Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.41 KB, 111 trang )

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Nguồn lực con người nói chung và nguồn nhân lực, xét trên khía cạnh
độ tuổi lao động là nguồn lực cơ bản của sự phát triển kinh tế xã hội. Trên
phạm vi rộng hơn thì “ Con người đứng ở trung tâm của sự phát triển, là tác
nhân và là mục đích của sự phát triển” [48]. Nhận thức được vai trò của
nguồn nhân lực, Đại hội Đảng VIII đã khẳng định: “ Lấy việc phát huy nguồn
lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, “ nâng
cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam
là nhân tố quyết định sự thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”.
Mỗi một giai đoạn lịch sử, một trình độ phát triển đòi hỏi một nguồn
nhân lực phù hợp. Trong xu thế kinh tế tri thức và toàn cầu hoá, nguồn nhân
lực có sức khoẻ, học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao được coi là một
điều kiện để tăng trưởng nhanh, rút ngắn khoảng cách tụt hậu. Việt Nam hiện
nay vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu với nguồn nhân lực có qui mô lớn,
cơ cấu trẻ nhưng chưa thực sự là động lực để phát triển kinh tế. Do vậy việc
nghiên cứu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực sự là một đòi hỏi vừa
cấp bách, vừa cơ bản, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay cũng đã có nhiều nghiên cứu về con người, nguồn lực con
người như:“ Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” _ Phạm Minh Hạc ( chủ biên ), Nxb CTQG, HN, 1996; “ Bồi dưỡng và
đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới” _ Nguyễn Minh Đường
( chủ biên ); “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay” của
1
Phan Huy Lê... Nói chung đây là những nghiên cứu xã hội học thuộc Chương
trình khoa học – công nghệ cấp Nhà nước KX-07: “ Con người Việt Nam –
mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” do GS.VS Phạm Minh
Hạc làm chủ nhiệm với sự tham gia của gần 300 nhà khoa học thuộc nhiều
chuyên ngành khác nhau. Ngoài ra còn có những ấn phẩm đề cập đến kinh


nghiệm về quản lý và phát triển nguồn nhân lực của một số nước có ý nghĩa
tham khảo đối với Việt Nam như “ Phát triển nguồn nhân lực – kinh nghiệm
thế giới và thực tiễn nước ta”, Nxb CTQG, HN, 1996 của Trần Văn Tùng –
Lê ái Lâm; “ Chiến lược con người trong thần kỳ kinh tế Nhật Bản”, Nxb
CTQG, HN, 1996 của Lưu Ngọc Trịnh...Mặc dù vậy, như lời mở đầu của
nhiều cuốn sách, các nhà khoa học đều cho rằng đây là vấn đề lớn, cần được
nghiên cứu lâu dài trên nhiều phương diện nhằm phát huy cao nhất vai trò của
yếu tố con người trong sự phát triển kinh tế xã hội.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là đề xuất giải pháp định hướng nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn hiện nay
ở Việt Nam. Để đạt mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu làm rõ nội dung chất lượng nguồn nhân lực, hệ thống
chỉ tiêu đánh giá và những yếu tố ảnh hưởng;
- Phân tích thực trạng thể lực, trí lực so với nhu cầu thực tế hiện nay
và nguyên nhân tác động đến thực trạng đó.
- Xây dựng các giải pháp định hướng
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
Về mặt lý luận, chất lượng nguồn nhân lực là tổng hòa của ba yếu tố: thể lực,
trí lực và phẩm chất của người lao động. Tuy nhiên để có thể nghiên cứu sâu,
2
luận văn chỉ tập trung phân tích thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng
về mặt thể lực và trí lực.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp, đối chiếu và so sánh,
trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật. Luận văn sử dụng số liệu
của Tổng cục Thống kê, số liệu của các công trình, dự án, bài viết trên các
sách, báo, tạp chí.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn

- Góp phần làm rõ khái niệm , vai trò và sự cần thiết phải nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế – xã hội .
- Phân tích thực trạng chất lượng nguồn nhân lực hiện nay.
- Góp phần làm rõ những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất
lượng nguồn nhân lực và đề xuất giải pháp cơ bản có tính định
hướng nâng cao chất lượng về mặt thể lực, trí lực nguồn nhân lực ở
Việt Nam hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày trong ba
chương:
Chương 1: Nguồn nhân lực và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.
Chương 2: Thực trạng về chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam.
Chương 3 : Quan điểm và một số giải pháp cơ bản để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam trong thời gian tới.
3
Chương 1: NGUỒN NHÂN LỰC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
1.1. KHÁI NIỆM, CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ VÀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT
LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC.
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con người của
một quốc gia, vùng lãnh thổ có khả năng huy động, quản lý để tham gia vào
quá trình phát triển kinh tế xã hội. Theo nghĩa hẹp có thể lượng hóa được là
một bộ phận của dân số bao gồm những người trong độ tuổi qui định, có khả
năng lao động, không kể đến trạng thái có hay không làm việc.
Độ tuổi người lao động là giới hạn về những điều kiện cơ thể, tâm sinh
lý xã hội mà con người tham gia vào quá trình lao động. Giới hạn độ tuổi lao
động được qui định tùy thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội của từng nước và
trong từng thời kỳ. Tại Điều 6 và Điều 145 của Bộ Luật lao động nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam qui định độ tuổi lao động của nam từ 15 – 60
và nữ là 15 –55 tuổi.
Theo từng giác độ, nguồn nhân lực có thể phân thành các loại sau:
- Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư bao gồm toàn bộ những người
nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng và nhu cầu lao động không
kể đến trạng thái có làm việc hay không làm việc. Bộ phận nguồn
nhân lực này được gọi là nguồn lao động hay dân số hoạt động. Như
vậy có một số người được tính vào nguồn nhân lực nhưng lại không
phải là nguồn lao động. Đó là những
người trong độ tuổi lao động
không có việc làm nhưng không có nhu cầu làm việc.
4
- Nguồn nhân lực tham gia làm việc trong thị trường lao động có giao
kết hợp đồng lao động. Bộ phận này của nguồn lao động được gọi là
lực lượng lao động, hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế.
- Nguồn nhân lực dự trữ bao gồm những người trong độ tuổi lao động
có nhu cầu nhưng chưa tham gia làm việc, không có giao kết hợp
đồng lao động. Đó là những người làm nội trợ, thất nghiệp...
Các cách định nghĩa trên khác nhau về việc xác định qui mô nguồn
nhân lực, nhưng đều có chung một ý nghĩa nói lên khả năng lao động của xã
hội. Theo khái niệm trên, số lượng nguồn nhân lực được xác định dựa trên qui
mô dân số, cơ cấu tuổi, giới tính và sự phân bố theo khu vực và vùng lãnh thổ
của dân số. Riêng đối với nguồn lao động thì số lượng còn phụ thuộc nhiều
yếu tố có tính chất xã hội khác như :
- Trình độ phát triển của giáo dục - đào tạo. Nếu các cá nhân có nhiều
điều kiện để học tập họ sẽ ở lại học tập lâu hơn và trì hoãn thời gian
tham gia vào thị trường lao động. Đây là sự đánh đổi giữa số lượng
và chất lượng của nguồn lao động.
- Mức sinh đẻ quyết định số người tham gia vào nguồn lao động của
phụ nữ. Khi mức sinh đẻ thấp thì tỷ lệ phụ nữ tham gia vào nguồn

