Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

Các quy định của pháp luật thương mại quốc tế liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 153 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




DƯƠNG THỊ THU THẢO




CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Hà Nội – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






DƯƠNG THỊ THU THẢO




CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG


Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số : 60 38 60





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. NÔNG QUỐC BÌNH

Hà Nội – 2012
MỤC LỤC


Trang


Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các chữ viết tắt


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG
7
1.1.
Một số khái niệm
7
1.1.1.
Luật thương mại quốc tế
7
1.1.2.
Môi trường
9
1.1.3.

Luật thương mại quốc tế về bảo vệ môi trường
10
1.2.
Mối quan hệ giữa luật thương mại quốc tế và bảo vệ môi trường
11
1.2.1.
Tác động của luật thương mại quốc tế tới bảo vệ môi trường
12
1.2.2.
Tác động của việc bảo vệ môi trường tới luật thương mại quốc tế
15
1.3.
Nguồn luật điều chỉnh việc bảo vệ môi trường trong thương mại quốc
tế
17
1.3.1.
Pháp luật quốc gia
17
1.3.2.
Điều ước quốc tế
19
1.3.3.
Tập quán quốc tế
23
1.3.4.
Án lệ
24

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP
LUẬT MỘT SỐ NƯỚC VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CÓ LIÊN

QUAN TỚI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
26
2.1.
Quy định của WTO liên quan đến bảo vệ môi trường
26
2.1.1.
Hiệp định về tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật đối với sản phẩm (TBT)
27
2.1.2.
Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS)
33
2.1.3.
Hiệp định Nông nghiệp
38
2.1.4.
Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS)
42
2.1.5.
Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng
45
2.1.6.
Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS)
47
2.2.
Một số Điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường có liên quan tới hoạt
động thương mại quốc tế
49
2.2.1.
Công ước về buôn bán các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp
(CITES)

50
2.2.2.
Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô dôn
53
2.2.3.
Công ước về kiểm soát vận chuyển qua biên giới các phế thải nguy
hiểm và việc tiêu hủy chúng (BASEL)
56
2.2.4.
Công ước về đa dạng sinh học
58
2.3.
Quy định của pháp luật một số nước về bảo vệ môi trường trong
thương mại quốc tế
60
2.3.1.
Hoa Kỳ
60
2.3.2.
Trung Quốc
69
2.3.3.
Thụy Điển
73
2.3.4.
Thái Lan
78
2.3.5.
Indonesia
83


Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP
PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
89
3.1.
Thực trạng của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường trong
thương mại quốc tế
89
3.1.1.
Tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật đối với sản phẩm
89
3.1.2.
Biện pháp kiểm dịch động thực vật
95
3.1.3.
Lĩnh vực đầu tư
101
3.1.4.
Lĩnh vực môi trường
107
3.2.
Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo vệ
môi trường trong thương mại quốc tế
121
3.2.1.
Tăng cường vai trò của cơ quan nhà nước trong việc hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về bảo vệ môi trường trong thương mại quốc tế
121
3.2.2.

Nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp góp phần hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về bảo vệ môi trường trong thương mại quốc tế
132
3.2.3.
Củng cố vai trò của các hiệp hội góp phần hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về bảo vệ môi trường trong thương mại quốc tế
135
3.4.4.
Xác định trách nhiệm của từng cá nhân đối với hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về bảo vệ môi trường trong thương mại quốc tế
138

KẾT LUẬN
141

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
144

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BASEL
: Công ước về kiểm soát, vận chuyển qua biên giới các phế thải nguy
hiểm và việc tiêu hủy chúng
CITES
: Công ước về buôn bán các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp
EU
: Liên minh Châu Âu
GATS
: Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
GATT

: Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch
HACCP
: Hệ thống kiểm soát khẩn cấp và phân tích rủi ro
ISO
: Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế
MEAs
: Hiệp định môi trường đa phương
Montreal
: Nghị định thư về các chất làm suy giảm tầng ô dôn.
SPS
: Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch động, thực vật
TBT
: Hiệp định về những rào cản kỹ thuật trong thương mại
TRIPS
: Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại
WTO
: Tổ chức thương mại thế giới









1

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài

Xu thế toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại đang là đặc điểm cơ bản của sự
phát triển trên toàn thế giới. Các trung tâm và khu vực kinh tế được hình thành, các
hiệp định thương mại khu vực, quốc tế đang là những công cụ pháp lý ràng buộc và
là động lực giúp các nước liên kết, hợp tác để phát triển kinh tế, xã hội. Hội nhập để
phát triển vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với mỗi quốc gia trên thế giới.
Hội nhập kinh tế đang diễn ra trong bối cảnh các vấn đề về môi trường toàn
cầu ngày càng nghiêm trọng. Phát triển bền vững trở thành mục tiêu của các nước
trên thế giới. Hàng loạt các Hiệp định, Công ước khu vực và quốc tế về thương mại
và môi trường được xây dựng và ngày càng có nhiều nước phê chuẩn, cam kết thực
hiện.
Trong vài thập kỷ trở lại đây, môi trường trở thành mối quan tâm hàng đầu của
nhân loại. Sự bùng nổ dân số, tăng trưởng kinh tế mãnh liệt đã làm cho các tài
nguyên môi trường bị khai thác và tàn phá với một tốc độ chưa từng thấy. Môi
trường suy thoái làm ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hiện nay cũng như các thế
hệ mai sau: đất đai trở nên cằn cỗi, lũ lụt nhiều hơn, hạn hán gay gắt hơn, nhiều loài
sinh vật bị tuyệt chủng, nước biển dâng cao, tầng ô dôn bị thủng… Nhìn chung,
Chính phủ các nước đều thấy sự cần thiết của việc bảo vệ môi trường. Tuy nhiên,
khi áp dụng các biện pháp bảo vệ môi trường trong mối tương tác với phát triển
kinh tế quốc tế, trên cơ sở tuân thủ và tôn trọng các cam kết quốc tế, mỗi quốc gia
sẽ có những quyết sách riêng.
Các biện pháp quản lý thương mại có liên quan đến môi trường được các nước
sử dụng như những biện pháp quan trọng của hệ thống hàng rào kỹ thuật. Những
biện pháp này thường được gọi là các “hàng rào xanh” và được các nước phát triển,
các nước đang phát triển ở trình độ cao sử dụng tương đối phổ biến và hiệu quả
trong việc kiểm soát nhập khẩu các sản phẩm liên quan đến môi trường để bảo vệ
các ngành sản xuất trong nước. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam hiện
2

nay, một số “hàng rào xanh” do các nước phát triển đưa ra chính là thách thức về
môi trường trong thương mại quốc tế.

Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Các quy định của pháp luật thương mại
quốc tế liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, mối quan hệ giữa pháp luật thương mại và môi
trường đã được sự quan tâm nghiên cứu ở bình diện quốc tế cũng như cấp độ quốc
gia. Đã có nhiều công trình nghiên cứu phát triển thương mại bền vững ở các nước,
đặc biệt là các quốc gia đang tiến hành công nghiệp hóa. Nhiều tổ chức quốc tế
cũng đã quan tâm đến vấn đề này ở Việt Nam với một số công trình nghiên cứu:
- UNCTAD và Tổng cục đo lường tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam (1998),
“áp dụng hệ thống quản lý môi trường ở Việt Nam”;
- SIDA Thụy Điển và Cục Môi trường (1999), “Những vấn đề môi trường
liên quan đến mở rộng thương mại quốc tế của Việt Nam”;
- UNDP và Cục Xúc tiến thương mại (2001), “Chính sách môi trường trong
phát triển thương mại của Việt Nam”.
Bên cạnh đó, nhiều học giả nước ngoài cũng quan tâm đến vấn đề phát triển
thương mại và bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Chẳng hạn nghên cứu của Khor
(1993) đã đề cập đến vấn đề tự do hóa thương mại ở Việt Nam và việc bảo vệ tài
nguyên đa dạng sinh học; nghiên cứu của S. Banergee (1998) về mối quan hệ của
ngành thương mại Việt Nam trong việc tiếp cận và sử dụng các quy định và tiêu
chuẩn môi trường quốc tế…
Ở Việt Nam, vấn đề về pháp luật thương mại quốc tế và môi trường nói chung
và những vấn đề cụ thể liên quan đến chủ đề này cũng đã được đề cập nhiều từ thập
niên 90 trở lại đây. Liên quan đến chủ đề nghiên cứu trong luận văn này có một số
công trình như:
- Vụ chính sách thương mại đa biên – Bộ Thương mại (2002), “Hoàn thiện
chính sách quản lý nhập khẩu nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường ở Việt Nam”;
3

- Dương Thanh An (2002), “Mối quan hệ giữa bảo vệ môi trường và thương
mại trong các liên kết thương mại quốc tế và ảnh hưởng của chúng tới hệ thống

pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam”;
- Cục Môi trường (2002), Dự án “Hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng
các yêu cầu về bảo vệ môi trường nhằm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”;
- Hồ Trung Thanh (2004), “Khả năng đáp ứng tiêu chuẩn môi trường trong
thương mại quốc tế của một số mặt hàng xuất khẩu Việt Nam”;
- Nguyễn Hữu Khải (2005), “Hàng rào phi thuế quan trong chính sách
thương mại quốc tế”, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội;
- TS Trần Thanh Lâm – Viện tài nguyên nước và môi trường Đông Nam Á
(2006), “Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế”, Nxb Lao động, Hà Nội.
- TS Trần Thanh Lâm – Viện tài nguyên nước và môi trường Đông Nam Á
(2008), “Quan hệ quốc tế về môi trường”;
- Cử nhân Trần Văn Khương, Thạc sỹ Nguyễn Hồng Quang – Bộ Tài
Nguyên và Môi trường (2008), “Pháp luật về bảo vệ môi trường”.
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu đều được thực hiện trong giai đoạn trước
khi Việt Nam gia nhập WTO. Cũng có một số nghiên cứu chính sách pháp luật quốc
tế về bảo vệ môi trường của Việt Nam trong một vài năm trở lại đây, tuy nhiên các
nghiên cứu gần đây chỉ phân tích các vấn đề tổng quát trong mối quan hệ giữa luật
quốc tế và môi trường chứ chưa cho thấy tác động, ảnh hưởng của chính sách này
đến thương mại hoặc có những đề tài chưa phân tích một cách tổng thể những chính
sách, quy định pháp luật về thương mại trên bình diện quốc tế đặt ra cho môi trường
toàn cầu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc
tế và pháp luật mội số quốc gia về bảo vệ môi trường, luận văn đề xuất một số kiến
nghị góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam, đồng thời qua phân tích các tình
huống thực tiễn giúp các doanh nghiệp trong nước có cái nhìn sâu sắc hơn về rào
cản môi trường khi gia nhập thị trường quốc tế.
4

Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Hệ thống hóa lý luận chung của pháp luật thương mại quốc tế về bảo vệ
môi trường.
- Hệ thống và đánh giá quy định của WTO, quy định của một số điều ước
quốc tế tiêu biểu về bảo vệ môi trường có liên quan đến thương mại quốc tế.
- Nghiên cứu và phân tích quy định pháp luật của một số nước trong quá
trình bảo vệ môi trường khi tham gia quan hệ thương mại quốc tế.
- Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề môi trường
trong thương mại quốc tế.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt
Nam, nâng cao khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường liên quan
đến thương mại khi Việt Nam gia nhập thị trường quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu tác động của một số quy
định, tiêu chuẩn môi trường trong pháp luật thương mại quốc tế đến Việt Nam. Khả
năng đáp ứng và nội luật hóa các quy định đó vào thực tiễn pháp luật trong nước.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: các quy định về môi trường trong pháp luật
thương mại quốc tế bao gồm rất nhiều lĩnh vực và là một hệ thống các mối quan hệ
nhiều chiều, phức tạp.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tôi xin được đưa ra một số vấn đề
mang tính tiêu biểu, nổi bật như:
- Nghiên cứu quy định của WTO liên quan đến bảo vệ môi trường;
- Nghiên cứu một số điều ước quốc tế về môi trường mà hiện nay thường áp
dụng phổ biến trong thực tiễn và nếu không tuân thủ các quy định này sẽ gây thiệt
hại lớn cho nền kinh tế - xã hội, thiệt hại cho môi trường, xa hơn nữa ảnh hưởng
đến sự tồn vong của sự sống trên trái đất;
5

