Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Phân tích các công cụ điều chỉnh xuất nhập khẩu của EU và đề xuất hướng đi cho xuất khẩu việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.94 KB, 38 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới ngày một phát triển, toàn cầu hóa đang
là xu hướng chung của cả thế giới. Các chính sách thương mại, chính sách phát
triển của mỗi quốc gia, mỗi khu vực đều có ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình này.
Đặc biệt là những chính sách về xuất nhập khẩu với mục đích bảo vệ người tiêu
dùng của thị trường mình và góp phần đem lại sự phát triển cho nền kinh tế. Khi
thị trường trong nước đang dần bão hòa và thương mại quốc tế ngày càng phát
triển và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thì ngày càng nhiều doanh
nghiệp muốn tham gia thương mại quốc tế.
Qua môn học Chính sách thương mại quốc tế, chúng em đã có được cái
nhìn rõ hơn về cách làm của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức về cách xử lý vấn đề trong
thương mại quốc tế và các công cụ bảo vệ thị trường. Nhận được đề tài là “Các
công cụ điều chỉnh xuất nhập khẩu của EU giai đoạn 1995 - 1997” , nhóm chúng
em sẽ đưa ra một cái nhìn tổng quan về Liên minh Châu Âu EU, trình bày và phân
tích các chính sách nhập khẩu của Liên minh này để làm cơ sở rút ra những bài
học kinh nghiệm, đề xuất chính sách áp dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt
Nam để có thể đưa hàng hóa thâm nhập và xa hơn là tạo uy tín lâu dài với thị
trường Liên minh Châu Âu rộng lớn này.
Bố cục bài tiểu luận gồm 3 chương:
Chương I. Tổng quan về liên minh Châu Âu
Chương II. Các chính sách, công cụ điều chỉnh nhập khẩu của Liên minh Châu Âu
Chương III. Đề xuất hướng đi cho xuất khẩu Việt Nam
Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2011


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ LIÊN MINH CHÂU ÂU
1. Quá trình hình thành và phát triển của EU
Liên minh châu Âu (EU)là một liên minh chính phủ của các nước châu Âu
và có mối liên kết khu vực lớn nhất thế giới, EU hiện có 25 quốc gia thành viên
châu Âu độc lập về chính trị. Liên minh được thành lập với tên gọi hiện nay theo


Hiệp ước về liên minh châu Âu kí ngày 7/2/1992 tại Masstricht (Hà Lan), thường
gọi là Hiệp ước Masstricht. Trụ sở của liên minh châu Âu (EU) đóng tại Brussels –
Bỉ, trước ngày 1/11/1993 tổ chức này gọi là Cộng đồng Châu Âu (EC). Liên minh
Châu Âu được thành lập với mục đích nhằm phát triển kinh tế, chính trị, xã hội và
tang cường hợp tác giữa các nước thành viên.
Sau đây là danh sách 27 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu xếp
theo năm gia nhập.
1951: Bỉ, Đức, Ý, Luxembourg, Pháp, Hà Lan
1973: Đan Mạch, Ireland, Anh
1981: Hy Lạp
1986: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha
1995: Áo, Phần Lan, Thụy Điển
Ngày 1/5/2004: Séc, Hungary, BaLan, Slovakia, Slovenia, Litva, Latvia,Estonia,
Malta, Cộng hòa Síp
Ngày 1/1/2007: Romania, Bungary


2. Cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của EU
Nhằm thực hiện những mục tiêu chung đề ra trong các hiệp ước, EU đã xây
dựng cho mình một hệ thống thể chế “Siêu quốc gia” để điều hành, giám sát quá
trình liên kết của các quốc gia thành viên. Hệ thống thể chế này bao gồm các cơ
quan chính như Nghị viện Châu Âu, Hội đồng liên minh Châu Âu, Ủy ban Châu
Âu, Tòa án Châu Âu, Tòa kiểm toán Châu Âu.
 Hội đồng Châu Âu: bao gồm những người đứng đầu nhà nước và chính
phủ các nước thành viên và Chủ tịch ủy ban châu Âu.
 Hội đồng Bộ trưởng: bao gồm các Bộ trưởng đại diện cho các nước
thành viên.Đây là cơ quan lãnh đạo tối cao của EU, chịu trách nhiệm
quyết định các chính sách lớn , đưa ra quy chế, chỉ thị mang tính bắt
buộc đối với các thành viên.
 Ủy ban Châu Âu : trụ sở đặt tại Brucsel (Bỉ), là cơ quan điều hành của

EU.
 Nghị viện Châu Âu: là cơ quan lập pháp của EU, có chức năng thong
qua ngân sách, cùng Hội đồng Châu Âu quyết định một số lĩnh vực,
giám sát thực hiện chính sách.
 Tòa án Châu Âu: có vai trò độc lập, có quyền bác bỏ những quyết định
của Ủy ban Châu Âu.
 Tòa kiểm toán Châu Âu: có chức năng kiểm tra các khoản tài chính thu
chi của EU để đảm bảo tính hợp pháp đồng thời phối hợp với các cơ
quan thể chế khác của EU.
3. Một số đặc điểm nổi bật của thị trường chung Châu Âu
EU là một thị trường rộng lớn, có nền thương mại đứng thứ hai thế giới, là
thị trường xuất khẩu lớn nhất và là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai sau Mỹ. Thị
trường EU thống nhất cho phép tự do lưu chuyển sức lao động, hàng hóa, dịch vụ
và vốn giữa các nước thành viên.


Với GDP đạt 9.600 tỷ Euro, chiếm 28% tổng của cải thế giới. EU chiếm
gần 20% thương mại thế giới. Châu Âu là một thị trường tiêu thụ khổng lồ xuất
khẩu hiện nay là 903 tỷ Euro và nhập khẩu là 943 tỷ Euro.Trong đó thị trường
Đức,Pháp, Italia và Anh là những thị trường lớn nhất, chiếm 72% GDP của toàn
EU.
3.1 Quy mô dân số
Hiện nay, Liên minh châu Âu có diện tích là 4.422.773 km² với dân số là
492,9 triệu người (2006); với tổng GDP là 11.6 nghìn tỉ euro (xấp xỉ 15.7 nghìn tỉ
USD) trong năm 2007. Hầu hết các quốc gia châu Âu đều đang là thành viên
của Liên minh châu Âu.
3.2 Tập quán và thị hiếu tiêu dùng
Mức sống cao nên người tiêu dùng EU quan tâm nhiều đến vấn đề chất
lượng, mẫu mã, chủng loại chứ không phải là giá cả. Người dân EU chấp nhận giá
cao khi hàng đạt yêu cầu thị hiếu và chất lượng theo ý họ. Xu hướng tiêu dùng của

