Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Lợi thế cạnh tranh và các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 63 trang )

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Khi đánh giá các thành tựu kinh tế nói chung và các thành tựu trong
hoạt động xuất khẩu nói riêng, chúng ta không thể không nhắc đến sự đóng
góp to lớn của quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu. Quá trình này đã
góp phần quan trọng cho việc tạo nguồn vốn bằng ngoại tệ, đang trực tiếp giải
quyết việc làm cho hàng triệu lao động và kích thích kéo theo hàng loạt các
ngành nghề cùng phát triển.
Thực tiễn nhiều năm qua cho thấy, tuy đã có những phát triển đáng ghi
nhận về tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cũng như chuyển dịch cơ cấu hàng
xuất khẩu, Việt Nam vẫn đang ở mức nước đang phát triển trung bình và đặc
biệt là mức độ công nghiệp hoá còn kém xa so với nhiều nước trong khu vực.
Tại Việt Nam, ngành công nghiệp mới chỉ phát triển theo bề rộng, gia
công lắp ráp là chủ yếu, các ngành công nghiệp phụ trợ và hỗ trợ chậm phát
triển và chưa có khởi sắc, các ngành công nghệ cao mới lác đác hình thành và
chưa có động lực phát triển. Tỷ trọng các mặt hàng thô vẫn cao, dựa trên
nguồn tài nguyên, đất đai và lao động. Thực trạng này đặt ra một câu hỏi lớn
là nếu không thực hiện cải biến cơ cấu, liệu chúng ta có tránh được nguy cơ
cạn kiệt tài nguyên, môi trường sinh thái bị ảnh hưởng và hiệu quá kinh tế
kém hay không?
Mặt khác, toàn cầu hoá kinh tế với việc Việt Nam ngày càng tham gia
sâu rộng vào các thể chế kinh tế quốc tế, đặc biệt là WTO đã làm gia tăng tình
trạng tuỳ thuộc lẫn nhau, tạo ra sức ép lớn về cạnh tranh. Bên cạnh đó, thị
trường thế giới đã có những chuyển biến sâu sắc. Dưới ảnh hưởng của khủng

1


hoảng kinh tế toàn cầu, người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi khắt khe hơn về
chất lượng cũng như giá thành sản phẩm.


Đó là những thách thức lớn trong cạnh tranh quốc tế mà dù muốn hay
không Việt Nam cũng phải đối mặt. Trong cuộc chạy đua khốc liệt này, chúng
ta phải có những nỗ lực bứt phá đặc biệt nếu như không muốn tụt hậu xa
thêm. Điều này đồng nghĩa với việc quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất
khẩu của Việt Nam sẽ phải thực hiện theo hướng dựa trên lợi thế cạnh tranh,
nhu cầu của thị trường thế giới và xu hướng chuyển dịch giữa các khu vực
trên thế giới.
Vì vậy, lợi thế cạnh tranh và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của
Việt Nam vẫn còn là một vấn đề mang tính chất thời sự, đòi hỏi tiếp tục
nghiên cứu về lý luận và thực tiễn nhằm tăng khả năng cạnh tranh, đạt được
sự tăng trưởng nhanh và bền vững trong hoạt động xuất khẩu nói riêng và nền
kinh tế nói chung, tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2. Phạm vi nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu.
Với chuyên ngành kinh tế quốc tế và quan hệ kinh tế quốc tế, luận văn
chỉ đề cập đến những vấn đề lý luận có liên quan đến chuyển dịch cơ cấu
hàng xuất khẩu, phân tích tình hình áp dụng lợi thế cạnh tranh vào chuyển
dịch cơ cấu hàng xuất khẩu giai đoạn 1996-2008, đồng thời xác định lợi thế
cạnh tranh, đề xuất một số định hướng và giải pháp, nhằm trả lời các câu hỏi
nghiên cứu sau:
Thứ nhất, lợi thế cạnh tranh của Việt Nam là gì?
Thứ hai, lợi thế cạnh tranh tác động đến định hướng chuyển dịch cơ
cấu hàng xuất khẩu thời gian qua của Việt Nam như thế nào?

2


Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng có lợi cho phát
triển và hội nhập kinh tế như thế nào?


3. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn xuất phát từ cơ sở khoa học của một số học thuyết về thương
mại quốc tế liên quan đến lợi thế về nguồn lực, vòng đời sản phẩm, lợi thế
cạnh tranh quốc gia; dựa trên thực tiễn tình hình chuyển dịch cơ cấu hàng
xuất khẩu của Việt Nam và một số nước trên thế giới; tôn trọng các quan điểm
chính sách của Đảng về chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, đánh giá lợi thế
cạnh tranh của Việt Nam và định hướng chính sách. Luận văn đã kết hợp chặt
chẽ các phương pháp phân tích, tổng hợp, vừa nghiên cứu, vừa so sánh, kết
hợp lý luận và thực tiễn, từ định tính đến định lượng và rút ra kết luận.
4. Cấu trúc luận văn.
Tên đề tài: “Lợi thế cạnh tranh và các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển
dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam."
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 3 chương chính như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận của việc xác định lợi thế cạnh tranh và
chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Chương II: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt
Nam giai đoạn 1996-2008.
Chương III: Gợi ý và định hướng chính sách trong chuyển dịch cơ cấu
hàng xuất khẩu của Việt Nam.

