VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ THU HẰNG
PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 9 38 01 07
LUẬN ÁN TIỄN SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ
Hà Nội, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong
luận án đều được trích dẫn nguồn trung thực. Những kết luận khoa học của Luận án
chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Lê Thị Thu Hằng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...................... 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu............................................................ 8
1.2. Cơ sở lí thuyết.....................................................................................18
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG............ 23
2.1. Những vấn đề lí luận về phí bảo vệ môi trường.....................................23
2.2. Những vấn đề lí luận về pháp luật phí bảo vệ môi trường ......................38
Kết luận chương 2 .....................................................................................53
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẠI THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG...................................................................................... 55
3.1. Thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trường .....................................55
3.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường tại thành phố Đà Nẵng
.................................................................................................................89
CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG............................................. 120
4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường .................. 120
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường .................... 124
4.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về phí bảo vệ môi
trường tại Đà Nẵng .................................................................................. 143
KẾT LUẬN ........................................................................................... 148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 152
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BOD
Biological Oxygen Demand - Nhu cầu oxy tối thiểu
BPP
Beneficiary Pay Principle - Nguyên tắc người thụ hưởng phải trả
BVMT
Bảo vệ môi trường
CAC
Command and control - Công cụ mệnh lệnh và kiểm soát
CCKT
Els - Economic Instrument - Công cụ kinh tế
COD
Chemical Oxygen Demand - Nhu cầu oxy hóa học
HĐND
Hội đồng nhân dân
OECD
Organization of Economic Cooperation and Development - Tổ chức
Hợp tác và Phát triển Kinh tế
PPP
Polluter Pays Principle - Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả
QPPL
Quy phạm pháp luật
TN&MT
Tài nguyên và Môi trường
UBND
Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3. 1 So sánh thông số ô nhiễm tính phí và mức phí giữa các Nghị định62
Bảng 3. 2 Khảo sát về việc thu phí đối với 6 chất gây ô nhiễm .................... 64
Bảng 3. 3 Kết quả khảo sát đánh giá tác động giảm thiểu ô nhiễm môi trường
tại các cơ sở sản xuất ................................................................................ 67
Bảng 3. 4 Khảo sát về lưu lượng nước thải tính phí cố định và mức phí cố
định.......................................................................................................... 98
Bảng 3. 5 Số thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt tại Đà
Nẵng .......................................................................................................103
Bảng 3. 6 Số phí bảo vệ môi trường đối với nước thải thu được tại Đà Nẵng
thực hiện theo Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ............................................105
Bảng 3. 7 Số phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp thu được
tại Đà Nẵng từ năm 2013 đến 2015...........................................................106
Bảng 3. 8 Số thu phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản ........110
Bảng 4. 1 Đề xuất hệ số K tính phí cố định đôi với nước thải công nghiệp .129
Bảng 4. 2 Lộ trình tính phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản
...............................................................................................................134
DANH MỤC HÌNH
Hình 2. 1 Nguồn kinh phí ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp môi trường ........ 33
DANH MỤC HỘP
Hộp 3. 1 Quan điểm về tính phí đối với số lượng đất đá bốc xúc thải ra ...... 85
Hộp 3. 2 Quan điểm về áp dụng hệ số K đối với công nghệ khai thác .......... 88
Hộp 3. 3 Phản ánh của UBND huyện Hòa Vang về việc về việc thu phí, phân
cấp, quản lí và sử dụng nguồn thu phí BVMT đối với khai thác khoáng sản
...............................................................................................................113
Hộp 3. 4 Phản ánh của UBND quận Liên Chiểu về việc thu phí, phân cấp, quản
lí và sử dụng nguồn thu phí BVMT đối với khai thác khoáng sản...............114
Hộp 3. 5 Phản ánh của UBND xã Hòa Nhơn thuộc huyện Hòa Vang về việc về
việc thu phí, phân cấp, quản lí và sử dụng nguồn thu phí BVMT đối với khai
thác khoáng sản .......................................................................................114
Hộp 4. 1 Công thức tính phí BVMT đối với nước thải công nghiệp............132
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển bền vững là một chiến lược phát triển mới của xã hội loài người, xuất
hiện từ đầu những năm 70 của thế kỉ XX trong phong trào bảo vệ môi trường thế giới.
Đó là sự phát triển đáp ứng được yêu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại cho
việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền
vững là kinh tế tăng trưởng ổn định; thực hiện tốt công bằng và tiến bộ xã hội; khai
thác hợp lí, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống [99].
Tuy nhiên, thực tiễn vài thập kỉ qua cho thấy, nhiều quốc gia đã sẵn sàng hi sinh
môi trường để chạy theo tốc độ tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá. Kết quả là, con
người đang phải gánh chịu những hậu quả vô cùng nặng nề do môi trường bị phá hủy.
Vì thế, BVMT đang là mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại.
Trên thế giới, nhiều công cụ quản lí đã được áp dụng để BVMT. Ban đầu, nhóm
công cụ được ưu tiên sử dụng là nhóm công cụ hành chính, hay còn gọi là nhóm công
cụ mệnh lệnh - kiểm soát và sau đó là nhóm tuyên truyền giáo dục và khoa học công
nghệ. Tuy nhiên, các công cụ này cũng bộc lộ những khiếm khuyết nhất định, đó là
chưa gắn được lợi ích kinh tế của các chủ thể, đặc biệt là doanh nghiệp với lợi ích
môi trường của cộng đồng. Do đó, các quốc gia đã bổ sung thêm nhóm công cụ kinh
tế về BVMT. Với việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý và BVMT, các quốc
gia đã gắn lợi ích kinh tế của các chủ thể với lợi ích môi trường của cộng đồng thông
qua việc Nhà nước sử dụng lợi ích kinh tế để định hướng hành vi. Do đó, so với công
cụ mệnh lệnh - kiểm soát, công cụ kinh tế có nhiều ưu điểm hơn về định hướng giảm
thiểu ô nhiễm thông qua việc điều chỉnh hành vi của người tiêu dùng và nhà sản xuất,
thay đổi công nghệ, sử dụng các nguyên liệu thay thế. Trong nhóm CCKT thì thuế và
phí môi trường được áp dụng khá phổ biến.
Cùng với xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to
lớn trong xóa đói, giảm nghèo nhưng lại phải đương đầu với những thách thức lớn
lao về môi trường. Ô nhiễm môi trường do tăng trưởng kinh tế gây ra ở Việt Nam là
một trong những vấn đề bức xúc đòi hỏi phải giải quyết hiện nay.
Nhận thức được điều này, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến việc thực hiện các
biện pháp khác nhau để BVMT. Ngày 15/11/2004, Bộ chính trị Ban chấp hành Trương
ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết số 41-NQ/TW về BVMT trong thời kì
1
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã khẳng định: “Bảo vệ môi trường vừa là mục
tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, phải được thể
hiện trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của
từng ngành và từng địa phương. Khắc phục tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế xã hội mà coi nhẹ bảo vệ môi trường. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát
triển bền vững”. Đồng thời, Chính phủ đã có các chương trình quốc gia về BVMT cho
từng giai đoạn và khẳng định “Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của toàn xã hội, của các
cấp, các ngành, các tổ chức, cộng đồng và của mọi người dân”[98], “Bảo vệ môi trường
là yêu cầu sống còn của nhân loại”[101].