EU đang thay đổi từ hàng lâu bền sang hàng sử dụng ngắn ngày, chất liệu tự nhiên,
giá cả phải chăng.
EU là một thị trường khó tính, chọn lọc kỹ lưỡng. Các nhà nhập khẩu EU
luôn có xu hướng đòi hỏi cao đối với hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài và họ
thường tỏ ra thận trọng,bảo thủ hơn so với người Mỹ. Người tiêu dùng châu Âu rất
khắt khe trong việc lựa chọn hàng hóa xuất phát từ quan điểm đạo đức.Việc hàng
hóa có được sản xuất với sự phân chia thu nhập công bằng cho người lao động
thực sự, trong những điều kiện lao động phù hợp, không lạm dụng lao động trẻ em
đang là mối quan tâm lớn của thị trường.
EU là thị trường bảo vệ người tiêu dùng. Do là một thị trường phát triển
vào bậc nhất trên thế giới nên những yếu tố liên quan đến sự an toàn và sức khỏe
của người tiêu dùng luôn được đặt lên hàng đầu. Để đảm bảo an toàn cho người


tiêu dùng, EU kiểm tra sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có hệ thống báo động
giữa các thành viên khi có hiện tượng độc hại, đồng thời bãi bỏ việc kiểm tra sản
phẩm ở biên giới. EU đưa ra các quy định chuẩn trong việc cấm buôn bán các sản
phẩm được sản xuất ra ở các nước mà điều kiện chưa đạt mức an toàn như theo
các tiêu chuẩn của EU.
Đặc biệt người Châu Âu có sở thích tiêu dùng và có thói quen sử dụng các
loại sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng. Họ cho rằng những nhãn hiệu này sẽ gắn với
chất lượng sản phẩm và có uy tín lâu đời cho nên, khi sử dụng những sản phẩm
mang nhãn hiệu nổi tiếng sẽ rất an tầm về chất lượng và an toàn cho người sử
dụng. Vì vậy trong nhiều trường hợp sản phẩm có giá rất đắt nhưng họ vẫn mua và
không thích chuyển sang tiêu dùng những sản phẩm không nổi tiếng khác cho dù
giá rẻ hơn nhiều.
3.3 Chính sách thương mại
EU ngày nay được xem như một đại quốc gia ở châu Âu, bởi vậy chính
sách thương mại chung của EU cũng giống chính sách thương mại của một quốc
gia. Chính sách thương mại của EU bao gồm chính sách thương mại nội khối và

chính sách ngoại thương.
3.3.1 Chính sách thương mại nội khối
EU tập trung vào việc xây dựng và vận hành thị trường chung Châu Âu nhằm
xóa bỏ việc kiểm soát biên giới lãnh thổ quốc gia, biên giới hải quan để tự do lưu
thông hàng hóa, con người, dịch vụ và vốn, điều hòa các chính sách kinh tế xã hội
của các nước thành viên.
 Lưu thông tự do hàng hóa:
Để hàng hóa được tự do lưu thông trên thị trường chung ,các nước thành viên đều
nhất trí áp dụng các biện pháp:
− Xóa bỏ hoàn toàn mọi loại thuế quan đánh vào hàng hóa xuất khẩu giữa các
nước thành viên


− Xóa bỏ hạn ngạch áp dụng trong thương mại nội khối
− Xóa bỏ tất cả các biện pháp tương tự hạn chế về số lượng
− Xóa bỏ tất cả rào cản về thuế giữa các thành viên
 Tự do đi lại và cư trú trên lãnh thổ liên minh:
Để đảm bảo việc tự do đi lại và cư trú ,các nước thành viên đều đảm bảo nguyên
tắc:
− Tự do đi lại về mặt địa lý
− Tự do di chuyển vì nghề nghiệp
− Nhất thể hóa về xã hội
− Tự do cư trú
 Lưu chuyển tự do vốn:
Trong một thời gian dài, thương mại tự do về hàng hóa và dịch vụ sẽ không thể
duy trì nếu vốn không được lưu chuyển tự do và chuyển tới nơi vốn được sử dụng
một cách hiệu quả nhất. Vì vậy, EU đã áp dụng các chính sách:
− Tháo dỡ tất cả các hạn chế về ngoại hối
− Thống nhất luật pháp và các nguyên tắc quản lý thị trường vốn của các
nước thành viên

− Thanh toán tự do
Tất cả các biện pháp để xây dựng một thị trường chung châu Âu nói trên
nhằm tạo ra các cơ hội kinh doanh thương mại bình đẳng cho các nước thành viên
trong khối. Thị trường chung không thể vận hành suôn sẻ nếu không có sự thống
nhất các điều kiện cạnh tranh áp dụng. Vì mục đích này,các nước EU đều nhất trí
tạo ra một hệ thống bảo hộ cạnh tranh tự do trên thị trường.


3.3.2 Chính sách ngoại thương của EU
Đặc điểm cơ bản nhất trong chính sách thương mại Châu Âu là tất cả các
nước thành viên cùng áp dụng một chính sách ngoại thương chung đối với các
nước ngoài khối.Ủy ban Châu Âu là người đại diện duy nhất cho liên minh trong
việc đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh
vực này.Trong sự phát triển kinh tế của EU, ngoại thương đóng một vai trò hết sức
quan trọng, đem lại sự tăng trưởng kinh tế và tạo ra việc làm cho các ngành sản
xuất,nghiên cứu, bảo hiểm, ngân hàng và rất nhiều ngành khác. Do vậy chính sách
ngoại thương EU có nhiệm vụ chỉ đạo các hoạt động thương mại quốc tế của EU
với các quốc gia ngoài EU đi đúng mục tiêu chiến lược kinh tế EU đề ra.
Tất cả các thành viên của EU cùng áp dụng một chính sách ngoại thương
đối với các nước ngoài khối. Ủy ban châu Âu là người đại diện duy nhất cho liên
hiệp trong đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại và dàn xếp các tranh chấp
trong lĩnh vực này. Buôn bán trong nội bộ khối EU được miễn hoàn toàn thuế hải
quan và các thủ tục xuất nhập khẩu khác.Liên minh châu Âu thực sự là một không
gian kinh tế thống nhất và mô hình “Nhà nước Châu Âu” đang trở thành hiện thực.
Chính sách ngoại thương của EU bao gồm Chính sách thương mại tự trị và
chính sách thương mại dựa trên cơ sở Hiệp định, được xây dựng dựa trên các
nguyên tắc: không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công
bằng. Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách ngoại thương của EU
là thuế quan, hạn chế về số lượng, hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp
xuất khẩu.