- Nghiên cứu quy định của một số quốc gia có nền kinh tế phát triển, quốc
gia có nền kinh tế đang phát triển làm căn cứ so sánh, rút ra những bài học thực tiễn
cho Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: luận văn vận dụng cách tiếp cận truyền thống để nghiên
cứu đề tài là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Kết hợp với phương pháp phân tích, so
sánh, phương pháp tổng hợp (phương pháp ngoại suy, phương pháp nội suy…) và
các phương pháp thu thập thông tin, số liệu nghiên cứu, phương pháp đánh giá, bình
luận.
6. Những đóng góp của luận văn
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung của luật thương mại quốc tế về
bảo vệ môi trường. Chỉ ra mối tương quan giữa thương mại quốc tế và bảo vệ môi
trường làm cơ sở phương pháp luận cho việc phân tích đánh giá thực trạng pháp luật
về bảo vệ môi trường của Việt Nam.
Phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật một số
quốc gia về bảo vệ môi trường, chỉ ra những khó khăn, thuận lợi khi Việt Nam tham
gia thị trường quốc tế. Từ đó, rút ra một số kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật Việt
Nam, giúp cho các doanh nghiệp trong nước điều chỉnh chiến lược kinh doanh, đáp
ứng các quy định và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường, nâng cao khả năng cạnh
tranh, đồng thời thực hiện tốt các quy định về bảo vệ môi trường sinh thái nước ta.
Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam trong quá trình áp dụng pháp luật
thương mại quốc tế về bảo vệ môi trường mà Việt Nam tham gia. Đưa ra một số
kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật trong nước.
7. Bố cục luận của văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
6

Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật thương mại quốc tế liên quan
đến bảo vệ môi trường.
Chương 2: Quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật một số nước về bảo
vệ môi trường có liên quan tới thương mại quốc tế.
Chương 3: Thực trạng và một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật

Việt Nam về bảo vệ môi trường trong thương mại quốc tế.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Nông Quốc Bình – người thầy đã
tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ và đóng góp nhiều ý kiến trong suốt quá trình
hoàn thiện luận văn.
Do tính phức tạp và phạm vi tương đối rộng của để tài nên luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp chân
thành của quý thầy cô giáo và toàn thể các bạn để tiếp tục hoàn thiện đề tài trong
những lần nghiên cứu sau.









7

NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG.
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Luật thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là một hoạt động quan trọng của một quốc gia, đặc biệt
trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay thì các quan hệ hợp tác với nước ngoài có thể tác
động rất lớn tới việc phát triển kinh tế.
Trên thực tế thương mại quốc tế có đối tượng và chủ thể rất đa dạng và phong
phú bởi vậy trong nhiều trường hợp có rất nhiều cách hiểu và sử dụng khái niệm
“thương mại quốc tế” chưa thống nhất.

Theo từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia, “thương mại quốc tế là việc
trao đổi hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa hữu hình và hàng hóa vô hình) giữa các
quốc gia, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm đưa lại lợi ích cho các
bên”. [45]
Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại năm 2005, “hoạt động thương mại được
hiểu là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm: mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác”. [26]
Trong khi đó, tại Khoản 1, 2 Điều 27 và 28 Luật thương mại năm 2005, việc
mua bán hàng hóa quốc tế được hiểu là việc “xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa,
theo đó hàng hóa được đưa ra, đưa vào lãnh thổ Việt Nam hoặc khu vực đặc biệt
nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của
pháp luật. Nói cách khác, thương mại quốc tế được hiểu là các hoạt động thương
mại vượt ra khỏi biên giới quốc gia hoặc biên giới hải quan”. [26]
Với cách tiếp cận khái niệm thương mại như trên, nên ở Việt Nam hai thuật
ngữ là “International trade” (thương mại quốc tế) và “International commerce”
(kinh doanh quốc tế), thường được hiểu chung một nghĩa là thương mại quốc tế.
Tuy nhiên ở nhiều nước trên thế giới hai thuật ngữ này có nghĩa khác nhau. Nếu
8

International trade là thuật ngữ chỉ các hoạt động thương mại quốc tế do các quốc
gia thực hiện với nhau thì International commerce là thuật ngữ chỉ hoạt động
thương mại quốc tế do các thương nhân tiến hành.
Từ đó thấy rằng Việt Nam lấy dấu hiệu hành vi thương mại vượt ra khỏi biên
giới quốc gia (bao gồm hành vi của quốc gia và hành vi của thương nhân) làm tiêu
chí xác định quan hệ thương mại quốc tế.
Luật thương mại quốc tế:
Trong hơn một thế kỷ qua, động lực của toàn cầu hóa chính là sự bùng nổ
thương mại hàng hóa và dịch vụ. Trong tương lai, thương mại quốc tế vẫn sẽ tiếp
tục thúc đẩy hội nhập toàn cầu, đặc biệt là ở những nước đang phát triển, trong đó