Để hiện thực hóa các chủ chương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác
BVMT, hệ thống pháp luật về BVMT tại Việt Nam đã được hình thành. Để đạt được
hiệu quả trong việc BVMT, pháp luật Việt Nam đã quy định việc sử dụng đan xen và hỗ
trợ giữa các công cụ hành chính, hình sự, tuyên truyền giáo dục, công cụ kinh tế. Điều
này đã được nhấn mạnh trong Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020 “Đẩy mạnh áp dụng công cụ kinh tế trong quản lí môi trường”. Thuế và
phí BVMT là công cụ kinh tế được sử dụng phổ biến tại Việt Nam.
So với các nước trên thế giới, công cụ phí BVMT ở Việt Nam được áp dụng khá
muộn. Năm 2003, căn cứ Pháp lệnh số 38/2001/PL-UBTVQH10, Chính phủ mới ban
hành Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/06/2003 về phí BVMT đối với nước thải.
Sau đó, Chính phủ lần lượt ban hành các Nghị định số 137/2005/NĐ-CP ngày
09/11/2005, Nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 về phí BVMT đối với
khai thác khoáng sản, đối với chất thải rắn. Trong quá trình thực hiện, pháp luật về
phí BVMT đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn đời sống. Nhìn chung,
các quy định về phí BVMT đã mang lại những hiệu quả nhất định trong việc BVMT,
điều chỉnh hành vi chủ thể xả thải theo hướng có lợi cho môi trường và tạo được
nguồn tài chính đáng kể cho ngân sách trung ương và địa phương trong BVMT. Tuy
nhiên, các văn bản đó cũng dần bộc lộ những hạn chế và bất cập, làm giảm hiệu lực
và hiệu quả của phí BVMT đối với khả năng giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Quy
định về đối tượng chịu phí nước thải công nghiệp chưa đầy đủ, một số trường hợp
không phù hợp với thực tiễn gây khó khăn trong việc thu phí; thông số ô nhiễm tính
phí chưa phù hợp với điều kiện và nguồn lực thu phí của Việt Nam; việc kê khai và
thẩm định tờ khai phí BVMT còn rườm rà gây phiền hà cho doanh nghiệp, chưa có
chế tài đủ mạnh để các doanh nghiệp tự nguyện nộp phí… Quy định về phí BVMT
2
đối với khai thác khoáng sản tồn tại nhiều bất cập: mức thu phí đối với một số khoáng
sản còn chưa tương xứng với mức độ gây ô nhiễm môi trường do hoạt động khai thác
khoáng sản gây ra; chưa có sự phân biệt theo công nghệ khai thác, do đó chưa khuyến
khích áp dụng công nghệ mới trong khai thác khoáng sản; mức thu cũng chưa tính
đến đặc thù của từng loại khoáng sản khai thác, chưa có sự phân biệt theo hàm lượng
khoáng sản, do đó không khuyến khích các mỏ tận thu khai thác; cơ chế phân bổ,
quản lí và sử dụng nguồn thu từ phí BVMT đối với khai thác khoáng sản chưa rõ
ràng… Việc nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lí luận, đánh giá đúng thực trạng pháp luật
và luận cứ khoa học để thiết kế và xây dựng chính sách pháp luật về phí BVMT hiệu
lực, hiệu quả cũng như tìm ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đã trở
thành yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh Việt Nam đang cùng với các quốc gia trên thế
giới nỗ lực tìm các giải pháp để giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Bên cạnh những bất cập của hệ thống pháp luật, thực tiễn thực hiện pháp luật về
phí BVMT tại các địa phương cũng nảy sinh nhiều vướng mắc. Nghiên cứu từ thực
tiễn thực hiện pháp luật về BVMT tại Đà Nẵng cho thấy Sở TN&MT Đà Nẵng lúng
túng trong việc thực hiện một số quy định về phí BVMT, việc quản lí đối tượng chịu
phí chưa chặt chẽ và đầy đủ, số phí BVMT thu được thấp hơn số phí BVMT doanh
nghiệp phải nộp, việc phân bổ nguồn phí BVMT đối với khai thác khoáng sản chưa
được minh bạch và hợp lí…Vì thế, việc chọn đề tài “Pháp luật về phí bảo vệ môi
trường từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để nghiên cứu càng trở nên có ý nghĩa về
mặt thực tiễn, giúp bổ sung đầy đủ các luận cứ khoa học để hoàn thiện hệ thống pháp
luật về phí BVMT.
Với những lí do nêu trên cho thấy để đạt được mục tiêu BVMT mà Đảng và Nhà
nước đã đặt ra, góp phần chung tay với các quốc gia trên thế giới trong nỗ lực tìm các
giải pháp để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, Việt Nam cần có một hệ thống pháp luật
BVMT hoàn thiện. Việc nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận, đánh giá đúng thực
trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT từ địa phương để tìm
ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí BVMT là hết sức cần thiết, có ý nghĩa cả
về mặt lí luận và nhận thức.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm góp phần tạo lập những luận cứ khoa học cho
việc điều chỉnh pháp luật về phí BVMT trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống những vấn đề lý
luận của phí BVMT, pháp luật về phí BVMT, đánh giá thực trạng pháp luật về phí BVMT
và thực tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT tại thành phố Đà Nẵng nhằm góp phần nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật về phí bảo vệ môi trường.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, nghiên cứu sinh phải thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và đưa ra những
nhận xét, quan điểm về những vấn đề đã được các công trình nghiên cứu. Trên cơ sở
đó, khái quát các nội dung chưa được các công trình nghiên cứu đề cập tới để định
hướng các vấn đề cần nghiên cứu và giải quyết trong luận án.
- Phân tích và làm rõ một số vấn đề lí luận về phí BVMT và pháp luật về phí
BVMT như khái niệm về phí BVMT theo sự điều chỉnh của pháp luật, đặc điểm cơ
bản của phí BVMT, vai trò của phí BVMT, khái niệm và nội hàm của pháp luật về
phí BVMT, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về phí BVMT và điều kiện áp dụng
hiệu quả phí BVMT.
- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT tại
Đà Nẵng nhằm chỉ ra được những ưu điểm và bất cập của pháp luật về phí BVMT và
xác định được những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện pháp
luật về phí BVMT tại Đà Nẵng.
- Phân tích kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về việc áp dụng phí
BVMT để có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
- Sau cùng, luận án luận giải về sự cần thiết và yêu cầu khách quan của việc hoàn
thiện pháp luật phí BVMT. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra những quan điểm và giải
pháp hoàn thiện pháp luật về phí BVMT, giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực
hiện pháp luật tại Đà Nẵng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án gồm: phí BVMT và pháp luật về phí BVMT;
những nguyên tắc cơ bản của pháp luật về phí BVMT; thực trạng pháp luật về phí BVMT
4
và thực tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT tại Đà Nẵng; kinh nghiệm của một số
nước trên thế giới về xây dựng pháp luật về phí BVMT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phí BVMT là vấn đề có phạm vi nghiên cứu rộng, phức tạp liên quan đến nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau; vì vậy, phí BVMT có thể được phân tích ở nhiều
góc độ, mức độ khác nhau như kinh tế học, luật học, xã hội học…. Tuy nhiên, trong
phạm vi của một luận án tiến sĩ luật học, luận án chỉ tập trung nghiên cứu những khía
cạnh pháp lí của phí BVMT từ những vấn đề lí luận đến thực trạng pháp luật, thực tiễn
thực hiện pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí BVMT. Các nội dung nghiên
cứu về pháp luật phí BVMT tập trung vào 5 nhóm vấn đề: i) Quy định về đối tượng chịu
phí BVMT; ii) Quy định về căn cứ tính phí và mức phí BVMT; iii) Quy định về kê khai
và nộp phí BVMT; iv) Quy định về quản lí và sử dụng phí BVMT; v) Trách nhiệm của
các chủ thể khi vi phạm các quy định về phí BVMT.
