Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Tố tụng hành chính: Nguyên tắc tranh tụng, Thẩm quyền của hội đồng xét xử, So sánh hoãn phiên tòa, tạm ngừng phiên tòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109 KB, 10 trang )

NHÓM 6
I.

Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính
1. Nguồn gốc nguyên tắc Tranh tụng:
-

Trong số các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Hiến pháp năm 2013 có
quy định tại khoản 5 Điều 163: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử

được đảm bảo”. Đây là nguyên tắc mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm
1992. Như vậy, theo quy định nêu trên, pháp luật tố tụng nhất thiết phải cụ thể hóa nguyên tắc
này trong công tác xét xử của Tòa án nhân dân ở các lĩnh vực: Hình sự, Dân sự, và Hành chính.
2. Đặc trưng của tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính
a, Chủ thể tranh tụng
- Bao gồm 3 nhóm chủ thể: đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự .
- Các bên đều được bình đẳng, chủ động và công khai đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp lý,
lập luận và đối đáp để chứng minh, biện luận nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
trước Tòa án theo những trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hành chính quy định.
- Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng điều hành, giám sát quá trình tranh tụng mà không tranh
tụng với các bên đương sự, Tòa án sử dụng kết quả tranh tụng để giải quyết vụ án hành chính
một cách khách quan, công bằng, đúng pháp luật.
b, Phạm vi tranh tụng :
- là các vấn đề cần làm rõ để xác định sự thật khách quan của vụ án
- Các vấn đề cần làm rõ có thể là “chứng cứ, tình tiết của vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp và
pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của đương sự trong vụ án” hoặc những vấn đề mâu
thuẫn, chưa thống nhất giữa các đương sự cần được Tòa án phân xử.
- Việc tranh tụng bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý vụ án và kết thúc khi vụ án đã được giải quyết.
 Như vậy, phạm vi tranh tụng là giới hạn tất cả các vấn đề mà các bên tham gia
tranh tụng cần làm rõ bằng các chứng cứ, tài liệu, căn cứ pháp lý, lập luận để Hội đồng


xét xử có thể nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, chính xác nhất sự thật của vụ án
hành chính.
c, Nội dung và phương thức tranh tụng
- Phương thức Tranh tụng tại phiên tòa bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả
lời và phát biểu quan điểm, lập luận đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án, về quan hệ tranh chấp
và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của đương sự.
- Quá trình tranh tụng được quy định rõ trong Mục 3 Tranh tụng tại phiên tòa (từ DD175197) được tiến hành một cách công khai, trực tiếp và bằng lời nói.
- Tranh tụng ngoài phiên tòa là các hoạt động thu thập, giao nộp chứng cứ tài liệu, quyền yêu cầu
được tiếp cận tài liệu. Việc tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành theo sự điều khiển

của chủ tọa phiên tòa.
d, Ý nghĩa của tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính


-

Thực tiễn xét xử thời gian qua cho thấy, khi chưa có quy định cụ thể trong Luật Tố tụng hành
chính năm 2015, khái niệm “tranh tụng” mới chỉ được hiểu là việc tranh luận tại phiên tòa và chỉ
thể hiện trong những vụ án có luật sư tham gia hoặc trong những vụ án mà đương sự có trình độ
hiểu biết pháp luật nhất định, hoặc bên bị kiện cử người có đủ thẩm quyền, nắm rõ sự việc liên
quan đến khiếu kiện tham gia phiên tòa. Những vụ án mà người khởi kiện có điều kiện kinh tê
khó khăn, không thuê luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình hoặc những vụ án mà
bên bị kiện ủy quyền cho người không phải là người quản lý, điều hành lĩnh vực liên quan đến
khiếu kiện thì việc tranh tụng tại phiên tòa chưa bảo đảm. Những quy định của Luật Tố tụng
hành chính năm 2010 đã làm hạn chế vai trò của đương sự, thể hiện ở trình tự phiên tòa là xét
hỏi trước rồi mới đên tranh luận, số lượng các điều luật quy định vấn đề xét hỏi nhiều hơn
hẳn so với các quy định về vấn đề tranh luận. Chính vì vậy, công tác xét xử các vụ án hành
chính của Tòa án nhân dân theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 chưa đáp ứng
được sự mong đợi của người dân và xã hội, ảnh hưởng đến việc bảo vệ các quyền, lợi ích chính
đáng của cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng như ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết các vụ án

hành chính của Tòa án nhân dân.