có Việt Nam. Bởi vậy, công cụ hỗ trợ đắc lực và hữu hiệu nhất cho thương mại
quốc tế, cho toàn cầu hóa và hội nhập, đó chính là luật thương mại quốc tế. Ngày
nay, pháp luật thương mại quốc tế đã trở thành một hệ thống khá hoàn chỉnh và đồ
sộ, tạo lập hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh tế - thương mại quốc tế, là “bà
đỡ” cho quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Vậy luật
thương mại quốc tế là gì?
Cho đến nay có nhiều cách định nghĩa về luật thương mại quốc tế:
Theo giáo trình luật thương mại quốc tế năm 2005 - Đại học quốc gia Hà Nội,
“Luật thương mại quốc tế là tổng thể các nguyên tắc và quy phạm pháp luật, bao
gồm quy phạm pháp luật quốc gia, quy phạm điều ước và tập quán quốc tế nhằm
điều chỉnh các quan hệ thương mại – quan hệ thương mại hàng hóa, thương mại
dịch vụ, thương mại đầu tư, và thương mại liên quan đến quyền sở hữu có yếu tố
nước ngoài.” [10]
Giáo trình luật thương mại quốc tế năm 2008 của trường Đại học luật Hà Nội
lại có cách định nghĩa ngắn gọn hơn: “Luật thương mại quốc tế là tổng hợp các
nguyên tắc, các quy phạm điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động
thương mại quốc tế.” [11]
Dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng có thể thấy rằng, luật thương
mại quốc tế hiện đại là một ngành luật đặc thù, bao gồm các quy phạm mang tính
chất công pháp quốc tế và các quy phạm mang tính chất tư pháp quốc tế. Các quy
9

phạm mang tính chất công pháp quốc tế điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia và
chủ thể của luật quốc tế phát sinh trong hoạt động thương mại quốc tế. Còn các quy
phạm mang tính chất tư pháp quốc tế điều chỉnh các quan hệ giữa các cá nhân, pháp
nhân phát sinh trong hoạt động thương mại quốc tế.
1.1.2. Môi trường
Điều 3 của luật bảo vệ môi trường Việt Nam 2005 có định nghĩa:
“Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con
người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và

sinh vật”.
“Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành,
sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi
trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác,
sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học”.
“Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường như đất,
nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật chất
khác.” [24]
Từ cách định nghĩa trên thì môi trường bao gồm ba nhóm yếu tố sau:
- Các thành tố sinh thái tự nhiên gồm: Đất trồng trọt; lãnh thổ; nước; không
khí; động, thực vật; các hệ sinh thái; các trường vật lý (nhiệt, điện, từ, phóng xạ).
- Các thành tố xã hội – nhân văn gồm: Dân số và động lực dân cư, tiêu dùng,
xả thải; nghèo đói; giới; dân tộc, phong tục, tập quán, văn hóa, lối sống, thói quen
vệ sinh; luật, chính sách, hương ước, lệ làng ; tổ chức cộng đồng, xã hội
- Các điều kiện tác động (chủ yếu và cơ bản là hoạt động phát triển kinh tế)
gồm: Các chương trình và dự án phát triển kinh tế, hoạt động quân sự, chiến
tranh ; Các hoạt động kinh tế: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp,
dịch vụ, xây dựng, đô thị hóa ; công nghệ, kỹ thuật, quản lý.
Ba nhóm yếu tố trên tạo thành ba phân hệ của hệ thống môi trường, đảm bảo
cuộc sống và sự phát triển của con người với tư cách là thành viên của một cộng
đồng hoặc một xã hội.
10

Các phân hệ nói trên và mỗi thành tố trong từng phân hệ nếu tách riêng thì
thuộc phạm vi nghiên cứu và tác động của các lĩnh vực khoa học khác, không phải
của lĩnh vực khoa học môi trường: Ví dụ: đất trồng trọt là đối tượng nghiên cứu của
khoa học thổ nhưỡng; dân tộc, văn hóa thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, nhân văn;
công nghiệp, bao bì thuộc lĩnh vực kinh tế.
Nếu xem xét, nghiên cứu, điều khiển, quản lý riêng rẽ từng thành tố, từng
phân hệ, thì vấn đề môi trường bị lu mờ và không được đặt đúng vị trí.

Vấn đề môi trường chỉ được phát hiện và quản lý tốt khi xem xét môi trường
trong tính toàn vẹn hệ thống của nó. Môi trường có tính hệ thống. Đó là các hệ
thống mở, gồm nhiều cấp, trong đó có người và các yếu tố xã hội – nhân văn, thông
qua các điều kiện tác động, tác động vào hệ thống tự nhiên. Không thể có vấn đề
môi trường nếu thiếu hoạt động của con người. Trong bất cứ vấn đề môi trường nào
cũng có đầy đủ các thành tố của ba phân hệ:
- Phân hệ sinh thái tự nhiên: tạo ra các loại tài nguyên thiên nhiên, năng
lượng, nơi cư trú và nơi chứa đựng chất thải.
- Phân hệ xã hội – nhân văn: tạo ra các chủ thể tác động lên hệ tự nhiên.
- Phân hệ các điều kiện: tạo ra các phương thức, các kiểu loại, các mức độ
tác. động lên cả hai hệ tự nhiên và hệ xã hội nhân văn. Những tác động lên hệ tự
nhiên gây ra do con người và hoạt động phát triển của con người được gọi là tác
động môi trường. Những tác động ngược lại của hệ tự nhiên lên xã hội và hoạt động
của con người được gọi là sức ép môi trường.
Do môi trường có tính hệ thống nên công tác môi trường đòi hỏi những kiến
thức đa ngành, liên ngành. Những quyết định về môi trường chỉ dựa trên một lĩnh
vực chuyên môn nhất định không hoàn hảo và không hiệu quả mà cần dựa trên sự
hợp tác của nhiều ngành. Quản lý môi trường chính là điều phối sự hợp tác đó trên
cơ sở thỏa hiệp tự nguyện và bắt buộc của các ngành nhằm thực hiện các quy định
luật pháp về bảo vệ môi trường.
1.1.3. Luật thương mại quốc tế về bảo vệ môi trường
Như đã nói ở Mục 1.1.2, để thực hiện tốt các quy định của luật pháp về bảo vệ
môi trường cần phải đặt vấn đề môi trường, quản lý môi trường trong tính hệ thống.
11

luật thương mại quốc tế là một ngành luật độc lập, cũng có vai trò góp phần vào quá
trình bảo vệ môi trường chung.
Đối với vấn đề bảo vệ môi trường, luật thương mại quốc tế điều chỉnh tác
động của thương mại quốc tế lên môi trường, tác động của môi trường đối với
thương mại quốc tế và đảm bảo tính hài hòa giữa các mối quan hệ này.