CHƯƠNG II
CÁC CHÍNH SÁCH, CÔNG CỤ ĐIỀU CHỈNH NHẬP KHẨU
CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU
Chính sách phát triển ngoại thương của EU từ 1951 đến nay bao gồm
những dạng chủ yếu sau: chính sách khuyến khích xuất khẩu, chính sách tự do hoá
thương mại và chính sách hạn chế xuất khẩu tự nguyện. Việc ban hành và thực
hiện các chính sách này có liên quan chặt chẽ đến tình hình phát triển kinh tế, tiến
trình tăng cường liên kết châu Âu và khả năng cạnh tranh trong từng thời kỳ các
sản phẩm của Liên minh trên thị trường thế giới. Ngoài ra, EU còn có Quy chế
nhập khẩu chung.
Để đảm bảo cạnh tranh công bằng trong thương mại quốc tế, EU đã thực
hiện các biện pháp: chống bán phá giá (Anti - dumping), chống chợ cấp xuất khẩu
và chống hàng giả. EU đã ban hành chính sách chống bán phá giá và áp dụng thuế
"chống xuất khẩu bán phá giá" để đấu tranh với tình trạng cạnh tranh không lành
mạnh và bất bình đẳng trong buôn bán với các nước ngoài liên minh. Thí dụ, đánh
thuế 30% đới với những sản phẩm điện tử của Hàn Quốc và Singapore, nhôm của
Nga, xe hơi của Nhật Bản, giầy dép của Trung Quốc, mức thế 50 - 100% đối với
các sản phẩm camera truyền hình của Nhật Bản. Trong khi đó, các biện pháp
chống hàng giả của EU cho phép ngăn chặn không nhập khẩu những hàng hoá
được sản xuất do sao chép, đánh cắp bản quyền.
Chính sách ngoại thương của EU biểu hiện trong việc áp dụng một số chính
sách và công cụ đặc biệt, tiêu biểu là biểu thuế quan chung và chính sách chống
bán phá giá.
1. Chính sách thuế quan


1.1 Chính sách thuế quan cho các quốc gia đang phát triển
Chế độ GSP là một biện pháp đẩy mạnh thương mại của EU đối với các

nước đang phát triển và chậm phát triển (trong đó có Việt Nam) với mục đích giúp
cho hàng hoá của các nước này tăng khả năng thâm nhập vào thị trường EU thông
qua một số những ưu đãi thuế quan nhất định, từ đó thúc đẩy kinh tế của các nước
này phát triển. Chế độ GSP được xây dựng dựa trên các nguyên tắc tự nguyện,
không đòi hỏi có đi có lại, đơn phương quyết định. Chương trình này đã được Hội
đồng châu Âu thông qua quy chế áp dụng cho từng thời kỳ: 1971 -1980, 19811990, 1991-1994, 1994-2005. Trong 8 năm trở lại đây, chương trình ưu đãi thuế
quan 4 năm (1995-1998) đối với các sản phẩm công nghiệp nhất định có nguồn
gốc từ các nước đang phát triển; (2) Quy định số 1256/96 ngày 20/6/1996 về việc
áp dụng một chương trình ưu đãi thuế quan trong 4 năm (1996-1999) đối với một
số sản phẩm nông nghiệp có nguồn gốc từ các nước đang phát triển: (3) Quy định
số 2820 ngày 21/12/1998 về việc áp dụng một chương trình ưu đãi thuế quan trọng
3 năm (1999-2001) đối với tất cả các sản phẩm có xuất xứ các nước đang phát
triển.
Hiện nay, EU vẫn đang áp dụng chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập cho
thời kỳ từ 1/7/1999 đến 31/12/2001. Theo chương trình này, EU chia ra các sản
phẩm được hưởng GS thành 4 nhóm với mức thuế khác nhau dựa trên mức độ
nhạy cảm đối với bên nhập khẩu, mức độ phát triển của nước xuất khẩu và những
văn bản thoả thuận đã ký kết giữa hai bên. Bốn nhóm sản phẩm của các nước đang
phát triển được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập của EU là:
1) Nhóm 1: Sản phẩm rất nhạy cảm: bao gồm phần lớn là nông sản và một
số ít sản phảm công nghiệp tiêu dùng như: chuối tươi, chuối khô, dứa tưới, dứa
hộp, (lượng đường không quá 17% trọng lượng), quần áo may sẵn, nguyên liệu
thuốc lá, lụa tơ tằm,.. được hưởng mức thuế GSP bằng 85% thuế xuất MFN. Đây
là nhóm mặt hàng EU hạn chế nhập khẩu.


2) Nhóm 2: Sản phẩm nhạy cảm: chủ yếu là thực phẩm, đồ uống, hoá chất,
nguyên liệu, hàng thủ công (gạch lát nền và đồ sứ), gày dép, hàng điện tử dân
dụng, xe đạp, ô tô, đồ chơi trẻ em...được hưởng mức thế GSP bằng 70% thuế suất
MFN. Đây là nhóm mạt hàmg mà EU không khuyến khích nhập khẩu.

3) Nhóm 3: Sản phẩm án nhạy cảm: bao gồm phần lớn thuỷ sản đông lạnh
(tôm, cua, mực đông lạnh, cá tươi ướp lạnh) một số nguyên liệu và hoá chất, hàng
công nghiệp dân dụng (máy điều hoà, máy giặt, tủ lạnh)..được hưởng mức thuế
suất GSP bằng 35% thuế suất MFN. Đây là nhóm mặt hàng EU khuyến khích nhập
khẩu.
4)Nhóm 4: Sản phẩm không nhạy cảm: chủ yếu là một số loại thực phẩm,
đồ uống, (nước khoáng, bia, rượu), nguyên liệu (than đá, dầu thô, cao su..), nông
sản (dừa cả vỏ, hạt điều)..được hưởng mức thuế GSP bằng 0% đến 10% thuế suất
MFN. Đây là nhóm mặt hàng EU đặc biệt khuyến khích nhập khẩu.
Mỗi nhóm hàng trên gồm nhiều mặt hàng chịu các mức thuế suất khác nhau
trong phạm vi giới hạn của GSP giai đoạn 1/7/1999 đến 31/12/2001. Đến cuối năm
2004, EU sẽ chấm dứt giai đoạn của chương trình GSP và xoá bỏ hạn ngạch đối
với hàng dệt may của các nước là thành viên WTO còn đối với những nước không
phải là thành viên của WTO (trong đó có Việt Nam) thì chưa có chính sách cụ thể.
Cho đến nay, EU vẫn chưa đưa ra chương trình thực hiện GSP cho thời kỳ từ 2005
trở đi, nhưng họ đang tiến từng bước giảm thuế quan và giảm ưu đãi GSP.
Trong tương lai, tới một thời điểm nhất định, hàng xuất khẩu của các nước
đang phát triển khi xâm nhập vào thị trường EU sẽ không được hưởng GSP nữa và
phải cạnh tranh bình đẳng với hàng của các nước phát triển, chịu cùng một mức
thuế như hàng của những nước này và không được hưởng các ưu đãi khác.
Như vậy, đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU thời
kỳ 2005 -2010 sẽ xảy ra hai khả năng: thứ nhất, có thể hàng xuất khẩu của Việt


Nam vào EU không phải chịu hạn ngạch hoặc phải chịu hạn ngạch nhưng vẫn
được hưởng GSP. Cho dù xảy ra trường hợp nào thì giai đoạn 2001-2010 có khả
năng sẽ rất khó khăn và nhiều thách thức đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam
sang thị trường EU.
Các biện pháp khuyến khích trong GSP của EU so với ưu đãi mà cá nước
và khu vực khác dành chó các nước đang phát triển vào loại thấp nhất. Có lẽ vì thế

