Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Tiểu luận: Phân tích Hiệp định chống bán phá giá (ADA)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.19 KB, 34 trang )

MỤC LỤC

PHÂN TÍCH HIỆP ĐỊNH VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ (HIỆP ĐỊNH ADA)...................................2
1.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÁN PHÁ GIÁ......................................................................2
1.1 Cơ sở pháp lý....................................................................................................... 2
1.2 Khái niệm:........................................................................................................... 2
1.2.1 Khái niệm “bán phá giá”..................................................................................2
1.2.2 Một số khái niệm khác cần đề cập......................................................................3
1.3 Hiệp định chống bán phá giá ADA của WTO.........................................................5
1.3.1 Lịch sử ra đời.................................................................................................... 5
1.3.2 Ủy ban chống bán phá giá của WTO.................................................................6

2.

BIỆN PHÁP CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ...........................................................................6
2.1. Các biện pháp chống bán phá giá......................................................................6
2.1.1. Thuế chống bán phá giá: Điều 9 ADA..............................................................7
2.1.2. Biện pháp tạm thời: Điều 7 ADA.......................................................................7
2.1.3. Biện pháp cam kết: Điều 8 ADA........................................................................8
2.2. Điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá..........................................................9
2.2.1. Xác định có bán phá giá.................................................................................. 9
2.2.2. Có sự thiệt hại về vật chất do hành động bán phá giá gây ra hoặc đe dọa gây ra
đối với các doanh nghiệp nội địa đang sản xuất các sản phẩm tương tự, hoặc gây ra sự
trì trệ đối với quá trình thành lập của một ngành cơng nghiệp trong nước................13
2.2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa bán phá giá và thiệt hại đáng kể cho ngành sản
xuất trong nước........................................................................................................ 14

3.


QUY ĐỊNH DÀNH CHO CÁC THÀNH VIÊN CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN...............15

4.

QUY TRÌNH, THỦ TỤC CỦA MỘT VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ............................15
4.1. Vụ kiện chống bán phá giá là gì?......................................................................15
4.2. Những yếu tố cơ bản của một vụ kiện chống bán phá giá:..................................16
4.3.1. Thuế chống bán phá giá được áp dụng như thế nào?......................................18
4.3.2. Điều kiện miễn trừ:......................................................................................... 19

1


4.4. Cần làm gì để phịng tránh và đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá ở nước
ngoài?..................................................................................................................... 19
4.4.1. Chính sách phịng ngừa và đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá ở nước
ngoài....................................................................................................................... 20
4.4.2. Một số biện pháp kỹ thuật để đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá:.......20
5.

PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
21
5.1. VBPL: Pháp lệnh về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào VN 2004........21
5.2. Cơ quan có thẩm quyền:................................................................................... 21
5.3. Thực trạng hiện nay ở VN:................................................................................. 21
5.4 Đề xuất kiến nghị:.............................................................................................. 29
5.5 Nguy cơ hàng hóa Việt Nam bị kiện ở nước ngồi có lớn khơng?........................30

2



PHÂN TÍCH HIỆP ĐỊNH VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ (HIỆP
ĐỊNH ADA)

1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÁN PHÁ GIÁ
1.1 Cơ sở pháp lý.
 Điều VI Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT 1994).
 Hiệp định về chống bán phá giá thực thi Điều VI (Anti-Dumping
Agreement – ADA).
 Pháp luật chống bán phá giá của quốc gia.
 Các nhóm nội dung chính của Hiệp định ADA như sau:
 Nhóm các quy định về điều kiện áp thuế (cách thức xác định
biên phá giá, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá
giá, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá và
thiệt hại, cách thức xác định mức thuế và phương thức áp
thuế…)
 Nhóm các quy định về thủ tục điều tra (điều kiện nộp đơn kiện,
các bước điều tra, thời hạn điều tra, quyền tố tụng của các bên
tham gia vụ kiện, biện pháp tạm thời…)
1.2 Khái niệm:
1.2.1 Khái niệm “bán phá giá”
Có nhiều khái niệm khác nhau về bán phá giá chẳng hạn như: bán
phá giá hàng hoá là xuất khẩu hàng hoá theo giá cả thấp hơn hoặc theo
giá rẻ mạt. Định nghĩa này có thể gây hiểu nhầm vì bán phá giá hàng
hố khơng đồng nghĩa với hàng hố bán rẻ - một nước có thể xuất khẩu
hàng hố tới nước khác, bán với giá rẻ hơn hàng hoá cùng loại đang bán
trên thị trường nước nhập khẩu, nếu giá bán khơng thấp hơn giá bán của
hàng hố đó trên thị trường nước xuất khẩu thì hành động đó khơng phải
là bán phá giá.
Hay cũng có khái niệm cho rằng: bán phá giá là bán hàng ra nước

ngoài với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa. Theo các cách hiểu
3


này thì muốn xác định được hành vi bán phá giá người ta cần phải xác
định giá nội địa. Tuy nhiên, việc xác định giá nội địa đôi khi không chính
xác vì trong một số trường hợp, giá bán tại thị trường nội địa của cơng ty
cịn nhỏ hơn chi phí sản xuất.
Ngày nay, khái niệm về bán phá giá ngày càng được phát triển hoàn
chỉnh hơn. Người ta cho rằng bán phá giá là bán hàng ra nước ngoài với
giá thấp hơn chi phí sản xuất. Quan điểm này ngày càng được nhiều
người thừa nhận.
Trong WTO, đây là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thể hiện sự
phân biệt giá quốc tế thơng qua việc bán háng hóa sang một nước khác
thấp hơn giá thông thường (được bán tại thị trường nước mình) của hàng
hóa liên quan.
Theo khoản 1 Điều VI GATT 1994, bán phá giá là “việc sản phẩm của
một nước được đưa vào kinh doanh thương mại trên thị trường của một
nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm”.
Theo khoản 1 Điều 2 của Hiệp định chống bán phá giá (ADA) của
WTO: “Một sản phẩm bị coi là bán phá giá nếu như giá xuất khẩu của
sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn
mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại
nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường.”
1.2.2 Một số khái niệm khác cần đề cập.
a. Sản phẩm tương tự.
 Thuật ngữ này đã xuất hiện trong nhiều điều khoản của GATT, thường
được chia thành 02 nhóm:
 Điều I và Điều III của GATT liên quan đến việc cấm đoán chế độ
phân biệt đối xử khác biệt giữa các sản phẩm nhập khẩu với nhau

và giữa sản phẩm nhập khẩu với sản phẩm được sản xuất bởi
thành viên nhập khẩu
 Điều VI trong bối cảnh hàng nhập khẩu cạnh tranh không lành
mạnh. 1
 Theo Điều 2.6 Hiệp định ADA (thực thi Điều VI của GATT), khái niệm
sản phẩm tương tự được định nghĩa như sau: “là sản phẩm giống hệt,
1 Robert E. Hudec, “Like product: the differences in meaning in GATT I and III”, Regulatory
Barriers and the Principles of non-discrimination in World Trade Law”, page 103.

