Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Dự báo kết quả đàm phán hiệp định thương mại xuyên thái bình dương (tpp) trong lĩnh vực thương mại dịch vụ cơ hội và thách thức với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.43 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
---------***---------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Thương mại quốc tế
DỰ BÁO KẾT QUẢ ĐÀM PHÁN HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ.
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI VIỆT NAM
Họ và tên sinh viên
Mã sinh viên
Lớp
Khóa
Người hướng dẫn khoa học

: Phạm Hoàng Anh
: 0851020226
: Anh 18 - Khối 8 KT
: 47
: TS Đào Ngọc Tiến

Hà Nội, tháng 5 năm 2017


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI
DỊCH VỤ TRONG CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VÀ HIỆP
ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)......................................4
1.1 Thương mại dịch vụ...........................................................................................4


1.1.1 Dịch vụ và đặc điểm của dịch vụ...............................................................4
1.1.2 Thương mại dịch vụ...................................................................................5
1.1.3 Cách tiếp cận với tự do hóa thương mại dịch vụ trong các hiệp định
thương mại tự do.................................................................................................8
1.2 Khái quát về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)...................10
1.2.1 Lịch sử hình thành và diễn biến đàm phán Hiệp định TPP.......................10
1.2.2 Những nội dung cơ bản của Hiệp định TPP.............................................16
1.3 Tự do hóa thương mại dịch vụ trong Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP)..........................................................................................................21
1.3.1 Cách tiếp cận với tự do hóa thương mại dịch vụ trong Hiệp định TPP.....21
1.3.2 Mục tiêu của các nước tham gia Hiệp định TPP trong lĩnh vực thương mại
dịch vụ............................................................................................................... 23
CHƯƠNG 2: CAM KẾT VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ TRONG CÁC HIỆP
ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VÀ DỰ BÁO CHO HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC
XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)..................................................................25
2.1 Thực trạng cam kết về thương mại dịch vụ trong một số hiệp định thương
mại tự do của các nước tham gia đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP)..........................................................................................................25
2.1.1 Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Australia – New Zealand
(AANZFTA)......................................................................................................25
2.1.2 Hiệp định thương mại tự do Hàn Quốc – Hoa Kỳ (KORUS)...................36
2.2 Dự báo kết quả đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)
trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.......................................................................46
2.2.1 Các nghĩa vụ cơ bản của Hiệp định TPP..................................................47
2.2.2 Các cam kết cụ thể về các ngành dịch vụ.................................................50


CHƯƠNG 3: CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ KHUYẾN NGHỊ VỚI VIỆT
NAM TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ KHI THAM GIA HIỆP
ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)....................................54

3.1 Những cơ hội với Việt Nam trong lĩnh vực thương mại dịch vụ khi kí kết
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)...............................................54
3.1.1 Cơ hội khai thác từ thị trường các nước đối tác TPP................................54
3.1.2 Cơ hội khai thác tại thị trường trong nước...............................................55
3.2 Những thách thức với Việt Nam trong lĩnh vực thương mại dịch vụ khi kí
kết Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).........................................57
3.2.1 Thách thức tại thị trường các nước đối tác TPP........................................57
3.2.2 Thách thức tại thị trường nội địa..............................................................57
3.3 Một số khuyến nghị để tham gia hiệu quả Hiệp định đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP) trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.......................................59
3.3.1 Một số khuyến nghị trong thời gian đàm phán Hiệp định TPP.................59
3.3.2 Một số khuyến nghị sau khi kí kết để triển khai hiệu quả Hiệp định TPP 63
KẾT LUẬN............................................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................75


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3

Viết tắt

Tiếng Anh
ASEAN – Australia – New
AANZFTA Zealand Free Trade
Agreement
ASEAN – Pacific Economic
APEC

Corporation
Association of South East
ASEAN
Asia Nations

4

FTA

5

GATS

6
8

GDP
GNP

9

KORUS

10

TPP

11

WTO


Free Trade Agreement
General Agreement on Trade
in Services
Gross domestic product
Gross national product
Korea – United States Free
Trade Agreement
Trans – Pacific Partnership
Free Trade Agreement
World Trade Organization

Tiếng Việt
Hiệp định thương mại tự
do ASEAN – Úc – New
Zealand
Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á – Thái Bình Dương
Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á
Hiệp định thương mại tự
do
Hiệp định chung về thương
mại dịch vụ
Tổng sản phẩm nội địa
Tổng sản phẩm quốc gia
Hiệp định thương mại tự
do Hàn Quốc – Hoa Kỳ
Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương

Tổ chức thương mại thế
giới


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Tóm tắt dự báo kết quả các lĩnh vực thương mại dịch vụ của Hiệp định
TPP.......................................................................................................................... 53


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi vòng đàm phán Uruguay kết thúc, xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu
chuyển dần sang các hiệp định thương mại tự do khu vực và song phương. Xu thế
này đã không ngừng lan rộng khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Trước năm
2000, chỉ có 4 hiệp định chính giữa các nền kinh tế APEC đó là Khu vực thương
mại tự do ASEAN (AFTA), khu vực thương mại tự do Hoa Kỳ - Canada, khu vực
thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và hiệp định thiết lập Quan hệ Kinh tế gần gũi
hơn nữa New Zealand – Australia. Hiện nay con số này đã lên tới 39 hiệp định và
nhiều hiệp định khác đang trong quá trình đàm phán.
Trong số đó, đàm phán Hiệp định TPP (hay còn gọi là Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương) nổi trội lên, trở thành một vấn đề rất được quan tâm bởi
rất nhiều lí do. Thứ nhất, Hiệp định TPP có quy mô điều chỉnh rộng lớn. 9 quốc gia
thành viên của Hiệp định TPP có tổng GDP là 16 968 tỉ USD, thu nhập bình quân
đầu người là 33 546 USD/người, với dân số khoảng 505,8 triệu người (2010)
(Australian Government - Department of Foreign Affairs and Trade, 2012). Thứ hai,
Hiệp định TPP có mức độ tự do hóa thương mại mạnh mẽ ở các lĩnh vực và tự do
hóa ngay lập tức. Và cuối cùng, Hiệp định có phạm vi điều chỉnh phong phú. Bên
cạnh những vấn đề thương mại truyền thống như thương mại hàng hóa, thương mại
dịch vụ, v.v Hiệp định còn đề cập đến nhiều vấn đề phi thương mại như môi trường,
lao động, v.v. Do đó, Hiệp định TPP được coi là Hiệp định thương mại tự do kiểu