-

Tuy nhiên, với các quy định của luật tố tụng hành chính nêu trên về thủ tục tranh luận tại phiên tòa thì chưa bao hàm
được mục đích, ý nghĩa của phần tranh luận tại phiên tòa. Bởi vì, trong tố tụng hành chính, người tham gia tranh
luận chỉ có người tham gia tố tụng và các luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Không có sự tham gia
của kiểm sát viên. Đây là nội dung khác so với tố tụng hình sự, ở phần tranh luận tại phiên tòa hình sự. Hơn nữa, về
vị trí xã hội thì người tham gia tố tụng cũng khác nhau, trong đó người khởi kiện “yếu thế” hơn so với người bị kiện,
vì người bị kiện là người có thẩm quyền ra các quyết định hành chính, hành vi hành chính. Còn người khởi kiện là
người phục tùng, chấp hành quyết định hoặc hành vi hành chính. Đây cũng là nội dung khác biệt so với tố tụng dân
sự, vì nguyên đơn và bị đơn khi tham gia quan hệ dân sự là bình đẳng, tự nguyện. Xuất phát từ sự khác biệt nêu trên,
nên trong thực tiễn xét xử các vụ án hành chính, phần tranh luận thường đưa ra rất ngắn, trong trường hợp có luật sư
tham gia thì chủ yếu là phát biểu của luật sư, nên chất lượng của phần tranh luận rất hạn chế, không đạt được ý
nghĩa làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án, dẫn đến việc chưa đảm bảo yêu cầu về chất lượng xét xử.

-

Bảo đảm cho đương sự được bình đẳng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án,
Như mọi người đã biết, đương sự của vụ án hành chính một bên là người khởi kiện: Là những
dân bình thường đại diện cho chính họ và một bên là cá nhân, cơ quan, tổ chức, đại diện cho
quyền lực nhà nước. Xét trong quan hệ pháp luật hành chính, họ đã không ngang bằng bởi
phương pháp điều chỉnh của pl HC là Quyền uy phục tùng. Chính vì vậy, Nguyên tắc tranh tụng
trong tố tụng hành chính bảo đảm sự bình đẳng của các bên.

-

Góp phần cho việc ra các bản án, quyết định của Tòa án khách quan, có căn cứ và đúng pháp
luật.
Chắc hẳn các bạn đã nghe một vài nguồn tin về Tố tụng hành chính tại Việt Nam. Ví dụ khi xét

xử vụ án hc khởi kiện quyết định hc của Chủ tích huyện X, thì có những trường hợp trc ngày xét
xẻ, Thẩm phán phải thông báo, trình bày trước với Chủ tịch huyện – chính người bị kiện trong
vụ án hành chính. Nghe có vẻ không được khách quan nhưng thực tế có nhiều trường hợp như
vậy. Nên quy định về tranh tụng trong tố tụng phần nào khắc phục được sự không khách quan,
không vô tư trong quá trình xét xử.
Nhằm làm sáng tỏ những tình tiết khách quan của vụ kiện hành chính, nhất là các tình tiết mà
những người tham gia tranh luận còn có ý kiến khác nhau. Đồng thời thông qua phần tranh luận
để giúp hội đồng xét xử sẽ có những đánh giá, nhận định đầy đủ khách quan về nội dung vụ án,
để làm căn cứ khi nghị án và ra bản án hoặc quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục.

-

Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính còn thể hiện rõ tính chất dân chủ, công
khai và minh bạch trong việc giải quyết tranh chấp hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp


pháp của cá nhân, tổ chức, củng cố lòng tin của người dân, nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý
hành chính.
3. Hạn chê
- Trong tố tụng hành chính hiện hành, đã và đang bộc lộ những bất cập, cần thiết phải có sửa đổi
bổ sung. Cụ thể là:
1. Điều 188 của Luật Tố tụng hành chính mới chỉ quy định về trình tự phát biểu khi tranh tụng
mà chưa quy định nội dung được phát biểu là gì? Trong khi đó Điều 189 của Luật tố tụng hành
chính lại quy định “Phát biểu khi tranh luận và đối đáp”. Đồng thời, theo quy định của Điều 189
Luật Tố tụng hành chính, thì nội dung phát biểu khi tranh luận chỉ bó gọn trong phạm vi “khi
phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án”. Nội dung
đối đáp gửi những người tham gia tranh luận cũng không được quy định cụ thể. Cũng tại Điều
189 Luật Tố tụng hành chính, chỉ có quy định rất đơn giản là: “Người tham gia tranh luận có
quyền đáp lại ý kiến của người khác”.
- Đối với nội dung đối đáp trong phần tranh luận, thì quy định “Người tham gia tranh luận có