4


tức là sản phẩm có tất cả các đặc tính giống với sản phẩm đang được
xem xét, hoặc trong trường hợp khơng có sản phẩm nào như vậy thì là
sản phẩm khác mặc dù khơng giống ở mọi đặc tính nhưng có nhiều đặc
điểm gần giống với sản phẩm được xem xét.”
 Như vậy, có thể rút lại, sản phẩm tương tự có thể là:
 Sản phẩm giống hệt: có tất cả các đặc tính giống sản phẩm đang
bị điều tra.
 Sản phẩm gần giống: có nhiều đặc điểm gần giống với sản phẩm
đang bị điều tra, trong trường hợp khơng có sản phẩm giống hệt.
 Tuy nhiên, vẫn chưa giải quyết được liệu rằng cơ quan có thẩm quyền
có thể căn cứ vào chỉ 1 tiêu chí nào đó để xác định sản phẩm tương tự
hay không. Nếu không thì nhiều tiêu chí sẽ là bao nhiêu tiêu chí và là
tiêu chí gì cũng như thứ tự ưu tiên áp dụng là gì?
 Do đó, trên thực tế, việc xác định sản phẩm tương tự là hoàn toàn do
các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia nhập khẩu quyết định, và vì
vậy cũng gây ra khơng ít tranh cãi với nhau về việc xác định sản
phẩm tương tự.
Tại sao phải xác định sản phẩm tương tự?

Xác định sản phẩm tương tự ở đây là xác định xem sản phẩm nhập
khẩu hay sản phẩm bị cáo buộc là bán phá giá và sản phẩm được sản xuất
nội địa có phải là hàng hóa tương tự hay khơng. Việc xác định sản phẩm
tương tự này rất quan trọng và mang tính nền tảng bởi vì đây sẽ giúp xác
định xem doanh nghiệp nào là doanh nghiệp hình thành nên ngành công
nghiệp nội địa, và sẽ giúp điều hướng việc điều tra, xác định thiệt hại và mối
quan hệ nhân quả.
b. Điều kiện thương mại thơng thường.
Hiện khơng có định nghĩa cụ thể thế nào là hàng hoá bán trong điều
kiện thương mại thơng thường. Tuy nhiên, ADA có nêu một trường hợp có
thể được coi là khơng được bán theo điều kiện thương mại thông thường tại
Điều 2.2: khi SPTT được bán tại thị trường nội địa hoặc bán sang một nước
thứ ba với mức giá không đủ bù đắp chi phí sản xuất theo đơn vị sản phẩm
(giá thành sản xuất + chi phí bán hàng, quản trị, chi phí chung) (bán lỗ
vốn).
c. Mức giá có thể so sánh được.
 Có sản phẩm tương tự.
5


 Có tỷ giá hối đối hợp lý.
1.3 Hiệp định chống bán phá giá ADA của WTO.
1.3.1 Lịch sử ra đời.
Thuế chống bán phá giá được áp dụng lần đầu tiên ở Canada vào năm
1904 và ngày càng phổ biến rộng rãi không những ở các nước phát triển
như Mỹ, Canada, EU, Australia mà cả các nước đang phát triển như Brazil,
Ấn độ, Argentina, Mexico, Malaysia. Đây là một công cụ bảo vệ hiệu quả
hàng hoá sản xuất trong nước khi phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu bị
bán phá giá.
Tuy nhiên, chỉ đến năm 1947 Hiệp định chung về thuế quan và thương

mại (GATT-1947) tiền thân của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) mới có
qui định về điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá trong điều VI. Sau đó,
vấn đề bán phá giá và chống bán phá giá lại được đưa ra thảo luận tại Vòng
đàm phán Kenedy (1964-1967) và Vòng đàm phán Tokyo (1973-1979)
thuộc Các vòng đàm phán của GATT (Hiệp định chung về thuế quan và mậu
dịch). Đây là giai đoạn mà thương mại quốc tế đang phát triển rất mạnh mẽ,
các quốc gia phát triển tăng cường xuất khẩu sang các nước đang phát
triển. Họ thường sử dụng các biện pháp trợ cấp, trợ giá đối với các sản phẩm,
nhất là những sản phẩm nơng nghiệp của mình để tăng cường sức cạnh
tranh của hàng hoá khi tham dự vào thương mại thế giới. Hàng hoá của
những nước này ồ ạt đổ vào nước đang phát triển- nơi giờ đây là thị trường
lý tưởng cho các nước phát triển cạnh tranh nhau. Kết quả là vào năm
1979, GATT đã ban hành Đạo luật chống bán phá giá để mở rộng điều VI
của GATT-1947. Cũng trong thời gian này, các nước đang phát triển cũng
đã bắt đầu ban hành luật điều chỉnh việc bán phá giá cùng những biện pháp
chống lại các hoạt động này nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước. Các nước
đang phát triển rất quan tâm tới việc đánh giá đúng giá thành của sản
phẩm, rằng sản phẩm được bán ra với giá không thấp hơn giá thành hay giá
bán trên thị trường nội địa và tìm mọi cách để ngăn ngừa những hành vi lẩn
tránh các biện pháp chống bán phá giá. Đồng thời họ cũng chú trọng đến
việc đảm bảo rằng những biện pháp chống bán phá giá không bị lạm dụng
nhằm bảo hộ nền sản xuất trong nước mà chỉ giới hạn ở mức cần thiết (thuế
chống bán phá giá không nhất thiết phải cao bằng mức phá giá mà có thể
chỉ ở mức được xác định là cần thiết).

6


Đến vòng đàm phán Uruguay (1986-1994), vấn đề về bán phá giá và
chống bán phá giá mới được thống nhất lại khi các quốc gia thành viên của

GATT cùng nhau đặt bút ký vào “Hiệp định thực thi Điều VI của Hiệp định
chung về thuế quan và thương mại 1994”. Trong đó có nhiều quy định chi
tiết và chặt chẽ từ việc xác định vấn đề phá giá, trình tự một cuộc điều tra về
bán phá giá đến các biện pháp tạm thời và các biện pháp cuối cùng trong
trường hợp xác định có bán phá giá. Những quy định này được rút ra từ
thực tiễn thương mại quốc tế giữa các thành viên trong những năm qua.
Trên cơ sở Hiệp định này, nhiều nước đã ban hành luật chống bán phá giá
của riêng mình, trong đó chủ yếu là các nước đang phát triển để bảo vệ nền
sản xuất trong nước khỏi hàng hoá nhập khẩu từ các nước phát triển. Tuy
nhiên, do Hiệp định có nhiều quy định không chặt chẽ về vấn đề tự vệ và
việc đối phó với việc lẩn tránh các biện pháp chống bán phá giá mà các
quốc gia, trong luật của mình, đã biến những quy định đó thành những cơ
chế mang tính chất bảo hộ. Luật chống bán phá giá đôi khi đã bị lợi dụng,
trở thành biện pháp bảo hộ nền sản xuất trong nước. Và trong thực tiễn
thương mại hiện nay, các biện pháp chống bán giá không chỉ được các nước
đang phát triển áp dụng mà nó đã trở thành một công cụ phổ biến của các
nước phát triển, được các nước này triệt để khai thác. Đơn cử như Mỹ, hàng
năm các doanh nghiệp nước này đã phát hàng nghìn đơn kiện bán phá giá
đối với hàng nhập khẩu của hàng chục nước trên thế giới. Các biện pháp
chống bán phá giá giờ đây đã trở thành quen thuộc trong thương mại quốc
tế. Do đó, đối với bất kỳ một doanh nghiệp xuất khẩu của bất kỳ quốc gia
nào trên thế giới, khi muốn xuất khẩu hàng hoá ra nước ngồi thì một vấn
đề khơng thể bỏ qua là phải nghiên cứu về luật chống bán phá giá của các
quốc gia, các thị trường mà mình muốn thâm nhập để tránh nguy cơ bị áp
đặt các biện pháp chống bán phá giá. Trong các luật chống bán phá giá thì
khơng thể khơng nhắc đến Hiệp định thực thi Điều VI của GATT năm 1994Hiệp định làm cơ sở cho luật chống bán phá giá của các quốc gia.
1.3.2 Ủy ban chống bán phá giá của WTO.
Ủy ban chống bán phá giá bao gồm đại diện các thành viên WTO được
thành lập nhằm thực hiện các nghĩa vụ qui định trong Hiệp định này và tạo
điều kiện cho các thành viên trao đổi với nhau về các vấn đề liên quan đến

việc thực hiện Hiệp định chống bán phá giá. Ủy ban này họp ít nhất 2 lần
mỗi năm, Ban thư ký WTO sẽ thực hiện chức năng thư ký cho Ủy ban này.
 Các thành viên WTO phải thông báo cho Ủy ban chống bán phá giá:
7