Theo quy định của Luật phí và Lệ phí năm 2015, phí BVMT tại Việt Nam có 5 loại
gồm: i) Phí thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, đề án BVMT chi tiết; ii)
Phí thẩm định phương án cải tạo, phục hồi môi trường và phương án cải tạo, phục hồi
môi trường bổ sung; iii) Phí BVMT đối với nước thải; iv) Phí BVMT đối với khai thác
khoáng sản; v) Phí BVMT đối với khí thải. Tuy nhiên, luận án không nghiên cứu phí
thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, đề án BVMT chi tiết và phí thẩm định
phương án cải tạo, phục hồi môi trường và phương án cải tạo, phục hồi môi trường bổ
sung bởi vì theo thông lệ thế giới, phí BVMT chỉ bao gồm phí phát thải, phí sử dụng
hoặc phí sản phẩm; trong đó phí phát thải được sử dụng phổ biến.
Trong 3 loại phí phát thải, luận án không nghiên cứu phí BVMT đối với khí thải
vì không có cơ sở pháp lí để nghiên cứu bởi vì ngoài việc phí BVMT đối với khí thải
được xác định là một loại phí BVMT tại mục 1.2 - IX phụ lục số 1 Luật phí và lệ phí
năm 2015, đến nay không có bất kì văn bản quy phạm pháp luật nào quy định chi tiết
về phí BVMT đối với khí thải.
Về thời gian, Luận án nghiên cứu pháp luật về phí BVMT của Việt Nam từ năm
2003 đến nay.
Về không gian, Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng pháp luật về phí BVMT
của Việt Nam, Về thực tiễn thực hiện pháp luật, Luận án nghiên cứu thực tiễn thực
hiện pháp luật về phí BVMT tại thành phố Đà Nẵng.
5
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, trong luận án tác giả
đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp như phương pháp hệ thống, phương pháp
phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp
phân tích quy phạm pháp luật, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp khảo sát và
điều tra xã hội học, phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia. Tùy từng phần nội dung của
đề tài, tác giả đã lựa chọn những phương pháp nghiên cứu phù hợp để đảm hiệu quả
cao nhất khi tiếp cận vấn đề. Cụ thể:
Chương 1: Tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân
tích và tổng hợp để đưa ra đánh giá về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về
phí BVMT.
Chương 2: Tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp
phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống để đưa ra quan niệm về các vấn đề lí
luận của phí BVMT và pháp luật về phí BVMT.
Chương 3 mục 3.1: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích quy phạm pháp luật
Việt Nam, phương pháp so sánh pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, phương
pháp hỏi ý kiến chuyên gia, phương pháp khảo sát và điều tra xã hội học để đánh giá
tác động của phí BVMT đối với mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi trường và mục tiêu
tăng nguồn thu cho ngân sách; xác định được những bất cập, hạn chế của pháp luật
cần khắc phục; rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng chính sách
pháp luật về phí BVMT.
Chương 3 mục 3.2: Tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp thống kê, phương pháp
khảo sát và điều tra xã hội học, phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia, phương pháp
phân tích và phương pháp tổng hợp để có thể đánh giá một cách cụ thể thực tiễn thực
hiện pháp luật về phí BVMT tại Đà Nẵng; rút ra vướng mắc, bất cập của pháp luật từ
thực tiễn thực hiện pháp luật.
Chương 4: Trước hết tác giả sử dụng phương pháp hệ thống để nêu lên những quan
điểm hoàn thiện pháp luật về phí BVMT ở Việt Nam. Sau đó, tác giả sử dụng kết hợp
các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp luật học so sánh, phương pháp hỏi
ý kiến chuyên gia để đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí BVMT.
5. Những điểm mới của luận án
Thứ nhất, luận án đã hệ thống hóa và góp phần phát triển, bổ sung những vấn đề
lí luận về phí BVMT và pháp luật về phí BVMT.
6
Thứ hai, luận án đã nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về phí BVMT và
thực tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT tại thành phố Đà Nẵng để làm rõ những
ưu điểm và bất cập của pháp luật về phí BVMT, những khó khăn và vướng mắc trong
quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về phí BVMT tại Đà Nẵng.
Thứ ba, luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí
BVMT và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về phí BVMT tại Đà Nẵng
nhằm thực hiện thành công mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đảm bảo phát
triển bền vững.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật Việt Nam về
phí BVMT đối với nước thải và khoáng sản. Các kết quả nghiên cứu của luận án góp
phần bổ sung và phát triển những vấn đề lí luận về phí bảo vệ môi trường và pháp
luật về phí bảo vệ môi trường.
Luận án cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn để các nhà hoạch định chính sách
và các cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong việc ban hành, sửa đổi các quy định
pháp luật về phí bảo vệ môi trường và tổ chức thực hiện pháp luật về phí bảo vệ môi
trường nhằm nâng cao hiệu quả tác động của pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối
với việc điều chỉnh hành vi của chủ thể xả thải theo hướng có lợi cho môi trường.
Ngoài ra, các kết quả nghiên cứu của luận án còn là tài liệu tham khảo có giá trị cho
công tác nghiên cứu, giảng dạy pháp luật về phí bảo vệ môi trường.
7. Bố cục của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án có 4
chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Một số vấn đề lý luận về phí bảo vệ môi trường và pháp luật về phí
bảo vệ môi trường
Chương 3: Thực trạng và thực tiễn thực hiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường
tại thành phố Đà Nẵng
Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường.
7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước
Các công cụ kinh tế trong BVMT, đặc biệt là phí BVMT đã được áp dụng trên
thế giới từ những năm 1970. Phí BVMT đã đem lại những hiệu quả nhất định trong
việc BVMT ở các quốc gia, đặc biệt là các nước thuộc OECD. Trên thế giới và trong
nước đã có những công trình nghiên cứu về CCKT trong BVMT nói chung và phí
BVMT nói riêng. Nghiên cứu sinh hệ thống hóa các công trình nghiên cứu trong nước
và thế giới thành những nhóm vấn đề cơ bản sau:
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu những vấn đề lí luận về phí bảo vệ môi trường và pháp
luật về phí bảo vệ môi trường
♦Tình hình nghiên cứu những vấn đề lí luận về phí bảo vệ môi trường
Về khái niệm: Mặc dù phí BVMT đã được áp dụng phổ biến trên thế giới từ những
năm 1970 nhưng đến hiện nay vẫn chưa có khái niệm thống nhất về phí BVMT. Đa
số các tài liệu trên thế giới ít hướng tới việc đưa ra định nghĩa về phí BVMT mà hầu
như tập trung đưa ra các căn cứ tính phí liên quan đến việc xả thải của các chủ thể
gây tổn hại đối với môi trường. Các loại phí có căn cứ tính phí dựa trên việc xả thải
gây ô nhiễm được coi là phí BVMT.