quyền đáp lại ý kiến của người khác”. Quy định này dẫn đến tình trạng khi mà người khác yêu
cầu người tham gia tranh luận giải thích hoặc trình bày một vấn đề cụ thể nào đó, lẽ ra người bị
yêu cầu có nghĩa vụ giải thích hoặc trình bày nhưng họ không thực hiện hoặc trả lời qua loa,
chiếu lệ và Hội đồng xét xử cũng không thể yêu cầu họ thực hiện theo yêu cầu của người đặt ra
yêu cầu, vì luật chỉ quy định: Họ có quyền đáp lại ý kiến của người khác, nghĩa là vì là “quyền”
của họ nên có thể thực hiện hoặc không thực hiện. Chính vì vậy trong các phiên tòa hành chính,
khi người khởi kiện yêu cầu người bị kiện giải thích, hoặc nêu rõ những căn cứ pháp lý để ra các
quyết định hành chính, hành vi hành chính thì người bị kiện thường là trình bày, giải thích chung
chung hoặc né tránh. Bất cập này của phần tranh luận trong tố tụng hành chính cần thiết phải sửa
đổi để nội dung đối đáp phải vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của những người tham gia tranh luận.

II.

Thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính

1. Khái quát
Xét 03 lĩnh vực pháp luật tố tụng: Dân sự, Hành chính, Hình sự thì chỉ có duy nhất Luật tố tung hành
chính 2015 (Luật TTHC 2015) quy định cụ thể về nội dung “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm”
với một điều luật riêng biệt và sử dụng phương pháp liệt kê. ( Điều 193)
Tuy nhiên, trong tố tụng hành chính, xuất phát từ phạm vi kiểm tra của Tòa án đối với các quyết định hành
chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định
xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri – đối tượng xét xử của vụ án hành chính và những đòi hỏi cần
phải có sự phân công rõ ràng, rành mạch giữa 02 nhánh quyền: hoạt động tư pháp của Tòa án và hoạt
động quản lý nhà nước của nhóm hành pháp thì lý do thiết yếu cần có sự xác định thẩm quyền của Hội đồng
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính. Hay nói cách khác, cần có quy định để phân định rõ ràng phạm vi thẩm
quyền xét xử của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính để tránh tình trạng xét xử “ lạm quyền, vượt
quyền, trái quyền”.
 nhằm mục đích bảo đảm chất lượng phán quyết sơ thẩm được ban hành phải khách quan, công bằng.
Ngoài ra, việc các định cụ thể thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm như thế còn là căn cứ để các
đương sự theo dõi phán quyết Hội đồng xét xử sơ thẩm đã đề ra; trên cơ sở đó, họ sẽ có cơ sở để bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; để phản đối, chống lại các bản án, quyết định đã ban hành
của Hội đồng xét xử sơ thẩm khi cho rằng nó có sai phạm, không chính xác (bằng thủ tục kháng cáo).
2. Thẩm quyền theo Khoản 2 Điều 193:


Về cơ bản, Hội đồng xét xử có thẩm quyền ra 4 quyết định sau đây để kết thúc vụ án hành
chính tại phiên tòa sơ thẩm gồm:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.

2. Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện.

3. Buộc cơ quan, tổ chức bồi thường thiệt hại , khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân bị xâm phạm do quyết định hành chính, hành vi hành chính và các loại
đối tượng khiếu kiện khác trái pháp luật gây ra.

4. Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người đứng đầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, người đứng đầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan
nhà nước, người đứng đầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3. Đặc điểm chung
Hiện nay, thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính được quy định cụ thể tại Điều 193 Luật
TTHC 2015. Theo đó, phạm vi thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính với quy định
pháp luật hiện hành có một số đặc điểm chung như sau:
- Thứ nhất, Hội đồng xét xử sơ thẩm chỉ tiến hành xem xét, giải quyết vụ án hành chính trong phạm vi
yêu cầu của người khởi kiện, còn ngoài ra, Hội đồng xét xử sơ thẩm không có thẩm quyền được xem xét
vượt ngoài phạm vi yêu cầu đó (trừ trường hợp cần thiết xem xét những tình tiết liên quan đến việc giải
quyết yêu cầu khởi kiện).
- Thứ hai, thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính chỉ dừng lại ở việc xem xét “tính
hợp pháp” (phù hợp quy định của pháp luật) của các đối tượng bị khởi kiện mà không có thẩm quyền xem
xét đến “tính hợp lý” (phù hợp với thực tiễn quản lý nhà nước) bởi, tính hợp lý là thuộc về nhánh hành pháp,
tức các cơ quan quản lý nhà nước. Đặc điểm này là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc phân công quyền lực nhà

nước: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, cơ sự phân công và phố hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” Cũng chính vì thế nên khi xét xử vụ án hành chính thì
Hội đồng xét xử sơ thẩm “không được phép làm thay đổi nội dung” của các đối tượng khởi kiện này mà chỉ
có quyền phán quyết về tính hợp pháp của chúng.
Hội đồng xét xử sơ thẩm sẽ xem xét, đánh giá tính hợp pháp của các đối tượng khiếu kiện dựa trên 04
tiêu chí được quy định tại khoản 3 Điều 191 Luật TTHC 2015, cụ thể để kết luận được răng đối tượng khiếu
kiện có hợp pháp hay không hợp pháp thì Hội đồng xét xử sơ thẩm cần dựa trên các tiêu chí sau đây:


(1) Một là: Tính hợp pháp và có căn cứ về hình thức, nội dung của quyết định hành chính hoặc việc thực
hiện hành vi hành chính bị khởi kiện;

(2) Hai là: Tính hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính hoặc việc thực
hiện hành vi hành chính;

(3) Ba là: Thời hiệu, thời hạn ban hành quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính;

(4) Bốn là: Mối liên hệ giữa quyết định hành chính, hành vi hành chính với quyền và lợi ích hợp pháp của
người khởi kiện và những người có liên quan;
 Hội đồng xét xử sơ thẩm chỉ xem xét về mặt pháp luật chứ không có thẩm quyền xem xét về mặt nội
dung của các đối tượng khởi kiện, vì nhưu thế mới đảm bảo được nguyên tắc phân chia quyền lực
nhà nước đã được ghi nhận trong Hiến pháp.
- Thứ ba, về đối tượng khiếu kiện, Luật TTHC 2015 đã có thêm một bổ sung rất thiết thực và phù hợp với
nhu cầu thực tiễn so với luật TTHC 2010 trước đó, cụ thể đó là Luật TTHC 2015 đã mở rộng thêm thẩm
quyền Hội đồng xét xử sơ thẩm được xem xét tính hợp pháp đối với cả đối tượng là “quyêt định giải quyêt
khiêu nại và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan”.
=> Đây là một quy định cần thiết và tiến bộ nhằm đảm bảo công tác giải quyết một cách hiệu quả, khách
quan vụ án hành chính, bảo vệ công lý; bởi vì, nếu trao thêm quyền cho phép Hội đồng xét xử sơ thẩm được
xem xét thêm về tính hợp pháp của các quyết định giải quyết khiếu nại và văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan thì Tòa án sẽ nhìn nhận được một cách toàn diện hơn các vấn đề, tình tiết liên quan đến vụ án để từ

đó làm căn cứ giúp Tòa án thực thi chức năng bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các cá
nhân, cơ quan, tổ chức.
Ví dụ: Trong vụ án giải quyết khiếu kiện: A khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền Quyết định thu hồi đất
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Huyện X. Nếu vụ án được thụ lý thì Hội đồng xét xử sơ thẩm cũng có thẩm
quyền xem xét cả tính hợp pháp của Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện X,
nếu trước khi khởi kiện ra tòa A đã có tiến hành thủ tục khiếu nại và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện
X giải quyết.

III.

Chủ thể
có thẩm
quyền

So sánh: hoãn phiên tòa và tạm ngừng phiên tòa. Mqh giữa hoãn phiên tòa, tạm ngừng
phiên tòa, đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyêt vụ án
1. So sánh:
Hoãn phiên tòa
Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa. Quyết
định hoãn phiên tòa phải được chủ tọa phiên tòa
thay mặt Hội đồng xét xử ký tên.