 Ngay lập tức khi họ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm
thời hay lâu dài;
 Nửa năm một lần (theo mẫu qui định) về các biện pháp chống bán
phá giá mà họ áp dụng trong vòng 6 tháng trước đấy. Các thành
viên có thể tham khảo thông báo này tại Ban thư ký WTO;
 Cơ quan nào ở nước mình có thẩm quyền điều tra phá giá, luật qui
định thủ tục điều tra phá giá của nước mình.
2. BIỆN PHÁP CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
2.1. Các biện pháp chống bán phá giá.
Xuất phát từ quan điểm cho rằng hành vi bán phá giá, ở một mức độ
nghiêm trọng nhất định là hành vi thương mại không công bằng, luật lệ của
WTO hiện nay đều cho phép các quốc gia áp dụng biện pháp có tính trả
đũa, tự vệ thương mại. Trong các biện pháp hạn chế thương mại như áp dụng
hạn ngạch, hạn chế số lượng, tăng thuế, các biện pháp hạn chế có tính kỹ
thuật, phi thuế quan khác, để chống lại hành vi bán phá giá, các quốc gia
chỉ có quyền áp dụng thuế bổ sung (thuế chống bán phá giá) và biện pháp
cam kết.
2.1.1. Thuế chống bán phá giá: Điều 9 ADA.
Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung của nước nhập
khẩu áp dụng cho hàng nhập khẩu được bán phá giá với mục đích ngăn cản
sự tiếp diễn của việc bán phá giá đó nhắm tránh gây thiệt hại cho ngành sản
xuất sản phẩm tương tự ở trong nước. Thuế chống bán phá giá là biện pháp
chống bán phá giá được sử dụng phổ biến nhất. Khi một sản phẩm bị điều
tra và có kết luận là bán phá giá vào thị trường nước nhập khẩu thì nước

nhập khẩu có quyền quyết định là có đánh thuế hay khơng. Nếu có, cơ quan
điều tra chống bán phá giá sẽ quyết định mức thuế chống bán phá giá trên
cơ sở biên độ phá giá, theo nguyên tắc mức thuế này có thể tương đương
hoặc nhỏ hơn biên độ phá giá.
Cơ quan điều tra sẽ xác định biên độ phá giá và mức thuế chống bán
phá giá riêng cho từng nhà sản xuất, xuất khẩu. Trường hợp số nhà sản xuất,
xuất khẩu q lớn khơng thể tính riêng biên độ phá giá được, thì cơ quan
chức năng sẽ xem xét giới hạn ở một số nhà sản xuất, xuất khẩu nhất định,
trên cơ sở trao đổi với các nhà sản xuất, xuất khẩu liên quan và mức thuế
đối với hàng nhập khẩu từ các nhà sản xuất, xuất khẩu không được điều tra
không vượt quá mức thuế của các nhà sản xuất, xuất khẩu có điều tra.
8


Trường hợp quốc gia xuất khẩu không chịu hợp tác cung cấp thơng tin
cho q trình điều tra, thì cơ quan điều tra bán phá giá của nước nhập khẩu
trên cơ sở những thông tin tự thu thập được kết hợp với những thông tin mà
bên nguyên đơn đưa ra sẽ quyết định biên độ bán phá giá và mức thuê áp
dụng.
Thuế chống bán phá giá sẽ được áp dụng cho từng trường hợp, trên cơ
sở không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu từ tất cả các nguồn được coi
là gây thiệt hại, trừ trường hợp đã cam kết giá (như đã nêu trên).Trị giá thuế
chống bán phá giá áp dụng sẽ không được vượt quá biên độ phá giá.
2.1.2. Biện pháp tạm thời: Điều 7 ADA.
Các biện pháp tạm thời có thể được áp dụng dưới hình thức thuế tạm thời
hoặc tối ưu hơn là áp dụng dưới hình thức đảm bảo - bằng tiền đặt cọc hoặc
tiền đảm bảo - tương đương với mức thuế chống phá giá được dự tính tạm
thời và khơng được cao hơn biên độ phá giá được dự tính tạm thời. Việc
đình chỉ định giá tính thuế cũng là một biện pháp tạm thời thích hợp với
điều kiện phải chỉ rõ mức thuế thông thường và mức thuế chống bán phá giá

được dự tính và việc tạm đình chỉ định giá tính thuế này cũng phải tuân thủ
theo các điều kiện được áp dụng cho các biện pháp tạm thời khác.
 Thuế chống bán phá giá tạm thời:
 Là một khoản thuế bổ sung được áp dụng như một biện pháp khẩn
cấp tạm thời để hạn chế tác động của hàng hóa nhập khẩu bán phá
giá trong q trình điều tra áp dụng thuế chống bán phá giá.
 Điều kiện áp dụng biện pháp tạm thời:
 Cơ quan điều tra tiến hành điều tra đúng thủ tục, gửi thông báo và
tạo điều kiện cho các bên quan tâm cung cấp thông tin và trình
bày ý kiến;
 Có kết luận sơ bộ về việc xảy ra bán phá giá và dẫn đến thiệt hại cho
ngành sản xuất trong nước; và
 Cơ quan điều tra kết luận rằng biện pháp tạm thời là cần thiết để
ngăn chặn thiệt hại trong quá trình điều tra.
 Biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng sớm nhất là 60 ngày sau khi bắt
đầu điều tra và sẽ được duy trì càng ngắn càng tốt, khơng được quá 4
tháng hoặc trong trường hợp cần thiết thì cũng không được quá 6
tháng. Trong trường hợp cơ quan điều tra xác định được rằng khoản
thuế thấp hơn biên độ phá giá đã đủ để khắc phục thiệt hại thì thời hạn
áp dụng biện pháp tạm thời có thể là 6 tháng hoặc 9 tháng.
9


2.1.3. Biện pháp cam kết: Điều 8 ADA.
Biện pháp cam kết là thỏa thuận tăng giá hàng nhập khẩu bán phá
giá của các doanh nghiệp bị điều tra để đưa giá bán của hàng hóa về với
mức giá thơng thường.
Hoạt động điều tra có thể bị đình chỉ hoặc chấm dứt mà không cần áp
dụng bất cứ biện pháp tạm thời hay thuế chống phá giá nếu các nhà xuất
khẩu đưa ra cam kết về giá. Đây là trường hợp nhà xuất khẩu cam kết tăng