lao động cao hơn.
- Trình độ xã hội hóa các hoạt động dịch vụ phục vụ đời sống và sự
phát triển kinh tế – xã hội. Dịch vụ nuôi dạy trẻ, nội trợ gia đình
được xã hội hóa cao và cơ hội việc làm dễ dàng hơn thì phụ nữ sẽ
tham gia vào thị trường lao động và làm các hoạt động xã hội nhiều
hơn.
5
- Mức và nguồn thu nhập. Khi có nguồn thu nhập khác bảo đảm thỏa
mãn mọi nhu cầu, các cá nhân này sẽ không có nhu cầu làm việc và
do đó không tham gia vào nguồn lao động.
- Di dân và nhập cư. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sự di dân
và nhập cư cũng là nhân tố ảnh hưởng đến nguồn lao động. Tuy
chiếm tỷ trọng không lớn nhưng đây là một nguồn lao động đặc biệt
trên thị trường, có ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế – xã hội.
Sự gia tăng dân số là cơ sở để hình thành và gia tăng số lượng nguồn
nhân lực cũng như nguồn lao động. Nhưng nhịp độ tăng dân số chậm lại cũng
không làm giảm ngay lập tức nhịp độ tăng nguồn nhân lực. Quan điểm dân số
tối ưu cho rằng: “ Một quốc gia muốn nền kinh tế phát triển cân đối và tốc độ
cao phải có qui mô, cơ cấu dân số thích hợp, phân bố hợp lý giữa các vùng”.
Điều đó có nghĩa là:
- Số lượng dân phù hợp với điều kiện thiên nhiên và trình độ phát
triển kinh tế – xã hội của đất nước.
- Đảm bảo một tỷ lệ cân đối giữa số người trong độ tuổi với số người
quá tuổi và chưa đến tuổi lao động. Theo các nhà dân số học thế
giới, một cơ cấu thích hợp đảm bảo cho dân số ổn định tương ứng là
60-64%, 10-12% và 26-28%.
- Phân bố dân cư trên các vùng đảm bảo đủ nhân lực khai thác tài
nguyên và phát triển kinh tế – xã hội có hiệu quả. Có thể điều tiết
phân bố dân cư thông qua chính sách dân số và các chính sách kinh
tế – xã hội.

Trong điều kiện các nước chậm phát triển, nhìn chung số lượng nguồn
nhân lực lớn không phải là một động lực cho sự phát triển vì rất hiếm những
người lao động và quản lý lành nghề. Hơn thế nữa, tốc độ tăng dân số cao
6
trong các nền kinh tế chậm phát triển thường làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn
kinh tế xã hội sâu sắc, đó là:
- Mâu thuẫn giữa tích lũy và tiêu dùng. Khái niệm tổng quát nhất
phản ánh mối quan hệ giữa dân số và kinh tế là “ đầu tư theo dân
số”: Phần thu nhập quốc dân cần thiết theo qui ước dùng đảm bảo
cho số người mới sinh ra có được mức sống trung bình của toàn xã
hội ở thời điểm tính toán và để tạo ra các điều kiện cho thế hệ trẻ –
những người bước vào tuổi lao động tham gia các hoạt động sản
xuất xã hội. Mức đầu tư theo dân số mới chỉ là lượng tối thiểu cần
thiết để duy trì các hoạt động của xã hội loài người trong một quốc
gia ở mức bình thường vì nó chưa bao gồm phần thu nhập quốc dân
dành để cải thiện đời sống và nâng cao trang bị cơ sở vật chất cho
toàn xã hội.
- Hạn chế khả năng nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực
phù hợp với yêu cầu tiến bộ kỹ thuật - công nghệ và nhu cầu phát
triển kinh tế – xã hội nhằm phát triển toàn diện con người. Tỷ lệ
sinh cao làm cho số trẻ em trong độ tuổi đến trường tăng nhanh
trong khi chi phí cho giáo dục đào tạo không tăng tương xứng. Tính
cơ động xã hội và lãnh thổ của dân số cũng thấp do trình độ học vấn
hạn chế, tập quán, lối sống lạc hậu...
- Vấn đề tạo việc làm, giải quyết tình trạng thất nghiệp nhất là cho
thanh niên gặp nhiều khó khăn.
- Mạng lưới an sinh xã hội không đảm bảo. Những năm gần đây,
quốc tế đưa ra khái niệm lưới an sinh xã hội ( Social Safety Net ) là
hệ thống chính sách liên quan đến bảo đảm xã hội cho mọi người
được hiểu rộng ra bao gồm cả chính sách việc làm và xóa đói giảm