đã tồn tại trong hệ thống GSP của EU quy định khuyến khích tăng thêm mức ưu
đãi 10%, 20%o Cho 35% đối với hàng nông sản và 15% 25% 35% đối với hàng
nông sản và của EU bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/1999 thì những trường hợp
sau được hưởng ưu đãi thêm:
-Bảo vệ quyền của người lao động: nước hưởng GSP cần chứng minh trong
các văn bản pháp quy của mình có các quy định về các tiêu chuẩn áp dụng các
nguyên tắc về tổ chức, đàm phán tập thể và tuổi lao động tối thiểu.
-Bảo vệ môi trường: các văn bản pháp quy của nước hưởng GSP phải có
các quy định cụ thể áp các tiêu chuẩn của OIBT về bảo vệ môi trường.
1.2. Chính sách thuế quan cho các quốc gia trong Liên minh Châu Âu
EU áp dụng biểu thuế quan chung (CCT) chủ yếu đối với các mặt hàng
công nghiệp. Đây là công cụ chủ yếu trong chính sách thương mại của Liên
minh. Các thành phần của CCT bao gồm danh mục các mặt hàng tính thuế, các
quy định về cách tính thuế, miễn hoặc giảm thuế, xuất xứ hàng hoá. Các mức thuế
quan được xây dựng trên cơ sở lấy bình quân các mức thuế áp dụng với từng mặt
hàng kể từ ngày 1/1/1957 ở 6 nước của EEC khi mới thành lập là Pháp, Tây Đức,
Italy, và Benelux (gồm Bỉ, Hà Lan và Luxembourg). Theo cách tính này thì phần
lớn các mức thuế của Pháp và Italy phải giảm đi, còn các mức thuế ở Đức và
Luxembourg được tăng lên. Trong quá trình xây dựng, CCT được chia thành ba
giai đoạn và kết thúc vào năm 1968, sớm hơn so với thời hạn dự kiến 2 năm.


Hiệp ước Roma có quy định điều khoản theo đó các thành viên EC luôn sẵn
sàng đàm phán nhằm cắt giảm các mức thuế quan chung. Những thoả thuận về
những cắt giảm như vậy đã đạt được trong khuôn khổ một loạt các vòng đàm phán
Dillon (1961-1962), mức CCT bình quân được giảm từ 25% vào năm 1958 xuống
còn 11,7% vào năm 1963. Còn kết quả đạt được sau vòng đàm phán Kennedy là
các mức thuế quan được cắt giảm trung bình đối với Hoa Kỳ là 32% và với Anh là
35%. Do có những thoả thuận cắt giảm như vậy cho nên đến tháng 1/1972, mức
trung bình của CCT chỉ còn là 8,1% giảm đi 35% so với mức ban đầu, 12% và

11,5%. Một khi đã xây dựng được các mức CCT thì các nước thành viên phải có
nghĩa vụ áp dụng chúng theo một cách thức thống nhất. Điều này liên quan đến
danh mục các mặt hàng, thủ tục tính thuế và các quy định về xuất xứ hàng hoá kết
hợp với việc thực hiện GSP.
Đặc biệt khi làm rõ đặc điểm trong chính sách ngoại thương EU, cần phải
nghiên cứu biểu thuế quan có liên quan đến xuất xứ của hàng hoá theo quy định
của liên minh. Xuất xứ hàng hoá của EU được quy định cụ thể như sau:
-Đối với các sản phẩm hoàn toàn được sản xuất tại lãnh thổ nước hưởng
GSP như: khoáng sản, động thực vật, thuỷ sản đánh bắt trong lãnh hải và các hàng
hoá sản xuất từ các sản phẩm đó xem là có xuất xứ và được hưởng GSP.
- Đối với các sản phẩm sản xuất tại nước hưởng GSP ( tính theo giá xuất
xưởng) phải đạt 60% tổng giá trị hàng liên quan. Tuy nhiên, đối với một số nhóm
hàng thì hàm lượng này thấp hơn. EU quy định cụ thể tỷ lệ trị giá và công đoạn gia
công đối với một số nhóm hàng mà yêu cầu phần trị giá sáng tạo thấp hơn 60%
(điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh không dưới 40%: đồ trang trí làm từ kim loại không
dưới 30%; giày dép chỉ được hưởng GSP nếu các bộ phận như: mũi, đế, ở dạng rời
sản xuất trong nước hưởng GSP hoặc nhập khẩu;..)


EU còn quy định xuất xứ cộng gộp, đây là quy định về xuất xứ mà theo đó
hàng của một nước có thành phần xuất xứ từ một nước trong cùng một tổ chức khu
vực cũng được hưởng GSP thì các thành phần đó cũng được xem là có xuất xứ từ
nước liên quan. Thí dụ, Việt Nam xuất khẩu sang EU một mặt hàng trong đó thành
phần xuất xứ của Việt Nam chiếm 29% giá trị, còn lại 15% giá trị nhập khẩu của
Indonesia, 10% của Thái lan, 15% của Singapone. Xuất xứ cộng gộp của hàng Việt
Nam sẽ là: 20%+15%+10% = 60%. Mặt hàng này sẽ ra không được hưởng GSP
(vì hàm lượng giá trị của Việt Nam chưa được 50%), nhưng nhờ cộng gộp (60%)
nên đã đủ điều kiện hưởng GSP. Đây là đặc điểm về xuất xứ của EU mà các doanh
nghiệp Việt Nam cần lưu ý và vận dụng.
2 Chính sách phi thuế quan

2.1 Hạn ngạch
Là một công cụ được EU sử dụng để hạn chế số lượng hoặc giá trị một số
mặt hàng nhập khẩu vào EU và phân bổ theo hạn ngạch theo chương trình hỗ trợ
các nước đang phát triển trong khung khổ của GSP. Những hạn ngạch này nằm
cho quy chế 519/94 (của khối EU cũ) áp dụng cho một số nước chưa phải là thành
viên của WTO. Tuy nhiên, sau khi gia nhập WTO, những hạn chế về định lượng
được thoả thuận là phải dỡ bỏ vào năm 2005. Hiện nay, một số mặt hàng của Việt
Nam như hàng dệt may, một số loại thuỷ sản xuất khẩu sang thị trường EU cũng
phải chịu sự quản lý bằng hạn ngạch.
2.2 Hàng rào kỹ thuật
Rào cản kỹ thuật chính là quy mô chế nhập khẩu chung và các biện pháp
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của EU, được cụ thể hoá ở 5 tiêu chuẩn bắt buộc
của sản phẩm: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn an
toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn về lao động.
Những mặt hàng xuất khẩu như hải sản, nông sản thực phẩm và dược liệu của Việt


Nam phải thực hiện nghiêm chỉnh các yêu cầu này của EU. Năm tiêu chuẩn bắt
buộc đối với sản phẩm nhập khẩu vào thị trường EU cụ thể như sau:
1) Tiêu chuẩn chất lượng: Hệ thống quản lý ISO 9000 gần như là yêu cầu
bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường EU.
Đây là hệ thống quản lý chất lượng do Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế đặt ra để giúp
các đơn vị sản xuất cải tiến hệ thống quản lý nhằm nâng cao năng xuất và chất
lượng sản phẩm, duy trì sự đồng nhất và phù hợp giữa chất lượng và giá thành. Có
thể coi ISO 9000 như một "ngôn ngữ" xác định cam kết cung ứng sản phẩm có
chất lượng đáng tin cậy cũng như "phương tiện thâm nhập" vào thị trường EU mà
các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý và thực hiện.
2) Tiêu chuẩn 2: tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm. Về phương diện này, EU
đòi hỏi các doanh nghiệp chế biến hàng thực phẩm xuất khẩu sang EU phải tuân
thủ các tiêu chuẩn vệ sinh chặt chẽ. Đặc biệt việc áp dụng hệ thống HACCP