giá hàng xuất khẩu, xóa đi khoản chênh lệch về giá tương đương với biên độ
phá giá được sơ bộ xác định. Việc đưa ra cam kết về giá của nhà xuất khẩu
chỉ được chấp nhận khi cơ quan điều tra thấy rằng thiệt hại đối với ngành sản
xuất trong nước đã được loại bỏ và bản thân hành động cam kết về giá cũng
không đương nhiên chấm dứt hoạt động điều tra.
Cơ quan điều tra sẽ không chấp nhận cho các nhà sản xuất, xuất khẩu
cam kết giá nếu thấy việc cam kết không khả thi, chẳng hạn số lượng nhà
xuất khẩu quá lớn.
Cơ quan điều tra có thể đề nghị nhà xuất khẩu cam kết giá nhưng
không bắt buộc phải cam kết. Các cơ quan hữu quan của nước nhập khẩu có
thể yêu cầu bất kỳ nhà xuất khẩu nào chấp nhận cam kết giá cung cấp
thông tin định kỳ về việc thực hiện cam kết giá.Trường hợp nhà xuất khẩu vi
phạm cam kết giá, cơ quan điều tra có thể lập tức áp dụng biện pháp tạm
thời trên cơ sở thông tin mà họ có.
Theo quy định của Hiệp định ADA, cũng như thực tiễn của tất cả các
nước, hoạt động điều tra, áp dụng các biện pháp tạm thời và thuế chống bán
phá giá thuộc thẩm quyền của cơ quan hành pháp. Để đảm bảo tính cơng
bằng của các hoạt động này, bên cạnh việc quy định vấn đề chống bán phá
giá có thể trở thành đối tượng của tranh chấp thương mại theo thủ tục của
WTO nói chung, Hiệp định ADA cịn quy định tại điều 13 về rà sốt tư pháp.
Theo quy định của Điều này, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ đảm bảo
rằng các hoạt động về đánh giá hành vi bán phá giá, áp dụng các biện
pháp chống phá giá phải được kiểm soát bởi các cơ quan tư pháp, hoạt
động độc lập với các cơ quan đã đưa ra quyết định trong lĩnh vực chống bán
phá giá. Bên cạnh đó, việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá cũng được
đảm bảo bởi nhiều các quy định thủ tục khác: theo quy định tại Điều 10 của
Hiệp định ADA, thuế chống bán phá giá khơng có giá trị hồi tố; thời hạn áp

10



dụng thuế chống bán phá giá không vượt quá 5 năm, trừ trường hợp mở
cuộc điều tra mới (điều 11.3 Hiệp định ADA).
2.2. Điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá.
2.2.1. Xác định có bán phá giá.
Để xác định có sự có mặt của bán phá giá hay khơng, chúng ta cần
phải so sánh sự khác biệt giữa giá xuất khẩu của sản phẩm nhập khẩu với giá
trị thông thường của sản phẩm tương tự với sản phẩm nhập khẩu được tiêu
thụ tại thị trường thành viên xuất khẩu. Sự khác biệt giữa chúng sẽ được gọi
là biên độ phá giá.
a. Tính biên độ bán phá giá:
Biên độ phá giá được tính tốn theo cơng thức sau:
Biên độ phá giá =
Nếu biên độ phá giá > 0 là có bán phá giá.
 Trong đó:
 Giá Thơng thường là giá bán của sản phẩm tương tự tại thị
trường nước xuất khẩu.
Theo Điều 2.2 ADA:
“Trong trường hợp khơng có các sản phẩm tương tự được bán trong nước
theo các điều kiện thương mại thông thường tại thị trường nước xuất khẩu
hoặc trong trường hợp việc bán trong nước đó khơng cho phép có được sự
so sánh chính xác do điều kiện đặc biệt của thị trường đó hoặc do số lượng
hàng bán tại thị trường trong nước của nước xuất khẩu hàng hóa quá nhỏ,
biên độ bán phá giá sẽ được xác định thơng qua so sánh với mức giá có thể
so sánh được của sản phẩm tương tự được xuất khẩu sang một nước thứ 3
thích hợp, với điều kiện là mức giá có thể so sánh được này mang tính đại
diện, hoặc được xác định thơng qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước
xuất xứ hàng hóa cộng thêm một khoản hợp lý chi phí quản lý, chi phí bán
hàng, các chi phí chung và lợi nhuận.”
 Vậy, trường hợp khơng có giá nội địa của SPTT ở nước xuất khẩu do:

 SPTT không được bán ở nước xuất khẩu trong điều kiện thương mại
thông thường; hoặc
 Có bán ở nước xuất khẩu nhưng trong điều kiện đặc biệt; hoặc
11


 Số lượng bán ra không đáng kể (<5% số lượng SPTT bán ra ở nước
nhập khẩu)
Thì:
 GTTT = giá xuất khẩu SPTT sang nước thứ ba; hoặc
 GTTT = giá thành sản xuất + chi phí (hành chính, bán hàng, quản lý
chung...) + lợi nhuận
 Trường hợp SPTT được xuất khẩu từ một nước có nền kinh tế phi thị
trường (giá bán hàng và giá nguyên liệu đầu vào do chính phủ ấn
định) thì các qui tắc trên khơng được áp dụng để xác định GTTT.
 Giá Xuất khẩu là giá trên hợp đồng giữa nhà xuất khẩu nước ngoài
với nhà nhập khẩu đầu tiên.
Theo Điều 2.3 Hiệp định ADA:
“Trong trường hợp không tồn tại mức giá xuất khẩu hoặc cơ quan có thẩm
quyền thấy rằng mức giá xuất khẩu khơng đáng tin cậy vì lý do nhà xuất
khẩu và nhà nhập khẩu hoặc một bên thứ ba nào đó có quan hệ với nhau
hoặc có thoả thuận về bù trừ, giá xuất khẩu có thể được diễn giải trên cơ sở
mức giá khi sản phẩm nhập khẩu được bán lại lần đầu cho một người mua
hàng độc lập, hoặc nếu như sản phẩm đó khơng được bán lại cho một người
mua hàng độc lập hoặc không được bán lại theo các điều kiện giống với điều
kiện nhập khẩu hàng hóa thì mức giá có thể được xác định trên một cơ sở
hợp lý do cơ quan có thẩm quyền tự quyết định.”
 Vậy, trường hợp giá bán SPTT không tin cậy được do nhà sản xuất, nhà
nhập khẩu hoặc bên thứ ba nào đó có quan hệ với nhau hoặc có thỏa thuận
Thì:

 GXK = giá mà sản phẩm nhập khẩu được bán lần đầu tiên cho một
người mua độc lập đầu tiên ở nước nhập khẩu.
 Nếu không được bán lại cho một người mua hàng độc lập hoặc không
theo các điều kiện giống với điều kiện nhập khẩu thì xác định trên cơ
sở cơ quan thẩm quyền tự quyết định.
b. Bình quân gia quyền:
 Theo quy định tại Điều 2.4.2 Hiệp định ADA:

12


“2.4.2 Thực hiện các qui định điều chỉnh sự so sánh cơng bằng tại khoản 4,
việc xác định có tồn tại biên độ phá giá hay không trong suốt giai đoạn
điều tra, thông thường sẽ dựa trên cơ sở so sánh giữa giá trị bình qn gia
quyền thơng thường với giá bình quân gia quyền của tất cả các giao dịch
xuất khẩu có thể so sánh được hoặc thơng qua so sánh giữa giá trị thông
thường với giá xuất khẩu trên cơ sở từng giao dịch. Giá trị thông thường
xác định trên cơ sở bình qn gia quyền có thể được đem so sánh với với
giá của từng giao dịch xuất khẩu cụ thể nếu như các cơ quan có thẩm quyền
xác định rằng cơ cấu giá xuất khẩu đối với những người mua khác nhau,
khu vực khác nhau và thời điểm khác nhau có sự chênh lệch đáng kể và
khi có thể đưa ra giải thích về việc tại sao sự khác biệt này khơng thể được
tính tốn một cách đầy đủ khi so sánh bằng phương pháp sử dụng bình
quân gia quyền so với bình quân gia quyền hoặc giao dịch so với giao
dịch.”
 Việc xác định có tồn tại biên độ bán phá giá hay không được thực hiện
dựa trên 3 cách sau:
 So sánh giữa giá trị bình quân gia quyền (bình quân giá) của tất cả
các giao dịch xuất khẩu có thể so sánh được với giá trị bình quân gia
quyền của tất cả các giá trị thông thường.