3


CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH LỢI THẾ
CẠNH TRANH VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU
CỦA VIỆT NAM.
Mục đích chủ yếu của chương này là trình bày tóm tắt nội dung một số
khái niệm liên quan đến lợi thế cạnh tranh và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất
khẩu, từ đó xác định ý nghĩa, vai trò của quá trình này. Đồng thời hệ thống

hoá các học thuyết thương mại quốc tế về lợi thế cạnh tranh nhằm đánh giá lợi
thế cạnh tranh, đặt nền tảng cơ sở lý luận và định hướng phân tích ban đầu
cho nghiên cứu ở những chương sau.
1. Khái niệm và ý nghĩa của quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu.
1.1. Một vài khái niệm cơ bản.
1.1.1. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nền kinh tế là một hệ thống gồm rất nhiều bộ phận hợp thành. Sự vận
động và phát triển của một nền kinh tế kéo theo cả sự vận động và phát triển
của các thành phần. Do đó, “Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực,
bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành.” 1 Nội dung
chủ yếu của cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành và các quan hệ
hữu cơ tương đối ổn định theo một tương quan hay tỷ lệ nhất định. Cơ cấu
kinh tế là một khái niệm rất rộng bao gồm cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh
tế vùng và cơ cấu thành phần kinh tế.
Nền kinh tế phát triển, tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi trong phân công
lao động xã hội, khi đó cơ cấu kinh tế cũ cũng từng bước bị phá vỡ và được
thay đổi dần bằng cơ cấu kinh tế mới. Đó chính là sự chuyển dịch cơ cấu kinh
1

Website Viện khoa học thống kê, Tổng cục thống kê, .

4


tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình thay đổi các quan hệ tỷ lệ về
lượng và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận cấu thành nên nền kinh tế2.
1.1.2. Cơ cấu hàng xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu.
Ngày nay, hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những chất keo kết
gắn nền kinh tế các quốc gia. Hầu hết các nước đều theo đuổi chiến lược mở
cửa, hướng về xuất khẩu ở một mức nào đó. Do đó, mối quan hệ giữa sản xuất

và xuất khẩu ngày càng trở nên chặt chẽ. Trong đó, cơ cấu xuất khẩu là một
lĩnh vực quan trọng gắn liền với trình độ sản xuất của một quốc gia. Cơ cấu sản
xuất hợp lý sẽ mang lại hiệu quả cao trong hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu
cũng thúc đẩy cải biến nền kinh tế, phát huy tối đa hiệu quả, tiềm năng sản xuất
trong nước và những cơ hội từ bên ngoài. Vì vậy, cơ cấu kinh tế và tỷ trọng các
nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu luôn có mối quan hệ chặt chẽ.
“Cơ cấu hàng xuất khẩu là tổng thể các nhóm hàng, mặt hàng xuất
khẩu trong toàn bộ kim ngạch xuất khẩu với vị trí, tỷ trọng tương ứng và
mối liên hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành.”
“Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu là sự thay đổi của cơ cấu hàng
xuất khẩu từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với yêu cầu
phát triển.”
Cơ cấu hàng xuất khẩu được xem xét và phân loại theo quan điểm của
từng quốc gia, từng tổ chức và tuỳ từng mục đích nghiên cứu.


Phân loại theo danh mục tiêu chuẩn ngoại thương, cơ cấu

hàng xuất khẩu được phân chia theo: Danh mục mô tả hàng hoá và Hệ thống
mã số Hài hoà, gọi tắt là Hệ thống điều hoà (Harmonized Commodity
Description and Coding System), Danh mục Phân ngành hoạt động kinh tế
tiêu chuẩn quốc tế (International Standard Industrial Classification of All
2

Website Viện khoa học thống kê, Tổng cục thống kê, .

5


Economic Activities - ISIC), Danh mục phân loại hàng hoá theo ngành kinh

tế rộng (Broad Economic Categories - BEC). Ở đây xin được làm rõ Danh
mục phân loại thương mại quốc tế tiêu chuẩn, bản sửa đổi lần thứ ba
(Standard International Trade Classification, Revision 3 - SITC).
Danh mục hàng hóa thương mại quốc tế tiêu chuẩn (SITC)3 là bảng
danh mục phân loại hàng hoá xuất nhập khẩu dựa trên các công đoạn sản xuất
của hàng hoá do Uỷ ban Thống kê Liên hợp quốc ban hành. Bản sửa đổi lần
thứ ba gồm 10 phần, 67 chương, 261 nhóm và 3 118 phân nhóm. Theo đó,
hàng xuất khẩu được chia làm ba nhóm:
(1) Hàng thô hoặc mới sơ chế.
(2) Hàng chế biến hoặc đã tinh chế.
(3) Hàng hoá không thuộc các nhóm trên.
Theo cách phân loại này, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu
xoay quanh 2 nhóm đầu. Ở các nước đang phát triển, tỷ trọng các mặt hàng
xuất khẩu thuộc nhóm 1 còn rất cao, vì vậy các nước này thường cố gắng giảm
tỷ trọng xuất khẩu của nhóm đầu và nâng dần tỷ trọng của nhóm hàng thứ 2.


Phân loại theo hàm lượng chế biến của sản phẩm: Đây là cách

phân loại được đưa ra trong “Chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam
giai đoạn 2001-2010”4, hàng xuất khẩu được phân chia thành 4 nhóm theo
hàm lượng chế biến của sản phẩm:
(1)

Khoáng sản: đây là nhóm hàng hoàn

toàn dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia.

3
4


Website Ủy ban thống kê Liên Hợp Quốc, UNSD, http:// unstats.un.org.
Bộ Thương mại, “Chiến lược phát triển xuất khẩu thời kỳ 2001-2010”, năm 2000.

6


(2)

Nông - lâm - thuỷ sản: là nhóm hàng

có sự kết hợp giữa nguồn lực tự nhiên và lao động nhưng hàm lượng công
nghệ thấp.
(3)

Hàng chế biến chính: là nhóm hàng

bao gồm những sản phẩm có hàm lượng công nghệ ổn định nhưng hàm lượng
lao động lớn và kỹ năng thấp.
(4)

Hàng chế biến cao: là nhóm hàng tiêu

biểu của thời kỳ khoa học công nghệ phát triển nhảy vọt, có hàm lượng khoa
học nghiên cứu và phát triển (R&D) với kỹ năng lao động phức tạp hơn.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo phương thức này là giảm
dần tỷ trọng các mặt hàng thuộc 2 nhóm đầu và nâng dần tỷ trọng các mặt
hàng thuộc hai nhóm sau. Cách tiếp cận này phản ánh rõ trình độ phát triển
của sản xuất.