mẫu của thế kỷ 21, dự báo sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến khu vực kinh tế năng động
Châu Á – Thái Bình Dương nói riêng và nền kinh tế toàn cầu nói chung.
Về các lĩnh vực cam kết trong Hiệp định TPP, lĩnh vực thương mại dịch vụ
được dự báo sẽ có những bước tiến mạnh mẽ so với các hiệp định khác. Các cam
kết trong lĩnh vực này có mức độ mở cửa rộng lớn, đề cập đến nhiều vấn đề phức
tạp, gắn liền về mặt thể chế và văn hóa. Những cam kết này sẽ tạo ra nhiều thay đổi
giữa quan hệ thương mại dịch vụ giữa các đối tác của Hiệp định. Là một đối tác của
Hiệp định TPP, chắc chắn thương mại dịch vụ của Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng lớn
từ các cam kết này.
Chính vì vậy việc nghiên cứu dự báo kết quả đàm phán Hiệp định TPP trong
lĩnh vực thương mại dịch vụ và đánh giá những tác động của Hiệp định đối với
thương mại dịch vụ của Việt Nam là cần thiết. Do đó, em đã lựa chọn đề tài khóa
luận “ Dự báo kết quả đàm phán Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương
(TPP) trong lĩnh vực thương mại dịch vụ. Cơ hội và thách thức với Việt Nam ”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các cam kết về thương mại dịch vụ trong các FTA của
các nước, dự báo kết quả đàm phán của Hiệp định TPP trong lĩnh vực thương mại
dịch vụ, khóa luận sẽ phân tích cơ hội và thách thức của Việt Nam trong lĩnh vực


thương mại dịch vụ và đề xuất một số khuyến nghị cho Việt Nam trong quá trình
đàm phán cũng như triển khai hiệu quả Hiệp định sau khi ký kết.
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: nội dung của một số hiệp định thương mại tự do đã
ký kết giữa các nước tham gia đàm phán Hiệp định TPP để từ đó dự báo kết quả
đàm phán của Hiệp định TPP trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung vào rà soát các cam kết về thương mại
dịch vụ của 2 hiệp định tiêu biểu vừa có tính mới và có tính ảnh hưởng cao giữa các
thành viên đang đàm phán Hiệp định TPP đó là Hiệp định AANZFTA và Hiệp định
KORUS. Trong đó, Hiệp định AANZFTA là FTA mới nhất giữa Australia, New

Zealand và các quốc gia ASEAN; như vậy có đến 6 trong tổng số 9 quốc gia đang
đàm phán Hiệp định TPP là thành viên của Hiệp định AANZFTA. Còn Hiệp định
KORUS là FTA mới nhất giữa Hoa Kỳ - đối tác lớn nhất của Hiệp định TPP và Hàn
Quốc. Đặc biệt, Hiệp định KORUS được coi là chuẩn mực để Hoa Kỳ đàm phán
Hiệp định TPP khi mà các cam kết Hoa Kỳ đề xuất trong Hiệp định TPP có nội
dung gần như tương đương với Hiệp định KORUS.
Phương pháp nghiên cứu: Trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp: phân
tích tài liệu, số liệu thống kê, nghiên cứu so sánh và quy nạp, kết hợp nghiên cứu
với thực tiễn.
4. Kết cấu đề tài
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Phụ lục, kết cấu của đề tài như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về tự do hóa thương mại dịch vụ trong các
hiệp định thương mại tự do và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
Chương 2: Cam kết về thương mại dịch vụ trong các Hiệp định thương mại
tự do và dự báo cho Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
Chương 3: Cơ hội, thách thức và khuyến nghị với Việt Nam trong lĩnh vực
thương mại dịch vụ khi tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Tiến sĩ Đào Ngọc Tiến –
giáo viên hướng dẫn trực tiếp đã giúp đỡ em hoàn thiện đề tài này. Đề tài được viết
trong thời gian ngắn và bản thân kiến thức và kinh nghiệm còn hạn hẹp nên chắc
chắn không thể tránh khỏi những sai sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự đóng
góp của quý thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỰ DO HÓA
THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ TRONG CÁC HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI TỰ DO VÀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC
XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)

1.1 Thương mại dịch vụ
1.1.1 Dịch vụ và đặc điểm của dịch vụ
1.1.1.1 Khái niệm về dịch vụ
Tuy trong đời sống hàng ngày chúng ta đều nhắc đến khái niệm dịch vụ
nhưng đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về dịch vụ. Việc định nghĩa
rõ ràng về dịch vụ gặp nhiều khó khăn do hai nguyên nhân chính: thứ nhất là do
tính vô hình và khó nắm bắt của dịch vụ, cũng như sự đa dạng, phức tạp của các
loại hình dịch vụ; thứ hai là do mỗi quốc gia khác nhau có cách hiểu về dịch vụ
khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước.
Việc nghiên cứu khái niệm dịch vụ trên nhiều khía cạnh có ý nghĩa quan
trọng trong để đi đến thống nhất về khái niệm dịch vụ, từ đó làm tiền đề đi sâu phân
tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về thương mại dịch vụ. Có rất nhiều cách tiếp
cận khái niệm dịch vụ, với mỗi cách tiếp cận lại đưa ra một định nghĩa khác nhau.
Tuy nhiên, cách định nghĩa kinh điển dựa trên tính chất của dịch vụ vẫn là định
nghĩa truyền tải được những nội dung cơ bản và đầy đủ nhất về dịch vụ: “Dịch vụ là
các hoạt động của con người, được kết tinh thành các loại sản phẩm vô hình và
không thể cầm nắm được.” (Nguyễn Thị Mơ, 2011, tr.238)
Khái niệm này nêu lên được hai đặc điểm cơ bản của dịch vụ. Thứ nhất, dịch
vụ là một sản phẩm, là kết quả quá trình lao động sản xuất, là hoạt động của con
người nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó. Thứ hai, khác với hàng hóa là sản phẩm
hữu hình, dịch vụ là vô hình, phi vật chất và không thể lưu trữ được. Tuy dịch vụ
không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất hữu hình nhưng dịch vụ khai thác sức
lao động, tri thức, chất xám của con người để tạo ra giá trị thặng dư. Dịch vụ kết
tinh các hoạt động đa dạng trên các lĩnh vực như tài chính, bảo hiểm, kế toán, kiểm
toán, giáo dục, vận tải,v.v...
1.1.1.2 Đặc điểm của dịch vụ
Thứ nhất, dịch vụ là vô hình và khó xác định.
Do dịch vụ không giống như hàng hóa, là những sản phẩm hữu hình, có thể
cầm nắm, nhìn thấy được, nên không thể đánh giá, xác định chất lượng dịch vụ trực
tiếp bằng những tiêu chuẩn kĩ thuật được lượng hóa. Chính vì thế, việc thống kê,