 So sánh giá giữa giá trị thông thường với giá xuất khẩu trên cơ sở
từng giao dịch.
 So sánh giá trị thông thường xác định trên cơ sở bình qn gia quyền
có thể được với giá của từng giao dịch xuất khẩu cụ thể nếu cơ quan có
thẩm quyền cho rằng giá xuất khẩu đối với từng những người mua
khác nhau, khu vực khác nhau, thời điểm khác nhau có sự chênh lệch
đáng kể và cơ quan này có thể giải thích lý do tại sao sự khác biệt này
khơng thể được tính tốn một cách đầy đủ bằng 02 phương pháp trên.
Ví dụ: Đơn giản hóa vụ kiện EC – ga trải giường, cộng đồng châu Âu.
Chúng ta giả sử rằng thành viên nhập khẩu chia sản phẩm đang bị
điều tra thành 4 nhóm như sau:
Sản
phẩm
điều tra

Bình
quân
gia
quyền
giá trị

Bình
quân
gia
quyền
giá xuất

Biên độ phá Biên độ phá giá của sản
giá của từng phẩm điều tra.
nhóm

sản
phẩm

13


thơng khẩu
thường (VNĐ)
(VNĐ) (2)
(1)

= (1) – (2)

115.00 95.000
0

20.000

Nhóm 2

80.000 70.000

10.000

Nhóm 3

100.00 150.00
0
0


-50.000

Nhóm 4

105.00 85.000
0

20.000

Nhóm 1

BĐPG = x 100%
= 0%
 Khơng có bán phá giá.

c. Phương pháp zeroing – Quy về không.
Là phương pháp tách riêng từng giao dịch và chỉ lấy những giao dịch
có biên độ dương để tính khối lượng bán phá giá. Nghĩa là, quy về không tất
cả các giao dịch có biên độ bán phá giá âm.
Ví dụ: tiếp tục với vụ kiện ga trải giường bên trên, EC đã áp dụng
phương pháp quy về 0. Do đó,
Sản
phẩm
điều tra

Nhóm 1

Bình
qn
gia

quyền
giá trị
thơng
thường
(VNĐ)
(1)

Bình
qn
gia
quyền
giá xuất
khẩu
(VNĐ)
(2)

Biên độ phá Biên độ phá giá của sản
giá của từng phẩm điều tra.
nhóm
sản
phẩm
= (1) – (2)

115.00 95.000
0

20.000

BĐPG = x 100%


Nhóm 2

80.000 70.000

10.000

Nhóm 3

100.00 150.00

-50.000

= 12.5%

14

 Có bán phá giá.


0
Nhóm 4

0

105.00 85.000
0

20.000

Nhược điểm của Phương pháp “Quy về 0”:

 Thứ nhất, khi áp dụng phương pháp zeroing, hầu hết các kết quả điều
tra đều đưa đến kết luận là có bán phá giá và bị áp thuế chống bán
phá giá cao. Điều đó gây bất cơng và tạo ra nhiều khó khăn cho các
nước xuất khẩu, từ đó hạn chế sự tự do hóa thương mại.
 Thứ hai, tạo nên sự không công bằng cũng như tạo ra thêm gánh
nặng tài chính cho các doanh nghiệp.
 Thứ ba, ngồi thiệt hại về việc phải đóng thuế chống bán phá giá, các
doanh nghiệp xuất khẩu còn phải chịu những hệ lụy khác từ việc áp
thuế như phải ký quỹ một khoản tiền rất lớn. Điều này một lần nữa gây
khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu khi vốn – luôn là một vấn
đề của doanh nghiệp – phải dùng để ký quỹ. Điều này lại làm tăng lợi
thế cạnh tranh của các doanh nghiệp không bị áp thuế chống bán phá
giá.
2.2.2. Có sự thiệt hại về vật chất do hành động bán phá giá gây
ra hoặc đe dọa gây ra đối với các doanh nghiệp nội địa đang sản
xuất các sản phẩm tương tự, hoặc gây ra sự trì trệ đối với q
trình thành lập của một ngành cơng nghiệp trong nước.
Theo Điều 3.1 của Hiệp định ADA:
“ Việc xác định tổn hại nhằm thực hiện Điều VI của GATT 1994 phải được
tiến hành dựa trên bằng chứng xác thực và thông qua điều tra khách quan
về cả hai khía cạnh: (a) khối lượng hàng hóa nhập khẩu được bán phá giá
và ảnh hưởng của hàng hóa được bán phá giá đến giá trên thị trường nội
địa của các sản phẩm tương tự và (b) hậu quả của việc nhập khẩu này đối
với các nhà sản xuất các sản phẩm trên ở trong nước.”
 Việc xác định thiệt hại sẽ liên quan đến các vấn đề sau:
a. Xác định phạm vi của ngành sản xuất trong nước bị ảnh hưởng.

15



Theo Điều 4.1 Hiệp định ADA, ngành sản xuất trong nước là “tập hợp chung
các nhà sản xuất các sản phẩm tương tự hoặc những nhà sản xuất có tổng
sản phẩm chiếm phần lớn tổng sản xuất trong nước của sản phẩm đó”, trừ
các trường hợp quy định tại các điểm (i) và (ii).
b. Yếu tố tác động gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước.
Điều 3.4 Hiệp định ADA:
“Việc kiểm tra ảnh hưởng của hàng nhập khẩu được bán phá giá đối với
ngành sản xuất trong nước có liên quan phải bao gồm việc đánh giá tất cả
các nhân tố và chỉ số có ảnh hưởng đến tình trạng của ngành sản xuất,
trong đó bao gồm mức suy giảm thực tế và tiềm ẩn của doanh số, lợi nhuận,
sản lượng, thị phần, năng suất, tỉ lệ lãi đối với đầu tư, tỉ lệ năng lực được sử
dụng; các nhân tố ảnh hưởng đến giá trong nước, độ lớn của biên độ bán
phá giá; ảnh hưởng xấu thực tế hoặc tiềm ẩn đối với chu chuyển tiền mặt,
lượng lưu kho, công ăn việc làm, tiền lương, tăng trưởng, khả năng huy
động vốn hoặc nguồn đầu tư. Danh mục trên chưa phải là đầy đủ, dù có một
hoặc một số nhân tố trong các nhân tố trên cũng không nhất thiết đưa ra
kết luận mang tính quyết định.”
Thực tế, tránh trường hợp cơ quan có thẩm quyền của thành viên nhập
khẩu lựa chọn phân tích chỉ một vài yếu tố dễ dàng dẫn đến thiệt hại nhất thì
cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO kết luận danh sách trên là danh
sách bắt buộc. Do đó, thành viên có nghĩa vụ phải cân nhắc đánh giá tất cả
các yếu tố.
c. Thiệt hại vật chất và nguy cơ gây thiệt hại vật chất.
Thiệt hại này phải là thiệt hại cho ngành cơng nghiệp cụ thể nào đó trên
cơ sở xem xét đánh giá các yếu tố được quy định tại Điều 3.4, 3.7 Hiệp định
ADA chứ không phải thiệt hại gây ra cho một hoặc hai doanh nghiệp cụ thể
không đáp ứng được tiêu chí về thị phần và cũng khơng phải là thiệt hại mà
người tiêu dùng phải gánh chịu giống như trong luật cạnh tranh.
d. Tính thiệt hại gộp.
Trong trường hợp nhiều thành viên nhập khẩu tiêu thụ sản phẩm bị điều