(Hazard Analysis Critical Control Point) trong các xí nghiệp chế biến hải sản là
một yêu cầu không thể thiếu. HACCP là hệ thống phân tích nguy cơ và kiểm soát
các trọng yếu áp dụng cho các doanh nghiệp trực phẩm và các ngành có liên quan
(chăm nuôi, trồng trọt) Hệ thống này có tính bắt buộc với các công ty nước ngoài.
Nhưng từ ngày 1/1/1993, EU đã ra một văn bản hướng dẫn nhập khảu hàng thuỷ
sản nêu rõ: "Các điều khoản áp dụng cho nhập khẩu thuỷ sản từ nước thứ 3 phải
tương đương với hàng lưu thông trong EU". Như vậy, một cách gián tiếp cơ chế
này đã bắt buộc các nhà xuất khẩu nước những ngoài phải tuân thủ các nguyên tắc
HACCP khi muốn thâm nhập vào thị trường EU. Các công ty chế biến thực phẩm
của việt nam phải tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh chặt chẽ. Về phương diện này,
việc áp dụng hệ thống HACCP là rất quan trọng và gần như là yêu cầu bắt buộc
đối với các xí nghiệp chế biến thuỷ hải sản của các nước đang phát triển muốn
xuất khẩu sản phẩm vào thị trường EU.


3) Tiêu chuẩn 3: tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng EU đã thông qua
những quy định về độ an toàn chung của sản phẩm hay các định chuẩn. Hiện nay,
ở EU có 3 tổ chức định chuẩn: Uỷ ban châu Âu về định chuẩn điện tử, Viện định
chuẩn viễn thông của châu Âu chịu trách nhiệm đưa ra các quy chế định chuẩn.
Theo hệ thống quy chế này, kỹ mã hiệu là quan trọng số một trong lưu thông hàng
hoá trên thị trường EU và được quy định rất nghiêm ngặt, cụ thể đối với một số
nhóm hàng của nước ta như sau:
- Các sản phẩm thực phẩm, đồ uống đóng gói phải ghi rõ tên sản phẩm,
nhãn mác, danh mục thành phần, thành phần, trọng lượng ròng, thời gian và cách
sử dụng, địa chỉ của nước sản xuất hoặc nơi bán, nơi sản xuất, các điều kiện đặc
biệt để bảo quản, để chuẩn bị sử dụng hoặc các thao tác bằng tay, mã số và mã
vạch để nhận dạng lô hàng.
- Các loại thuốc mem đều phải được kiểm tra, đăng ký và phải được các cơ
quan thẩm quyền của các quốc gia thuộc EU cho phép trước khi được bán ra trên
thị trường. Giữa các cơ quan thẩm quyền này và uỷ ban châu Âu về định chuẩn

thiết lập một hệ thống thông tin trao đổi tức thời có khả năng nhanh chóng thu hồi
bất cứ loại thuốc nào có tác dụng phụ đang được bán trên thị trường.
- Đối với các loại vải lụa, EU lập ra một hệ thống thống nhất về mã hiệu
cho biết các loại sợi cấu thành nên loại vải hay lụa được bán trên thị trường.
4) Tiêu chuẩn 4: tiêu chuẩn bảo vệ môi trường. Thị trường EU yêu cầu các
hàng hoá có liên quan đến môi trường phải dán nhãn sinh thái (ecolabels) hoặc
nhãn tái sinh theo quy định. Ngoài ra, các nhà sản xuất còn phải đảm bảo tuân thủ
hệ thống quản lý môi trường ISO 14000.
Đây là bộ tiêu chuẩn được xây dựng trên cơ sở các thoả thuận quốc tế, đem
đến cách tiếp cận hệ thống cho việc quản lý môi trường và cung cấp các công cụ
hỗ trợ có liên quan như đánh giá môi trường, phân tích chu kỳ sống của sản phẩm.


Nhằm cải thiện môi trường một cách liên tục tại các tổ chức cơ sở. Như vậy, thị
trường EU yêu cầu hàng hoá có liên quan đến môi trường phải dán nhãn theo quy
định (nhãn sinh thái, nhãn tái sinh) và có chứng chỉ được quốc tế công nhận, nên
các doanh nghiệp Việt Nam cần có ý thức tôn trọng. Ví dụ, tiêu chuẩn GAP (Good
agrricultural Practice) và các nhãn hiệu sinh thái (Ecolabels) đang ngày càng phổ
biến, chứng tỏ các cấp độ kách nhau về môi trường tốt. Ngoài ra, các công ty ngày
càng được yêu cầu phải tuân thủ hệ thống quản lý môi trường (các tiêu chuẩn The
social Accountability 8000 sẽ ngày càng trở nên quan trọng trong những năm tới.
5) Tiêu chuẩn 5: tiêu chuẩn về lao động EU cấm nhập khẩu những hàng hoá
mà quá trình sản xuất doanh nghiệp sử dụng bất kỳ một hình thức lao động cưỡng
bức nào như được xác định trong Hiệp ước Geneva (25/9/1926 và 7/9/1956) và
các Hiệp ước lao động quốc tế số 29 và 105. Uỷ ban châu Âu (EC) tiền thân của
EU có quyền đình chỉ hoạt động của các xí nghiệp này sử dụng lao động cưỡng
bức và cấm nhập khẩu những hàng hoá mà quá trình sản xuất sử dụng bất kỳ một
hình thức lao động cưỡng bức nào như được xác định trong các Hiệp ước Geneva
ngày 25/9/1926 và 7/92956 và các Hiệp ước Lao động quốc tế số 29 và 105. Ví dụ,
các hình thức lao động cưỡng bức bị cấm khi doanh nghiệp sử dụng để sản xuất

hàng hoá nhập khẩu như: lao động tù nhân, lao động trẻ em, v..vv...
Qua đây có thể thấy chính sách thương mại nói chung và chế độ quản lý
nhập khẩu nói riêng của EU là rất phức tạp. Do đó, việc thu thập và phổ biến
thông tin về thị trường này đến các nhà sản xuất của Việt Nam là việc làm cần có
tầm quan trọng hàng đầu đối với chúng ta hiện nay. Theo cách tính toán của
UNCTAD ( Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại phát triển), do thiếu thông tin
và không hiểu rõ các quy định về thủ tục của EU, Việt Nam hiện nay chỉ sử dụng
được khoảng 48% các ưu đãi của EU trong chế độ GSP.
EU sử dụng "rào cản kỹ thuật" là biện pháp chủ yếu để đảm bảo hộ sản xuất
và tiêu dùng nội địa hiện nay vì thuế nhập khẩu vào EU đang giảm dần. Hơn nữa,