7
nghèo. Xuất phát từ điều kiện đặc thù, ở Việt Nam các chính sách
an sinh xã hội bao gồm: việc làm, bảo hiểm xã hội, xóa đói giảm
nghèo, người có công, trợ giúp xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội.
Với mức tăng dân số và nguồn nhân lực cao, ngân sách dành cho
các chính sách xã hội và tạo việc làm trong các nước đang phát triển
đã thấp về giá trị tuyệt đối lại càng trở nên thấp hơn không đáp ứng
được yêu cầu.
Nguồn nhân lực không chỉ được xem xét dưới góc độ số lượng mà còn
ở khía cạnh chất lượng. Chất lượng nguồn nhân lực là một khái niệm tổng
hợp, bao gồm những nét đặc trưng về trạng thái thể lực, trí lực, đạo đức và
phẩm chất. Nó thể hiện trạng thái nhất định của nguồn nhân lực với tư cách
vừa là một khách thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh
tế và các quan hệ xã hội. Trong đó:
- Thể lực của con người chịu ảnh hưởng của mức sống vật chất, sự
chăm sóc sức khỏe và rèn luyện của từng cá nhân cụ thể. Một cơ thể
khỏe mạnh, thích nghi với môi trường sống thì năng lượng do nó
sinh ra sẽ đáp ứng yêu cầu của một hoạt động cụ thể nào đó. Thể lực
có ý nghĩa quan trọng quyết định năng lực hoạt động của con người.
Phải có thể lực con người mới có thể phát triển trí tuệ và quan hệ
của mình trong xã hội.
- Trí lực được xác định bởi tri thức chung về khoa học, trình độ kiến
thức chuyên môn, kỹ năng kinh nghiệm làm việc và khả năng tư
duy xét đoán của mỗi con người. Trí lực thực tế là một hệ thống
thông tin đã được xử lý và lưu giữ lại trong bộ nhớ của mỗi cá nhân
con người, được thực hiện qua nhiều kênh khác nhau. Nó được hình
8
thành và phát triển thông qua giáo dục đào tạo cũng như quá trình
lao động sản xuất.
- Đạo đức, phẩm chất là những đặc điểm quan trọng trong yếu tố xã

hội của nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ những tình cảm, tập quán
phong cách, thói quen, quan niệm, truyền thống, các hình thái tư
tưởng, đạo đức và nghệ thuật..., gắn liền với truyền thống văn hóa.
Một nền văn hóa với bản sắc riêng luôn là sức mạnh nội tại của một
dân tộc. Kinh nghiệm thành công trong phát triển kinh tế của Nhật
Bản và các nước NICs châu Á là tiếp thu kỹ thuật phương Tây trên
cơ sở khai thác và phát huy giá trị tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc
để đổi mới và phát triển.
Các yếu tố này có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, là tiền đề phát
triển của nhau. Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải nâng cao cả
ba mặt: thể lực, trí lực và đạo đức, phẩm chất. Tuy nhiên mỗi yếu tố trên lại
liên quan đến một lĩnh vực rất rộng lớn. Thể lực và tình trạng sức khỏe gắn
với dinh dưỡng, y tế và chăm sóc sức khỏe. Trí lực gắn với lĩnh vực giáo dục
đào tạo, còn đạo đức phẩm chất chịu ảnh hưởng của truyền thống văn hóa dân
tộc, nền tảng văn hóa và thể chế chính trị... Do vậy, để đánh giá chất lượng
nguồn nhân lực thường xem xét trên ba mặt: sức khỏe, trình độ văn hóa và
chuyên môn kỹ thuật, năng lực phẩm chất của người lao động.
1.1.2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
Hiện nay Thế giới dùng chỉ tiêu HDI ( Human Development Index) để
đánh giá trình độ phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia trên ba phương
diện là mức độ phát triển kinh tế, giáo dục và y tế. Các mặt này tương ứng
được xác định bởi các chỉ tiêu:
9
- GDP thực bình quân đầu người hàng năm tính theo sức mua ngang
giá ( PPP );
- Kiến thức ( tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học của các cấp
giáo dục );
- Tuổi thọ bình quân.
Phương pháp tính chỉ tiêu HDI cụ thể như sau:
HDI =

IA + IE + IW
3
( 0 < HDI < 1 )
Trong đó:
IA là chỉ số tuổi thọ
Với Amax là tuổi thọ trung bình cao nhất Thế giói; Amin là tuổi thọ
trung bình thấp nhất Thế giới; Ai là tuổi thọ trung bình của nước i.
IE là chỉ số kiến thức
Với a1 =
Tỷ lệ biết chữ của dân cư nước i – Tỷ lệ biết chữ thấp nhất của TG
Tỷ lệ biết chữ cao nhất của TG – Tỷ lệ biết chữ thấp nhất của TG
Với a2 =
Tỷ lệ huy động đi học của nước i – Tỷ lệ huy động đi học thấp nhất TG
Tỷ lệ huy động đi học cao nhất TG- Tỷ lệ huy động đi học thấp nhất TG
IA =
Ai – Amin
Amax – Amin
IE =
2a1 + a2
3
10
IW là chỉ số thu nhập
Với Wmax là mức thu nhập theo đầu người cao nhất Thế giới, Wmin là
mức thu nhập theo đầu người thấp nhất Thế giới. Wi là mức thu nhập theo
đầu người của nước i.
Trong báo cáo phát triển con người (Hunman Development Report)
2001 quy định các chỉ số thấp nhất và cao nhất Thế giới như sau:
Tuổi thọ : 25 năm và 85 năm.
Tỷ lệ biết chữ của người lớn : 0% và 100%.
Tỷ lệ huy động đi học : 0% và 100%