Phân loại theo nhóm hàng: Trong

Niên giám thống kê Việt Nam, Tổng cục Thống kê phân loại cơ cấu hàng xuất
khẩu theo cơ cấu ngành kinh tế5, đó là:
(1)

Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản.

(1)

Hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp.

(2)

Hàng nông - lâm - thuỷ sản.

Quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu sẽ xuất phát từ nhóm
nông - lâm - thuỷ sản sang nhóm hàng công nghiệp nhẹ và cuối cùng là nhóm
hàng công nghiệp nặng. Cách tiếp cận này gắn liền với cơ cấu kinh tế theo
ngành vì thế sẽ tạo điều kiện có kế hoạch điều chỉnh đúng hướng đối với từng
ngành kinh tế.
5

Niên giám thống kê các năm, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê.

7


 Theo ý kiến của tác giả, cơ cấu hàng xuất khẩu được chia làm 3

nhóm hàng theo vị trí trong tổng kim ngạch xuất khẩu như sau:
(1)

Hàng chủ lực: là loại hàng chiếm vị

trí quyết định trong tổng kim ngạch xuất khẩu do có thị trường ngoài nước và
điều kiện sản xuất trong nước thuận lợi.
(2)

Hàng quan trọng: là loại hàng không

chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu, nhưng đối với từng thị trường,
từng địa phương lại có vị trí quan trọng.
(3)

Hàng thứ yếu: gồm nhiều loại mặt

hàng, kim ngạch của chúng thường nhỏ.
Tiếp cận theo quan điểm này, các nhà hoạch định chính sách sẽ có
cái nhìn đúng hướng để tập trung phát triển các mặt hàng mũi nhọn để thúc
đẩy tăng trưởng xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế là một quá trình song hành. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
chỉ có thể thành công khi chúng ta phối hợp chuyển dịch cơ cấu kinh tế với
nâng cao trình độ sản xuất và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu.
Theo ý kiến của tác giả, dù phân loại theo tiêu chí nào đi nữa thì vấn
đề tập trung nhất của quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt
Nam chính là nâng dần tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến với giá trị gia tăng
ngày càng cao.
1.2. Ý nghĩa của việc chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu.



Tăng nguồn thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế,

phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.

8


Việt Nam vẫn là một nước đang gặp khó khăn về nguồn vốn, vì vậy,
nếu đi đôi với việc đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu là việc tập trung ưu
tiên phát triển một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực thì đây sẽ là động lực thúc
đẩy xuất khẩu phát triển, trực tiếp tăng nguồn vốn ngoại tệ cho nền kinh tế.
Cán cân thanh toán của một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào các hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hóa. Ở Việt Nam, nguồn thu từ xuất khẩu hàng hoá
đảm bảo khoảng 50% nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu (1996-2005). Như vậy,
vai trò lớn của nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu cho thấy quá trình chuyển dịch
cơ cấu hàng xuất khẩu cũng góp phần quan trọng trong việc cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế.
Ngoại tệ thu được do quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu
mang lại còn là nguồn tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia, là điều kiện cần thiết
giúp cho quốc gia nhập khẩu công nghệ, máy móc và những nguyên vật liệu
cần thiết, cũng như ổn định nội tệ, chống lạm phát.


Nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu, nâng cao trình độ của

nền kinh tế.
Khi tham gia vào thị trường thế giới, việc xem xét các yếu tố cung, cầu,
giá cả đối với nhóm hàng mà một quốc gia tham gia xuất khẩu để tiến hành

sản xuất theo nhu cầu thị trường là một vấn đề rất quan trọng. Quá trình này
đòi hỏi các doanh nghiệp phải điều chỉnh lại công tác quản trị, xác định lại cơ
cấu mặt hàng, nâng cao năng lực sản xuất để phù hợp với nhu cầu của thị
trường thế giới, đồng thời cũng tạo ra cơ hội lớn cho tất cả các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam, đẩy mạnh công nghiệp hoá trên cơ sở ứng
dụng thành quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ.


Thúc đẩy phân công lao động trong nước, giúp giải quyết các vấn

đề xã hội.

9


Khi cơ cấu hàng xuất khẩu thay đổi, những ngành sản xuất kinh doanh
hướng vào các sản phẩm chủ lực sẽ thu hút một lượng lao động lớn, những
ngành chỉ tiêu dùng ở nội địa sẽ dần co hẹp lại. Người lao động sẽ từ bỏ thói
quen sản xuất nông nghiệp lạc hậu và làm quen, trau dồi tác phong công
nghiệp. Thu nhập của họ cũng nhờ thế mà tăng lên, tạo điều kiện tích luỹ và
đầu tư vào giáo dục. Người lao động được nâng cao trình độ, tri thức và thu
nhập cũng đồng nghĩa với việc phân công lao động trong nước được thúc đẩy
và các vấn đề xã hội được giảm thiểu. Điều này thực sự có ý nghĩa đối với
một nước có trình độ lao động còn lạc hậu như Việt Nam.


Mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường địa

vị kinh tế của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu giúp chúng ta xây dựng

được một số mặt hàng có quy mô lớn, mang lại hiệu quả cao, tận dụng được
lợi thế so sánh của đất nước và xây dựng được thương hiệu riêng trên thị
trường thế giới.
Có thể nói, cơ cấu kinh tế quốc dân quyết định cơ cấu hàng xuất khẩu,
song về phía mình, cơ cấu hàng xuất khẩu có khả năng xung kích trong việc
hiện đại hoá nền kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao vị thế của đất
nước. Vì vậy, cơ cấu hàng xuất khẩu không thụ động ngồi chờ sản xuất thay
đổi mà phải tiến hành một bước trước, là một khâu đột phá để nền kinh tế đi
lên sản xuất lớn.
2. Vận dụng lý thuyết về Thương mại quốc tế để đánh giá lợi thế cạnh
tranh của Việt Nam trong chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu.
Nhận thức rõ bản chất và những lợi ích của thương mại quốc tế thông
qua các lý thuyết thương mại quốc tế là điều quan trọng và cần thiết cho việc
hoạch định chính sách xuất khẩu của mỗi quốc gia. Vì vậy, phần này chú

10


trọng điểm lại các tư tưởng cơ bản về lợi thế cạnh tranh để làm cơ sở đánh giá
quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Các học thuyết cổ điển về thương mại quốc tế như: Chủ nghĩa trọng
thương (1500 – 1800), Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối – Adam Smith (1776),
Lý thuyết về lợi thế so sánh – David Ricardo (1817) đều có điểm hạn chế ở
chỗ những học thuyết này cho rằng thương mại quốc tế diễn ra trên cơ sở có
sự chênh lệch năng suất lao động giữa các quốc gia. Để có cái nhìn toàn diện
hơn về lợi thế cạnh tranh, chúng ta sẽ khái quát một số lý thuyết giai đoạn sau
này như: Lý thuyết về hàm lượng của các nhân tố đầu vào Eli Heckscher và
Bertil Ohlin (1949 – 1977), Lý thuyết vòng đời sản phẩm Raymond Vernon
(1966) và Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia Michael Porter (1990).
2.1. Vận dụng lý thuyết về hàm lượng các yếu tố của Heckscher –

Ohlin.
Lý thuyết H – O6 được xây dựng dựa trên hai khái niệm cơ bản là
hàm lượng các yếu tố và mức độ dồi dào của các yếu tố.
Một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử
dụng nhiều một cách tương đối yếu tố sản xuất dồi dào của quốc gia đó.
Dựa trên lý thuyết H – O, có thể hình dung rằng những nước giàu tài
nguyên thiên nhiên sẽ là những nước xuất khẩu chúng trên thị trường thế giới.
Những nước có nguồn nhân công lớn và tương đối rẻ thì sẽ tập trung vào sản
xuất và xuất khẩu những mặt hàng chế biến sử dụng nhiều lao động7.

6

Lý thuyết H-O còn có 3 định lý khác. Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả không đề cập đến.

7

Lý thuyết H – O được xây dựng dựa trên một loạt các giả thiết đơn giản sau đây: Thế giới bao gồm 2 quốc
gia, 2 yếu tố sản xuất (lao động và vốn), và 2 mặt hàng: Công nghệ sản xuất là giống nhau; hiệu suất không
đổi theo quy mô, năng suất cận biên giảm dần; hàng hoá khác nhau về hàm lượng các yếu tố sản xuất và
không có sự hoán vị về hàm lượng các yếu tố sản xuất; cạnh tranh hoàn hảo; chuyên môn hoá là không hoàn
toàn; các yếu tố sản xuất chỉ có thể di chuyển tự do trong quốc gia; sở thích là giống nhau; thương mại là tự
do chi phí vận chuyển bằng 0.

11


Theo lý thuyết H – O, mỗi quốc gia sẽ dồi dào tương đối về một trong hai
nguồn lực (lao động hoặc vốn). Một nước đang phát triển như Việt Nam thường
dồi dào về lao động trong khi các nước phát triển lại dồi dào về vốn.
Để thấy rõ mức độ dồi dào về lao động của Việt Nam, chúng ta sẽ đi so

sánh tỷ lệ L/K (lao động và vốn) của Việt Nam với một số nước trong khu vực
và biến động của tỷ lệ L/K qua một số năm.
Biểu đồ 1.1. So sánh tỷ lệ L/K của Việt Nam và một số nước trong khu vực.

Lao động

(Số liệu trung bình năm, giai đoạn 2000 – 2003).

Nước
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của Niên giám Thống kê các năm, NXB Thống kê.

Nhìn vào biểu đồ trên có thể thấy mức độ dồi dào về lao động của Việt
Nam so với các nước đang phát triển khác trong khu vực là tương đối lớn.
Nhưng cũng cũng theo như xu thế chung, xu hướng giảm sút trong tỷ lệ L/K
là khá rõ nét.
Biểu đồ 1.2. Biến động của tỷ lệ L/K của Việt Nam.

12


N
ă
m
Tỷ lệ L/K
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của Niên giám Thống kê các năm, NXB Thống kê.

Như vậy, từ lý thuyết H – O ta có thể rút ra một số kết luận liên quan đến
quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam như sau:
- Việt Nam là nước dồi dào tương đối về lao động nên cơ cấu hàng
xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là các sản phẩm có hàm lượng lao động cao

như dệt may, giày dép, nông sản.
- Lợi thế của Việt Nam về lao động đang giảm sút tạo ảnh hưởng
không nhỏ đến cơ cấu hàng xuất khẩu. Cơ hội đặt ra nếu chúng ta hình thành
được những lợi thế mới, khi đó cơ cấu hàng xuất khẩu sẽ dịch chuyển từ
những mặt hàng chưa qua chế biến sang những mặt hàng đã qua chế biến. Tuy
nhiên, nếu chúng ta không chủ động tìm kiếm những lợi thế so sánh mới thì
khi lợi thế về lao động đang dần mất đi, cơ cấu hàng xuất khẩu và kim ngạch
xuất khẩu đều bị ảnh hưởng.
2.2. Vận dụng lý thuyết về vòng đời quốc tế của sản phẩm – Raymond
Vernon.
Lý thuyết vòng đời quốc tế của sản phẩm dựa trên ý tưởng cho rằng
công nghệ luôn luôn thay đổi dưới hình thức ra đời các phát minh, và điều này
tác động đến xuất khẩu của quốc gia.
 Các phát minh có thể ra đời ở các nước giàu, nhưng không có nghĩa
là quá trình sản xuất sẽ chỉ được thực hiện ở các nước đó. Khi sản phẩm mới
được giới thiệu, việc sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào nguồn nhân công lành
nghề và khoảng cách gần gũi với thị trường. Lúc đó, sản phẩm sẽ được sản
xuất với chi phí cao tại các nước lớn.