lượng hóa, đánh giá chất lượng và quy mô cung cấp dịch vụ ở cấp độ vi mô và vĩ
mô khó khăn hơn rất nhiều so với hàng hóa hữu hình.
Thứ hai, quá trình sản xuất dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ thường xảy ra
đồng thời.


Đối với hàng hóa, sản xuất hàng hóa thường tách khỏi lưu thông và tiêu
dùng. Vì thế hàng hóa có thể lưu kho, dự trữ, vận chuyển đi nơi khác theo nhu cầu
của thị trường. Trong khi đó, quá trình cung ứng dịch vụ thường gắn liền với tiêu
dùng dịch vụ. Ví dụ, với dịch vụ giáo dục, khi các giáo viên, giảng viên là những
người cung cấp dịch vụ tiến hành giảng dạy, cung cấp dịch vụ giáo dục, thì đồng
thời lúc đó, học sinh, sinh viên là những người sử dụng dịch vụ cũng đang tiếp nhận
dịch vụ giáo dục. Có thể nói, việc cung ứng dịch vụ thường đòi hỏi sự tiếp xúc trực
tiếp giữa người cung ứng và người tiêu dùng dịch vụ.
Thứ ba, dịch vụ không lưu trữ được.
Do sản xuất và tiêu dùng dịch vụ thường diễn ra đồng thời nên không thể sản
sản xuất dịch vụ hàng loạt và lưu trữ trong kho như hàng hóa sau đó mới tiêu dùng.
Theo đó, trong cung ứng dịch vụ không có khái niệm tồn kho hoặc lưu trữ sản phẩm
dịch vụ.
1.1.2 Thương mại dịch vụ
1.1.2.1Khái niệm thương mại dịch vụ
Thương mại dịch vụ là khái niệm chỉ các hoạt động thương mại trong lĩnh
vực dịch vụ, hay nói chính xác hơn, là khái niệm được dùng để nhấn mạnh khía
cạnh thương mại, tính chất thương mại trong hoạt động cung cấp dịch vụ (Nguyễn
Thị Mơ, 2011, tr.241). Cách hiểu này giúp phân biệt thương mại dịch vụ với thương
mại hàng hóa, nhấn mạnh vào đối tượng mua bán của thương mại dịch vụ là dịch vụ
- các sản phẩm vô hình.
Nói cách khác, thương mại dịch vụ là khái niệm rộng để chỉ tất cả các hoạt
động cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích thu lợi nhuận. Dịch vụ cũng
có thể được lưu thông không nhằm mục đích thu lợi nhuận, trong trường hợp này,

các hoạt động cung ứng dịch vụ phi lợi nhuận đó không gọi là thương mại dịch vụ.
Thương mại dịch vụ có một số đặc điếm sau:
Thứ nhất, thương mại dịch vụ có phạm vi hoạt động rất rộng, từ dịch vụ cá
nhân đến dịch vụ sản xuất, kinh doanh, quản lý trong tất cả các ngành của nền kinh
tế quốc dân, thu hút đông đảo người tham gia với trình độ khác nhau, từ lao động
đơn giản đến lao động chất xám có trình độ cao.
Thứ hai, thương mại dịch vụ hiện nay đang có sự lan tỏa rất lớn, ngoài tác
dụng trực tiếp của bản thân dịch vụ, nó còn đóng vai trò trung gian với thương mại
hàng hóa, nên phát triển thương mại dịch vụ có ảnh hưởng gián tiếp lên tất cả các
ngành của nền kinh tế quốc dân. Có thể thấy, tác dụng của thương mại dịch vụ là rất
lớn.
Thứ ba, thương mại dịch vụ khi lưu thông qua biên giới chịu tác động bởi
tâm lý, tập quán, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ và cá tính của người cung cấp và
người tiêu dùng dịch vụ, điều này khác với thương mại hàng hóa, sản phẩm là vật
vô tri vô giác, đi qua biên giới có bị kiểm soát nhưng không phức tạp như kiểm soát
con người trong thương mại dịch vụ, vì thế mà thương mại dịch vụ phải đối mặt
nhiều hơn với những hàng rào thương mại so với thương mại hàng hóa.


1.1.2.2 Vai trò của thương mại dịch vụ trong thương mại quốc tế
Trong thời đại ngày nay, thương mại dịch vụ có một vị trí ngày càng quan
trọng trong buôn bán toàn cầu và trong cơ cấu kinh tế của các quốc gia, đặc biệt là ở
các quốc gia phát triển. Ở nhiều nước, một số ngành dịch vụ được xem là ngành
kinh tế mũi nhọn, “ngành công nghiệp không khói”.
Thứ nhất, thương mại dịch vụ có vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đóng
góp vào GDP của các quốc gia. Vai trò quan trọng của thương mại dịch vụ thể hiện
ở việc tỷ trọng thương mại dịch vụ trong thương mại ở các quốc gia và trên toàn cầu
đang ngày càng gia tăng. Ở nhiều nước, giá trị sản lượng kinh tế của nhiều ngành
dịch vụ đã vượt xa những ngành công nghiệp truyền thống. Trên phạm vi toàn cầu,
giá trị và tỷ trọng của thương mại dịch vụ cũng liên tục gia tăng, năm 2010 giá trị