GDP/ người thực (PPP$) : 100 và 40.000
Ví dụ: Với cách tính trên, theo Báo cáo về phát triển con người năm
2001 chỉ số HDI của Việt Nam là 0,682 với các số liệu tuổi thọ là 67,8 năm,
tỷ lệ biết chữ của người lớn là 93,1 và nhập học của các cấp giáo dục là 67%,
GDP bình quân đầu người theo PPP $ là 1860. [9, 171-302]
Ngoài chỉ số tổng hợp HDI, người ta còn dùng các hệ thống chỉ tiêu
dưới đây để đánh giá trực tiếp các khía cạnh khác nhau sức khỏe, trình độ học
vấn và chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực cũng như để thấy rõ nhân tố
ảnh hưởng đến nó ở hiện tại và trong tương lai.
Chỉ tiêu đánh giá sức khoẻ
Sức khỏe là sự phát triển hài hòa của con người cả về thể chất và tinh
thần. Sức khỏe cơ thể là sự cường tráng, năng lực lao động chân tay. Sức
IW =
log(Wi) – log(Wmin)
log(Wmax) – log(Wmin)
11
khỏe tinh thần là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, khả năng vận động của
trí tuệ, biến tư duy thành hoạt động thực tiễn. Hiến chương của Tổ chức y tế
thế giới đã nêu: “ Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất,
tâm thần và xã hội, chứ không chỉ là không có bệnh tật hay thương tật”. Sức
khỏe vừa là mục đích, đồng thời nó cũng là điều kiện của sự phát triển nên
yêu cầu bảo vệ và nâng cao sức khỏe con người là một đòi hỏi hết sức chính
đáng mà xã hội phải đảm bảo. Tình trạng sức khỏe được phản ánh bằng một
hệ thống chỉ tiêu sau:
Thứ nhất, các chỉ tiêu tổng hợp:
- Tuổi thọ bình quân ( tuổi ).
- Chiều cao trung bình của thanh niên ( m )
- Cân nặng ( kg )
Các chỉ tiêu này đo lường thể lực chung và được xem như là một chỉ số
của tình trạng kinh tế xã hội, vệ sinh xã hội và tình trạng sức khỏe của nhân

dân.
Thứ hai, các chỉ tiêu y tế cơ bản
- Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi
- Tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi
- Tỷ lệ trẻ em đẻ dưới 2500g
- Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
- Tỷ suất chết mẹ
Thứ ba, các chỉ tiêu về tình hình bệnh tật
- Tỷ lệ mắc bệnh truyền nhiễm
- Tỷ lệ mắc các bệnh có tiêm chủng,
12
- Tỷ lệ chết so với người mắc các bệnh.
Chỉ tiêu đánh giá trình độ văn hoá
Trình độ văn hoá là khả năng về tri thức và kỹ năng để có thể tiếp thu
những kiến thức cơ bản, thực hiện những việc đơn giản để duy trì cuộc sống.
Trình độ văn hoá được cung cấp qua hệ thống giáo dục chính quy, không
chính quy, qua quá trình học tậo suốt đời của mỗi cá nhân và được đánh giá
qua hệ thống chỉ tiêu:
Thứ nhất, tỷ lệ dân số biết chữ là số % những người 10 tuổi trở lên có
thể dọc viết và hiểu được những câu đơn giản của tiếng Việt, tiếng dân tộc
hoặc tiếng nước ngoài so với tổng dân số 10 tuổi trở lên. Phương pháp tính:
Tỷ lệ biết chữ của dân
số từ 10 tuổi trở lên
=
Số người 10 tuổi trở lên biết chữ trong năm xác định
Tổng dân số 10 tuổi trở lên trong cùng năm
x 100
Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá trình độ văn hoá ở mức tối thiểu
của một quốc gia. Các thống kê giáo dục trong nước và Thế giới hiện nay đều
sử dụng chỉ tiêu này.

Thứ hai, số năm đi học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên đo
lường số năm trung bình một người dành cho học tập. Đây là một trong
những chỉ tiêu được Liên hợp quốc sử dụng để đánh giá chất lượng nguồn
nhân lực của các quốc gia:
Phương pháp tính:
A =

i
ii
xa
Trong đó: A số năm đi học trung bình
a
i
các hệ số được chọn theo hệ thống giáo dục của mỗi vùng hoặc mỗi
nước.
x
i
% trình độ văn hoá theo hệ thống giáo dục tương đương.
13
Thứ ba, tỷ lệ đi học chung các cấp tiểu học, trung học cơ sở (THCS),
trung học phổ thông (THPT) được dùng để đánh giá trình độ phát triển giáo
dục của các quốc gia.
Tỷ lệ đi học chung cấp tiểu học biểu thị số % trẻ em học cấp tiểu học
(cấp I), dù tuổi của em này có thuộc độ tuổi cấp tiểu học hay không, trong
tổng số dân số ở độ tuổi học tiểu học (6-10 tuổi). Tương tự như vậy đối với tỷ
lệ đi học chung cấp THCS (cấp II), trong đó độ tuổi học sinh đi học cấp này là
11 -14 tuổi và cấp THPT (cấp III), độ tuổi học sinh đi học cấp học này là
15-17 tuổi.
Phương pháp tính:
Tỷ lệ đi học chung cấp

tiểu học (cấp I)
=
Số học sinh cấp tiểu học trong năm xác định
Dân số trong độ tuổi cấp tiểu học (6-10 tuổi)
trong cùng năm
x 100
Các cấp THCS và THPT tính tương tự.
Những chỉ tiêu này dùng để đánh giá trình độ phát triển giáo dục của
các quốc gia. Các chỉ tiêu này cũng dùng để xây dựng mục tiêu phát triển giáo
dục trong công tác kế hoạch. Ví dụ, định hướng phát triển giáo dục đến năm
2010 của Việt Nam, mục tiêu là tỷ lệ đi học chung cấp tiểu học là 100%, cấp
THCS là 80%, cấp THPT là 45%.
Thứ tư, tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học và trung học.
Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học biểu thị số % trẻ em trong độ
tuổi cấp tiểu học, tức là những em từ 6 - 10 tuổi học cấp tiểu học trong tổng
số trẻ em trong độ tuổi cấp tiểu học của dân số. Tương tự như vậy đối với các
nhóm tuổi THCS và THPT .
14
Phương pháp tính:
Tỷ lệ đi học đúng tuổi
cấp tiểu học
=
Số học sinh cấp tiểu học từ 6-10 tuổi
Dân số trong độ tuổi cấp tiểu học (6-10 tuổi)
trong cùng năm
x 100
Các tỷ lệ cấp THCS và THPT tính tương tự.
Các chỉ tiêu này dùng để đánh giá hiệu quả của hệ thống giáo dục. Hệ
thống giáo dục hiệu quả cao có tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cao vì tỷ lệ học sinh
lưu ban, bỏ học thấp, và ngược lại. Ví dụ, ở nước ta, trong khi tỷ lệ đi học