Tạm dừng phiên tòa
Hội đồng xét xử có quyền tạm ngừng phiên
tòa .


Căn cứ
phát sinh


Thời hạn

Hậu quả
pháp lý
Hình thức

Cơ sở
pháp lý

- Trường hợp chủ tọa phiên tòa vắng mặt hoặc bị
thay đổi thì Chánh án Tòa án ra quyết định hoãn
phiên tòa.
Điều 162.Hoãn phiên tòa
1.Các trường hợp phải hoãn phiên tòa:
a)Trường hợp quy định tại khoản 3 và 4 Điều
155,khoản 1 Điều 157,khoản 2 Điều 161 của
LTTHC;
b)Thành viên của Hội đồng xét xử,Thư ký phiên
tòa,người phiên dịch bị thay đổi mà không có
người thay thế ngay;
c)Trường hợp phải tiến hành giám định lại theo
quy định tại Điều 170 của Luật này;
2.Trường hợp hoãn phiên tòa được quy định tại
khoản 2 Điều 159 và khoản 2 Điều 160 của Luật
này;
Thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm không quá 30
ngày kể từ ngày Hội đồng xét xử ra quyết định
hoãn phiên tòa,trừ phiên tòa xét xử vụ án theo thủ
tục rút gọn thì thời hạn hoãn là 15 ngày.
Phiên tòa được hoãn sẽ phải bắt đầu lại từ đầu.

Quy định việc hoãn phiên tòa phúc thẩm vụ án
hành chính phải được thể hiện dưới hình thức văn
bản,đó là Quyết định hoãn phiên tòa,Luật tố tụng
hành chính quy định tại Điều 163 khoản 2.Quyết
định hoãn phiên tòa phải có các nội dung chính
sau đây:
a)Ngày,tháng,năm ra quyết định;
b)Tên Tòa án và họ ,tên những người tiến hành tố
tụng;
c)Vụ án được đưa ra xét xử ;
d)Lý do của việc hoãn phiên tòa;
đ)Thời gian,địa điểm mở lại phiên tòa.
Quy định về hoãn phiên tòa được quy định trong
Luật tố tụng hành chính,cụ thể tại các Điều
162,163 .

Điều 187.Tạm ngừng phiên tòa
Tại khoản 1 quy định về việc tạm ngừng
phiên tòa khi có một căn cứ :
a)Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện
bất khả kháng,trở ngại khách quan mà
người tiền hành tố tụng không thể tiếp tục
tiến hành phiên tòa,trừ trường hợp thay thế
được người tiến hành tố tụng;
b)Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện
bất khả kháng,trở ngại khách quan khác mà
người tham gia tố tụng không thể tiếp tục
tham gia phiên tòa,trừ trường hợp người
tham gia tố tụng có yêu cầu vắng mặt;
Và các mục c,d,đ,e được quy định trong

khoản 1 Điều 187 Luật này.
Thời hạn tạm ngừng phiên tòa không được
quá 30 ngày kể từ ngày Hội đồng xét xử
quyết định tạm dừng phiên tòa.
Phiên tòa tạm ngừng sẽ được bắt đầu lại từ
thời điểm ngừng.
Việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi
vào biên bản phiên tòa.

Quy định về việc tạm ngừng phiên tào được
quy định trong Luật tố tụng hành chính,cụ
thể tại Điều 187.

Gợi ý phân tích cho người thuyết trình đỡ phải nghiên cứu tài liệu:
Mở đầu: Không chỉ có trong Tố tụng hình sự, Tố tụng dân sự có các thuật ngữ là việc hoãn phiên tòa và
ngừng phiên tòa mà trong Tố tụng hành chính cũng có quy định,cụ thể trong Luật Tố tụng hành chính.
-

Đầu tiên là sự khác nhau khi hoãn phiên tòa là khi quá trình xét xử chưa diễn ra, còn tạm ngừng
phiên tòa là trong quá trình xét xử mà có các căn cứ quy định tại điều 187.
Chủ thể có thẩm quyền có sự khác nhau vì đương nhiên khi phiên tòa bắt đầu xét xử thì có đủ các
điều kiện để xét xử nên không quy định việc Chủ tọa phiên tòa thay mặt ký hay việc khi Chủ tọa
phiên tòa vắng thì Chành án tòa án ra quyết định.