xuất khẩu đạt 3695 tỷ USD, giá trị nhập khẩu đạt 3510 tỷ USD (WTO, 2011,
tr.144). Tốc độ tăng trưởng của thương mại dịch vụ toàn cầu vẫn đạt khoảng 9% vào
năm 2010 (WTO, 2011, tr.145) bất chấp khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Thứ hai, thương mại dịch vụ thúc đẩy hội nhập khu vực và quốc tế, cải thiện
cán cân thương mại của các quốc gia. Xu hướng xuất khẩu dịch vụ ngày càng gia
tăng đã thúc đẩy hội nhập kinh tế giữa các quốc gia. Thương mại dịch vụ được coi
là con đường ngắn nhất để nhiều nước đang phát triển đa dạng hóa hoạt động xuất
khẩu của mình, từ đó tiếp cận gần hơn với các thị trường quốc tế.
Thứ ba, thương mại dịch vụ tăng cường phân công lao động và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Dịch vụ chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong từng nền kinh tế
quốc dân cũng như nền kinh tế thế giới, thể hiện ở tỷ trọng trong GNP không ngừng
tăng lên nhờ những cuộc cải cách cơ cấu từ cuối thập niên 80. Tỷ trọng dịch vụ
trong GNP ở các nước phát triển thường đạt khoảng 60-70%, các nước kém phát
triển hơn đạt khoảng 40% và có xu hướng ngày càng tăng.(Nguyễn Thị Mơ, 2011,
tr.243)
Thứ tư, thương mại dịch vụ góp phần tạo ra nhiều cơ hội việc làm. Lĩnh vực
dịch vụ ngày càng có xu hướng sử dụng nhiều lao động. Trong sản xuất hàng hóa,
với sự phát triển của công nghệ, máy móc đang dần thay thế vai trò của người lao
động. Tuy nhiên, dịch vụ là lĩnh vực đặc biệt, trong đó vai trò của người lao động
rất quan trọng. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nước phát triển, tỷ trọng
lao động trong cách ngành dịch vụ so với toàn bộ lực lượng lao động thường chiếm
từ 60-70%. Ví dụ, ngành du lịch thu hút 204 triệu lao động trên toàn thế giới, chiếm
10,6% lực lượng lao động thế giới (Nguyễn Thị Mơ, 2011, tr.244)
Thứ năm, thương mại dịch vụ thúc đẩy thương mại hàng hóa phát triển trong
phạm vi quốc gia và quốc tế. Dịch vụ chính là cầu nối giúp quá trình sản xuất hàng
hóa, tiêu thụ sản phẩm diễn ra thuận lợi. Ví dụ như sự ra đời của dịch vụ vận tải đã
giúp hàng hóa được lưu thông thuận lợi trên toàn cầu, khắc phục khoảng cách về địa
lý, đáp ứng nhu cầu hàng hóa từ quốc gia này đến quốc gia khác. Trong quá trình
chuyên chở trên khoảng cách lớn có rất nhiều rủi ro, các dịch vụ bảo hiểm sẽ gánh
bớt những rủi ro đó, làm cho việc buôn bán an toàn hơn. Thêm vào đó, các dịch vụ



tài chính ngân hàng sẽ cung cấp vốn, hoặc tạo điều kiện để việc thanh toán diễn ra
thuận lợi giữa các bên trong mối quan hệ thương mại. Các dịch vụ viễn thông, công
nghệ thông tin giúp các bên có thể dễ dàng liên lạc, trao đổi thông tin, rút ngắn thời
gian ra quyết định, giúp cho việc mua bán hàng hóa hiệu quả và kinh tế hơn. Ngoài
ra còn rất nhiều dịch vụ khác ảnh hưởng mạnh mẽ đến thương mại hàng hóa, thúc
đẩy thị trường lưu thông hàng hóa phát triển một cách đầy đủ và toàn diện hơn.
1.1.3 Cách tiếp cận với tự do hóa thương mại dịch vụ trong các hiệp định thương
mại tự do
Tự do hóa thương mại là việc dỡ bảo những hàng rào do các nước lập nên
nhằm làm cho luồng hàng hóa di chuyển từ nước này sang nước khác được thuận
lợi trên cơ sở bình đẳng. Những hàng rào nói trên có thể là thuế quan, giấy phép
xuất nhập khẩu, quy định về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, yêu cầu kiểm dịch,
phương pháp đánh thuế,v.v... Rõ ràng lý thuyết và thực tiễn đã chứng minh, tự do
hóa thương mại sẽ thúc đẩy các quốc gia buôn bán, trao đổi hàng hóa, từ đó thúc
đẩy kinh tế phát triển.
Dịch vụ hiện là lĩnh vực tạo công ăn việc làm chủ yếu của các nền kinh tế
đang phát triển, đặc biệt tại các khu vực Mỹ La-tinh, Caribe và Đông Á. Dịch vụ
cũng là tương lai của các quốc gia đang phát triển bởi lẽ đây là ngành có tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất trong cơ cấu kinh tế và cũng là lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) mạnh mẽ nhất. Do có rất nhiều rào cản đối với thương mại dịch
vụ nên những lợi ích thu được từ việc dỡ bỏ những rào cản đó là rất lớn. Trong một
báo cáo gần đây của Ngân hàng Thế giới đã chỉ ra rằng các quốc gia có khu vực
dịch vụ tài chính mở cửa đạt được tốc độ tăng trưởng trung bình cao hơn so với các
quốc gia khác khoảng 1%. Theo một báo cáo của Đại học Michigan, khi các rào cản
thương mại được dỡ bỏ, ước tính tự do hóa thương mại dịch vụ có thể sẽ đem lại
khoảng hơn 2/3 phúc lợi kinh tế toàn cầu.
Chính vì những lí do đó, các quốc gia đang ngày càng tích cực trong việc kí
kết các Hiệp định thương mại tự do nhằm cắt giảm và xóa bỏ các hàng rào thuế

quan và phi thuế quan, tiến tới thành lập những khu vực mậu dịch tự do. Theo thống
kê của Tổ chức thương mại thế giới WTO, đến nay đã có hơn 200 FTA có hiệu lực
(WTO, 2011, tr.253).
Khi tiếp cận tự do hóa thương mại dịch vụ, các FTA thường đưa ra quy định
chung về các phương thức cung ứng dịch vụ để từ đó đưa ra các cam kết theo hai
phương pháp: phương pháp “chọn – bỏ” (negative list) và phương pháp “chọn –
cho” (positive list).
Các phương thức cung ứng dịch vụ chung thường được quy định trong các
FTA bao gồm:
 Phương thức 1: Cung ứng qua biên giới (cross-border supply): là hình thức
mà một nhà cung ứng dịch vụ ở nước A bán dịch vụ cho khách hàng tại nước
B mà không di chuyển ra khỏi nước mình. Ví dụ: một kiến trúc sư tại New
Zealand bán một thiết kế cho một công ty xây dựng tại Việt Nam.