Hiện chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm luật thương mại quốc tế về
bảo vệ môi trường, có thể tạm thời đưa ra một định nghĩa như sau: “Luật thương
mại quốc tế về bảo vệ môi trường là tổng thể các quy phạm quốc tế điều chỉnh mối
quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động thương mại quốc tế về bảo vệ môi
trường.”
Việc áp dụng các biện pháp và công cụ môi trường trong thương mại quốc tế
đã góp phần tích cực hạn chế ô nhiễm môi trường giữa các nước, khuyến khích sản
xuất và trao đổi sản phẩm thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, trong nhiều trường
hợp, chúng được áp dụng như những biện pháp bảo hộ mậu dịch và trở thành rào
cản trong buôn bán quốc tế. Trong điều kiện như vậy, việc đáp ứng các quy định và
tiêu chuẩn quốc tế về môi trường thương mại quốc tế đang là thách thức to lớn đối
với các nước, đặc biệt là các nước kém phát triển, nơi đang thiếu nhiều điều kiện để
thực hiện và áp dụng các hiệp định, công ước và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường.
1.2. Mối quan hệ giữa luật thương mại quốc tế và bảo vệ môi trường
Mối quan hệ giữa thương mại và môi trường là một trong những nội dung cơ
bản của mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường. Phần lớn thiệt hại môi trường có
nguyên nhân từ sự gia tăng của các hoạt động kinh tế. Thương mại đóng vai trò
ngày một lớn trong sự gia tăng các hoạt động kinh tế và vì thế là một trong những
tác nhân quan trọng của những biến đổi môi trường. Tuy nhiên, chỉ trong điều kiện
tự do hóa thương mại, khi trao đổi sản phẩm và dịch vụ mang tính phổ biến vượt
qua khuôn khổ quốc gia, sản xuất ở quy mô lớn thì tác động qua lại giữa thương
mại và môi trường mới rõ nét. Dựa trên cơ sở đó mà luật thương mại quốc tế và bảo
vệ môi trường ngày càng trở nên gắn bó chặt chẽ và có mối quan hệ tác động tương
hỗ nhau. Xuất phát từ các chính sách thương mại sẽ tác động đến hoạt động thương
mại và từ đó có tác động nhất định đến hoạt động bảo vệ môi trường. Ví dụ, chính
12

sách cấm buôn bán động thực vật quý hiếm tác động làm cho việc khai thác, buôn
bán động thực vật quý hiếm giảm, từ đó tác dụng đến bảo vệ môi trường; chính sách
cho phép xuất khẩu than tác động làm cho các hoạt động khai thác than diễn ra

nhiều hơn, từ đó gây nguy cơ suy thoái tài nguyên.
1.2.1. Tác động của luật thương mại quốc tế tới bảo vệ môi trường
1.2.1.1. Tác động tích cực
Luật thương mại quốc tế tạo thuận lợi cho hàng hóa thân thiện với môi trường
tiếp cận thị trường: Quá trình tự do hóa thương mại toàn cầu đang thúc ép các quốc
gia hạn chế và tiến tới loại bỏ các rào cản thương mại để hàng hóa và dịch vụ được
di chuyển dễ dàng giữa các quốc gia, tạo nên sự tăng trưởng thương mại toàn cầu.
Tuy nhiên, khi các rào cản thương mại bị bãi bỏ thì các tiêu chuẩn và quy định kỹ
thuật ngày càng có vai trò quan trọng trong cạnh tranh thương mại quốc tế. Đặc
biệt, trong bối cảnh các vấn đề môi trường toàn cầu đang có nguy cơ ngày càng gia
tăng, nhu cầu người tiêu dùng về các sản phẩm thân thiện với môi trường ngày càng
cao thì việc áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường ở các nước ngày càng
trở nên phổ biến và bắt buộc. Trước tình hình đó, các sản phẩm thân thiện với môi
trường (đáp ứng các tiêu chuẩn và quy định môi trường) dễ được chấp nhận hơn so
với các sản phẩm không tuân thủ các yêu cầu nói trên. Thực tế cho thấy công ty áp
dụng các biện pháp quản lý môi trường tốt như ISO 14000, HACCP dễ được
khách hàng tiếp nhận hơn, uy tín cao hơn.
Luật thương mại quốc tế tạo khả năng cạnh tranh cao cho các sản phẩm dịch
vụ thân thiện với môi trường: Mặc dù việc áp dụng các tiêu chuẩn, quy định về môi
trường trong nhiều trường hợp làm tăng chi phí sản xuất, do vậy trong ngắn hạn có
thể ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hãng. Tuy nhiên, những công ty cũng
như sản phẩm của họ có chứng nhận môi trường như chứng chỉ ISO 14000, nhãn
sinh thái có lợi thế hơn trong việc vay vốn ngân hàng để mở rộng quy mô sản xuất,
dễ tiếp cận các thị trường khó tính.
Trong tương lai, sẽ đến một thời kỳ mà nhu cầu của người tiêu dùng đối với
các sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường là thực sự khách quan, việc có
chứng chỉ phù hợp với các tiêu chuẩn môi trường như ISO 14000 chẳng hạn sẽ là
13

một lợi thế đáng kể trong đấu thầu quốc tế và quốc gia, tạo uy tín và vị thế của công