Ở Việt Nam, mặc dù phí BVMT đã được áp dụng từ năm 2004 nhưng đến nay
khái niệm về phí BVMT cũng chưa được định nghĩa chính thức trong bất kì văn bản
quy phạm pháp luật nào; do đó, đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau về phí BVMT.
Có nghiên cứu đưa ra khái niệm phí BVMT dựa trên sự tích hợp giữa khái niệm phí
và mục đích BVMT [85, tr.8]. Hoặc theo một cách khác là sự kết hợp giữa khái niệm
phí nói chung và việc xác định nguồn gây ô nhiễm để hình thành khái niệm phí đánh
vào nguồn gây ô nhiễm [103, tr.31]. Hoặc có nghiên cứu hình thành khái niệm phí
BVMT dựa trên khối lượng và thành phần chất gây ô nhiễm do chủ thể xả thải thải
vào môi trường để gọi phí BVMT là phí phát thải ô nhiễm [109, tr.30]. Cho đến nay,
chưa có nghiên cứu nào đưa ra khái niệm về phí BVMT dưới góc độ pháp lí làm cơ
sở cho việc phân tích, đánh giá các nội dung của pháp luật về phí BVMT.
Về đặc điểm, vai trò: Các nghiên cứu nước ngoài đa số không tách riêng nội dung
về vai trò của phí BVMT, xuyên suốt các nghiên cứu cho thấy phí BVMT có một số
vai trò tích cực trong hoạt động quản lí và BVMT đó là: i) Khuyến khích các cơ sở
8
sản xuất giảm ô nhiễm với chi phí thấp hơn so với chi phí của công cụ mệnh lệnh hành chính; ii) Thúc đẩy sự phát triển công nghệ kiểm soát ô nhiễm trong lĩnh vực tư
nhân; iii) Cung cấp cho chính phủ nguồn tài chính để hỗ trợ các chương trình kiểm
soát ô nhiễm; iv) Đem lại sự linh hoạt trong những công nghệ kiểm soát ô nhiễm; v)
Làm giảm yêu cầu của chính phủ về lượng thông tin chi tiết cần thiết để quyết định
mức độ kiểm soát phù hợp và khả thi cho mỗi nhà máy hoặc sản phẩm [134], [137],
[138], [154].
Tuy nhiên để tránh việc tuyệt đối hóa vai trò của phí BVMT, các nghiên cứu đã
chỉ ra những hạn chế của phí BVMT chủ yếu liên quan đến yếu tố chính trị và
thực tiễn. Cụ thể: i) Các ngành thường ưa thích việc kiểm soát thông qua các tiêu
chuẩn hơn là hệ thống phí bởi vì việc trả phí sẽ làm cho chi phí sản xuất của doanh
nghiệp tăng lên; ii) Phí được các doanh nghiệp tính vào giá thành sản phẩm và điều
này có thể dẫn đến tình trạng phân phối thụt lùi theo lí thuyết của kinh tế học; iii)
Việc quy giá trị bằng tiền cho các thiệt hại gây ra bởi ô nhiễm thường khó được chấp
nhận; iv) Việc định ra mức phí bằng đúng với chi phí biên thiệt hại do ô nhiễm gây
ra sẽ rất phức tạp vì mức độ gây tổn thất phụ thuộc vào địa điểm của các nguồn gây
ô nhiễm và mang tính đơn lẻ, vì vậy đòi hỏi phải có mức phí cho từng công ty cụ thể.
Điều này sẽ khiến cho các khu vực cạnh tranh để phát triển kinh tế bằng cách cắt
giảm mức phí, như vậy làm tổn hại đến nỗ lực cải thiện chất lượng môi trường tại
một số vùng [134], [137], [138], [154].
Ở trong nước, rất ít các công trình nghiên cứu về đặc điểm và vai trò của phí
BVMT, chủ yếu là luận văn Thạc sĩ [85 tr.13 - 18], [122, tr.9 - 10]. Những nghiên cứu
này khi xác định đặc điểm, vai trò của phí BVMT hầu như dựa vào đặc điểm và vai trò
của CCKT trong BVMT, chưa nêu bật được đặc điểm, vai trò riêng của phí BVMT.
Tình hình nghiên cứu về phí bảo vệ môi trường và thuế bảo vệ môi trường
Trên thế giới, nhiều quốc gia không có sự phân biệt rạch ròi giữa phí BVMT và
thuế BVMT. Ở Việt Nam, dưới góc độ pháp lí, phí BVMT và thuế BVMT được xác
định là hai CCKT khác nhau. Đã có một số nghiên cứu phân tích sự khác nhau giữa
phí BVMT và thuế BVMT [85, tr.24], [103, tr.23 - 24] nhưng trong thực tiễn vẫn có
quan điểm cho rằng giữa thuế BVMT và phí BVMT không có sự khác biệt về bản
chất nên thống nhất quy định về một loại là thuế BVMT [159]. Những quan điểm
khác nhau về thuế BVMT và phí BVMT sẽ là cơ sở để luận án làm rõ bản chất của
thuế BVMT và phí BVMT, xác định đúng vị trí, vai trò của phí BVMT.
9
♦Tình hình nghiên cứu những vấn đề lí luận về pháp luật phí bảo vệ môi trường
Tình hình nghiên cứu khái niệm pháp luật về phí BVMT
Nghiên cứu sinh không tìm thấy các tài liệu nước ngoài nghiên cứu về khái niệm
pháp luật phí BVMT. Tìm hiểu về khái niệm pháp luật phí BVMT chủ yếu dựa vào
nghiên cứu trong nước. Các nghiên cứu về phí BVMT trong nước có đặc thù là đa số
các công trình đều nghiên cứu phí BVMT trong tổng thể với các CCKT khác, các
nghiên cứu về phí BVMT độc lập và dưới góc độ pháp lí rất ít [85], [88]. Các nghiên
cứu dưới góc độ pháp lí cũng không hình thành khái niệm pháp luật về phí BVMT.
Các nghiên cứu về phí BVMT dưới góc độ kinh tế chỉ tập trung phân tích khái niệm
phí BVMT với tư cách là một CCKT trong BVMT, không nghiên cứu khái niệm pháp
luật về phí BVMT [82], [100], [109], [122]. Việc không xác định khái niệm pháp luật
về phí BVMT sẽ ảnh hưởng lớn đến việc nghiên cứu nội dung của pháp luật về phí
BVMT.
Tình hình nghiên cứu các nguyên tắc cơ bản của phí BVMT
Để đảm bảo pháp luật phí BVMT có hiệu lực và hiệu quả, khi xây dựng chính
sách pháp luật về phí BVMT, các quốc gia cần phải dựa trên những nguyên tắc nhất
định, trong đó nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả” được đa số các quốc gia trên
thế giới xác định là nguyên tắc nền tảng để xây dựng hệ thống pháp luật về phí
BVMT. Nguyên tắc PPP được hiểu là những người gây ô nhiễm phải chịu các chi phí
thực hiện các biện pháp kiểm soát và ngăn ngừa ô nhiễm được quyết định bởi cơ quan
có chức trách của chính quyền nhằm đảm bảo môi trường trong trạng thái chấp nhận
được. PPP đòi hỏi người gây ra ô nhiễm phải chịu trách nhiệm về tài chính đối với
việc tuân thủ bất kỳ yêu cầu xử lý ô nhiễm nào phù hợp với quy định luật pháp.