 Phương thức 2: Tiêu thụ ở nước ngoài (consumption abroad): là hình thức
mà một người tiêu dùng dịch vụ của nước B sẽ đến nước A để mua và tiêu
dùng dịch vụ tại nước A). Ví dụ: một sinh viên Việt Nam đến Australia và
học tại Australia.
 Phương thức 3: Hiện diện thương mại (commercial presence): là hình thức
mà một nhà cung ứng dịch vụ của nước A sẽ lập một văn phòng tại nước B
và cung ứng dịch vụ cho người tiêu dùng ở nước B. Ví dụ: một công ty luật
của Singapore lập một văn phòng đại diện tại Việt Nam và kinh doanh dịch
vụ luật pháp tại Việt Nam.
1.1.3.1 Phương pháp “chọn – cho” (positive list)
Phương pháp “chọn – cho” là cam kết theo dạng “chỉ được làm những gì
được phép làm”, tức là chỉ cam kết với những ngành được liệt kê trong biểu cam
kết. Ví dụ WTO sử dụng phương pháp “chọn – cho” khi xác định phạm vi cam kết,
tức là các dịch vụ được đưa vào Biểu cam kết dịch vụ. Theo đó, bên cam kết chỉ
cam kết mở cửa thị trường cho các dịch vụ xuất hiện trong Biểu. Với những dịch vụ

không xuất hiện trong Biểu, bên cam kết không có nghĩa vụ nào cả. Trong trường
hợp của Việt Nam, những dịch vụ như quản lý bất động sản, in ấn, xuất bản v..v
không xuất hiện trong Biểu cam kết dịch vụ. Điều đó có nghĩa là Việt Nam không
cam kết gì cho những ngành này, ngoại trừ nghĩa vụ áp dụng các quy tắc chung của
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS). Ngoài Hiệp định GATS, Hiệp định
AANZFTA (lĩnh vực dịch vụ) cũng áp dụng cách tiếp cận này.
1.1.3.2 Phương pháp “chọn – bỏ” (negative list)
Phương pháp “chọn – bỏ” là cam kết theo dạng “được làm tất cả những gì
không bị hạn chế”, có nghĩa là tự do hóa tất cả các ngành trừ những ngành được liệt
kê trong Biểu cam kết. Phương pháp này được sử dụng khi đưa ra cam kết đối với
các dịch vụ được đưa vào Biểu. Theo đó, bên cam kết sẽ liệt kê toàn bộ các biện
pháp hạn chế áp dụng cho dịch vụ có liên quan. Ngoài các biện pháp này, sẽ không
áp dụng bất kỳ biện pháp hạn chế nào khác. Ví dụ: Nếu trong biểu cam kết chỉ liệt
kê dịch vụ bán buôn, không liệt kê phân ngành dịch vụ khác thuộc Dịch vụ phân
phối thì chỉ dịch vụ bán buôn được bảo lưu hạn chế, các phân ngành dịch vụ khác
cam kết tự do hóa hoàn toàn. Các hiệp định áp dụng cách tiếp cận này ví dụ: Hiệp
định đầu tư Việt – Nhật (BIT), Hiệp định đầu tư ASEAN (ACIA), Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) v.v...
1.2 Khái quát về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)
1.2.1 Lịch sử hình thành và diễn biến đàm phán Hiệp định TPP
1.2.1.1 Lịch sử hình thành Hiệp định TPP
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, hay còn gọi là Hiệp định thương
mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) hiện nay có nguồn gốc từ Hiệp định hợp tác
Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic
Partnership Agreement – còn gọi là P4) - một Hiệp định thương mại tự do được


ký kết ngày 3/6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006 giữa 4 quốc gia là Singapore, Chile,
New Zealand và Brunei. Hiệp định này khởi nguồn là Hiệp định Đối tác kinh tế chặt
chẽ hơn do nguyên thủ 3 nước Chile, New Zealand và Singapore (P3) phát động

đàm phán nhân dịp Hội nghị Cấp cao APEC 2002 tổ chức tại Mexico. Tháng 4 năm
2005, Brunei xin gia nhập với tư cách thành viên sáng lập trước khi vòng đàm phán
cuối cùng kết thúc, biến P3 thành P4.
Năm 2007, các nước thành viên P4 quyết định mở rộng phạm vi đàm phán
của Hiệp định này ra các vấn đề dịch vụ tài chính và đầu tư và trao đổi với Hoa Kỳ
về khả năng nước này tham gia vào đàm phán mở rộng của P4. Phía Hoa Kỳ cũng
bắt đầu tiến hành nghiên cứu vấn đề, tham vấn nội bộ với các nhóm lợi ích và Nghị
viện về vấn đề này.
Tháng 9/2008, Đại diện thương mại Hoa Kì (USTR) thông báo quyết định
của Hoa Kỳ tham gia đàm phán P4 mở rộng và chính thức tham gia một số cuộc
thảo luận về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính với các nước P4. Tháng 11 cùng
năm, các nước Australia, Peru và Việt Nam cũng bày tỏ sự quan tâm và tham gia
đàm phán TPP, nâng tổng số thành viên tham gia lên 8 nước (trừ Việt Nam đến
13/11/2010 mới tuyên bố tham gia đàm phán với tư cách thành viên đầy đủ, các
nước khác quyết định tham gia chính thức ngay từ đầu). Cũng từ thời điểm này,
đàm phán mở rộng P4 được đặt tên lại là đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái
Bình Dương (TPP).
Tuy nhiên đàm phán TPP mới đã bị trì hoãn đến tận cuối năm 2009 do phải
chờ đợi Hoa Kỳ hoàn thành kỳ bầu cử Tổng thống và Chính quyền mới của Tổng
thống Obama tham vấn và xem xét lại việc tham gia đàm phán TPP. Tháng 12/2009,
Đại diện thương mại Hoa Kỳ mới thông báo quyết định của Tổng thống Obama về
việc Hoa Kỳ tiếp tục tham gia TPP. Chỉ lúc này đàm phán TPP mới được chính thức
khởi động.
Về phía Việt Nam, từ năm 2006, qua nhiều kênh, Singapore đã rất tích cực
mời Việt Nam tham gia TPP - P4. Trước những cân nhắc cả về khía cạnh kinh tế và
chính trị, Việt Nam chưa nhận lời mời này của Singapore.
Tuy nhiên, với việc Mỹ quyết định tham gia TPP, và trước khi tuyên bố tham
gia TPP, Mỹ đã mời Việt Nam cùng tham gia Hiệp định này, Việt Nam đã cân nhắc
lại việc tham gia hay không tham gia TPP.
Đầu năm 2009, Việt Nam quyết định tham gia Hiệp định TPP với tư cách