chung ở bậc tiểu học năm 1996 là 114%, nhưng tỷ lệ đi học đúng độ tuổi
(6-10 tuổi) chỉ có 89%. Vì trong số học sinh tiểu học còn có (114% - 89% =
25%) học sinh không đúng tuổi; đó là những học sinh dưới tuổi do đi học
sớm, quá tuổi do đi học muộn, do bị lưu ban, do bỏ học. Tỷ lệ này càng cao
thì hiệu quả trong giáo dục càng lớn, chi phí cho một học sinh hoàn thành cấp
học thấp.
Chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn kỹ thuật ( CMKT )
Trình độ CMKT là kiến thức và kỹ năng cần thiết để đảm đương chức
vụ trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động nghề nghiệp. Lao động CMKT
bao gồm những công nhân kỹ thuật (CNKT) từ bậc 3 trở lên (có hoặc không
có bằng) cho tới những người có trình độ trên đại hoc. Họ được đào tạo trong
các trường, lớp dưới các hình thức khác nhau và có bằng hoặc không có bằng
(đối với CNKT không bằng) song nhờ kinh nghiệm thực tế trong sản xuất mà
có trình độ tương đương từ bậc 3 trở lên. Các tiêu chí đánh giá trình độ
chuyên môn kỹ thuật:
Thứ nhất, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với lực lượng lao động đang
làm việc. Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khái quát về trình độ CMKT của
15
Quốc gia, của các vùng lãnh thổ. Ví dụ, năm 1999, tỷ lệ lao động có CMKT
của Việt Nam là 13,87%.
Là % số lao động đã qua đào tạo so với tổng số lao động đang làm
việc.
T
LV
ĐT
=
∑L
LV
ĐT
∑L

LV
x 100
T
LV
ĐT
: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với tổng lao động đang làm việc.
L
LV
ĐT
: Số lao động đang làm việc đã qua đào tạo.
L
LV
: Số lao động đang làm việc.
Thứ hai, tỷ lệ lao động theo cấp bậc đào tạo được tính toán cho Quốc
gia, vùng, ngành kinh tế dùng để xem cơ cấu này có cân đối với nhu cầu nhân
lực của nền kinh tế ở từng giai đoạn phát triển.
Là % số lao động có trình độ CMKT theo bậc đào tạo so với tổng số
lao động đang làm việc:
T
LV
ĐT
ij =
∑L
LV
ĐT
ij
∑L
LV
j
x 100

T
LV
ĐT
ij: Tỷ lệ LĐ đã qua đào tạo bậc i so với tổng LĐ đang làm việc ở
vùng j.
L
LV
ĐT
: Số lao động đang làm việc đã qua đào tạo.
L
LV
: Số lao động đang làm việc.
i : Chỉ số các cấp được đào tạo.
j: Chỉ số vùng.
L
LV
ĐT
ij: Số lao động đang làm việc đã đào tạo bậc i ở vùng j.
Ví dụ: Năm 1999, tỷ lệ lao động có CMKT của Việt Nam là 13,9%,
trong đó lao động trình độ sơ cấp là 1,5%; CN là 4,7%, THCN 4,3%, Đh, CĐ
16
3,4%. Tỷ lệ các loại trình độ lao động đã qua đào tạo thể hiện cơ cấu ĐHCĐ/
THCN/DN của đội ngũ lao động, từ đó thấy được cơ cấu này có cân đối với
nhu cầu nhân lực của nền kinh tế không, trên cơ sở đó có kế hoạch điều chỉnh
nhu cầu đào tạo tổng thể của cả nước, từng vùng lãnh thổ, ngành kinh tế.
Trong thực tế, không phải tất cả các chỉ tiêu này đều có đủ cơ sở số liệu
thống kê để tính toán. Có những chỉ tiêu chỉ qua tổng điều tra mới có. Đây là
một hạn chế của công tác thống kê nguồn nhân lực. Để công tác thống kê,
quản lý nguồn nhân lực có chất lượng cần sớm ban hành chính thức hệ thống
chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.

1.1.3. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực
Như đã chỉ ra ở trên, chất lượng nguồn nhân lực liên quan đến nhiều
lĩnh vực , do đó nó chịu chi phối của rất nhiều yếu tố và dưới đây là các nhân
tố chủ yếu có ảnh hưởng lớn nhất:
Biến đổi kinh tế – xã hội
Tăng trưởng là nhân tố kinh tế quan trọng tác động đến chất lượng
nguồn nhân lực trên nhiều phương diện. Tăng trưởng kinh tế không chỉ trực
tiếp góp phần cải thiện đời sống nhân dân mà còn tăng tiết kiệm và đầu tư
trong nước, tạo được nhiều việc làm mới với mức thu nhập cao. Ngoài ra nhờ
thành tựu tăng trưởng, thu ngân sách tăng nên đảm bảo nhu cầu chi thường
xuyên cho các chương trình mục tiêu quốc gia, chi cho phát triển giáo dục đào
tạo, y tế, văn hóa... tác động tích cực hơn đến chất lượng nguồn nhân lực.
Sự phát triển kinh tế với cơ cấu biến đổi theo hướng tăng tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ, giảm nông nghiệp dẫn đến sự phân bổ lao động trong các
lĩnh vực hoạt động đòi hỏi người lao động phải được đào tạo, có khả năng tự
học hỏi, thích ứng với nền sản xuất mới.
17
Bên cạnh mặt tích cực quá trình tăng trưởng kinh tế cũng có một số ảnh
hưởng tiêu cực đến chất lượng nguồn nhân lực. Tăng trưởng kinh tế thường
gắn liền với quá trình đô thị hóa, thay đổi trong lối sống. Các nghiên cứu cho
thấy quá trình đô thị hóa gắn liền với mức độ ô nhiễm môi trường tăng cao, tỷ
lệ tai nạn gia tăng đáng kể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của
người dân. Do thu nhập tăng lên và sự thay đổi trong lối sống nên ở các đô thị
tồn tại phổ biến đồng thời mô hình bệnh tật của nước nghèo và của “mức sống
cao”. Hiện tượng này được gọi bằng thuật ngữ “ gánh nặng gấp đôi”, ám chỉ
những khó khăn mà người dân và hệ thống y tế xã hội ở các nước đang phát
triển đang vấp phải.
Đối với các nước trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế như Việt Nam thì tác
động của những biến đổi kinh tế – xã hội đến chất lượng nguồn nhân lực còn
phức tạp hơn:

- Việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, cơ chế thị trường thay cho
quản lý tập trung đã làm cho nhiều ngành nghề, xí nghiệp lạc hậu
phải giảm qui mô và đóng cửa, thất nghiệp gia tăng làm ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống của người lao động, gây nhiều hậu quả xã hội
nghiêm trọng.
- Gắn liền với sự phát triển của cơ chế thị trường là bất bình đẳng về
thu nhập trong các tầng lớp dân cư, giữa các ngành cũng như vùng
kinh tế. Điều này chi phối rất lớn đến khả năng tiếp cận dịch vụ xã
hội cơ bản như giáo dục, y tế. Những vùng kinh tế phát triển, người
dân có thu nhập cao có khả năng tiếp cận dễ dàng hơn người có thu
nhập thấp. Hơn thế nữa một số điều chỉnh chính sách của Nhà nước
trong thời kỳ này như xóa bỏ hoặc giảm bớt bao cấp từ ngân sách
trong nhiều lĩnh vực càng làm cho vấn đề trên thêm đậm nét.
18
- Việc tổ chức lại nền kinh tế và cơ cấu xã hội đã góp phần làm biến
đổi theo chiều sâu môi trường kinh tế – xã hội. Các cá thể và nhóm
xã hội khác nhau phải chuyển biến để thích nghi với môi trường
thay đổi hàng ngày. Chẳng hạn trong vấn đề giáo dục, khi Nhà nước
không còn là người bao cấp hầu như toàn bộ kinh phí và sắp xếp
việc làm khi tốt nghiệp thì chiến lược giáo dục của các hộ gia đình
ngày càng hướng tới tương lai và đưa quan hệ chất lượng – giá cả
vào lựa chọn. Các hộ gia đình và cá nhân có thể từ không quan tâm
đến đặc biệt coi trọng đầu tư cho giáo dục. Chính điều này ảnh
hưởng rất lớn đến trình độ học vấn và sự chênh lệch giữa các vùng
kinh tế.
- Ngoài ra, những chính sách về quản lý xã hội, quản lý kinh tế, chính
sách phân phối đặc biệt là chính sách trả công lao động cũng có ảnh
hưởng rất lớn. Chúng có thể kìm hãm, triệt tiêu hoặc nhân lên nhiều
lần những yếu tố tốt của chất lượng nguồn nhân lực. Nếu trả công
đúng theo chất lượng và hiệu quả của lao động sẽ khuyến khích học

tập và rèn luyện để nâng cao kỹ năng, kiến thức. Ngược lại, chế độ
phân phối bình quân sẽ hạn chế tính năng động và sáng tạo của
người lao động.
Tình trạng dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe
Dinh dưỡng thấp và sức khỏe yếu không chỉ gây ra ốm yếu thể trạng,
khổ ải về tinh thần mà còn làm giảm năng suất lao động. Một bà mẹ suy dinh
dưỡng trong thời kỳ mang thai, sự thiếu thốn lương thực thực phẩm trong giai
đoạn sơ sinh và vào lúc trẻ còn nhỏ là đều có thể dẫn tới các bệnh tật cũng
như sự khiếm khuyết trong quá trình phát triển về thể trạng và thần kinh của
trẻ. Do đó năng suất lao động trong tương lai sẽ bị hạn chế. Hơn nữa sự suy
19
dinh dưỡng và bệnh tật ở người lớn làm suy giảm năng lượng, tính sáng tạo,
sáng kiến, khả năng học tập và làm việc của họ. Các nước đang phát triển
thường mắc kẹt trong vòng luẩn quẩn của nghèo đói, suy dinh dưỡng và năng
suất lao động thấp.
Tình trạng suy dinh dưỡng thường là vấn đề của người nghèo. Nguyên
nhân không chỉ do thu nhập thấp mà còn vì trình độ học vấn thấp, không có
khả năng tiếp cận và thu nhận thông tin cần thiết để thực hiện dinh dưỡng hợp
lý.
Ngoài vấn đề dinh dưỡng, sự phát triển của hệ thống y tế và khả năng
tiếp cận của người dân có ảnh hưởng quan trọng đến việc bảo vệ và chăm sóc
sức khỏe. Do thành tựu tăng trưởng và phát triển kinh tế, qui mô và năng lực
của mạng lưới y tế tăng lên cùng với tiến bộ khoa học công nghệ trong y học
đã góp phần nâng cao sức khỏe, thể hiện ở tuổi thọ bình quân ngày càng tăng
cao. Tuy nhiên như người ta thường nói hệ thống y tế là xã hội thu nhỏ, điều
đó có nghĩa là khả năng tiếp cận của người dân với dịch vụ y tế, đặc biệt là
dịch vụ y tế chất lượng cao là không đồng đều.
Mức độ phát triển của giáo dục và đào tạo
Trong các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực thì mức độ
phát triển của giáo dục đào tạo là yếu tố quan trọng nhất vì nó không chỉ ảnh