các nước đang phát triển được EU cho hưởng thuế quan ưu đãi GSP. Bởi vậy, yếu
tố có tính quyết định việc hàng của các nước này có thâm nhập vào được thị
trường EU hay không chính là hàng hoá đó có vượt qua được rào cản kỹ thuật của
EU hay không.
EU là thị trường đòi hỏi yêu cầu chất lượng cao, điều kiện thương mại
nghiêm ngặt và được bảo hộ đặc biệt. Các khách hàng EU nổi tiếng khó tính về
mẫu mốt, thị hiếu. Khác với Việt Nam, nơi giá cả có vai trò quyết định trong vịêc
mua hàng, đối với phần lớn người châu âu thì "thời trang" là một trong những yếu
tố quyết định. Chỉ khi các yếu tố chất lượng, thời trang và giá cả hấp dẫn thì sản
phẩm mới có cơ hội bán được ở châu Âu. Việc nhiều nước châu âu khác, đặc biệt
là Trung Quốc, với tiềm năng xuất khẩu lớn và đã có nhiều kinh nghiệm có mặt ở
thị trường EU là một khó khăn lớn đối với Việt Nam khi thâm nhập thi trường này.
Ngày nay, EU là một thị trường mở có quy mô lớn đối với các nhà đầu tư và các
sản phẩm nước ngoài. Do đó, nó là một thị trường mang tính cạnh tranh rất lớn vì
lượng hàng nhập khẩu rất nhiều. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trên thị
trường này đang bị sức ép rất mạnh của Trung Quốc (giày dép, dệt may, hàng điện
tử, đồ chơi, thủ công mỹ nghệ), hàng Indonesia (dệt may, giày dép,..). Phần lớn
hàng của các đối thủ cạnh tranh có ưu thế hơn hàng của Việt Nam về chất lượng,

giá cả và nguồn cung cấp ổn định. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU
thì không còn cách nào khác là chúng ta phải chiến thắng trong cạnh tranh, đánh
bại các đối thủ chiếm lĩnh thị trường. Để làm được việc đó, hàng xuất khẩu Việt
nam phải phù hợp với thị hiếu tiêu dùng và đáp ứng tốt 5 tiêu chuẩn của sản phẩm
(chất lượng, vệ sinh thực phẩm, an toàn cho người sử dụng, bảo vệ môi trường và
lao động). Ngay từ lúc này, chúng ta cần phải thực hiện việc cải tiến sản xuất, nâng
cao chất lượng, hạ giá thành, đa dạng hoá và sản xuất sản phẩm theo thị hiếu tiêu
dùng trên thị trường EU.
2.3 Chính sách chống bán phá giá.


Các quy định về chống bán phá giá của EU được đưa ra từ những ngày đầu
thành lập và được xây dựng trên cơ sở điều khoản của WTO, EU chỉ được áp dụng
các biện pháp chống bán phá giá trong trường hợp các ngành công nghiệp của EU
bị tổn hại do việc nhập khẩu các sản phẩm phá giá. Đây là những sản phẩm được
bán trên thị trường nội địa với mức giá "thông thường". Tuy nhiên, việc so sánh
các mức giá này thường gặp khó khăn. Cách tính giá "thông thường" của EU dựa
vào chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận cận biên. Vấn đề làmức lợi nhuận như thế
nào mới được coi là thích hợp. Xu hướng của EU là tính mức lợi nhuận cao, có khi
tới 30%.
Các quy định chống bán phá giá của EU được xác định trong Quy chế
chống phá giá có hiệu lực từ năm 1995 và sau đó được cập nhật bằng quy chế
384/96 có hiệu lực từ ngày 6/3/1996. Quy chế mới lồng ghép tất cả các biện pháp
được thoả thuận tại vòng đàm phán Urugoay của GATT. Quy chế chống phá giá
năm 1996 quy định việc áp dụng thế chống bán phá giá và chỉ được áp dụng thuế
này trong các đìều kiện.
- Có phát hiện bán phá giá: giá xuất khẩu của sản phẩm trên thị trường EU
thấp hơn giá bán tại thị trường của nhà xuất khẩu.
- Có tổn hại vật chất cho doanh nghiệp của EU; hàng nhập khẩu gây ra
hoặc đe doạ gây tổn thất cho phần lớn ngành kinh doanh EU.

- Lợi ích của EU: chi phí mà EU bỏ ra để thực hiện các biện pháp không
được tỉ lệ ngịch với lợi ích thu được.
Sau khi các mức giá xuất khẩu và giá thông thường đã được xác định thì
chúng được so sánh với nhau để xác định mức phá giá. Luật pháp của EU cho
phép thực hiện điều chỉnh đối với các mức chênh lệch liên quan đến công dụng
của các sản phẩm, thuế nhập khẩu, các loại thuế gián tiếp, các chi phí bán hàng
như vận chuyển vận chuyển và tiền trả hoa hồng. Tuy nhiên, EU bị phê phán là


không tính đến nhưng mức khác biệt lớn hơn về sản lượng bán ra trên thị trường
nội địa hoặc về hoạt động Marketing khi bán hàng. Phương pháp so sánh các mức
giá của EU cũng bị phê phán (đặc biệt từ phía Nhật Bản) vì các chi phí bán không
được tính đến trên thị trường EU nhưng lại được tính đến trên thị trường nội địa,
dẫn đến làm tăng thêm mức chênh lệch giá.
Khi mức bán phá giá được tính đến trên thị trường đó có làm tổn hại đến
ngành sản xuất nội địa hay không. Mức độ gây tổn hại thường được đo bằng các
chỉ số như lợi nhuận công suất hoạt động và thị phần. Quá trình này cần đến việc
thu nhập và xử lý một lượng thông tin lớn về kinh tế, tài chính và thương mại.
Sau khi xác định được mức bán phá giá và mức độ tổn hại đối với các
ngành sản xuất nội địa, EU áp dụng các mức thuế chống phá giá hoặc chấp nhận
đề nghị từ phía người xuất khẩu lên. Thông thường, các bên không nên áp dụng
đặt mức thuế chống phá giá ở mức tối đa nếu như điều này không cần thiết cho
việc ngăn chặn tổn hại do bán phá giá gây ra. EU thường tính toán ở mức độ tổn
thất và áp đặt mức thuế đúng bằng mức đó . Về nguyên tắc, các biện pháp chống
bán phá giá thường là các mức thuế tính theo giá trị. Tuy nhiên, đối với những mặt
hàng đồng nhất như nguyên liệu, nông sản thì thuế tính theo số lượng thường được
áp dụng. Trong trường hợp mức thuế áp dụng vượt quá mức phá giá thì khoản
chênh lệch sẽ phải được hoàn trả cho nhà xuất khẩu.
2.4 Các biện pháp về quản lý hành chính
Một đặc điểm nổi bật trên thị trường EU là quyền lợi của người tiêu dùng

được bảo vệ nghiêm ngặt, khác hẳn với thị trường của các nước đang phát triển.
Để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng, EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm
ngay từ nơi sản xuất và có các hệ thống báo động giữa các nước thành viên, đồng
thời bãi bỏ việc kiểm tra các sản phẩm ở biên giới. EU đã thông qua những quy
định bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng về độ an toàn chung của các sản phẩm