Nguyên tắc PPP đã được Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế công nhận vào
năm 1972. Tuy nguyên tắc PPP đã được chấp nhận rộng rãi trên thế giới nhưng không
phải quốc gia nào cũng hiểu và vận dụng đúng nguyên tắc PPP. Vì thế, trong các
nghiên cứu của thế giới về CCKT và phí BVMT, nguyên tắc PPP luôn là một trong
những nội dung trọng tâm. Một số công trình nghiên cứu đã tập trung phân tích bản
chất của PPP nhằm hướng đến việc vận dụng thống nhất nguyên tắc PPP của các quốc
gia trên thế giới [138], [139], [140], [143], [148], [155.].
PPP là nguyên tắc nền tảng được quốc tế thừa nhận để xây dựng chính sách pháp
luật phí BVMT ở các quốc gia. Tuy nhiên, việc thiết kế một chính sách pháp luật về
phí BVMT còn phụ thuộc vào cách vận dụng nguyên tắc PPP, phụ thuộc vào chế độ
10
kinh tế, thể chế chính trị của từng quốc gia. Để chính sách pháp luật phí BVMT phát
huy hiệu quả thì cần có một sự thiết kế chặt chẽ. Theo nghiên cứu của World Bank
1998 thì việc thực hiện một chương trình thu phí BVMT được thiết kế thiếu chặt chẽ
sẽ không mang lại những lợi ích đáng kể về kinh tế và môi trường [154, tr.160].
Nhóm tác giả của World Bank [154, pp.164 - 165] đã đưa ra khuyến nghị về các bước
để xây dựng chính sách pháp luật phí BVMT: i) Phân tích phạm vi và tầm ảnh hưởng
của sự ô nhiễm, xác định những khu vực và lưu vực sông chính; ii) Xác định những
chất gây ô nhiễm chính có ảnh hưởng lớn tới môi trường sống, sức khỏe con người
cũng như khả năng phá hủy môi trường. Khả năng thay đổi công nghệ, chi phí để thay
đổi công nghệ, khả năng quan trắc và lấy mẫu, mối quan hệ giữa việc dùng sản phẩm
và việc phát thải và việc ảnh hưởng tất yếu của các chất thải đến môi trường là những
nhân tố quyết định việc thiết kế các CCKT/phí BVMT và hiệu quả áp dụng các công
cụ đó trong thực tế đời sống; iii) Xác định các nguồn gây ô nhiễm chính như đơn vị
sản xuất công nghiệp, đơn vị hành chính công, phương tiện giao thông, hộ gia đình;
iv) Cần chú ý đến phạm vị ô nhiễm: địa phương, quốc gia, xuyên quốc gia, vùng, hay
toàn cầu để có những quy định cho phù hợp về phí BVMT; v) Xem xét kĩ lưỡng về
chi phí quản lí của phí BVMT, cần phải so sánh với chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ
ra để thực hiện công cụ mệnh lệnh -. kiểm soát.
Dù cho những hiệu quả to lớn của phí BVMT mà các quốc gia trên thế giới đã
đạt được trong thời gian qua, phí BVMT không phải là một loại thuốc chữa bách
bệnh. Phí BVMT cần phải được sử dụng kết hợp với các công cụ chính sách khác
[138, pp.29]. CCKT trong BVMT không thể được sử dụng riêng rẻ mà phải kết hợp
với biện pháp mệnh lệnh - kiểm soát. Trong khi công cụ mệnh lệnh - kiểm soát sẽ gửi
tín hiệu trực tiếp hoặc thay vì đơn đặt hàng cho thị trường để đảm bảo chi phí môi
trường và chi phí đầu tư thì các CCKT gửi những tín hiệu thị trường gián tiếp dưới
hình thức làm thay đổi giá cả một cách tương đối (sự đóng thuế trên sản phẩm) và/
hoặc sự chuyển đổi tài chính (trả phí). Phí BVMT tạo ra sự lựa chọn cho người gây ô
nhiễm hoặc là trả phí hoặc là đầu tư để kiểm soát ô nhiễm. Vì thế, cần phải có sự phối
hợp sử dụng các công cụ một cách hợp lí để đạt được hiệu quả cao trong BVMT [137,
tr 97 - 111].
Đối với các nghiên cứu trong nước, do đặc thù và yêu cầu của các nghiên cứu
nên đa số các tác giả thường chỉ phân tích nội dung cơ bản về của nguyên tắc PPP
[85, tr.31-34], [103, tr.22], [106, tr.186-194], không phân tích mức độ áp dụng nguyên
11
tắc PPP trong hệ thống pháp luật về phí BVMT tại Việt Nam. Nghiên cứu sinh sẽ kế
thừa các nghiên cứu để phân tích nguyên tắc PPP phù hợp với yêu cầu của luận án.
Tình hình nghiên cứu nội dung của pháp luật về phí bảo vệ môi trường
Như đã tổng quan ở các phần trên, có rất ít tài liệu trong nước nghiên cứu về phí
BVMT dưới góc độ pháp lí và cũng không có nghiên cứu nào hình thành cơ sở nền
tảng cho việc nghiên cứu nội dung của pháp luật về phí BVMT đó là khái niệm pháp
luật về phí BVMT; do đó, không có cơ sở lí luận để nghiên cứu nội dung pháp luật
về phí BVMT. Đây gần như là một khoảng trống trong nghiên cứu về nội dung của
pháp luật về phí BVMT.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu thực trạng và thực tiễn thực hiện pháp luật phí bảo vệ
môi trường
♦ Tình hình nghiên cứu thực trạng và thực tiễn thực hiện pháp luật về phí bảo vệ
môi trường đối với nước thải
Về thực trạng pháp luật phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Nghị định số 67/2003/NĐ-CP là Nghị định đầu tiên điều chỉnh về phí BVMT đối
với nước thải tại Việt Nam và được thực hiện trong thời gian dài (gần 10 năm) nên có
nhiều nghiên cứu về pháp luật phí BVMT đối với nước thải theo Nghị định số
67/2003/NĐ-CP hơn các Nghị định khác [76], [85], [86], [98], [113], [124], [125].
Đánh giá về ưu điểm của Nghị định số 67/2003/NĐ-CP, các nghiên cứu đều
khẳng định Nghị định số 67/2003/NĐ-CP đã góp phần hình thành và nâng cao ý thức
của các chủ thể trong việc BVMT, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và từng
bước hạn chế ô nhiễm môi trường. Bên cạnh những kết quả đạt được, Nghị định số
67/2003/NĐ-CP đã bộc lộ nhiều bất cập, vướng mắc cần được sửa đổi, bổ sung. Các
nghiên cứu đã tập trung phân tích chỉ ra các bất cập chính, đó là quy định đối tượng
chịu phí, cách tính phí, mức thu phí, thông số tính phí, quy trình thu phí, quản lí và
sử dụng phí BVMT đối với nước thải công nghiệp.