-

Căn cứ phát sinh và thời hạn của bài trên thì 2 cái khác nhau cụ thể nên minh không phân tích
Hình thức khác nhau giữa một cái là Quyết định hoãn phiên tòa và một cái chỉ là việc được ghi vào
trong biên bản phiên tòa chứ không phải là quyết định. Vì yêu cầu việc hoãn phiên tòa yêu cầu tính

chặt chẽ, nghiên cẩn của thủ tục hoãn phiên tòa vì đây là nguyên tăc trước khi đi vào thủ tục tố tụng
Cơ sở pháp lý thì rõ ràng quy định trong luật

Như vậy ta thấy được sự khác nhau cơ bản về việc hoãn phiên tòa và tạm ngừng phiên tòa. Về các chủ thể có
thẩm quyền,thời hạn,cơ sở pháp lý,hình thức,hậu quả pháp lý,căn cứ phát sinh.
2. MỐI QUAN HÊ GIỮA HOÃN PHIÊN TÒA VÀ TẠM NGỪNG PHIÊN TÒA
a. Cơ sở pháp lý:
-

Quy định về hoãn phiên tòa được quy định trong Luật tố tụng hành chính, cụ thể tại các Điều 162,
163.

-

Quy định về việc tạm ngừng phiên tào được quy định trong Luật tố tụng hành chính, cụ thể tại Điều
187.
b. Mối quan hệ giữa hoãn phiên tòa và tạm ngừng phiên tòa:

-

Hoãn phiên tòa sơ thẩm hành chính chỉ được thực hiện khi có các căn cứ theo quy định của
pháp luật được liệt kê tại Điều 162 Luật Tố tụng hành chính gồm:
Thứ nhất, các trường hợp vắng mặt những người tham gia tố tụng: đương sự, người đại diện, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sư, người phiên dịch; vắng mặt những người tiến hành tố tụng: Hội
đồng xét xử, thư ký phiên tòa.
Thứ hai, thành viên của Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa, người phiên dịch bị thay đổi mà không có
người thay thế ngay.
Thành viên của Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa bị thay đổi nếu thuộc một trong những trường hợp sau
đây:
 Đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự.

 Các thành viên trong cùng một Hội đồng xét xử là người thân thích với nhau; trường hợp này, chỉ có
một người được tiến hành tố tụng.
 Đã tham gia với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng,
người giám định, người phiên dịch trong cùng vụ án đó.
 Họ đã là người tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm tra viên, Kiểm sát viên, Kiểm tra
viên, Thẩm phán (áp dụng đối với trường hợp phải thay đổi thư ký tòa án), Thư ký Tòa án (áp dụng
đối với trường hợp phải thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử).
 Đã tham gia vào việc ra quyết định hành chính hoặc có liên quan đến hành vi hành chính bị khởi
kiện.
 Đã tham gia vào việc ra quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính bị khởi kiện.
 Đã tham gia vào việc ra quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức hoặc đã tham gia vào việc ra
quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức bị khởi kiện.
 Đã tham gia vào việc ra quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh bị khởi kiện.
 Đã tham gia vào việc lập danh sách cử tri bị khởi kiện.
 Có căn cứ rõ ràng khác cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
Người phiên dịch bị thay đổi trong những trường hợp sau đây:
 Đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự.






Đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm
chứng, người giám định trong cùng vụ án đó.
Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên,
Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên.
Có căn cứ rõ ràng khác cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.


Thứ ba, phải tiến hành giám định lại trong trường hợp có ý kiến thay đổi người giám định.
Người giám định bị thay đổi trong những trường hợp sau đây:
 Đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự.
 Đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm
chứng, người phiên dịch trong cùng vụ án đó.
 Đã thực hiện việc giám định đối với cùng một đối tượng cần giám định trong cùng vụ án đó.
 Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên,
Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên.
 Có căn cứ rõ ràng khác cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
-

Tạm ngừng phiên tòa:

Trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền tạm ngừng phiên tòa khi có một trong các căn cứ
sau đây:
 Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành
tố tụng không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa, trừ trường hợp thay thế được người tiến hành tố tụng.
 Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tham gia
tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, trừ trường hợp người tham gia tố tụng có yêu cầu xét
xử vắng mặt.
 Cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà không thực hiện thì không thể giải quyết
được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa.
 Cần phải báo cáo với Chánh án Tòa án có thẩm quyền để đề nghị, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc
bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật khi trong quá trình giải quyết vụ án hành chính phát hiện văn bản
quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản
quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định tại Điều 112 Luật Tố tụng hành
chính.
 Các bên đương sự đề nghị Tòa án tạm ngừng phiên tòa để các bên đương sự tự đối thoại.
 Chờ kết quả giám định bổ sung, giám định lại quy định tại khoản 4 Điều 185 của Luật Tố tụng hành

chính.
Khi có người tham gia tố tụng không đồng ý với kết luận giám định được công bố tại phiên tòa và có yêu
cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại; đồng thời xét thấy việc giám định bổ sung, giám định lại cần thiết
cho việc giải quyết vụ án thì Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung, giám định lại và tạm ngừng
phiên tòa để chờ kết quả giám định bổ sung, giám định lại.

- Mối quan hệ giữa hoãn phiên tòa và tạm ngừng phiên tòa:
Hoãn phiên tòa và tạm ngừng phiên tòa là hai thuật ngữ được dùng trong Bộ luật tố tụng hành chính 2015.
Về tính chất thì hai khái niệm này khác nhau, tuy nhiên về mặt pháp lý thì giống nhau, nghĩa là đều làm cho
việc tố tụng không được thực hiện trong một thời hạn; và đều được quy định rõ trong bộ luật tố tụng hành
chính.
Hoãn phiên tòa được hiểu là việc không tiến hành xét xử vì một số lý do nhằm đảm bảo việc xét xử được
khách quan, công bằng. Việc hoàn phiên tòa này chỉ trong một thời gian nhất định, sau khoảng thời gian đó
sẽ tiến hành xét xử.


Tạm ngừng phiên tòa được hiểu là việc vì một số lý do đặc biệt mà vụ án đang được xét xử không tiếp tục
xét xử trong một thời hạn nữa. Nhưng dấu hiệu phân biệt.

- Mối quan hệ giữa đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án hành chính
*Tạm đình chỉ giải quyết vụ án: là việc thẩm phán được giao quyền giải quyết vụ án ra quyết định tạm
dừng giải quyết vụ án vì có những lí do nhất định làm cho vụ án không thể giải quyết được khi những lí do
đó không còn nữa thì tiếp tục giải quyết vụ án
- Các trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính được quy định tại điều 118 khoản 1 luật tố
tụng hành chính:
+ Đương sự là cá nhân đã chết cơ quan tổ chức đã giải thể mà chưa có cá nhân cơ quan tổ chức kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng
+ Đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật
+ Đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà một trong các đương sự không thể có mặt vì lí do chính đáng
Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vụ án có dấu hiệu trái pháp luật cần phải sửa đổi bổ sung

hoặc bãi bỏ
Đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà một trong các đương sự không thể có mặt vì có lí do chính đáng
Cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan khác hoặc vụ việc khác có liên quan
* Đình chỉ giải quyết vụ án là việc thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa hoặc hội đồng
xét xử ra quyết định chấm dứt việc giải quyết vụ án khi có một trong các căn cứ theo quy định của pháp luật
Các trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án:
Người khởi kiện rút đơn kiện và được tòa án chấp nhận
Người khởi kiện đã chết hoặc cơ quan tổ chức đã giải thể mà không có cá nhân cơ quan tổ chức kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng
Người khởi kiện đã được triệu tập lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt
Người bị kiện hủy bỏ quyết định hành chính, quyết định kỉ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết
khiếu nại về quyết định xử lí vụ việc cạnh tranh hoặc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện
Thời hiệu khởi kiện đã hết

*Mối quan hệ giữa đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án hành chính:


Tạm đình chỉ vụ án hành chính chỉ trong một khoảng thời gian nhất định trong thời gian đó tòa án không
xóa tên vụ án hành chính mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lí ngày tháng năm của quyết định tạm đình chỉ để theo
dõi. Từ đó đưa ra quyết định đình chỉ vụ án hay tiếp tục đưa ra xét xử
Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính thì đương sự khoomg có quyền khởi kiện lại nếu
việc khởi kiện này không có gì khác so với vụ án đã bị đình chỉ



×