13


 Khi công nghệ sản xuất dần dần trở nên chuẩn hóa và được phát
triển rộng rãi. Thị trường tiêu thụ được mở rộng và sản xuất trên quy mô lớn
với chi phí thấp hơn, các quốc gia dồi dào tương đối về vốn có thể bắt chước
công nghệ sản xuất, lợi thế so sánh được chuyển từ nước phát minh sang các
quốc gia này.
 Khi công nghệ trở nên hoàn toàn được chuẩn hoá, quá trình sản
xuất có thể được chia ra thành nhiều công đoạn và tương đối đơn giản, lợi
thế so sánh được chuyển tới các nước đang phát triển, nơi có lực lượng lao

động dồi dào.
Tóm lại, lý thuyết vòng đời quốc tế của sản phẩm cho rằng thương mại
quốc tế sẽ phụ thuộc vào năng lực công nghệ của mỗi quốc gia.
Từ những nhận xét nêu trên, chúng ta có thể thấy năng lực công nghệ
của một quốc gia không chỉ là khả năng quốc gia đó phát minh, đưa ra những
sản phẩm mới mà còn là khả năng tiếp thu và làm chủ công nghệ của quốc gia
đó. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì khả năng tiếp thu và
làm chủ công nghệ là yếu tố quyết định.
Thực tế tại Việt Nam cho thấy các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) được đánh giá là nguồn chuyển giao công nghệ chủ yếu.
Công nghệ của các doanh nghiệp liên doanh đều cao hơn công nghệ đang sử
dụng trong nước. Các doanh nghiệp này còn có đóng góp lớn vào kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam (Biểu đồ 1.3). Tuy nhiên, chủ yếu vẫn là trong lĩnh
vực gia công với giá trị gia tăng thấp và hàm lượng công nghệ không cao.
Biểu đồ 1.3. Kim ngạch xuất khẩu và tỷ trọng của khu vực FDI.
Đơn vị tỷ trọng: %
Đơn vị kim ngạch: Tỷ USD.

14


Nguồn: Số liệu từ “Đề án phát triển xuất khẩu 2006-2010”

Từ thực tiễn và vận dụng lý thuyết vòng đời quốc tế của sản phẩm, chúng ta
có thể rút ra một số nhận xét sau:
-

Việt Nam hoàn toàn có cơ hội để tận dụng sự chuyển giao công

nghệ để phát triển sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm này, từ đó

chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng các sản phẩm công nghiệp.
-

Một mặt, chúng ta vẫn tiếp tục thu hút vốn FDI để đẩy mạnh kim

ngạch xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, mặt khác, trong khi
tiếp nhận công nghệ từ nước ngoài, cần chú trọng sàng lọc những công nghệ
phù hợp để đáp ứng được yêu cầu của thị trường thế giới
-

Tầm quan trọng của công nghệ cũng đặt ra yêu cầu bên cạnh việc

tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ các nước khác, chúng ta cũng cần tạo ra
những sản phẩm xuất khẩu có đặc thù riêng mang lợi thế của Việt Nam.
2.3. Vận dụng lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Michael Porter.

15


Với lý thuyết này, M.Porter cho rằng sức cạnh tranh của một quốc gia
phụ thuộc vào sức cạnh tranh của các ngành trong nền kinh tế. Sức cạnh tranh
của một ngành lại xuất phát từ năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong ngành: khả năng đổi mới công nghệ, sản phẩm, cung cách quản lý của
ngành và môi trường kinh doanh. Với cách nhìn nhận như vậy, M.Porter
(1990) cho rằng bốn yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh của một quốc gia là8:
 Chiến lược của doanh nghiệp, cơ cấu và sự cạnh tranh: Những
ngành có chiến lược và cơ cấu phù hợp với các định chế và chính sách của
quốc gia, hoạt động trong môi trường có cạnh tranh trong nước căng thẳng
hơn sẽ có tính cạnh tranh quốc tế mạnh hơn.
 Các điều kiện về phía cầu: Thị trường trong nước với số cầu lớn, có

những khách hàng đòi hỏi cao và môi trường cạnh tranh trong ngành khốc liệt
hơn sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn.
 Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan: Tính cạnh tranh của một
ngành phụ thuộc vào sức mạnh của các nhà cung cấp các nhập lượng và các
dịch vụ hỗ trợ. Các nhà cung cấp nhập lượng có khả năng cạnh tranh trên toàn
cầu có thể mang lại cho doanh nghiệp lợi thế về chi phí và chất lượng. Các
ngành có quan hệ ngang cũng mang lại lợi thế cạnh tranh thông qua sự lan
truyền công nghệ.
 Các điều kiện về các yếu tố sản xuất: bao gồm lao động, vốn, cơ sở
hạ tầng và công nghệ sẽ ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của ngành và của các
quốc gia. Ở đây chúng ta nhấn mạnh đến chất lượng của các yếu tố đầu vào
được tạo ra chứ không phải là nguồn lực trời cho ban đầu.
Một quốc gia có lợi thế cạnh tranh trong những ngành mà người ta tìm
thấy bốn yếu tố cơ bản trên khá mạnh. Đây là những khu vực mà Chính phủ
nên tập trung nỗ lực của họ nhằm để thúc đẩy lợi thế cạnh tranh của quốc gia.
Lợi thế cạnh tranh quốc gia của M.Porter áp dụng với trường hợp của
Việt Nam được minh hoạ như sau: (Hình 1.1)
Hình 1.1. Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam.
8

Tham khảo”Thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Michael Porter”, tin ngày 01/9/2004. Website Bộ Công
thương, www.moi.gov.vn. Tác giả chỉ đưa ra những lý thuyết liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

16


CHIẾN LƯỢC CƠ CẤU VÀ MÔI TRƯỜNG
CẠNH TRANH NGÀNH

Trình độ quản lý thấp.