thành viên liên kết. Tháng 11/2010, sau khi tham gia 3 phiên đàm phán TPP với tư
cách này, Việt Nam đã chính thức tham gia đàm phán TPP. Trước đó, tháng
10/2010, Malaysia cũng chính thức tham gia vào TPP, nâng tổng số nước tham gia
đàm phán lên thành 9 nước.
Như vậy, có 8 đối tác tham gia 3 Vòng đàm phán đầu tiên của TPP, bao gồm
4 nước thành viên P4 (là New Zealand, Brunei, Chile, Singapore) và 4 nước bên
ngoài (là Australia, Peru, Hoa Kỳ và Việt Nam). Malaysia là nước thứ 9 tham gia
đàm phán TPP từ Vòng đàm phán thứ 3.


Trong tương lai, số lượng các bên tham gia đàm phán còn có thể mở rộng
thêm bởi nhiều nước khác trong khu vực ASEAN và APEC đã tỏ thái độ quan tâm
đến TPP, đặc biệt là Nhật Bản, Canada, Hàn Quốc, Indonesia và Thái Lan.
1.2.1.2 Diễn biến đàm phán Hiệp định TPP
Hiệp định TPP là Hiệp định mang tính mở rất cao, được kì vọng sẽ trở thành
một khuôn khổ thương mại toàn diện và là Hiệp định thương mại tự do khuôn mẫu
của thế kỷ 21. Tuy không phải là chương trình hợp tác trong khuôn khổ APEC
nhưng các thành viên APEC đều có thể gia nhập nếu quan tâm. Các đối tác mong
muốn mở rộng TPP và sử dụng TPP như một công cụ để hiện thực hóa ý tưởng về
Khu vực Mậu dịch Tự do Châu Á-Thái Bình Dương của APEC (FTAAP).
Tính đến nay, các đối tác của Hiệp định TPP đã trải qua 11 vòng đàm phán
chính thức:
Vòng đàm phán thứ nhất: Vòng đàm phán chính thức thứ nhất của TPP được
tổ chức từ ngày 15-19 tháng 3/2010 tại Melbourne (Australia) với sự tham gia của
hơn 200 quan chức của Australia, Hoa Kỳ, New Zealand, Chile, Singapore, Brunei,
Peru và Việt Nam. Kết quả đạt được từ vòng đàm phán này đã đem lại cho TPP một
khởi đầu mạnh mẽ.
Các nhà đàm phán TPP trao đổi quan điểm về hàng loạt các vấn đề sẽ được
đưa vào các cuộc đàm phán và nêu ra các phương pháp tiếp cận mới đối với những
trở ngại mà các doanh nghiệp trong khu vực gặp phải và các lĩnh vực mới nổi của

thương mại quốc tế như dịch vụ, thương mại điện tử và công nghệ xanh. Các bên
cũng rất quan tâm đến việc phát triển một khung đàm phán tốt nhất cho một hiệp
định chất lượng cao của thế kỷ 21 cũng như mục tiêu mở rộng hiệp định cho các
quốc gia khác trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Vòng đàm phán thứ hai: Vòng đàm phán thứ hai của TPP được tổ chức tại
San Francisco (Hoa Kỳ) từ ngày 14 - 18 tháng 6/2010 đã đạt được những tiến triển
đáng kể cả về cấu trúc của Hiệp định cũng như hàng loạt các vấn đề cụ thể trong
TPP.
Các nước TPP thống nhất rằng các Hiệp định thương mại song phương giữa
các nước TPP sẽ tiếp tục tồn tại song song với TPP, điều này sẽ giúp cho các doanh
nghiệp lựa chọn sử dụng hiệp định nào tốt hơn cho hàng hóa, dịch vụ hay đầu tư của
mình.
Vòng đàm phán lần này cũng đạt được tiến bộ vững chắc về phương pháp
tiếp cận đàm phán về kết quả của tiếp cận thị trường và làm thế nào để phản ánh
những kết quả đó trong hiệp định.
Các trưởng đoàn đàm phán cũng đạt được sự thống nhất về hàng loạt các vấn
đề chung quan trọng của thế kỷ 21 định hướng cho các cuộc đàm phán liên quan
đến thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp vừa và nhỏ và thúc đẩy tính thống nhất
pháp lý, v.v... Ngoài ra, các nhà đàm phán TPP cũng đạt được các tiến triển về hàng
loạt các vấn đề truyền thống của FTA bao gồm hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, mua sắm
chính phủ, sở hữu trí tuệ, các rào cản kỹ thuật đối với thương mại, chính sách cạnh


tranh, các vấn đề pháp lý và xây dựng năng lực. Các cuộc thảo luận cũng tập trung
vào loại điều khoản nào quy định về thương mại và lao động, thương mại và môi
trường phù hợp với TPP.
Vòng đàm phán thứ ba: Vòng đàm phán thứ 3 của TPP được tổ chức tại
Brunei từ ngày 4 - 9 tháng 10/2010 với sự tham gia của thành viên mới – Malaysia.
24 nhóm đàm phán đã gặp gỡ và thảo luận về các vấn đề như hàng hóa công nghiệp,
nông nhiệp, các tiêu chuẩn, dịch vụ, đầu tư , dịch vụ ngân hàng, sở hữu trí tuệ, mua