Các nghiên cứu cũng đưa ra khuyến nghị để xây dựng chính sách pháp luật phí
BVMT đối với nước thải hiệu quả cần phải quán triệt một số nguyên tắc: i) Nước xả
thải phải đạt chuẩn môi trường mới được phép xả thải ra môi trường; ii) Quy định thu
phí phải đơn giản, dễ thực hiện, bảo đảm hiệu quả, chi phí thu phí thấp; iii) Mức thu
phí phải bảo đảm bù đắp chi phí thu và khắc phục tình trạng ô nhiễm.
Năm 2013, Nghị định số 25/2013/NĐ-CP ra đời thay thế Nghị định số
67/2003/NĐ-CP, có hiệu lực thực hiện trong thời gian hơn 3 năm. Các nghiên cứu về
12
Nghị định số 25/2013/NĐ-CP không nhiều và chủ yếu chỉ nêu lên những điểm mới
của Nghị định số 25/2013/NĐ-CP [72], [162].
Ngày 16/11/2016, Chính phủ ban hành Nghị định số 154/2016/NĐ-CP, có hiệu
lực thi hành ngày 01/01/2017, thay thế Nghị định số 25/2013/NĐ-CP. Các nhà nghiên
cứu chưa chú trọng đánh giá về thực trạng pháp luật của Nghị định số 154/2016/NĐCP, chủ yếu là các phản ánh của các địa phương về những bất cập của Nghị định số
154/2016/NĐ-CP. Khoảng trống này đã giúp nghiên cứu sinh hình thành các nghiên
cứu về thực trạng pháp luật của Nghị định số 154/2016/NĐ-CP [91], [92], [93], tạo
cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu của luận án.
Về thực tiễn thực hiện pháp luật phí BVMT đối với nước thải
Đa số các nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải
tập trung vào Nghị định số 67/2003/NĐ-CP. Có nghiên cứu tập trung đánh giá thực tiễn
thực hiện pháp luật phí BVMT trên phạm vi quy mô quốc gia [76], một số nghiên cứu
tập trung đánh giá tình hình thực hiện phí BVMT đối với nước thải của địa phương [83],
[86], [104]. Các nghiên cứu cho thấy tình hình thực hiện pháp luật phí BVMT đối với
nước thải nảy sinh rất nhiều bất cập: i) Các Sở TN&MT đang gặp khó khăn trong việc
xác định đối tượng nộp phí do thiếu thông tin về các cơ sở đang hoạt động hoặc dừng
hoạt động; ii) Số phí thu được chưa tương xứng với mức độ gây ô nhiễm, đặc biệt là phí
BVMT đối với nước thải công nghiệp; iii) Nguồn lực thu phí tại các nhiều địa phương
còn hạn chế nên không thể kiểm soát tốt việc thu phí.
Trong khi đó, các công trình khoa học nghiên cứu về thực tiễn thực hiện Nghị
định số 25/2013/NĐ-CP hầu như chưa có. Thực tiễn thực hiện Nghị định số
25/2013/NĐ-CP chủ yếu được xem xét qua việc thống kê số liệu hằng năm của Bộ
TN&MT tại các địa phương.
Đối với Nghị định số 154/2016/NĐ-CP, theo tìm hiểu của nghiên cứu sinh cũng
chưa có các nghiên cứu về thực tiễn thực hiện phí BVMT đối với nước thải, đặc biệt
là chưa có nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về thực tiễn thực hiện phí BVMT đối
với nước thải tại Đà Nẵng. Nghiên cứu sinh đã mạnh dạn nghiên cứu một số khía
cạnh về thực tiễn thực hiện phí BVMT đối với nước thải [91], [92], [93] để tạo tiền
đề tốt cho việc nghiên cứu luận án của mình.
♦Tình hình nghiên cứu thực trạng và thực tiễn thực hiện pháp luật về phí bảo vệ môi
trường đối với khai thác khoáng sản
Về thực trạng pháp luật phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản
13
Qua tìm hiểu của nghiên cứu sinh, đến nay có rất ít bài báo, công trình khoa học
độc lập nghiên cứu về pháp luật phí BVMT đối với khai thác khoáng sản. Đánh giá
về thực trạng pháp luật phí BVMT đối với khai thác khoáng sản chủ yếu được thực
hiện trong các luận văn Thạc sĩ, Luận án về CCKT trong BVMT hoặc phí BVMT nói
chung [82], [85], [88], [100]. Các bài đăng tạp chí phân tích về thực trạng pháp luật
phí BVMT đối với khai thác khoáng sản chủ yếu được lồng ghép với các vấn đề khác
về khai thác khoáng sản, không đánh giá toàn bộ thực trạng pháp luật mà chỉ là một
khía cạnh của phí BVMT đối với khai thác khoáng sản [101], [105], [160]. Năm 2015
đã có một công trình nghiên cứu riêng về phí BVMT đối với khai thác khoáng sản đó
là báo cáo “Trả lại bản chất phí bảo vệ môi trường nhằm giảm thiểu tác động và hạn
chế xung đột trong lĩnh vực khai thác khoáng sản” của nhóm tác giả thuộc Trung tâm
Con người và Thiên nhiên, Trung tâm phát triển và Hội nhập. Tuy nhiên, nghiên cứu
này chỉ tập trung đánh giá bất cập của pháp luật phí BVMT khai thác khoáng sản về
quản lí, phân bổ, sử dụng phí theo Nghị định số 74/2011/NĐ-CP, không đánh giá các
khía cạnh khác của pháp luật về phí BVMT đối với khai thác khoáng sản [123].
Do đặc thù của các nghiên cứu nên mức độ đánh giá về thực trạng pháp luật
không mang tính hệ thống và toàn diện. Tài liệu đánh giá thực trạng pháp luật về phí
BVMT đối với khai thác khoáng sản chủ yếu là các báo cáo tổng kết của Bộ Tài chính
đối với Nghị định số 74/2011/NĐ-CP. Các nghiên cứu khoa học về pháp luật phí
BVMT đối với khai thác khoáng sản theo Nghị định số 12/2016/NĐ-CP và Nghị định
số 164/2016/NĐ-CP gần như chưa được khai thác.
Để tạo nền tảng cho việc nghiên cứu thực trạng pháp luật về phí BVMT đối với
khai thác khoáng sản, nghiên cứu sinh đã có nghiên cứu về điểm mới của Nghị định
số 12/2016/NĐ-CP [157]. Những khoảng trống chưa được khai thác, nghiên cứu sinh
sẽ nghiên cứu trong luận án để có đánh giá toàn diện đối với pháp luật về phí BVMT
đối với khai thác khoáng sản.
Về thực tiễn thực hiện pháp luật phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản
Nghiên cứu về thực trạng pháp luật không nhiều, do đó, nghiên cứu về thực tiễn
thực hiện pháp luật rất hạn chế và không có nghiên cứu về thực tiễn thực hiện pháp
luật về phí BVMT đối với khai thác khoáng sản tại Đà Nẵng. Tài liệu nghiên cứu về
thực tiễn thực hiện pháp luật chủ yếu là báo cáo của Bộ Tài chính và rải rác một số
luận văn Thạc sĩ [85], [88], [100].