Mô hình quản lý chưa theo kịp sự phát triển.
Một số ngành còn độc quyền.
CÁC YẾU TỐ SẢN XUẤT

CÁC NGÀNH PHỤ TRỢ

Nguồn lực tự nhiên thuận
lợi.

- Chưa phát triển.
- Quy mô nhỏ
- Chưa đáp ứng được nhu cầu
về chất lượng.

Lao động rẻ nhưng hạn chế về kỹ
năng.
Cơ sở hạ tầng kém chất lượng,vốn
đầu tư nhỏ.
ĐIỀU KIỆN VỀ CẦU

Nhu cầu tăng trưởng nhanh nhưng mức độ đòi
hỏi không cao.
Thị trường trong nước chưa phát triển, không đồng đều
giữa các vùng miền.
Thị trường chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng.
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.

-


Trong số các yếu tố cấu thành lợi thế cạnh tranh, Việt Nam chỉ có

thuận lợi về điều kiện tự nhiên và lao động đơn giản. Đối với 3 yếu tố cấu
thành còn lại, chúng ta đều có những hạn chế.
-

Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay mới chỉ tận dụng

được nguồn lực tự nhiên và lao động, hầu như chưa khai thác được đầy đủ 4
yếu tố cấu thành lợi thế cạnh tranh, những yếu tố đảm bảo cho sự dịch chuyển
cơ cấu hàng xuất khẩu một cách bền vững.
Vì vậy, chúng ta cần chú trọng hơn đến các ngành công nghiệp phụ trợ,
phát triển thị trường trong nước và hình thành môi trường cạnh tranh hơn.
2.4. Kết luận về các lợi thế cạnh tranh của Việt Nam.

17


Sau khi tổng hợp các học thuyết trên, theo ý kiến của tác giả, Việt Nam
có những lợi thế cạnh tranh như sau:
- Lao động: Lao động được xem là một lợi thế cạnh tranh của Việt Nam
vì một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, lực lượng lao động dồi dào. Việt Nam có thể tránh được hiện
tượng thiếu lao động mà một số nước phát triển hoặc đang phát triển với tốc
độ nhanh khác trên thế giới đang gặp phải.
Thứ hai, tỷ lệ lao động trẻ cao 9. Lao động trẻ là lớp người có ưu thế về
thể chất, học thức, năng động, sáng tạo, ham học hỏi, dễ dàng tiếp thu các kỹ
năng và kiến thức mới.
Thứ ba, tỷ lệ tham gia lao động cao và giá cả lao động tương đối thấp.
Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, giá cả sức lao động ở

Việt Nam (thể hiện qua tiền công, tiền lương của người lao động) đã được
tăng lên. Tuy vậy, nhìn chung giá cả sức lao động ở Việt Nam hiện nay vẫn
được coi là tương đối rẻ và là một trong những lợi thế cạnh tranh của nước ta.
- Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định là điều kiện tiên quyết
cho việc thu hút FDI và chuyển giao công nghệ. Cụ thể là:
Thứ nhất, vị trí địa lý thuận lợi tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng
quan hệ thương mại, thu hút một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, chế độ chính trị ổn định là một lợi thế. Các nhà đầu tư chỉ có
thể yên tâm khi chuyển vốn vào một môi trường ổn định, có sự giám sát chặt
chẽ của Nhà nước để đảm bảo tính an toàn.
Thứ ba, sự quan tâm của Nhà nước cho phát triển xuất khẩu thể hiện ở
việc các ngành sản xuất xuất khẩu luôn nhận được nguồn vốn đáng kể từ
nguồn ngân sách.

9

Theo kết quả điều tra của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, lực lượng lao động trẻ chiếm gần 50% tổng
lực lượng lao động trong cả nước, là lực lượng lớn nhất so với các nhóm lao động ở tuổi trung niên (43,3%)
và nhóm lực lượng cao tuổi (6,7%).

18


-

Lợi thế về thị trường xuất khẩu. Các đối tác xuất khẩu chính của

Việt Nam chủ yếu là thị trường Hoa Kỳ, EU với khả năng thanh toán cao, sức
mua lớn. Ngoài ra, hàng Việt Nam cũng đã đa dạng hoá thị trường với
ASEAN, các nước nhóm NICs, châu Phi, Nga và Đông Âu. Quan hệ thương

mại với nhiều đối tác cũng là một lợi thế để Việt Nam đẩy mạnh phát triển
hoạt động xuất khẩu.
-

Lợi thế về các yếu tố sản xuất. Với một nước nông nghiệp đang

trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì nguồn tài nguyên thiên nhiên
sẽ tạo ra những tiền đề vật chất quan trọng cho việc phát triển các ngành chế
biến nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp khai thác…nhằm cung cấp nguồn hàng
xuất khẩu, đồng thời tạo cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài. Đây là một lợi thế
mà không phải quốc gia nào cũng có được.