tra bán phá giá từ nhiều thành viên xuất khẩu khác nhau và thiệt hại cho
ngành sản xuất trong nước có thể bị gây ra bởi hàng hóa xuất khẩu của tất
cả thành viên đó, cơ quan có thẩm quyền của thành viên nhập khẩu được
16


quyền đánh giá cộng gộp tác động của hàng nhập khẩu bán phá giá đến từ
các thành viên liên quan trên.
Theo ADA:
“3.3 Khi có nhiều cuộc điều tra chống bán phá giá về cùng một sản
phẩm được nhập khẩu từ nhiều nước khác nhau, cơ quan điều tra có thể
đánh giá ảnh hưởng một cách tổng hợp của hàng nhập khẩu này chỉ trong
trường hợp cơ quan này xác định được rằng: (a) biên độ bán phá giá được
xác định đối với hàng nhập khẩu từ mỗi nước vượt quá mức tối thiểu có thể
bỏ qua (de minimis) được qui định tại khoản 8 Điều 5 và số lượng hàng
nhập khẩu từ mỗi nước khơng ở mức có thể bỏ qua được; (b) việc đánh giá
gộp các ảnh hưởng của hàng nhập khẩu là thích hợp nếu xét đến điều kiện
cạnh tranh giữa các sản phẩm nhập khẩu với nhau và điều kiện cạnh tranh
giữa các sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm tương tự trong nước.”
2.2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa bán phá giá và thiệt hại
đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.
Điều VI GATT không đề cập đến bản chất cụ thể và cách thức xác định
quan hệ nhân quả giữa bán phá giá và thiệt hại xảy ra đối với ngành công
nghiệp trong nước. Luật chống bán phá giá Kenedy 1967 quy định rằng bán
phá giá phải là nguyên nhân chủ yếu gây ra thiệt hại (principal cause of
material injury).
Tuy nhiên, việc xác định tính “chủ yếu” của các yếu tố gây thiệt hại
gặp phải nhiều khó khăn trên thực tế, Bộ Luật chống bán phá giá Tokyo
1979 thì chỉ ghi nhận rằng “hàng nhập khẩu bán phá giá gây ra thiệt hại.
Có thể có những yếu tố khác”. Hay nói cách khác bán phá giá là một

nguyên nhân của thiệt hại.
Theo Điều 3.5 Hiệp định ADA, cách tiếp cận trên cũng được tiếp cận
như trên.
3. QUY ĐỊNH DÀNH CHO CÁC THÀNH VIÊN CÁC NƯỚC ĐANG
PHÁT TRIỂN
Điều 15 ADA:
“Cũng thừa nhận rằng các Thành viên phát triển cần phải có các
chiếu cố đặc biệt đến tình hình đặc thù của các Thành viên đang phát triển
trong khi xem xét các đơn đề nghị về các biện pháp chống bán phá giá
17


theo các quy định của Hiệp định này. Các biện pháp điều chỉnh mang tính
chất phối hợp xây dựng sẽ được đem ra xem xét trước khi áp dụng thuế
chống phá giá nếu biện pháp này ảnh hưởng tới lợi ích cơ bản của các
Thành viên đang phát triển.”
Đây chỉ là một quy định mang tính chất chung chung, khái quát,
nhằm đảm bảo nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt với thành viên là các
nước đang và kém phát triển. Chính vì vậy, trên thực tế, khó có thể phân
định rõ cũng như thực hiện một cách hợp lý điều khoản này vì cơ bản đây
cũng chỉ là một điều khoản chung gợi mở, không hướng dẫn cụ thể như
trong hiệp định về chống trợ cấp SCM cũng về chế định này.
4. QUY TRÌNH, THỦ TỤC CỦA MỘT VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
4.1. Vụ kiện chống bán phá giá là gì?
Đây thực chất là một quy trình Kiện - Điều tra - Kết luận - Áp dụng biện
pháp chống bán phá giá (nếu có) mà nước nhập khẩu tiến hành đối với một
loại hàng hoá nhập khẩu từ một nước nhất định khi có những nghi ngờ rằng
loại hàng hố đó bị bán phá giá vào nước nhập khẩu gây thiệt hại đáng
kể cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu (Khoản 1 Điều
VI GATT 1994).

Có một lưu ý là một biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng
trong hoàn cảnh được quy định tại Điều VI của GATT 1994 và phải tiếp nhận
việc điều tra được bắt đầu và tiến hành theo đúng quy định của Hiệp định
ADA (Điều 1 ADA). “Bắt đầu” ở đây là kể từ thời điểm có đơn yêu cầu bằng
văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc của người nhân danh cho
ngành sản xuất trong nước;
Mặc dù thường được gọi là “vụ kiện” (theo cách gọi ở Việt Nam), đây
không phải thủ tục tố tụng tại Toà án mà là một thủ tục hành chính và do cơ
quan hành chính nước nhập khẩu thực hiện. Thủ tục này nhằm giải quyết
một tranh chấp thương mại giữa một bên là ngành sản xuất nội địa và một
bên là các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngồi; nó khơng liên quan đến
quan hệ cấp chính phủ giữa hai nước xuất khẩu và nhập khẩu.
Vì trình tự, thủ tục và các vấn đề liên quan được thực hiện gần giống
như trình tự tố tụng xử lý một vụ kiện tại tồ nên thủ tục này cịn được xem
là “thủ tục bán tư pháp”. Ngoài ra, khi kết thúc vụ kiện, nếu không đồng ý
với quyết định cuối cùng của cơ quan hành chính, các bên có thể kiện ra
18


Toà án (lúc này, vụ việc xử lý tại toà án thực sự là một thủ tục tố tụng tư
pháp).
4.2. Những yếu tố cơ bản của một vụ kiện chống bán phá giá:
Đối tượng của vụ kiện: là một loại hàng hoá nhất định nhập khẩu từ
một hoặc một số nước xuất khẩu;
“Nguyên đơn” của vụ kiện: Một vụ kiện chống bán phá giá chỉ có
thể được tiến hành nếu nó được bắt đầu bởi các chủ thể có quyền khởi kiện
là:
Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu (hoặc đại diện
của ngành).
Cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu. Đây là trường hợp đặc

biệt, các cơ quan hữu quan quyết định bắt đầu 1 cuộc điều tra mặc dù
khơng có đơn u cầu tiến hành điều tra của chủ thể ở trên. Trong trường
hợp này, các cơ quan này chỉ tiến hành điều tra khi có đầy đủ các bằng
chứng về việc phá giá, về việc gây thiệt hại và mối quan hệ nhân quả được
quy định tại Điều 5 khoản 5.2 ADA.
Hầu hết các vụ kiện chống bán phá giá trên thực tế đều được khởi
xướng từ đơn kiện của ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu.
Để được xem xét thì đơn kiện phải đáp ứng đủ các điều kiện sau (Điều
5 Khoản 5.4 ADA):
 Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện có sản lượng sản phẩm tương
tự chiếm ít nhất 50% tổng sản lượng sản xuất ra bởi tất cả các
nhà sản xuất đã bày tỏ ý kiến ủng hộ hoặc phản đối đơn kiện; và
 Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện phải có sản lượng sản phẩm
tương tự chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng sản phẩm tương tự của
toàn bộ ngành sản xuất trong nước.
“Bị đơn” của vụ kiện: là tất cả các doanh nghiệp nước ngoài sản xuất
và xuất khẩu loại hàng hoá/sản phẩm là đối tượng của đơn kiện;
Cơ quan xử lý vụ kiện: là một hoặc một số cơ quan hành chính được
nước nhập khẩu trao quyền điều tra chống bán phá giá và quyết định việc
áp dụng biện pháp chống bán phá giá.