sắm chính phủ, cạnh tranh, lao động và môi trường.
Các nhóm đàm phán đã bắt đầu soạn thảo các điều khoản (như các nhóm
dịch vụ và đầu tư) hoặc đang chuẩn bị để đưa ra dự thảo. Các cuộc đàm phán về
mục tiêu và phương pháp tiếp cận thị trường tiếp tục diễn ra với quan điểm hướng
tới đạt được mục tiêu chung về một hiệp định tham vọng cao thúc đẩy hội nhập khu
vực, bao gồm việc thông qua các quy tắc xuất xứ khu vực và đã thống nhất được
phương pháp bắt đầu các cuộc đàm phán về tiếp cận thị trường. Các nước TPP cũng
tiếp tục đàm phán về các cam kết nền và tọa đàm hỗ trợ kỹ thuật nhằm nâng cao
năng lực về các vấn đề vệ sinh dịch tễ, lao động và môi trường liên quan đến
thương mại.
Vòng đàm phán thứ tư: Vòng đàm phán thứ tư Hiệp định TPP được tổ chức
tại Auckland (New Zealand) từ ngày 6-10 tháng 12/2010, với sự tham gia của 9
nước (Australia, Brunei, Chile, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ và
Việt Nam), tiếp tục đạt được tiến bộ về tất cả các vấn đề đàm phán. Đây cũng là
vòng đàm phán đầu tiên Việt Nam tham gia với tư cách thành viên đầy đủ.
Với mục tiêu kết thúc đàm phán càng sớm càng tốt, các cuộc đàm phán đã
diễn ra khẩn trương ở cả 24 nhóm đàm phán. Các nhà đàm phán cũng kết thúc các
công việc chuẩn bị cho việc trao đổi các bản chào ban đầu về tiếp cận thị trường
hàng hóa, dự kiến diễn ra vào tháng 1/2011. Các bản chào ban đầu về dịch vụ và
đầu tư cũng được chuẩn bị để đưa ra vào tháng 3/2011.
Vòng đàm phán thứ năm: Vòng đàm phán thứ năm Hiệp định TPP diễn ra tại
Santiago (Hoa Kỳ) từ ngày 14-18 tháng 2/2011. Dự thảo hiệp định được đem ra
thảo luận ở hầu hết 24 nhóm đàm phán và đề xuất của các nước được xem xét một
cách cẩn thận. Sau đó, các nhà đàm phán hợp nhất các đề xuất đó lại và soạn thảo
Dự thảo, cố gắng thu hẹp khoảng cách giữa chúng nhưng vẫn cân nhắc đến lợi ích
và quan ngại của mỗi quốc gia.
Các đàm phán về tiếp cận thị trường đối với hàng hóa bắt đầu ở Santiago,
sau khi các bên trao đổi các bản chào ban đầu vào tháng 1/2011. Các bên cũng đồng
ý trao đổi các bản chào về tiếp cận thị trường đối với dịch vụ, đầu tư và mua sắm
chính phủ trước vòng đàm phán tới. Các bản chào dịch vụ và đầu tư sẽ được thực

hiện theo phương pháp “chọn - bỏ”, đối với tất cả các nước TPP.
Vòng đàm phán thứ sáu: Vòng đám phán này diễn ra tại Singapore từ 24/3
đến 1/4 năm 2011. Bản thảo hiện tại đang được đưa ra thảo luận trong mỗi nhóm
đàm phán và các cuộc thảo luận đã đạt được kết quả trong việc làm rõ hơn và hài


hòa các khoảng cách về vị thế. Các bản chào ban đầu về tiếp cận thị trường được
trao đổi trước vòng đàm phán này về dịch vụ, đầu tư và mua sắm chính phủ. Phù
hợp với một hiệp định TPP tham vọng cao, các bản chào đầu tư và dịch vụ được
thực hiện trên cơ sở “chọn - bỏ” (negative list) - một thực tiễn chưa từng xảy ra
trước kia đối với một số nước TPP.
Các cuộc thảo luận cũng đạt được các tiến triển về các cam kết nền về các
vấn đề chung, như gia tăng sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào
thương mại quốc tế, tăng cường hài hòa pháp lý, thúc đẩy chuỗi cung ứng và sản
xuất trong khu vực.
Vòng đàm phán thứ bảy: Vòng đàm phán thứ bảy diễn ra tại TP Hồ Chí Minh
(Việt Nam) từ ngày 15-24 tháng 6/2011. Các bên đã làm việc nhằm củng cố các vấn
đề hiện tại và xem xét các đề xuất mới ở các nhóm làm việc, bao gồm sở hữu trí tuệ,
dịch vụ, minh bạch, truyền thông, hải quan và môi trường. Các bên tiếp tục thảo
luận về từng bản chào của các nước và phương pháp tiếp cận thị trường, các cam
kết về lĩnh vực dịch vụ, đầu tư và mua sắm chính phủ. Các đề xuất của Hoa Kỳ về
tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thương mại quốc tế,
cải thiện sự hài hòa pháp lý, tăng cạnh tranh và các chuỗi cung ứng được xem xét.
Vòng đàm phán thứ tám: Vòng đàm phán thứ tám diễn ra tại Chicago (Hoa
Kỳ) từ 6 -15 tháng 9/2011. Các bên đã đạt được tiến bộ trong củng cố và thu hẹp vị
thế giữa các bên đàm phán tại hơn 20 chương trong dự thảo văn kiện hiện tại. Đặc
biệt, quá trình đàm phán đạt được bước tiến quan trọng trong các vấn đề Hải quan,
Kiểm dịch động thực vật (SPS), các Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại (TBT),
vấn đề Viễn thông và Mua sắm Chính phủ. Các bên tiếp tục xem xét bản chào mới
trong một số các chương về môi trường, sở hữu trí tuệ (tại chương này, Hoa Kỳ đã