hưởng trực tiếp đến trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng lao
động thực hành của người lao động, mà còn gián tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe
và tuổi thọ của người dân:
Thứ nhất, giáo dục góp phần vào tăng trưởng. Từ những năm 1970, với
lý thuyết về tỷ suất lợi nhuận, các nhà nghiên cứu đã xác định được tỷ lệ hoàn
trả của giáo dục sau đầu tư. Giáo dục góp phần vào tăng trưởng kinh tế thông
qua cả tăng năng suất lao động của mỗi cá nhân nhờ nâng cao trình độ và
20
quan điểm của họ lẫn tích luỹ kiến thức. Vai trò của giáo dục có thể được
đánh giá qua tác động của nó đối với năng suất lao động được tính toán bằng
so sánh sự khác biệt giữa sản phẩm của một cá nhân làm ra trong cùng một
đơn vị thời gian trước và sau khi cá nhân đó được học một khoá đào tạo với
chi phí cho khoá đào tạo đó. Kết quả này được gọi là tỷ suất lợi nhuận xã hội
khi đầu tư vào giáo dục. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh tỷ suất lợi
nhuận của giáo dục rất cao ở những nước có thu nhập vừa và thấp.
Các nước Đông Á tăng trưởng nhanh đã đầu tư rất nhiều vào cả giáo
dục tiểu học lẫn trung học nhằm tăng cường chất lượng của lực lượng lao
động. Nỗ lực này được thực hiện do yêu cầu của mô hình kinh tế tăng trưởng
sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lao động và do đầu tư bổ sung vào
nguồn vốn vật chất. Chi phí đáng kể cho giáo dục đã nâng cao mức tăng
trưởng. "Các thuyết tăng trưởng về kinh tế đều cho thấy mối quan hệ bổ sung
lẫn nhau giữa nguồn vốn nhân lực và vốn vật chất; trữ lượng vốn nhân lực lớn
sẽ làm tăng giá trị lợi tức của máy móc; trữ lượng vốn vật chất tăng lại làm
tăng hiệu quả đầu tư vào giáo dục; và đầu tư chung nếu không có sự hỗ trợ
của giáo dục chỉ đóng vai trò không lớn đối với tăng trưởng kinh tế". [33, 25]
Nghiên cứu về đầu tư cho giáo dục đòi hỏi phải đánh giá trên hai khía
cạnh lợi ích và chi phí của cá nhân và xã hội:
- Chi phí cá nhân là chi phí học sinh và gia đình phải chi cho việc học
tập để nhận được trình độ giáo dục, bao gồm : học phí, chi mua sách
giáo khoa, đồ dùng học tập, đồng phục, đóng góp xây dựng trường,

chi đi lại đến trường…
- Chi phí xã hội là chi phí công cộng để đào tạo và trả lương cho giáo
viên, chi quản lý hành chính (công tác phí, điện, nước…), chi mua
21
sách, đồ dùng học tập các thiết bị dạy học, thiết bị văn phòng, tiền
thuê đất, nhà cửa…
- Lợi ích tư nhân của giáo dục là lợi ích mà các cá nhân được đào tạo
nhận được từ giáo dục đào tạo. Nó bao gồm: Được chuẩn bị tốt hơn
cho công việc từ những kiến thức, kỹ năng, tác phong làm việc, tinh
thần thái độ… qua đào tạo; tăng cơ hội tìm nghề, được việc làm với
mức lương cao; khả năng "tự vệ" tốt hơn trước nguy cơ thất nghiệp
trong xã hội, dễ dàng thích nghi với những thay đổi trong nghề
nghiệp.
- Lợi ích xã hội của giáo dục. Những người được giáo dục là thành
viên của xã hội nên các lợi ích tư nhân cũng tạo nên lợi ích xã hội
cuả giáo dục. Không chỉ có thế, những lợi ích khác phát sinh từ cá
nhân được giáo dục nhưng không trực tiếp nhận được mà đem lại
cho người khác và cả cộng đồng như: (i) Đối với nền kinh tế, qua
giáo dục đào tạo phát hiện, bồi dưỡng tài năng các nhà lãnh đạo,
quản lý, giúp họ có tư duy, tri thức để vạch đường lối, xây dựng và
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Nó cũng cung cấp lực
lượng lao động chất lượng, cơ cấu loại hình lao động phù hợp với
kiến thức thích hợp và hiện đại, có kỹ năng và phong thái làm việc
đáp ứng mọi yêu cầu đòi hỏi của một nền kinh tế thị trường khắc
nghiệt và năng động. Đội ngũ này sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
quốc gia một cách mạnh mẽ; (ii) Đối với các vấn đề xã hội, ở
những người được giáo dục thì mức độ phạm tội, mất an toàn giao
thông, trật tự xã hội thấp.
Có thể nói, phân tích lợi ích "cá nhân" và "xã hội" trên cơ sở lý thuyết
về "vốn nhân lực", chi phí giáo dục đã khắc hoạ rõ nét vai trò của giáo dục