19


4.3. Trình tự, thủ tục tiến hàng 1 vụ kiện chống bán phá giá:
 Bước 1: Ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu nộp đơn kiện (kèm
theo chứng cứ ban đầu).
Đơn này bao gồm: (a) việc bán phá giá, (b) sự thiệt hại theo Điều VI của
GATT 1994, (c) mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được bán phá
giá và thiệt hại đang nghi ngờ xảy ra. Lưu ý, việc khẳng định mà không kèm

theo chứng cứ xác đáng thì đơn yêu cầu sẽ bị coi là khơng đủ điều kiện.
Ngồi ra, đơn sẽ bao gồm những thơng tin khác mà người nộp đơn có được
như đặc điểm của người nộp đơn, mô tả về số lượng và giá trị của sản phẩm
tương tự…được quy định chi tiết tại Điều 5 Khoản 5.2 ADA
 Bước 2: Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi xướng điều tra
(hoặc từ chối đơn kiện, không điều tra).
Sau khi nhận được đơn u cầu thì cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra
mức độ xác thực và đầy đủ của các bằng chứng được đưa ra tại đơn yêu cầu
để quyết định xem sẽ bắt đầu quá trình điều tra hay không (Điều 5.3 ADA).
 Bước 3: Điều tra sơ bộ về việc bán phá giá và về thiệt hại (qua bảng
câu hỏi gửi cho các bên liên quan, thu thập, xác minh thông tin,
thông tin do các bên tự cung cấp);
Tất cả các bên liên quan đến cuộc điều tra (như nhà xuất khẩu, nhà sản
xuất nước ngoài, cá nhân sử dụng sản phẩm bán phá giá trong quá trình
sản xuất, chế biến sản phẩm của mình) sẽ được thơng báo về những thơng
tin mà cơ quan có thẩm quyền yêu cầu, có đủ cơ hội để cung cấp bằng
chứng mà họ cho rằng có liên quan đến việc điều tra (Điều 6.1 ADA). Ngay
sau khi bắt đầu điều tra, cơ quan có thẩm quyền phải cung cấp tồn bộ văn
bản của đơn yêu cầu điều tra họ nhận được theo như đoạn 1 Điều 5 cho các
nhà xuất khẩu được biết đến và cho cơ quan có thẩm quyền của nước xuất
khẩu hàng hóa đó, sẵn sàng cung cấp cho các bên hữu quan khác khi được
yêu cầu (Điều 6.1 ADA).
Trong suốt quá trình điều tra, các cơ quan có thẩm quyền sẽ mời các bên
có liên quan tham gia vào các buổi làm việc và có thể sẽ tiến hành điều tra
trên lãnh thổ của thành viên khác nếu thấy cần thiết. Trong trường hợp các
bên liên quan từ chối hợp tác, cơ quan có thẩm quyền có thể căn cứ vào
“thơng tin hiện có” như là giải pháp cuối cùng để ra quyết định giải quyết vụ
việc vì bản thân “thơng tin hiện có” này có thể dẫn đến các quyết định bất
20



lợi cho thành viên xuất khẩu. Không được áp dụng “thơng tin hiện có” chỉ
đơn giản vì thơng tin do doanh nghiệp xuất khẩu/sản xuất của thành viên
xuất khẩu cung cấp sau khi hết hạn theo quy định tại Điều 6.1.1 Hiệp định
ADA.
 Bước 4: Kết luận sơ bộ (có thể kèm theo quyết định áp dụng biện
pháp tạm thời như buộc đặt cọc, ký quỹ...);
 Bước 5: Tiếp tục điều tra về việc bán phá giá và về thiệt hại (có thể
bao gồm điều tra thực địa tại nước xuất khẩu).
 Bước 6: Kết luận cuối cùng: Quyết định áp dụng/không áp dụng biện
pháp chống bán phá giá. Áp dụng biện pháp chống bán phá giá nếu
kết luận cuối cùng khẳng định có việc bán phá giá gây thiệt hại đáng
kể;
 Bước 7: Rà soát lại biện pháp chống bán phá giá (hàng năm cơ quan
điều tra có thể sẽ điều tra lại biên phá giá thực tế của từng nhà xuất
khẩu và điều chỉnh mức thuế)
 Bước 8: Rà sốt hồng hơn – Sunset Review (5 năm kể từ ngày có
quyết định áp thuế chống bán phá giá hoặc rà soát lại, cơ quan điều
tra sẽ tiến hành điều tra lại để xem xét chấm dứt việc áp thuế hay tiếp
tục áp thuế thêm 5 năm nữa).
Từ bước 1 đến bước 6 của một vụ điều tra chống bán phá giá thường kéo
dài khoảng 18 tháng đến 2 năm. Tuy nhiên, bước 7 và 8 có thể kéo rất dài
sau đó. Ví dụ, trong vụ kiện cá tra, cá basa ở Hoa Kỳ chẳng hạn, đơn kiện
nộp vào ngày 28/6/2002, quyết định áp thuế ban hành ngày 7/8/2003. Sau
đó 2005 và 2006 đều đã có rà sốt lần 1, 2 đối với một số công ty xuất
khẩu của Việt Nam.
4.3.1. Thuế chống bán phá giá được áp dụng như thế nào?
Về thời hạn áp thuế: Theo quy định của WTO, việc áp thuế chống bán
phá giá không được kéo dài quá 5 năm kể từ ngày có Quyết định áp thuế
hoặc kể từ ngày tiến hành rà soát lại;

Về hiệu lực của việc áp thuế:
 Quyết định áp thuế chỉ có hiệu lực đối với tất cả hàng hoá liên quan
nhập khẩu từ nước bị kiện sau thời điểm ban hành Quyết định.
 Quyết định áp thuế có hiệu lực với cả các nhà xuất khẩu mới, người
chưa hề xuất khẩu hàng hố đó sang nước áp thuế trong thời gian
trước đó; nhà xuất khẩu mới có thể yêu cầu cơ quan điều tra tính mức
21


thuế riêng cho mình, nhưng trong thời gian chưa có quyết định về
mức thuế riêng thì hàng hố nhập khẩu của nhà xuất khẩu mới vẫn
thực hiện Quyết định áp thuế nói trên;
 Mức thuế chống bán phá giá khơng được phép vượt quá biên độ bán
phá giá được xác định theo như Điều 2.
 Việc áp dụng hồi tố (áp dụng cho những lô hàng nhập khẩu trước thời
điểm ban hành Quyết định) chỉ được thực hiện nếu thiệt hại gây ra cho
ngành sản xuất nội địa là thiệt hại thực tế.
4.3.2. Điều kiện miễn trừ:
 Biên độ phá giá không đáng kể (nhỏ hơn 2% giá xuất khẩu).
 Khối lượng hàng bán phá giá là không đáng kể, cụ thể:
 Hàng hóa bán phá giá từ một nước bị điều tra nhỏ hơn 3%
tổng hàng nhập khẩu, đồng thời;
 Tổng khối lượng hàng hóa bán phá giá từ tất cả các nước bị
điều tra nhỏ hơn hoặc bằng 7% tổng hàng nhập khẩu.
 Như vậy, vụ kiện chống bán phá giá sẽ phải được thực hiện theo pháp
luật của nước nhập khẩu và bởi các cơ quan quản lý nhà nước của nước
nhập khẩu. Tuy nhiên quy trình và cơ chế điều tra và áp dụng biện
pháp chống bán phá giá phải tuyệt đối tuân thủ quy định của pháp
luật WTO. Nếu cơ quan nhà nước không đảm bảo các yêu cầu của
pháp luật WTO trong thủ tục điều tra và áp dụng thuế chống bán phá

giá, nước thành viên có hàng hóa bị áp thuế đối kháng có thể khiếu
nại vấn đề này ra WTO. Vụ kiện này sẽ được giải quyết theo quy định
giải quyết tranh chấp của WTO và sẽ là vụ kiện giữa 2 quốc gia liên
quan.
4.4. Cần làm gì để phịng tránh và đối phó với các vụ kiện chống
bán phá giá ở nước ngoài?
Về nguyên tắc, kiện chống bán phá giá là cơng cụ được sử dụng để đối
phó với các hiện tượng bán phá giá (cạnh tranh không lành mạnh) từ nước
ngoài gây thiệt hại. Trên thực tế, đằng sau các biện pháp chống bán phá giá
là việc bảo vệ ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu trước sự gia tăng của
hàng nhập khẩu giá rẻ. Với năng lực xuất khẩu ngày càng tăng, nhiều loại
hàng hoá Việt Nam đang phải đối mặt ngày càng nhiều hơn với những nguy
cơ kiện chống bán phá giá ở các thị trường.

