
vực và trong nước, đòi hỏi cần thiết phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, dựa
trên nguồn nhân lực chất lượng thấp sang mô hình tăng trưởng dựa trên nguồn nhân lực chất
lượng cao, với đa số lao động có trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp cao đủ sức tạo ra các
sản phẩm mang lợi thế cạnh tranh trên thương trường và có giá trị cao. Do đó, sự phát triển đất
nước dựa trên cơ sở phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là yêu cầu bắt buộc mà chủ trương
của Đảng đã sáng suốt đưa ra.
Đại hội XI (2011) kế thừa và phát triển quan điểm phát triển nguồn nhân lực từ các đại
hội trước, đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”. Đại hội thông qua "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 –
2020", xác định rõ 5 quan điểm phát triển, trong đó có quan điểm: “Mở rộng dân chủ, phát huy
tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự
phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 100). Với quan điểm này, Đảng ta đã đặt ra một
13


yêu cầu bức thiết là cần phải “phát huy lợi thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 100). Và, khi
xác định “các đột phá chiến lược" trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển này, Đảng ta

đã khẳng định: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển
nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2011, 106), coi phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong
ba “đột phá chiến lược".
Đây được xem là khâu đột phá đúng và trúng với hoàn cảnh nguồn nhân lực nước ta
hiện nay khi hội nhập quốc tế, cạnh tranh quyết liệt và đòi hỏi của thời đại khoa học, công
nghệ.Khâu đột phá trúng và đúng này đã và đang tập trung nâng cao sức mạnh nội sinh - nguồn
nhân lực, để tồn tại và phát triển trong một thế giới năng động, thế giới của khoa học và công
nghệ. Vì thế, Đại hội XI của Đảng đồng thời cũng xác định rõ phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát
triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Đây chính là nội dung
quan trọng thể hiện tính thực tế của chiến lược phát triển nhanh và bền vững của nước ta trong
điều kiện hiện nay. Đồng thời, trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mô hình
tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2011 – 2020, Đảng ta đã chỉ rõ, trong giai đoạn
này, chúng ta cần phải “chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng
sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng
cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 107).
Để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng này ở nước ta giai đoạn 2011 –
2020, một lần nữa, Đảng ta khẳng định: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
nhất là nguồnnhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 130) và coi đây là một trong 12 định hướng phát triển
kinh tế - xã hội. Đồng thời, Đảng ta còn nhấn mạnh, để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mô hình
tăng trưởng mới, trong giai đoạn 2011 – 2020, chúng ta cần phải đặc biệt coi trọng phát triển
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động
lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011,130). Điều
đó có nghĩa là, để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng giai đoạn 2011 – 2020,
chúng ta cần phải chú trọng phát triển những bộ phận quan trọng nhất, cốt yếu nhất, căn bản
nhất hợp thành nguồn nhân lực chất lượng cao. Không chỉ thế, Đảng ta còn yêu cầu: Đào tạo

nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của của công nghệ và trình độ phát triển của
các lĩnh vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao
động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. “Thực hiện
các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu,
mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển
kinh tế tri thức” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 130).
Sự nghiệp đổi mới càng đi vào chiều sâu, thành tựu thu được ngày càng to lớn và được
khẳng định. Quan điểm về xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực của thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế được Đảng thể hiện mang tính
linh hoạt và sáng tạo với quyết tâm chính trị cao và sự đồng thuận rộng lớn của toàn xã hội. Đó
là những định hướng để nguồn nhân lực của đất nước phát triển nhanh, lành mạnh, đúng hướng.
14


2. Điểm mới về phát triển nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (Đại hội XII) kế thừa và phát triển quan điểm về
nguồn nhân lực, nhân lực chất lượng cao từ các Đại hội trước, đặc biệt là Đại hội XI, đã xác
định một trong những đột phá chiến lược cần đặc biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện có kết quả là: “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân
lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2016, 296).
Quan điểm của Đại hội XII về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được thể hiện
ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, đại hội đưa ra các nhiệm vụ tổng quát, trong đó nhiệm vụ thứ ba là: đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tăng
cường tiềm lực và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ. Đại hội XII xác định: "phát triển
giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài... gắn với
nhu cầu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với tiến bộ khoa học và công nghệ, yêu
cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 114115). Đại hội đưa ra các phương hướng: giáo dục là quốc sách hàng đầu. Tiếp tục đổi mới

mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm
chất, năng lực của người học. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức
sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học: yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào, sống tốt và làm việc hiệu quả. Từng bước hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo
hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Quy hoạch lại mạng
lýới cõ sở giáo dục, ðào tạo gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Đây là một cách tiếp cận mới về nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo. Trong Văn kiện Đại
hội XII, lần đầu tiên Đảng ta nêu ra quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo phải
gắn với phát triển nguồn nhân lực. Bởi lẽ phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao là đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh, phát triển khoa học và công nghệ,
cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, đảm
bảo cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Nội dung quan điểm này được thể hiện xuyên
suốt trong các Văn kiện Đại hội XII và được xác định là một nội dung trong 6 nhiệm vụ trọng
tâm trong nhiệm kỳ Đại hội. Đó là việc tiếp tục thực hiện có hiệu quả 3 đột phá chiến lược là hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng
bộ.
Đổi mới giáo dục và đào tạo cần bắt đầu từ đổi mới quan điểm chỉ đạo đến mục tiêu,
nội dung, phương pháp, cơ chế chính sách... Mặc dù, đây không phải là vấn đề chỉ đến Đại hội
XII Đảng ta mới xác định mà vấn đề là ở chỗ những quan điểm, chủ trương mục tiêu của giáo
dục toàn diện từ trước đến nay chưa được hiểu đúng và thực hiện đúng. Đại hội XII nhấn mạnh
cần phải nhận thức và thực hiện các quan điểm, chủ trương mục tiêu giáo dục toàn diện đúng
hơn và hiệu quả hơn.
Đại hội XII đưa ra chiến lược: “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất
nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2016, 295 - 298). Có thể thấy rằng, quan điểm này của Đại hội XII là sự phát triển tinh thần của
Nghị quyết Trung ương 8 khoá XI để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo chuyển biến
15



nhanh và rõ nét trong phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cho các
ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế… có như thế mới đổi mới được mô hình tăng trưởng, nâng
cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế của nước ta.
Thứ 2, Đại hội XII đưa ra chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phải được
nhìn nhận ở ba góc độ: đào tạo, sử dụng và đãi ngộ.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là quá trình tạo ra sự biến đổi về số lượng và
chất lượng nguồn nhân lực, biểu hiện ở sự phát triển thể lực, kiến thức kỹ năng, thái độ và nhân
cách nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu xã hội. Tập trung khai thác nguồn nhân lực ở khía cạnh chất
xám, với trình độ tay nghề cao. Quá trình phát triển nguồn nhân lực là quá trình làm biến đổi
về số lượng, chất lượng cơ cấu nguồn nhân lực để ngày càng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế,
là quá trình sử dụng, đãi ngộ xứng đáng nhằm tạo ra động lực, phát huy vị trí, vai trò và giá trị
của nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ quốc gia và đặt trên vai các trường
đại học. Đòi hỏi bác bỏ quan điểm cho rằng, tất cả những người đã qua đào tạo trong các trường
học đều đáp ứng được yêu cầu công việc của xu hướng thời đại mới và đều là nhân lực chất
lượng cao. Yêu cầu của đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ thể hiện ở tấm bằng,
chứng chỉ học vấn, nghề nghiệp mà chủ yếu ở chất lượng văn hóa, trình độ tay nghề, kỹ năng
lao động, chế độ phát hiện và đãi ngộ để làm ra các sản phẩm có chất lượng cao. Vì vậy, trước
thực trạng hệ thống giáo dục, đào tạo trong những năm qua, nhất là đào tạo trình độ cao được
phát triển và mở rộng, nhưng chất lượng đào tạo còn nhiều hạn chế và yếu kém thì nhất thiết
phải đổi mới đào tạo, đổi mới giáo dục. Đổi mới căn bản Giáo dục- Đào tạo theo Nghị quyết
Đại hội XII của Đảng chính là tạo ra nguồn nhân lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, là
quốc sách hàng đầu. Theo đó, nội dung đổi mới phải phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn,
đòi hỏi sản phẩm của giáo dục phải có tính ứng dụng cao, phải phục vụ cho thực tiễn. Trên cơ
sở nhận thức rõ, xây dựng nguồn nhân lực là công tác chuẩn bị con người - yếu tố quan trọng
nhất, quyết định đến thắng lợi của mọi sự phát triển.
Trong Đại hội XII, Đảng ta đã hướng giáo dục và đào tạo hướng vào 5 nội dung: (1)
Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước nói chung và cho từng ngành,
từng lĩnh vực nói riêng, với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo,
đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất kinh doanh; (2)

Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực; (3) Tăng cường quản lý nhà nước
về nguồn nhân lực, gắn kết cung - cầu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo điều kiện hỗ
trợ dịch chuyển lao động và phân bố lao động hợp lý, hiệu quả; (4) Khuyến khích thành lập
viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp khoa học, công nghệ trong
nhà trường; thí điểm chuyển mô hình trường công lập sang cơ sở giáo dục do cộng đồng, doanh
nghiệp quản lý, đầu tư; (5) Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục, chú trọng
nâng cao tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành.
Đại hội XII của Đảng cũng chủ trương: thực hiện tốt công tác bồi dưỡng, đào tạo lại
nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng
với kinh tế. Đây là vấn đề thiết thực đảm bảo số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cho thực
hiện nhiệm vụ kết hợp kinh tế với quốc phòng.
Đồng thời, công tác dự báo nhu cầu nguồn nhân lực dài hạn cho phát triển kinh tế - xã
hội cũng rất hạn chế, cơ cấu đào tạo theo ngành nghề, trình độ đào tạo không được quy hoạch
16


lâu dài. Các cơ sở đào tạo không đủ thông tin về cung, cầu lao động, nên việc xây dựng ngành
nghề, chỉ tiêu và trình độ đào tạo hằng năm không sát thực tiễn.
Từ Đại hội XI cho đến nay, việc sử dụng lao động vẫn còn bất hợp lý. Chế độ đãi ngộ
“người tài” cũng chưa phù hợp và chưa tương xứng; tình trạng thu nhập cào bằng đang là rào cản
lớn cho sức sáng tạo của nhân lực chất lượng cao. Các chế độ đãi ngộ nhân tài phần nhiều vẫn
nằm trong các dự định, dự thảo của các cấp và các cơ quan có thẩm quyền. Vì vậy, Đại hội XII
đưa ra nhiệm vụ trọng tâm thứ 5: Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của
nhân dân và nhiệm vụ trọng tâm thứ 6: phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực đời sống
xã hội, tập trung xây dựng về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc.
Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn lao động nữ. Đại hội XII xác định: "Nâng cao trình
độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ, thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều
kiện cho phụ nữ phát triển tài năng". Đại hội đưa ra yêu cầu cần phát huy vai trò của Đảng,
đoàn Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam vì sự tiến bộ của phụ nữ, chú ý đến các vấn đề quy hoạch,

đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, các cơ chế, chính sách đối với lao động nữ.
Đây là một lực lượng nhân lực không nhỏ và quan trọng có trình độ, kinh nghiệm bổ sung vào
nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển của đất nước.
Thứ tư, Đại hội XII chủ trương tăng cường hợp tác quốc tế về phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao. Trước tác động mạnh mẽ của cách mạng 4.0 và hội nhập quốc tế, việc hợp tác
quốc tế nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển các lĩnh vực của đời
sống xã hội, phát triển kinh tế, quốc phòng càng cần được đẩy mạnh. Đại hội XII khẳng định:
"xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên
ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI. Tăng cường hợp tác về khoa học,
công nghệ, nhất là công nghệ cao...". Nhờ chủ trương đó, nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ
được trang bị kiến thức, kỹ thuật công nghệ hiện đại nhất để vận dụng vào mọi quá trình sản
xuất và đời sống xã hội.
Ngoài nội dung trên, tìm hiểu Văn kiện Đại hội Đại hội Đảng lần thứ XII, chúng ta còn
có thể thấy, chủ trương của Đảng là gắn sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với chiến
lược phát triển con người, gắn với việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao
động. Mọi kế hoạch xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội phải được đặt trong mối quan hệ không
thể tách rời với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm
vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng đồng Việt Nam, cho xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực nhiều về số lượng, mạnh về chất lượng. Phát triển nguồn nhân lực
chính là tạo nên lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của
phương thức sản xuất mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Kết luận
Nghiên cứu và quán triệt quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao trong các Nghị quyết Đại hội, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội
XII cho thấy, tư tưởng của Đảng ta về vấn đề này luôn được nhất quán, ngày càng được bổ
sung, đổi mới phù hợp với tình hình thực tiễn cách mạng Việt Nam và đáp ứng yêu cầu thời
đại. Những vấn đề về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được Đại hội Đảng lần thứ XII
đưa ra như: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với đổi mới giáo dục - đào tạo; thực
hiện đúng đắn và hiệu quả hơn nữa các quan điểm chính sách, mục tiêu, nội dung, phương
hướng... trong đổi mới giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; gắn kết 3 góc độ: đào

tạo, sử dụng và đãi ngộ nguồn nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng nguồn lao động
17


nữ; tăng cường hợp tác quốc tế về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là những cơ sở
khoa học để củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh" và " "phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại" (9).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam,1991, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, 1997, Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương
khóa VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

18



×