22
đối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội nói chung đặc biệt nâng cao chất
lượng cuộc sống và trí tuệ của nguồn nhân lực. Tóm lại, đầu tư vào giáo dục
sẽ nâng cao trình độ dân trí, góp phần làm tăng sức khoẻ, tích luỹ vốn con
người, là chìa khoá để duy trì sự tăng trưởng kinh tế và tăng thu nhập.
Thứ hai, giáo dục đào tạo góp phần cải thiện sức khỏe và nâng cao tuổi
thọ của người dân. Giáo dục cung cấp trình độ văn hoá cơ bản là điều kiện để
tiếp thu tri thức, góp phần chống suy dinh dưỡng, cải thiện sức khoẻ. Giáo
dục cơ bản (trong phần lớn các nước là giáo dục tiểu học và trung học) phát
triển năng lực học tập, giải thích thông tin và thích nghi tri thức vào điều kiện,
môi trường sống của mỗi người. Đó là nền tảng cho việc học tập suốt đời
đóng góp vào việc chống suy dinh dưỡng, cải thiện sức khoẻ trẻ em và người
lớn, đồng thời nó cũng giúp giảm tỷ lệ chết và nâng cao tuổi thọ. Nghiên cứu
của Ngân hàng Thế giới ở 29 nước đang phát triển cho thấy rằng tỷ lệ chết
của trẻ sơ sinh và trẻ em có tương quan tỷ lệ nghịch với trình độ giáo dục của
các bà mẹ: trung bình cứ mỗi năm học bình quân giảm được 9% tỷ lệ chết của
trẻ em và trẻ sơ sinh.
Giáo dục cơ bản như vậy rất quan trọng cho việc nâng cao những năng
lực của dân chúng để tiếp thu và vận dụng tri thức. Báo cáo phát triển nguồn
nhân lực của UNDP đã cảnh báo rằng: không có nước công nghiệp hoá giàu
có nào đạt tăng trưởng có ý nghĩa trước khi hoàn thành phổ cập giáo dục
trung học. Hơn nữa sự thành công của các nước công nghiệp hoá mới như
Hàn Quốc, Singapore, Hongkong, những nước có GNP tăng nhanh nhất trong
những năm 1960 và trong thập kỷ 1970, đã đạt tỷ lệ biết chữ cao và phổ cập
giáo dục trung học trước khi nền kinh tế của họ tăng trưởng.
Thứ ba, trong bối cảnh thay đổi công nghệ nhanh, giáo dục giữ vai trò
chủ yếu trong tiếp thu và phát triển công nghệ. Các nước đang phát triển có
23
thể tham gia vào hưởng lợi của tiến bộ công nghệ hay không phụ thuộc vào
điều kiện tiên quyết là giáo dục. Giáo dục cơ bản là nền tảng để tạo ra một xã

hội học vấn, nhưng chưa đủ để các quốc gia cạnh tranh trên thị trường toàn
cầu. Giáo dục đại học mới có khả năng đào tạo những người có khả năng theo
dõi các khuynh hướng công nghệ, đánh giá được sự thích ứng của chúng đối
với những triển vọng của đất nước và giúp xây dựng triển khai một chiến lược
phát triển công nghệ quốc gia thích hợp. Chiến lược thích hợp cho phần lớn
các quốc gia đang phát triển là thu nhận được công nghệ nước ngoài với giá
rẻ và có thể sử dụng nó hiệu quả nhất bằng cách thích nghi nó với các điều
kiện của địa phương. Những khám phá khoa học và các phát minh không chỉ
đòi hỏi nguồn tài chính dồi dào mà còn cần lực lượng lao động có chất lượng
cao với năng lực tinh vi của con người và sự nhạy bén kinh doanh để thắng
lợi trong cạnh tranh. Tuy là những nước đi sau về công nghệ, nhưng các nền
kinh tế Đông Á đã rất thành công trong phát triển kinh tế nhờ thích nghi rất
tốt công nghệ nước ngoài do các nước này có một lực lượng lao động kỹ thuật
cao, đặc biệt khi các công nghệ thay đổi nhanh chóng. Nghiên cứu của Ngân
hàng Thế giới cho thấy "trong 1000 nhà phát minh của Ấn Độ có 90% tốt
nghiệp đại học, hơn 50% được đào tạo sau đại học và gần 30% có bằng tiến
sỹ" [28, 80]. Trong các nước công nghiệp, việc nghiên cứu của các trường đại
học chiếm một phần lớn nghiên cứu và triển khai (R & D) và ở các nước đang
phát triển cũng như vậy nhưng có quy mô nhỏ hơn. Các trường đại học nông
nghiệp ở Ấn Độ, Malaixia, Thái Lan đã đóng góp vai trò rất quan trọng trong
việc nâng cao năng suất sản phẩm nông nghiệp. Sự phát triển các trường đại
học đã tạo khả năng cho các nước Đông Á duy trì được các ngành công
nghiệp mới. Những ngành công nghiệp này đã tạo ra những "cầu" lớn về kỹ
sư và công nhân kỹ thuật cao. Ở nước ta, Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long
đã góp phần quan trọng vào nâng cao năng suất lúa ở khu vực này.
24
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
1.2.1. Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất hiện đại
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người, phát triển toàn diện con người là cơ sở lý luận chủ yếu nhất, quan

trọng nhất cho việc nghiên cứu nhân tố con người. Khi nói đến nhân tố con
người là nói tới mặt hoạt động của con người - mặt cơ bản nhất, quyết định
mọi thuộc tính, biểu hiện đặc trưng của con người. Sự tác động của nhân tố
con người có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ tiến trình phát triển của lịch sử.
Tiến bộ xã hội không phải là một quá trình tự động, mà phải thông qua hoạt
động của đông đảo mọi người trong xã hội. Con người là nhân vật chính của
lịch sử, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển xã hội. Do đó, để
nghiên cứu nhân tố con người phải xuất phát từ nhận thức đúng đắn về con
người. Nhân tố con người vừa là phương tiện sáng tạo ra mọi giá trị của cải
vật chất và tinh thần, sáng tạo và hoàn thiện ngay chính bản thân mình, đồng
thời vừa là chủ nhân sử dụng có hiệu quả của mọi nguồn tài sản vô giá ấy.
Trên phương diện đó, vai trò nhân tố con người lao động trong lực lượng sản
xuất không phải là toàn bộ nhân tố con người nói chung, mà là nhân tố năng
động nhất, sáng tạo nhất của quá trình sản xuất. Chỉ có nhân tố con người mới
có thể làm thay đổi được công cụ sản xuất, tác động vào đối tượng sản xuất
làm cho sản xuất ngày càng phát triển với năng suất và chất lượng cao, thay
đổi quan hệ sản xuất và các quan hệ xã hội khác, nhằm mục đích ngày càng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con người và toàn bộ xã hội.
Con người là một bộ phận của tự nhiên. Trong quá trình tồn tại và phát
triển, con người không ngừng tác động vào tự nhiên, làm biến đổi tự nhiên,
qua đó làm biến đổi chính bản thân con người.
25

×