22


Để phịng tránh nguy cơ bị kiện và/hoặc đối phó với các vụ kiện chống
bán phá giá, doanh nghiệp cần đồng thời thực hiện các biện pháp mang
tính chính sách (để hạn chế, nhận biết và ứng phó với nguy cơ một cách kịp
thời) và các biện pháp kỹ thuật có liên quan (để tính tốn và chứng minh
biên độ phá giá thấp nhất có thể).
4.4.1. Chính sách phịng ngừa và đối phó với các vụ kiện chống
bán phá giá ở nước ngoài
 Về hiểu biết chung: Cần nhận biết về sự tồn tại của nguy cơ bị kiện tại
các thị trường xuất khẩu và cơ chế vận hành của chúng, nhóm thị
trường và loại mặt hàng thường bị kiện;
 Về chiến lược kinh doanh: Cần tính đến khả năng bị kiện khi xây dựng
chiến lược xuất khẩu để có kế hoạch chủ động phịng ngừa và xử lý khi
khơng phịng ngừa được (ví dụ đa dạng hố thị trường xuất khẩu,

tránh phát triển quá nóng một thị trường, tăng cường cạnh tranh bằng
chất lượng và giảm dần việc cạnh tranh bằng giá rẻ…);
 Về việc hợp tác:
 Phối hợp, liên kết với các doanh nghiệp có cùng mặt hàng xuất
khẩu để có chương trình, kế hoạch đối phó chung đối với các vụ
kiện có thể xảy ra;
 Sử dụng chuyên gia tư vấn và luật sư trong những tình huống
cần thiết ở mức độ thích hợp;
 Phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan để được hướng dẫn và
có thơng tin cần thiết
4.4.2. Một số biện pháp kỹ thuật để đối phó với các vụ kiện chống
bán phá giá:
 Đảm bảo chế độ ghi chép kế toán rõ ràng, tuân thủ các tiêu chuẩn kế
toán quốc tế để các số liệu của doanh nghiệp được cơ quan điều tra
chấp nhận sử dụng khi tính tốn biên phá giá;
 Lưu giữ tất cả các số liệu, tài liệu có thể làm bằng chứng chứng minh
khơng bán phá giá;
 Tự yêu cầu được tham gia, hợp tác với cơ quan điều tra và chủ động
thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng trong quá trình điều tra để
được tính biên độ phá giá riêng phản ánh đúng hơn thực tế hoạt động
kinh doanh của mình;
23


 Có quỹ dự phịng đảm bảo các chi phí theo kiện tại nước ngoài;
 Khi vụ kiện xảy ra cần chủ động tự yêu cầu được tham gia (tự giới thiệu
mình trước cơ quan điều tra); tích cực hợp tác với cơ quan điều tra và
chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng trong quá trình điều
tra để được tính biên độ phá giá riêng phản ánh đúng hơn thực tế hoạt
động kinh doanh của mình;

 Không gian lận trong và sau cuộc điều tra chống bán phá giá để tránh
bị trừng phạt bởi những mức thuế chống bán phá giá rất cao.

5. PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
5.1. VBPL: Pháp lệnh về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu
vào VN 2004.
 Nghị định 90/2005/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của
Pháp lệnh chống bán giá hàng hóa nhập khẩu vào VN.
 Nghị định 04/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Hội đồng xử lý vụ việc chống
bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.
 Nghị định 06/2006/NĐ-CP về việc quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh.
 Thông tư 106/2005/TT-BTC ngày 05/12/2005 hướng dẫ thu, nộp, hoàn
trả chống bán phá giá, chống trợ cấp và các khoản bảo đảm thanh
toán thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp.
5.2. Cơ quan có thẩm quyền:
 Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Cơng Thương: Chịu trách nhiệm điều tra,
trình kết quả điều tra và đề xuất cách thức xử lý cho cơ quan có thẩm
quyền.
 Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá – Bộ Công Thương: Xem xét,
nghiên cứu kết quả điều tra của Cục quản lý cạnh tranh, thảo luận và
kiến nghị Bộ trưởng Bộ Công Thương về cách thức xử lý.
 Bộ trưởng Bộ Công Thương: Quyết định có hoặc khơng áp dụng biện
pháp chống bán phá giá.
5.3. Thực trạng hiện nay ở VN:
24



Trước khi Việt Nam gia nhập WTO, đã có nhiều vụ kiện chống bán phá
giá đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam theo pháp luật nội địa của
nước nhập khẩu. Sau khi gia nhập WTO, thực tế này khơng thay đổi, hàng
hố Việt Nam vẫn có thể bị kiện, bị áp thuế chống bán phá giá ở các thị
trường theo trình tự và thủ tục cũ.
Tuy nhiên, khi Việt Nam đã là thành viên WTO, liên quan đến các vụ
việc chống bán phá giá ở nước ngồi, có thể có một số điểm mới thuận lợi
hơn:
Trường hợp nước tiến hành điều tra không tuân thủ các quy định liên
quan trong WTO thì Chính phủ Việt Nam có thể sử dụng các cơ chế giải
quyết tranh chấp trong WTO để khiếu nại, khiếu kiện qua đó bảo vệ lợi ích
cho doanh nghiệp;
Doanh nghiệp Việt Nam thường gặp khó khăn gì trong q trình bị
điều tra chống bán phá gí ở nước ngoài?
Về bảng câu hỏi: nội dung rất phức tạp, địi hỏi cung cấp nhiều thơng
số trong khi thời hạn trả lời lại ngắn;
Về chứng từ: kế toán, nhiều loại chi phí sản xuất, kinh doanh khơng
được chấp nhận do các chứng từ, tài liệu kế toán cần thiết để chứng minh; hệ
thống kế tốn khơng theo chuẩn quốc tế, thiếu minh bạch;
Về chi phí: khơng có nguồn chi phí dự trù cho việc tham kiện ở nước
ngồi (đặc biệt là chi phí cho luật sư);
Về hành động: Bị động trong đối phó (do khơng hiểu biết về cơng cụ
chống bán phá giá và thực trạng), do đó dẫn tối những cách ứng xử không
hợp lý gây hệ quả xấu (ví dụ khơng hợp tác, khơng trung thực, khơng đúng
thời hạn…); Thiếu đồn kết (khơng tạo được tiếng nói chung để cùng bảo vệ
lợi ích).
Các vụ kiện chống bán phá giá của VN đối với hang nhập khẩu đến
tháng 4/2017 Việt Nam đã tiến hành điều tra 03 vụ việc, trong đó có 02 vụ
áp thuế chống bán phá giá.
Thép không gỉ cán nguội, theo quyết định số 7896/QĐBCT ngày

05/09/2014:

25


×