được bán ra, các hợp đồng quảng cáo, bán hàng tận nhà, nhãn hiệu, v.v.. các tổ
chức chuyên nghiên cứu đai diện cho giới tiêu dùng sẽ đưa ra các quy chế định
chuẩn Quốc gia hoặc châu Âu. Hiện nay, ở EU có 3 tổ chức định chuẩn: Uỷ ban
châu Âu về định chuẩn, Uỷ ban châu Âu về định chuẩn điện tử, Viện Định chuẩn
viễn thông châu Âu. Tất cả các sản phẩm chỉ có thể bán được ở thị trường này với
điều kiện phải bảo đảm tiêu chuẩn an toàn chung của EU, các luật và định chuẩn
quốc gia được sử dụng chủ yếu để cấm buôn bán sản phẩm được sản xuất từ các
nước có những điều kiện sản xuất chưa đạt được mức an toàn ngang với tiêu chuẩn
của EU. Quy chế bảo đảm an toàn của EU đối với một số loại sản phẩm tiêu dùng
biểu hiện cụ thể như sau:
- Các sản phẩm thực phẩm, đồ uống đóng gói sản phẩm phải ghi rõ tên sản
phẩm, nhãn mác, danh mục thành phẩm, thành phần, trọng lượng tịnh, thời gian sử
dụng, cách sử dụng, địa chỉ của nước sản xuất hoặc nơi bán, nơi sản xuất, các điều
kiện đặc biệt để bảo quản, để chuẩn bị sử dụng hoặc các thao tác bằng tay, mã số
và mã vạch để dễ nhận dạng lô hàng.
- Các loại thốc men đều phải được kiểm tra chặt chẽ, phải đăng ký và được
các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia thuộc EU cho phép trước khi sản
phẩm được bán ra trên thị trường EU. Giữa các cơ quan có thẩm quyền này và Uỷ
ban châu Âu về định chuẩn thiết lập một hệ thống thông tin trao đổi tức thời, có
khả năng nhanh chóng thu hồi bất cứ loại thuốc nào có tác dụng phụ đang được
bán trên thị trường.
- Đối với các loại vải lụa, EU lập ra một hệ thống nhất về mã hiệu cho biết
các loại sợi cấu thành nên loại vải hay lụa được bán ra trên thị trường EU. Bất cứ

loại vải hay lụa nào được sản xuất ra trên cơ sở hai hay nhiều loại sợi mà trong các
loại ấy chiếm tối thiểu 85% tổng trọng lượng thì trên mã hiệu có thể đề tên của
loại sợi đó kèm theo tỷ lệ về trọng lượng hoặc đề tên của loại sợi đó kèm tỷ lệ tối
thiểu 85%, hoặc ghi cấu thành chi tiết của sản phẩm. Nếu sản phẩm gồm hai hoặc


nhiều loại sợi mà không loại sợi nào đạt tỷ lệ 85% tổng trọng lượng thì trên mã
hiệu ít nhất cũng phải ghi tỷ lệ của hai loại sợi quan trọng nhất, kèm theo tên các
loại sợi khác đã được sử dụng. Nếu các sản phẩm không ghi đúng như vậy thì
không được bán trên thị trường bất cứ nước EU nào.EU ngày nay được xem như là
một "đại quốc gia" ở châu Âu chính sách thương mại chung của EU cũng giống
như chính sách thương mại của một quốc gia.
Nói một cách chung nhất, tác động trực tiếp của chính sách bảo hộ nói trên
là đem lại lợi ích cho nhà sản xuất, còn người tiêu dùng của EU thì bị đánh thuế.
Tuy nhiên, sự bảo hộ như vậy chỉ là bề ngoài vì nó phụ thuộc không chỉ vào các
mức thuế linh hoạt và các chính sách, công cụ khác. Đây chỉ là hình thức bảo hộ
danh nghĩa vì các mức thuế linh hoạt và các chính sách, công cụ khác còn phụ
thuộc vào các yếu tổ tiền tệ tỷ giá hối đoái nữa. Do các mức giá nói trên được tính
bằng EURO trong khi giá thế gới nhìn chung lại được tính bằng USD, nên khi
USD lên giá so với EURO thì các mức đó sẽ giảm xuống hoặc ngược lại. Có chế
giá cả và kiểm soát đối với từng sản phẩm cũng có tác động đến quan hệ thương
mại với các nước ngoài EU. Lý do là vì cơ chế này ảnh hưởng không chỉ tới nhu
cầu nhập khẩu và lượng hàng hoá dành cho xuất khẩu. Do các cơ chế kiểm soát
nói trên làm mức giá nội địa cao hơn mức giá trên thị trường thế giới cho nên sản
xuất có xu hướng gia tăng, và tiêu dùng có xu hướng giảm sút. Kết quả là nhập
khẩu của EU có xu hướng giảm trong mức cung xuất tăng lên. Tuy mức giá chung
cao hơn mức giá thế giới. Nhưng nhập khẩu lại có xu hướng giảm sút vì tác dụng
của các mức thuế quan linh hoạt, còn xuất khẩu được khuyến khích bởi cơ chế tài
chính, thuế quan. Nên có khuynh hướng tăng lên.
2.5 Biện pháp thể chế, quản lý nhập khẩu

Các công cụ hành chính khác nhằm quản lý nhập khẩu: hiện nay để đảm
bảo cạnh tranh công bằng trong thương mại và để khắc phục với những trở ngại
trong buốn bán với thế giới thứ ba, EU còn ban hành chính sách chống bán phá giá


(anti - dumping), chống trợ cấp xuất khẩu và áp dụng thuế "chống xuất khẩu bán
phá giá". Trong khi đó, các biện pháp chống hàng giả của EU lại cho phép ngăn
chặn không cho nhập khẩu những sản phẩm đánh cắp bản quyền. và trên cơ sở các
chỉ tiêu nhân đạo và bảo vệ môi trường, EU cũng cấm nhập khẩu lông thú động
vật bị gãy bằng các dụng cụ đúc bằng thép từ (1/121979).
Ngoài những công cụ hành chính quản lý nhập khẩu, EU còn phân biệt hai
nhóm nước: nhóm áp dụng cơ chế kinh tế thị trường (nhóm I) và nhóm có nền
thương nghiệp quốc doanh (nhóm II). (trong đó có Việt Nam) chịu sự quản lý chặt
và thường phải xin phép trước khi nhập khẩu vào thị trường EU. Đây là một sự
phân biệt đối xử bất lợi cho hàng Việt Nam xuất khẩu sang EU trong suốt một thời
gian dài. Cho đến ngày 14/5/2000, EU mới chính thức "công nhận Việt Nam áp
dụng kinh tế thị trường".
2.6. Chính sách tỷ giá hối đoái
Khu vực các nước sử dụng đồng tiền chung châu Âu là một nhóm các quốc
gia thành viên của Liên minh Châu Âu sử dụng đồng Euro làm đơn vị tiền tệ chính
thức của mình.
Các thành viên chính thức
Khu vực Euro:
Khu vực Euro (17)
Những quốc gia thuộc Liên Âu quy định sẽ phải gia nhập hệ thống Euro(8)
Quốc gia thuộc Liên Âu có quyền rút khỏi hệ thống Euro(1)
Quốc gia Liên Âu dự định mở cuộc trưng cầu dân ý về việc gia nhập hệ thống
Euro nhưng với quyền rút khỏi hệ thống(1)
Khu vực ngoài khối Liên Âu dùng Euro theo thỏa hiệp riêng(5)