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU HÀNG XUẤT
KHẨU CỦA VIỆT NAM TỪ 1996 ĐẾN NAY.
Mục đích chủ yếu của chương này là cung cấp cái nhìn khái quát về
hoạt động xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn từ 1996 đến nay, để thấy được
những mặt thành công và hạn chế trong xuất khẩu hàng hoá. Trên cơ sở đó,
phân tích sự vận dụng lợi thế cạnh tranh vào chuyển dịch cơ cấu hàng xuất
khẩu trong giai đoạn này. Đây là cơ sở thực tiễn quan trọng nhằm có được

19


những đánh giá và định hướng chính xác cho hệ thống các giải pháp được đề
ra ở chương tiếp theo.
1. Khái quát về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam từ 1996 đến nay.
1.1. Bối cảnh chung nền kinh tế thế giới và Việt Nam.
Ở Việt Nam, giai đoạn từ 1996 đến nay bao gồm 5 năm cuối của Chiến
lược phát triển kinh tế xã hội 1991-2000 và những năm tiếp theo của tiến trình
thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010.Trong giai đoạn này,

nền kinh tế thế giới đã có những diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ
đến sự phát triển kinh tế cũng như hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Đầu
tiên là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, ảnh hưởng trực tiếp đến các
đối tác nhập khẩu chính và những nhà đầu tư lớn của Việt Nam trong khu vực.
Những năm đầu thế kỷ mới, thị trường thế giới đã có nhiều diễn biến không
thuận lợi với một loạt các thách thức như chiến tranh, khủng bố, thiên tai, đại
dịch, giá cả và gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh
tế thế giới. Ngoài ra, việc Trung Quốc và Việt Nam đã trở thành thành viên
của WTO khiến cho hoạt động cạnh tranh của chúng ta trên thị trường thế giới
ngày càng trở nên khốc liệt.
Ở Việt Nam, nhờ có những chính sách phù hợp cùng với sự nỗ lực của toàn
Đảng, toàn dân, nền kinh tế Việt Nam vẫn giữ vững được đà tăng trưởng, GDP
liên tục tăng qua các năm.
Biểu đồ 2.1. Tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam giai đoạn 1996-2008.
Đơn vị: %

20


Năm
Nguồn: Niên giám thống kê các năm, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê.

Cùng với tốc độ tăng trưởng GDP, cơ cấu nền kinh tế cũng đã có những
sự chuyển dịch nhất định theo hướng giảm tỷ trọng nông – lâm – ngư nghiệp và
tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ; năng lực cạnh tranh quốc gia10
tuy đã có những khởi sắc nhưng chưa rõ nét nên cũng có những tác động nhất
định đến chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu.
Biểu đồ 2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam 1996-2005.

Tỷ

trọ
ng
:
%

Năm

Nguồn: Niên giám thống kê các năm, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê.

Tóm lại, nền kinh tế Việt Nam giai đoạn này đã có những tiến bộ nhất
định, nhưng chưa có sự chuyển biến rõ nét về chất, gây ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động xuất khẩu cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu.
1.2. Quy mô, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu.
10

Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam: Khoảng cách đến nước thấp nhất là 11 (năm 1999), đến năm
2006 là 48, Website Diễn đàn Kinh tế Thế giới, www.weforum.org.

21


Nhìn chung trong giai đoạn này, xuất khẩu đã đạt được tốc độ tăng
trưởng tương đối cao, vượt các chỉ tiêu đặt ra. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng
không đều, ví dụ: trong hai năm 2001 và 2002, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
trung bình chỉ đạt mức 7,4%/năm, trong khi 3 năm tiếp sau, hoạt động xuất
khẩu đã có bứt phá mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng đạt mức bình quân
24,7%/năm11. So sánh với số liệu đã phân tích ở trên, tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu cao hơn nhiều so với tốc độ tăng GDP, tỷ lệ giữa kim ngạch xuất khẩu
và GDP là rất cao. Do đó, xuất khẩu được coi là một định hướng cho tăng
trưởng kinh tế.

Biểu đồ 2.3. Kim ngạch xuất, nhập khẩu giai đoạn 1998-2007.
Đơn vị: Tỷ USD.

Ki
m
ng
ạc
h
Năm

Nguồn: Niên giám thống kê các năm, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê.

Ngoài ra, nhập siêu cũng là một thực trạng khá rõ nét trong giai đoạn
này, nhưng tỷ lệ nhập siêu lớn của Việt Nam thường ở những năm có tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu cao. Vì thế, có thể nói hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam vẫn còn phụ thuộc khá nhiều vào nguồn nhập khẩu từ bên ngoài.
1.3. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
11

Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2007-2008.

22


1.3.1. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo SITC.
Trong giai đoạn này, tỷ lệ chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu của
nước ta cũng đã có sự chuyển biến đáng kể 32,8% năm 1996 tăng lên 53,4%
năm 2003 (SITC 5-8), tỷ lệ sản phẩm thô và sơ chế (SITC 0-4) giảm từ 67,2%
năm 1996 xuống còn 46,6% năm 2003. Tuy nhiên, sự gia tăng tỷ lệ sản phẩm
đã qua chế biến này chưa ổn định. Có những giai đoạn (1997-2001) tỷ lệ này

hầu như không có sự thay đổi đáng kể, thậm chí năm 2000, tỷ lệ sản phẩm đã
qua chế biến còn giảm12.
Trong nhóm sản phẩm thô hoặc mới sơ chế, thì cơ cấu xuất khẩu của
chúng ta chủ yếu tập trung vào nhóm hàng lương thực thực phẩm (SITC 0) và
nhiên liệu (SITC 3) còn các nhóm hàng khác chiếm tỷ trọng thấp hơn nhiều.
Trong hai nhóm sản phẩm này thì sự chuyển dịch về cơ cấu hàng xuất khẩu
cũng không thể hiện rõ ràng, thậm chí, giai đoạn 1998-2000, nhóm hàng
nhiên liệu có xu hướng tăng tương đối về kim ngạch xuất khẩu.
Trong nhóm sản phẩm đã qua chế biến, tình trạng tương tự cũng diễn ra
với cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam. Tỷ trọng của các nhóm hàng công
nghiệp phân loại theo nguyên liệu chủ yếu ( SITC 6) và máy móc, thiết bị và
phương tiện vận tải ( SITC 7) đều không cao và không có dấu hiệu chuyển
dịch đáng kể trong giai đoạn nghiên cứu. Nhóm hàng chiếm tỷ trọng cao nhất
là sản phẩm thủ công nghiệp (SITC 8). Nhưng đây lại là nhóm mặt hàng
không thể đại diện cho xu hướng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng
tích cực.
Nếu xem xét chỉ tiêu RCA13 cho từng nhóm mặt hàng theo SITC thì chỉ
có 3 trong 9 nhóm mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có lợi thế so sánh. Đó là
lương thực thực phẩm (SITC 0), nhiên liệu (SITC 3) và thủ công nghiệp. Đây
đều là những mặt hàng chúng ta có lợi thế về điều kiện tự nhiên và giá nhân
công rẻ. Đây cũng là những nhóm mặt hàng bất cập nhất về mặt cơ cấu xuất
12