Nghiên cứu “Trả lại bản chất phí bảo vệ môi trường nhằm giảm thiểu tác động và
14
hạn chế xung đột trong lĩnh vực khai thác khoáng sản” của nhóm tác giả của Trung tâm
Con người và Thiên nhiên, Trung tâm phát triển và Hội nhập là một trong số rất ít các
công trình nghiên cứu độc lập về thực tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT đối với khai
thác khoáng sản. Tương ứng với phần thực trạng pháp luật, nghiên cứu này chỉ tập trung
phân tích thực tiễn phân bổ và sử dụng phí BVMT tại một số địa phương. Nghiên cứu
chỉ ra rằng việc quản lí và sử dụng nguồn thu từ phí BVMT ở các địa phương chưa hiệu
quả, còn nhiều bất cập là do: i) Thiếu quy định rõ ràng về cơ chế phân bổ, quản lí và sử
dụng nguồn thu từ phí BVMT; ii) Hệ thống quản lí phí BVMT chưa phù hợp (phí BVMT
được nhập chung với các loại nguồn thu khác); vai trò của các cơ quan chuyên trách về
môi trường trong việc quản lí và sử dụng nguồn thu từ phí BVMT mờ nhạt; iii) Thiếu cơ
chế cho sự tham gia của UBND cấp xã và cộng đồng bị ảnh hưởng. Đây cũng là bất cập
chung trong chính sách pháp luật về phí của Việt Nam [102]. Nghiên cứu này là một
nguồn tài liệu có ý nghĩa quan trọng cho luận án.
1.1.1.3. Tình hình nghiên cứu về quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí
bảo vệ môi trường
Như đã trình bày, các nghiên cứu về phí BVMT đa số được nghiên cứu trong
tổng thể với các CCKT khác; vì vậy, việc nghiên cứu về quan điểm, giải pháp hoàn
thiện pháp luật về phí BVMT đa số được nghiên cứu chung với các CCKT khác, ít
công trình nghiên cứu giải pháp hoàn thiện pháp luật phí BVMT độc lập.
Cách tiếp cận về quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí BVMT của
các nghiên cứu cũng khác nhau. Một số tác giả nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc
gia đã áp dụng thành công phí BVMT đưa ra khuyến nghị và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam trong việc xây dựng hệ thống pháp luật về phí BVMT [108], [109],
[117]. Một số tác giả tập trung phân tích những điểm bất cập, hạn chế của pháp luật
về phí BVMT Việt Nam và đưa ra đề xuất, giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí
BVMT từ những vướng mắc, bất cập của pháp luật [79], [99], [104], [107], [118],
[119], [128], [129].
Nội dung cơ bản của các kiến nghị là: i) Xác định đối tượng chịu phí cho phù hợp
với thực tế; ii) Xây dựng mức thu phí tương xứng với mức độ gây ô nhiễm và tốc độ
lạm phát; iii) Thông số ô nhiễm thu phí phải phù hợp với điều kiện thu phí của Việt
Nam; phương pháp tính phí phải phân biệt theo công nghệ xử lí ô nhiễm hoặc công
nghệ khai thác; iv) Quy trình thu phí phải đơn giản và dễ thực hiện; v) Việc quản lí
và sử dụng phí phải rõ ràng và bảo đảm đúng mục đích BVMT.
15
Tuy nhiên, do đặc thù pháp luật về phí BVMT trong thời gian qua có sự thay đổi,
điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng giai đoạn nên có một
số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí BVMT không còn phù hợp với
quy định của pháp luật hiện hành. Nghiên cứu sinh sẽ kế thừa những nghiên cứu đã
có, phát triển và xây dựng giải pháp hoàn thiện theo quan điểm của nghiên cứu sinh
thông qua việc phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về phí
BVMT tại Đà Nẵng.
1.1.1.4.Tình hình nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới và bài học cho
các nước đang phát triển
Phí BVMT đã đem lại những hiệu quả nhất định trong việc BVMT ở các quốc
gia, đặc biệt là các nước thuộc OECD. Đã có những công trình nghiên cứu đúc kết
kinh nghiệm xây dựng và thực hiện phí BVMT ở các nước phát triển, các nước thuộc
OECD cũng như rút ra những bài học kinh nghiệm cho các nước đang phát triển
[138], [143], [146], [151], [152].
Theo báo cáo của OECD (1999), phần lớn các nước thuộc OECD đều có mức phí
khác biệt tùy thuộc vào khối lượng và chất lượng ô nhiễm. Phí BVMT còn phụ thuộc
vào vấn đề thể chế chính trị và điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia.
Các nhà nghiên cứu đã đúc kết những kinh nghiệm áp dụng phí BVMT ở các
nước OECD, rút ra những bài học bổ ích và khuyến nghị các nước đang phát triển
cần học hỏi kinh nghiệm từ các nước OECD trong việc thiết kế và xây dựng chương
trình thu phí BVMT. Jean-Philippe Barde đã chỉ ra 10 điều kiện chìa khóa để giúp
các nước đang phát triển áp dụng hiệu quả phí BVMT. Những đúc kết kinh nghiệm
của các nhà khoa học trên thế giới về phí BVMT tạo cơ sở nền tảng vững chắc để các
nhà hoạch định chính sách Việt Nam học tập kinh nghiệm trong việc thiết kế và xây
dựng chính sách pháp luật phí BVMT phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã
hội của Việt Nam.
1.1.2. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu
1.1.2.1. Đánh giá những kết quả nghiên cứu đã đạt được, những kết quả luận án
sẽ kế thừa
Một là, các nghiên cứu đã khái quát hóa một số vấn đề lí luận cơ bản về CCKT
trong BVMT và phí BVMT. Nội dung chủ yếu mà các nghiên cứu đề cập đến đó là
đặc điểm cơ bản của CCKT, nguyên tắc nền tảng khi xây dựng CCKT trong BVMT
và phí BVMT cần phải bảo đảm là “Người gây ô nhiễm phải trả”, việc thiết kế phí
16
BVMT nếu không chặt chẽ thì sẽ không mang lại lợi ích đáng kể về kinh tế và môi
trường. Các nghiên cứu tạo nền tảng quan trọng để nghiên cứu sinh xây dựng cơ sở
lí luận về phí BVMT và pháp luật về phí BVMT.
Hai là, các nghiên cứu đã phân tích được những ưu điểm nổi bật của phí BVMT
cũng như những hạn chế của phí BVMT. Qua đó cho thấy phí BVMT không phải là
chìa khóa vạn năng để giải quyết được triệt để bài toán môi trường. Để quản lí và
BVMT một cách hiệu quả, cần áp dụng quy định về phí BVMT kết hợp với các công
cụ khác, đặc biệt là công cụ mệnh lệnh - kiểm soát. Nghiên cứu này có ý nghĩa rất
quan trọng đối với luận án, giúp nghiên cứu sinh không tuyệt đối hóa vai trò của phí
BVMT trong quá trình nghiên cứu.
Ba là, các nghiên cứu đã phân tích một số ưu điểm và bất cập của pháp luật Việt
Nam về phí BVMT cũng như những tồn tại, vướng mắc trong quá trình thực hiện
pháp luật về phí BVMT tại địa phương. Tuy nhiên, pháp luật về phí BVMT đã có sự
thay đổi qua các giai đoạn và các nghiên cứu chủ yếu dựa trên cơ sở pháp lí của các
giai đoạn điều chỉnh pháp luật trước đây; do đó, khi phân tích thực trạng pháp luật và
thực tiễn thực hiện pháp luật hiện hành, nghiên cứu sinh sẽ chọn lọc các kết quả
nghiên cứu đảm bảo sự phù hợp với yêu cầu nghiên cứu của luận án.