Khu vực ngoài khối Liên Âu dùng Euro mà không có thỏa hiệp(4)
Các nước hay lãnh thổ ngoài Liên minh châu Âu nhưng sử dụng đồng Euro
được tô đậm bằng đường gạch màu xanh.
Có 17 nước sau đây đã đưa đồng Euro làm tiền tệ chính thức vào lưu hành:
Áo, Bỉ, Bồ Đào Nha, Cyprus, Đức, Hà Lan,Hy Lạp, Ireland, Luxembourg, Malta,
Pháp, Phần Lan, Tây Ban Nha,Ý, Slovenia, Slovakia, Estonia.
Tháng 11 năm 2004, Hy Lạp đã không thỏa mãn đủ các điều kiện gia nhập
theo thời điểm quy định trong Hiệp định Masstricht. Hơn nữa Hy Lạp đã che dấu
vụ thâm hụt ngân sách quốc gia và báo cáo giả mạo các số liệu cho Ủy ban châu
Âu. Tuy nhiên sự việc này không có hậu quả pháp lí vì các hiệp định đều không đề
cập đến những trường hợp kể trên.
Một vài quốc gia khác đã tham gia vào liên minh tiền tệ với thành viên
trong vùng Euro và vì vậy cũng đưa đồng Euro vào sử dụng như là tiền tệ chính
thức. Các quốc gia này là: Monaco, San Marino, Toà thánh Vatica.
Thành viên không chính thức
Bên cạnh các thành viên chính thức, một số quốc gia hay địa phận khác
cũng đã tự quyết định chọn Euro làm tiền tệ chuẩn (không có quyết định của EU):
Andorra (có ý định phát hành tiền kim loại Euro, cho đến nay vẫn không có sự
đồng ý của EU), Kosovo, Montenegro .
Các thành viên không chính thức này đã từ bỏ tiền tệ riêng hay từ bỏ một
trong số những tiền tệ trước đây và thay vào đó là dùng Euro, vì thế mà (về mặt
đồng Euro) các thành viên này không còn độc quyền tiền tệ nhưng lại không có
ảnh hưởng đến chính sách lãi suất của Ngân hàng Trung ương châu Âu.
Các quốc gia có tỷ giá hối đoái cố định với Euro


Hai quốc gia trong vùng Euro, Hà Lan và Pháp, có địa phận ở hải ngoại.
Tiền tệ của các địa phận thuộc Hà Lan (đồng Florin của Aruba và đồng Gulden của
Antillen) đã và vẫn đang gắn với đồng Đô la Mỹ và không bị tác động bởi việc

đưa đồng Euro vào lưu hành tại Hà Lan cũng như trong các nước thành viên khác.
Tại các địa phận thuộc Pháp phải phân biệt giữa các khu hành chính hải
ngoại (tiếng Pháp: Départements d’Outre-Mer) bao gồm Guyane thuộc Pháp,
Guadeloupe, Martinique, Réunion, và các lãnh thổ đặc biệt (tiếng Pháp:
Collectivités Territoriales) là Saint Pierre và Miquelon và Mayotte. Trong tất cả
các địa phận nói trên đồng Euro có giá trị từ ngày 1 tháng 1 năm 1999. Các
départements được "tự động" bao gồm trong việc đưa đồng Euro vào lưu hành
thông qua các hiệp định với Pháp. Các collectivités territoriales đã phải cần đến
một quyết định riêng của hội đồng hành chính (quyết định của hội đồng vào ngày
31 tháng 12 năm 1998 về các quy định tiền tệ trong các lãnh địa thuộc Pháp SaintPierre và Miquelon và Mayotte).
Các quốc gia châu Phi dùng đồng CFA-Franc có tỷ giá cố định với Euro
Thêm vào đó, đồng Euro đã trở thành một ngoại tệ quan trọng trong nhiều
nước như là một sự lựa chọn khác thay cho đồng Đô la Mỹ. Một vài loại tiền tệ
trước đây gắn liền với các tiền cũ trước Euro nay có tỷ giá hối đoái cố định với
Euro:


Bosna và Hercegovina, 1 EUR = 1,95583 Mark Bosna và Hercegovina

(đồng mark chuyển đổi), tương ứng với tỷ giá của đồng Mark Đức.


Bulgaria, 1 EUR = 1,95583 BGN, tương ứng với tỷ giá của đồng Mark

Đức.


CFA-Franc, 1 EUR = 655,957 XAF/XOF (tương ứng với tỷ giá của đồng

Franc Pháp cũ trước 1960).



CFP-Franc, 1 EUR= 119,2529826 XPF




Cabo Verde, 1 EUR = 110,265 CVE.



Comores, 1 EUR = 491,9677 KMF.



Latvia, 1 EUR= 0,702804 LVL.



Litva, 1 EUR = 3,4528 LTL.
Các thành viên EU như Đan Mạch, Estonia, Latvia, Litva gắn kết đồng nội

tệ vào đồng Euro thông qua Cơ chế Tỷ giá hối đoái II (ERM II), quy định khoảng
dao động của các đồng nội tệ này so với đồng Euro. Đồng Kroon của Estonia được
gắn kết với đồng Mark Đức từ trước khi có Euro và vì thế đã gắn kết với đồng
Euro trước khi gia nhập Cơ chế Tỷ giá hối đoái II. Các quốc gia này đã thực hiện
bước đầu tiên để có thể đưa tiền tệ chính thức của cộng đồng vào lưu hành ngay từ
năm 2006.
Các quốc gia trong EU tạm thời không sử dụng đồng Euro
Anh, Đan Mạch và Thụy Điển đã quyết định không dùng tiền tệ mới và vẫn

giữ tiền tệ chính thức của quốc gia. Ngày 14 tháng 9 năm 2003, qua một cuộc
trưng cầu dân ý, Thụy Điển từ chối không tham gia Liên hiệp Kinh tế và Tiền tệ
châu Âu. Theo hiệp định gia nhập vào EU của Thụy Điển, đất nước này phải đưa
đồng Euro vào lưu hành như là tiền tệ chính thức và như thế là thật ra không có
khả năng lựa chọn. Thụy Điển hiện thời đang ngăn trở việc đưa đồng Euro vào sử
dụng bằng cách không hoàn thành việc gia nhập vào Cơ chế Tỷ giá hối đoái II.
Ngược lại Anh và Đan Mạch có quyền dứt khoát không tham gia đã được thỏa
thuận trong hiệp định.
Các quốc gia Ba Lan, Cộng hòa Séc, Estonia, Hungary, Latvia, Litva,
Malta, Slovakia, Slovenia và Cộng hòa Síp gia nhập EU ngày 1 tháng 1 năm 2004,
Bulgaria và Romania mới gia nhập EU vào ngày 1 tháng 1 năm 2007. Các quốc
gia EU mới này không có khả năng từ chối đồng Euro như Anh và Đan Mạch,
nhưng lại chỉ có thể gia nhập vào Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu sau khi


×