Tổng hợp từ Báo cáo Bộ Công thương các năm.
Chỉ số RCA càng cao thì mặt hàng càng có lợi thế cạnh tranh; nếu RCA < 1 thì mặt hàng không có lợi thế
so sánh; nếu 1< RCA < 2,5 thì mặt hàng có lợi thế so sánh và RCA > 2,5 thì mặt hàng có lợi thế cạnh tranh
cao.
13

23



khẩu do đều có giá trị gia tăng thấp. Thậm chí, nhóm hàng lương thực thực
phẩm và nhiên liệu đang có hệ số RCA giảm dần, chỉ có nhóm hàng thủ công
nghiệp có lợi thế so sánh tăng lên chút ít trong giai đoạn này.
Bảng 2.1. Hệ số RCA các nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam theo SITC
giai đoạn 1999-2003.
Nhóm
hàng

1999

2000

2001

2002

2003

Trung bình

SITC 0

4,3

4,4

4,4


4,0

3,6

4,1

SITC 1

0,1

0,1

0,3

0,4

0,8

0,3

SITC 2

0,8

0,8

0,9

1,0


1,0

0,9

SITC 3

2,7

2,5

2,3

2,3

2,4

2,4

SITC 4

0,3

1,3

0,6

0,2

0,2


0,5

SITC 5

0,1

0,1

0,1

0,1

0,1

0,1

SITC 6

0,5

0,4

0,5

0,5

0,5

0,5


SITC 7

0,2

0,2

0,2

0,2

0,2

0,2

SITC 8

2,4

2,4

2,4

2,7

2,9

2,6

Nguồn: Tác giả tổng hợp14.


Đối với các nhóm hàng công nghiệp (SITC 6 và SITC 7), Việt Nam đều
không có lợi thế so sánh. Điều này cho thấy những khó khăn của Việt Nam
trong việc cải thiện cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng bền vững nhằm thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bên cạnh việc chuyển cơ cấu mặt hàng như đã phân tích ở trên, giai
đoạn 1996-2008, chúng ta cũng đã xây đựng được một số mặt hàng chủ lực.
Nếu như năm 1996, Việt Nam mới có 9 mặt hàng có kim ngạch trên 100 triệu
USD (Trong đó chỉ có dầu thô và dệt may có kim ngạch trên 1 tỷ USD) thì
đến năm 2005, số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD là
17 hàng, trong đó 7 mặt hàng có kim ngạch trên 1 tỷ USD. Trong số những
mặt hàng này, có một số mặt hàng có tốc độ tăng trưởng khá nhanh như điện
tử, sản phẩm gỗ, … Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực nay đã đóng vai trò
14

Theo Vũ Thắng Bình, “Cơ cấu và lợi thế so sánh của hàng xuất khẩu Việt Nam”, Hội thảo Khoa học quốc
gia “Thương mại Việt Nam 20 năm đổi mới”.

24


quyết định đến tốc độ tăng trưởng mạnh của kim ngạch xuất khẩu trong
những năm qua.
Bên cạnh đó, sự xuất hiện của những mặt hàng này cũng thể hiện quá
trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu nước ta. Từ chỗ chỉ bao gồm những
mặt hàng nhiên liệu (dầu thô), nông sản (gạo, thuỷ sản…) đến nay đã xuất
hiện một số mặt hàng công nghiệp như sản phẩm điện tử, giày dép.
Tuy nhiên, các mặt hàng xuất khẩu này chưa chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 2005, chỉ có 7 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất
đã chiếm 69% tổng kim ngạch của nước ta. Điều đó thể hiện sự phụ thuộc của
hoạt động xuất khẩu vào một số mặt hàng chủ lực, chưa thực sự đa dạng hoá

cơ cấu mặt hàng.
Ngoài ra, hiệu quả của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực này chưa cao.
Ngoài những sản phẩm nhiên liệu hay nông lâm thuỷ sản thì những mặt hàng
công nghiệp xuất khẩu chủ lực cũng chủ yếu dưới hình thức gia công hay lắp
ráp như dệt may có tỷ lệ gia công lên đến 90%, giày dép có tỷ lệ đầu vào nhập
khẩu 60-65% hay điện tử chủ yếu là lắp ráp linh kiện.
1.3.2. Cơ cấu xuất khẩu theo nhóm hàng.
Cơ cấu xuất khẩu trong giai đoạn 1996-2005 vủa Việt Nam đã được cải
thiện nhất định. Theo phân loại của Niên giám thống kê (theo kế hoạch Nhà
nước), tỷ trọng nhóm hàng nông lâm thuỷ sản đã giảm từ 42,3% năm 1996
xuống còn 26,2% năm 2004, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản
tăng từ 28,7% lên 32,6% và nhóm hàng công nghiệp nhẹ và TTCN tăng từ
29% lên 41,2% trong cùng kỳ. Điều đó cho thấy xu hướng chuyển dịch cơ cấu
hàng xuất khẩu từ những sản phẩm nông nghiệp sang những sản phẩm công
nghiệp.
Nếu xét theo nhóm hàng thì sự chuyển dịch trong cơ cấu hàng hoá xuất
khẩu của Việt Nam giai đoạn này là chậm và không ổn định qua các năm.
Trong đó, tỷ trọng của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản giảm dần từ 23,9%

25


×