Bốn là, các nghiên cứu về quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí
BVMT đa số được nghiên cứu trong tổng thể với các CCKT khác. Các nghiên cứu về
CCKT trong BVMT có phạm vi điều chỉnh rộng hơn phí BVMT nên các kết quả
nghiên cứu sẽ được nghiên cứu sinh kế thừa có chọn lọc và phát triển nhằm giải quyết
các vấn đề mà luận án đặt ra.
1.1.2.2. Những vấn đề còn bỏ ngỏ, hoặc còn tranh luận, hoặc chưa được nghiên cứu
thấu đáo
Một là, một số vấn đề lí luận về phí BVMT và pháp luật về phí BVMT chưa được
nghiên cứu dưới góc độ pháp lí như khái niệm phí BVMT, khái niệm pháp luật về phí
BVMT, nội dung cơ bản của pháp luật về phí BVMT.
Hai là, do đặc thù pháp luật về phí BVMT ở Việt Nam trong những năm qua
chưa mang tính ổn định, thường xuyên thay đổi nên đến hiện nay chưa có công trình
nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống về thực trạng pháp luật và
thực tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT theo quy định hiện hành, chủ yếu là các
nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật của các giai đoạn
17
trước đó; đặc biệt chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về thực tiễn
thực hiện pháp luật về phí BVMT tại Đà Nẵng,
Thứ ba, các nghiên cứu về quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí
BVMT đa số được nghiên cứu trong tổng thể với các CCKT khác. Hiện nay chưa có
công trình nghiên cứu độc lập về quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật phí
BVMT theo pháp luật hiện hành.
1.2. Cơ sở lí thuyết
1.2.1. Một số cơ sở lí thuyết được sử dụng làm cơ sở cho việc nghiên cứu
Thứ nhất, luận án được thực hiện trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
Tăng trưởng kinh tế kết hợp với BVMT sống hiện đang là lựa chọn tối ưu trong
chiến lược phát triển bền vững của các quốc gia. Cơ sở lí luận để giải quyết hài hòa các
vấn đề nảy sinh từ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và BVMT đó là dựa vào Triết
học Mác - Lênin. Theo đó, chúng ta cần: i) Có quan điểm hệ thống, toàn diện và phát
triển khi nghiên cứu vấn đề này; ii) Cần dựa vào bản chất của chế độ xã hội và sự phát
triển của khoa học, công nghệ hiện đại; iii) Điều khiển hoạt động có ý thức của con
người với tư cách chủ thể trong quá trình tác động vào tự nhiên [21, tr.38 - 41].
Thứ hai, lí thuyết kinh tế học môi trường và nguyên tắc phân bổ chi phí môi trường
BVMT luôn gắn với các chi phí môi trường. Phí BVMT là một trong các CCKT
tạo nguồn thu để đảm bảo một phần chi phí trong BVMT. Nguyên tắc để xây dựng
chính sách quản lí môi trường là làm thế nào để phân bổ các chi phí môi trường một
cách hợp lý, phải xác định cụ thể phân bổ vào giai đoạn nào (khai thác, sản xuất, hay
tiêu thụ) và ai sẽ là người chịu các chi phí này. Chi phí môi trường không chỉ đơn
giản là chi phí phục hồi các thiệt hại mà còn liên quan đến các chi phí khác như chi
phí bồi thường cho nạn nhân, chi phí cho các biện pháp ngăn ngừa ô nhiễm, cho tới
các chi phí liên quan tới giao dịch và quản lý. Chủ thể có trách nhiệm đối với chi phí
môi trường liên quan đến nhiều bên khác nhau như các đơn vị sản xuất, người tiêu
dùng, các cá nhân, và cả các cơ quan quản lý nhà nước.
Để đảm bảo cho việc phân bổ chi phí môi trường hiệu quả và công bằng giữa các
chủ thể có liên quan, cần có sự điều chỉnh của pháp luật. Nhà nước đã vận dụng lí
thuyết kinh tế học môi trường và nguyên tắc phân bổ chi phí môi trường để ban hành hệ
thống pháp luật quy định cách thức phân bổ các chi phí môi trường, các giai đoạn
phân bổ chi phí môi trường, chủ thể có nghĩa vụ chịu chi phí môi trường. Bằng sức
18
mạnh cưỡng chế, Nhà nước đảm bảo cho các quy định về phân bổ chi phí môi trường
được thực hiện trong thực tiễn.
Phí BVMT là CCKT yêu cầu các cơ sở sản xuất, hộ gia đình trong quá trình sản
xuất kinh doanh hoặc sinh hoạt có hoạt động xả thải gây ô nhiễm thì phải chịu chi phí
môi trường. Để đảm bảo việc thực thi trách nhiệm chịu chi phí môi trường của các
chủ thể xả thải gây ô nhiễm có hiệu quả, Nhà nước ban hành hệ thống pháp luật về
phí BVMT quy định rõ đối tượng chịu phí; mức phí mà chủ thể xả thải gây ô nhiễm
chi trả phải tương xứng với mức độ gây ô nhiễm; quy định về cách thức quản lí và sử
dụng phí BVMT nhằm đảm bảo phí BVMT được phân bổ hiệu quả và sử dụng đúng
mục đích trong hoạt động quản lí và BVMT.
Thứ ba, các nguyên tắc cơ bản xây dựng công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường
Cơ sở lí thuyết của luận án còn dựa trên các nguyên tắc nền tảng để xây dựng các
CCKT trong BVMT, đó là nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả”, nguyên tắc “Kích
thích lợi ích kinh tế”, nguyên tắc “Bảo đảm sự phát triển bền vững”, trong đó nguyên
tắc “Người gây ô nhiễm phải trả” là nguyên tắc trọng tâm, đã được đa số các quốc gia
trên thế giới áp dụng khi xây dựng và ban hành pháp luật về các CCKT trong BVMT.
Việc vận dụng phù hợp các nguyên tắc trong BVMT sẽ đảm bảo được hiệu lực và hiệu
quả của pháp luật về phí BVMT đối với mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Luận án được triển khai với một số câu hỏi nghiên cứu chủ đạo và giả thuyết
nghiên cứu sau:
(1) Về khía cạnh lí luận
• Câu hỏi nghiên cứu: Phí BVMT là gì? Ra đời từ khi nào, quá trình hình thành
và phát triển của phí BVMT như thế nào? Đặc điểm, vai trò của phí BVMT? Phí
BVMT và thuế BVMT có khác nhau không?
Giả thuyết nghiên cứu: Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về phí BVMT;
việc xác định đặc điểm, vai trò của phí BVMT được xác định chung với đặc điểm,
vai trò của các CCKT khác, chưa có cách hiểu thống nhất về đặc điểm và vai trò của
phí BVMT; sự phân biệt về phí BVMT và thuế BVMT cũng không thống nhất, có
quan điểm đồng nhất giữa thuế BVMT và phí BVMT nhưng cũng có quan điểm cho
rằng phí BVMT và thuế BVMT khác nhau.
Kết quả nghiên cứu: Đưa ra cách hiểu của nghiên cứu sinh về vấn đề này để đảm
bảo cho việc nghiên cứu đề tài luận án.
19