ty trên thị trường quốc tế, tăng khả năng thâm nhập thị trường.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường sẽ đưa đến
cơ hội để cải thiện đáng kể tình trạng quản lý chung của doanh nghiệp, nâng cao
hình ảnh, uy tín, mối thiện cảm của các nhà chức trách và người tiêu dùng đối với
doanh nghiệp, đảm bảo sự phát triển lâu dài và bền vững của doanh nghiệp.
Pháp luật thương mại quốc tế tạo điều kiện cho các doanh nghiệp áp dụng các
biện pháp bảo vệ mội trường được hưởng các chính sách ưu đãi: Ở phạm vi quốc
gia, các doanh nghiệp áp dụng những biện pháp bảo vệ môi trường thường được ưu
đãi về lãi suất trong vay vốn ngân hàng, mở rộng hoạt động, được các cổ đông quan
tâm. Chính phủ nhiều nước cũng đã có nhiều chính sách và biện pháp để hỗ trợ các
doanh nghiệp có chiến lược về môi trường rõ rệt. Ở bình diện quốc tế việc thực thi
các hiệp định, công ước quốc tế về môi trường cũng như các tiêu chuẩn môi trường
cũng được các tổ chức tài chính quốc tế ưu đãi về tài chính. Những dự án về môi
trường thường nhận được sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính như IMF, WB. Chẳng
hạn như với việc cam kết thực hiện hiệp định Montreal, nhiều quốc gia đang phát
triển đã nhận được những ưu đãi về tài chính thông qua các quỹ đa phương được
xây dựng để giúp các quốc gia đang phát triển loại bỏ việc sử dụng ODS.
Tự do hóa thương mại tạo cho người tiêu dùng nhiều cơ hội lựa chọn các sản
phẩm xanh và sạch. Một khi thu nhập gia tăng, nhu cầu về các loại hàng hóa và dịch
vụ môi trường cũng tăng theo. Do vậy nhà nước có thể nâng cao các tiêu chuẩn về
môi trường. Những công nghệ sản xuất ít gây tổn hại đến môi trường sẽ được phát
triển tại những nước có luật bảo vệ môi trường nghiêm ngặt và thương mại là con
đường tốt nhất để truyền bá các công nghệ đó.
1.2.1.2. Tác động tích tiêu cực
Các quy định của pháp luật thương mại quốc tế về bảo vệ môi trường tạo rào
cản trong thương mại quốc tế: Việc sử dụng ngày càng rộng rãi các tiêu chuẩn và
quy định môi trường trong thương mại quốc tế nhằm khuyến khích những sản phẩm
thân thiện với môi trường có thể tạo nên rào cản thương mại phi thuế quan trong
tương lai. Việc bảo hộ mậu dịch thông qua các hàng rào phi thuế quan đang được
14


nhiều quốc gia áp dụng khi các rào cản về thuế quan buộc phải loại bỏ. Xu thế dùng
các yêu cầu về hệ thống quản lý môi trường hoặc nhãn môi trường như một trong
những rào cản thương mại phi thuế quan là hoàn toàn có thể xảy ra trong tương lai
khi các khu mậu dịch tự do được thiết lập và mở rộng ở nhiều khu vực trên thế giới.
Vì vậy, việc vượt qua rào cản này có thể là một thách thức lớn lao đối với các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu trong nhiều năm tới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển,
nơi đang còn thiếu nhiều điều kiện để đáp ứng yêu cầu các nhà nhập khẩu.
Các quy định thương mại quốc tế về bảo vệ môi trường có thể là thách thức
đối với các nước đang phát triển:
Thứ nhất, các công ty của các nước đang phát triển không có hệ thống quản lý
tại chỗ, do đó họ có thể gặp phải những khó khăn đáng kể trong việc áp dụng các hệ
thống quản lý phức tạp hơn.
Thứ hai, trong khi ở những nước phát triển thông tin về các quy định và luật
pháp áp dụng có thể nhận được thông qua các kênh thông tin được sử dụng tốt, thì
các công ty ở những nước đang phát triển có thể phải đối mặt với các chi phí cao
hơn trong việc thu thập thông tin đầy đủ về toàn bộ các quy định và pháp luật phải
áp dụng.
Thứ ba, trong khi ở các nước phát triển việc phân tích và đánh giá môi trường
được yêu cầu thường xuyên thì các công ty ở những nước đang phát triển có thể
phải chịu chi phí đáng kể trong đánh giá tác động môi trường.
Các quy định, tiêu chuẩn về môi trường trong thương mại quốc tế tạo thách
thức đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình sản xuất các sản phẩm dịch
vụ thân thiện với môi trường.
Những khó khăn mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải đối mặt trong việc xây
dựng và áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường:
Trước hết là thiếu các nguồn tài chính cần thiết, thiếu cán bộ có trình độ, khó
tiếp cận các nguồn thông tin, khó có khả năng chịu được các chi phí có liên quan
đến việc xây dựng và chứng nhận.
15


Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó đạt được sự giảm bớt các chi phí
cho việc đầu tư vào môi trường sinh lãi.
Thứ ba, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu cơ sở hạ tầng, khả năng vật chất
sẵn có cho thiết bị môi trường bị giới hạn.
Thứ tư, các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó đạt được đầu vào với giá cạnh tranh.
Thứ năm, các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó đảm bảo rằng nguyên liệu thô
được sản xuất theo các chuẩn cứ môi trường.
Thứ sáu, chi phí thử nghiệm, giám định và kiểm định có thể là rất cao.
1.2.2. Tác động của việc bảo vệ môi trường tới luật thương mại quốc tế
1.2.2.1. Tác động tích cực
Bảo vệ môi trường làm thuận lợi hóa việc đàm phán quốc tế về các hiệp định
thương mại và môi trường: Vấn đề môi trường ngày càng trở nên hết sức quan trọng
trong các cuộc đàm phán thương mại quốc tế, khu vực cũng như toàn cầu. Những
vòng đàm phán gần đây trong WTO cũng như các tổ chức thương mại khu vực, các
hiệp định thương mại song phương cho thấy các cuộc tranh luận xung quanh chủ đề
thương mại và môi trường gắn liền với lợi ích của các quốc gia. Trong thực tế, việc
xem xét tới yếu tố môi trường đã tăng cường vai trò của các tiêu chuẩn trong các
cuộc đàm phán thương mại quốc tế gần đây. Việc áp dụng các quy định và tiêu
chuẩn môi trường trong các cuộc đàm phán như vậy sẽ tạo thuận lợi cho việc đưa ra
nghị quyết về các vấn đề liên quan đến thương mại và môi trường. Các tiêu chuẩn
môi trường có thể sử dụng như là một chỉ số của sự cam kết và mong muốn của đất
nước đẩy mạnh việc bảo vệ môi trường thông qua việc quản lý môi trường tốt hơn
trong số các tổ chức doanh nghiệp của các nước này. Lợi thế của phương pháp tiếp
cận này có sức thuyết phục cao và có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển
thương mại quốc gia thế kỷ 21.
Bảo vệ môi trường làm thuận lợi quá trình tự do hóa thương mại, từ đó tác
động tới chính sách thương mại quốc tế: Vì các tiêu chuẩn và quy định môi trường
là các tiêu chuẩn quốc tế được dựng theo nguyên tắc thỏa thuận nên các tài liệu này
16


sẽ phục vụ cho việc thống nhất quan điểm của các nước trong cách tiếp cận của họ
đối với nhãn sinh thái, quản lý môi trường và đánh giá chu trình sống. Nhận thức và
cách tiếp cận thống nhất này sẽ giúp gỡ bỏ nhanh hơn các hàng rào trong thương
mại và như vậy nó sẽ hỗ trợ cho quá trình thương mại tự do.
1.2.2.2. Tác động tiêu cực
Bảo vệ môi trường làm hạn chế khả năng cạnh tranh, gây ảnh hưởng tới quá
trình xây dựng các tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật trong thương mại quốc tế: Những
cuộc tranh chấp thương mại liên quan đến các quy định và tiêu chuẩn môi trường
gần đây cho thấy nhiều quốc gia sử dụng các biện pháp và chính sách môi trường để
hạn chế nhập khẩu cũng như là một phương thức để tăng cạnh tranh xuất khẩu, tăng
cường chỗ đứng trên thị trường, ngay cả khi chưa có áp lực gay gắt từ khách hàng
nước ngoài. Như vậy, các biện pháp môi trường có thể được sử dụng một cách tiềm
tàng như một công cụ marketing ở cả trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, không phải
quốc gia nào cũng có đầy đủ các điều kiện để áp dụng các quy định và tiêu chuẩn
môi trường để nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hóa của mình. Thực tế này là một
thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển cũng như các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, nơi mà việc áp dụng các biện pháp môi trường có thể làm tăng đáng kể chi
phí sản xuất, do vậy làm giảm khả năng cạnh tranh.
Bảo vệ môi trường, sự hài hòa với thiên nhiên là chứng chỉ của một nền kinh
tế phát triển bền vững, tuy nhiên nó vô tình đẩy các quy định, tiêu chuẩn môi trường
trong thương mại quốc tế trở thành rào cản tới các hoạt động kinh tế, gây ảnh
hưởng tới tự do hóa thương mại. Tự do hóa thương mại là một quá trình lâu dài, gắn
chặt với quá trình đàm phán để cắt giảm các rào cản thương mại. Các nước, đặc biệt
là các nước công nghiệp phát triển, một mặt luôn đi đầu trong việc đòi hỏi phải mở
cửa thị trường và thúc đẩy tự do hóa thương mại, mặt khác lại luôn tìm kiếm các rào
cản tinh vi và phức tạp hơn thông qua các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn môi
trường, các biện pháp hành chính nhằm bảo hộ sản xuất trong nước của họ. Việc
lạm dụng chính sách bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của các
nước phát triển gây nên trở ngại rất lớn đối với hoạt động xuất khẩu của các nước

đang phát triển.
17

Mối quan hệ giữa luật thương mại quốc tế và bảo vệ môi trường là mối quan
hệ biện chứng tác động lẫn nhau. Các chính sách, quy định pháp luật thương mại
quốc tế có những tác động tích cực và tiêu cực tới vấn đề bảo vệ môi trường và
ngược lại môi trường cũng góp phần tạo nên những thuận lợi và khó khăn trong
phát triển kinh tế cũng như trong quá trình xây dựng, thực hiện các chính sách, quy
định pháp luật thương mại quốc tế. [1]
1.3. Nguồn luật điều chỉnh việc bảo vệ môi trường trong thương mại quốc tế
Nguồn của điều chỉnh việc bảo vệ môi trường trong thương mại quốc tế là
tổng thể các nguyên tắc và quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ thuộc lĩnh
vực bảo vệ môi trường trong thương mại quốc tế. Nguồn này bao gồm: pháp luật
trong nước, điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, thực tiễn xét xử của tòa án và trọng
tài thương mại quốc tế (Án lệ).
1.3.1. Pháp luật quốc gia
Hiện nay, pháp luật quốc gia là nguồn cơ bản, chủ yếu điều chỉnh việc bảo vệ
môi trường trong thương mại quốc tế. Với tư cách là nguồn điều chỉnh việc bảo vệ
môi trường trong thương mại quốc tế, luật quốc gia có thể được thể hiện dưới hình
thức văn bản hoặc không được thể hiện dưới hình thức văn bản. Nguồn này được
thể hiện dưới hình thức nào thì hoàn toàn phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật
nhất định.
Pháp luật quốc gia được áp dụng để điều chỉnh việc bảo vệ môi trường trong
thương mại quốc tế trong hai trường hợp, đó là: khi các bên chủ thể thỏa thuận áp
dụng và khi có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến luật của quốc gia.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, có rất nhiều văn bản pháp luật là nguồn
điều chỉnh việc bảo vệ môi trường trong thương mại quốc tế:
a. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 1992; là đạo luật cơ
bản, có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật, Hiến pháp năm 1992
(được sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã có những quy định mang tính nguyên tắc về

bảo vệ môi trường.
b. Trong hệ thống các luật, pháp lệnh về bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ môi
trường có thể coi là đạo luật có vị trí trung tâm (luật chung) trong hệ thống văn bản
18

quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 gồm
136 điều được chia làm 15 chương quy định 14 nhóm vấn đề quan trọng.
c. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường còn có các đạo
luật, pháp lệnh về bảo vệ các thành tố môi trường (còn gọi là các đạo luật, pháp lệnh
về tài nguyên). Cụ thể, đó là các đạo luật, pháp lệnh như: Luật Bảo vệ và phát triển
rừng năm 2004; Luật Đất đai năm 2003; Luật Thủy sản năm 2003; Luật Dầu khí
năm 1993 (được sửa đổi, bổ sung năm 2000); Luật Tài nguyên nước năm 1998;
Luật Khoáng sản năm 1996 (được sửa đổi, bổ sung năm 2005) v.v.
d. Ngoài ra, quy định về nghĩa vụ bảo vệ môi trường hoặc nghĩa vụ tuân thủ
các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các tổ chức, cá nhân còn
nằm rải rác trong nhiều đạo luật khác. Trong số đó phải kể đến: Luật Doanh nghiệp
năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005, Luật Đấu thầu năm 2005, Luật Nhà ở năm 2005,
Luật Thanh niên năm 2005; Bộ luật Hàng hải năm 2005; Luật Du lịch năm 2005;
Luật Quốc phòng năm 2005; Luật Giáo dục năm 2005; Luật Điện lực năm 2005;
Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em năm 2004; Luật Giao thông đường thủy nội địa
năm 2004; Luật Hợp tác xã năm 2003; Luật Xây dựng năm 2003; Luật Biên giới
quốc gia năm 2003; Luật Hải quan năm 2001; Luật Di sản văn hóa năm 2001; Luật
Phòng cháy, chữa cháy năm 2001; Luật Giao thông đường bộ năm 2001; Luật Khoa
học và Công nghệ năm 2000; Luật Hàng không dân dụng năm 1991 (sửa đổi, bổ
sung năm 1995); Luật về tiêu chuẩn và kỹ thuật năm 2006; Luật chất lượng sản
phẩm hàng hóa 2007; Luật bảo vệ người tiêu dùng 2010…
Một số đạo luật, pháp lệnh còn quy định cụ thể việc xử lý vi phạm pháp luật
đối với hành vi vi phạm pháp luật về môi trường. Trong số đó, phải kể đến Bộ luật
Dân sự năm 2005, Bộ luật Hình sự năm 1999, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính
năm 2002…

Một số đạo luật, pháp lệnh có những nội dung quan trọng liên quan đến vấn đề
tài chính trong bảo vệ môi trường cũng có thể kể đến là: Luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp năm 2003; Luật Ngân sách nhà nước năm 2002; Pháp lệnh Thuế tài nguyên,
Pháp lệnh Phí và lệ phí…
Luật quốc gia của các nước khác, ví dụ:
19

Hoa Kỳ: Luật Liên bang về Thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm (Federal
Food, Drug, cosmetic Act – FDCA); Luật về bao bì và nhãn hàng (Fair Packaging
and Labeling Act – FPLA); Luật bảo vệ chất lượng Thực phẩm (FQPA) 1996, Các
quy định về bao gói, nhãn mác; Luật thuế quan năm 1940; Luật an ninh nông
nghiệp và phát triển nông thôn
Nhật Bản: Luật Hải Quan; Luật bảo vệ động thực vật hoang dã; Luật về các
chất độc hại; Luật vệ sinh thực phẩm; Luật kiểm dịch thực vật; Luật về các bệnh lây
nhiễm qua động vật; Luật trách nhiệm sản phẩm, Luật khai thác thủy sản áp dụng
cho các tàu nước ngoài; Luật khuyến khích sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên;
Luật tái sử dụng bao bì, dụng cụ chứa; Luật phòng chống biểu thị thông tin không
đúng; Luật đo lường;
1.3.2. Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế được coi là nguồn điều chỉnh việc bảo vệ môi trường trong
thương mại quốc tế. Điều ước quốc tế là sự thỏa thuận giữa các quốc gia, do đó các
điều ước có giá trị bắt buộc đối với các nước thành viên trên nguyên tắc tự nguyện
thực hiện các cam kết quốc tế (Pacta sunt servanda). Đây là nguyên tắc được áp
dụng trong công pháp quốc tế nhằm điều chỉnh hành vi của các quốc gia. Như vậy,
khi các nước ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế về thương mại thì các quy
phạm ghi nhận trong các điều ước quốc tế về thương mại này sẽ đương nhiên áp
dụng để điều chỉnh hành vi các quốc gia trong hoạt động thương mại quốc tế.
Trong quan hệ thương mại quốc tế, các điều ước quốc tế được áp dụng dựa
trên nguyên tắc sau:
- Điều ước quốc tế về thương mại quốc tế chỉ có giá trị pháp lý bắt bộc đối

với các bên chủ thể trong giao dịch thương mại quốc tế nếu các bên chủ thể này có
quốc tịch hoặc có nơi cư trú ở các quốc gia là các nước thành viên của điều ước
quốc tế đó.
- Trong trường hợp có sự quy định khác nhau giữa điều ước quốc tế và pháp
luật trong nước là thành viên điều ước quốc tế đó thì quy định của điều ước quốc tế
được ưu tiên áp dụng.

×