chi tiết một số điều khoản mới liên quan đến mặt hàng tân dược) và tính minh bạch.
Vòng đàm phán thứ chín: Vòng đàm phán này được tổ chức lại Lima (Peru)
từ ngày 19-28 tháng 10 năm 2011. Các bên đàm phán tiếp tục đạt được các tiến triển
mới, đặc biệt ở một số chương về các vấn đề Vệ sinh và dịch tễ (SPS), Rào cản Kỹ
thuật đối với Thương mại (TBT) và các Quy định về Nguồn gốc xuất xứ (ROOs).
Một đề xuất mới về vấn đề Doanh nghiệp Nhà nước (SOEs) cũng được đưa ra và
được thảo luận trong nhóm làm việc về Chính sách Cạnh tranh. Vòng đàm phán thứ
9 cũng đạt được nhiều tiến bộ về tiếp cận thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư,
mua sắm chính phủ. Ngoài ra, có một số đề xuất phức tạp và nhạy cảm cũng được
đưa ra, bao gồm vấn đề sở hữu trí tuệ và tính minh bạch.
Cuộc họp các Nhà lãnh đạo TPP bên lề Hội nghị cấp cao APEC 19: diễn ra
trong 2 ngày 12-13 tháng 11 năm 2011 tại Hawaii (Hoa Kỳ). Tại đây các Nhà lãnh
đạo TPP đã đưa ra được các văn kiện quan trọng bao gồm: Bản mô tả các lĩnh vực
đàm phán chính của Hiệp định TPP, Báo cáo của các Bộ trưởng thương mại gửi các
Nhà lãnh đạo TPP và Bản tuyên bố của các Nhà lãnh đạo TPP.
Vòng đàm phán thứ mười: Vòng này diễn ra tại Kuala Lumpur (Malaysia) từ
ngày 5 – 9 tháng 12 năm 2011. Tuy nhiên, chỉ có một vài nhóm đàm phán gặp mặt


và làm việc trong suốt tuần, bao gồm các nhóm đàm phán về nguồn gốc xuất xứ,
dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Các nhóm đàm phán về tiếp cận thị trường hàng
công nghiệp, nông nghiệp và dệt may cũng có buổi gặp mặt. Các bên đã làm việc
cùng nhau để thảo ra một bản kế hoạch chi tiết nhằm kết thúc đàm phán ở cả hơn 20
nhóm đàm phán, bao gồm cả các cuộc làm việc giữa kỳ.
Vòng đàm phán thứ mười một: Vòng đàm phán này diễn ra từ ngày 2 – 7
tháng 3/2012 tại Melbourne (Australia). Trong các phiên họp, các nhà đàm phán
tiếp tục bàn về vấn đề pháp lý, đầu tý, các rào cản kỹ thuật thýõng mại, quy tắc xuất
xứ, quyền sở hữu trí tuệ, lao động, dịch vụ tài chính, đầu tý, nhập cảnh tạm thời, và
các biện pháp khắc phục hậu quả thýõng mại. Thêm vào đó, các nhà đàm phán cũng
đã bắt đầu các cuộc thảo luận về hợp tác quản lý và xây dựng năng lực thýõng mại.

Ngoài ra, các thành viên đã thảo luận về các vấn đề liên quan đến môi trýờng, viễn
thông, cạnh tranh, mua sắm chính phủ, thýõng mại điện tử, tiếp cận thị trýờng, và
các vấn đề hải quan. Bên lề các cuộc đàm phá, các nhà lãnh đạo các nền kinh tế TPP
cũng tham gia vào Diễn dàn mở do Australia tổ chức, tạo điều kiện cho khoảng 250
bên liên quan thảo luận về các vấn đề quan tâm trong các cuộc đàm phán.
Có thể thấy tiến trình đàm phán Hiệp định TPP đang diễn ra một cách nhanh
chóng và cởi mở giữa các quốc gia nhằm tiến tới một Hiệp định thương mại tự do
tiêu chuẩn cao, một hình mẫu của FTA thế hệ mới thế kỷ 21 với mức độ mở cửa
mạnh mẽ ở tất cả các ngành, có tác động lớn đến thương mại giữa các đối tác của
Hiệp định TPP.
1.2.2 Những nội dung cơ bản của Hiệp định TPP
1.2.2.1 Đặc trưng chính của Hiệp định TPP
Với việc đặt nhiều kì vọng vào Hiệp định TPP nhằm mục tiêu tăng cường
thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên TPP, thúc đẩy sợ đổi mới, tăng
trưởng kinh tế và phát triển và hỗ trợ, tạo thêm và duy trì việc làm, trong Bản mô tả
các lĩnh vực đàm phán chính của Hiệp định TPP được đưa ra vào ngày
12/11/2011, các Bộ trưởng thương mại các nước thành viên TPP đã xác định 5 đặc
trưng giúp Hiệp định TPP trở thành một hiệp định mang tính bước ngoặt về thương
mại của thế kỉ 21. Những đặc điểm này bao gồm:
 Tiếp cận thị trường toàn diện: bãi bỏ thuế và các rào cản thương mại hàng
hóa, dịch vụ và đầu tư, nhằm tạo ra những cơ hội mới cho người lao động và
doanh nghiệp cũng như những lợi ích trực tiếp cho người tiêu dùng.
 Hiệp định khu vực toàn diện: tạo thuận lợi cho phát triển sản xuất và chuỗi
cung ứng giữa các thành viên TPP, hỗ trợ mục tiêu tạo việc làm, nâng cao
mức sống, cải thiện phúc lợi xã hội và tăng cường phát triển bền vững ở các
nước thành viên.
 Các vấn đề thương mại xuyên suốt: hình thành trên cơ sở những thỏa thuận
đã được thực hiện trong khuôn khổ APEC và các diễn đàn khác, và thông qua
việc đưa vào Hiệp định TPP 4 vấn đề mới, xuyên suốt, gồm:



 Gắn kết môi trường chính sách: Các cam kết sẽ thúc đẩy thương mại
giữa các nước thành viên thông qua việc tạo ra môi trường trao đổi
thương mại gắn kết và hiệu quả.
 Tạo thuận lợi thúc đẩy năng lực cạnh tranh và kinh doanh: Các cam
kết sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước và khu vực của từng
nền kinh tế TPP và thúc đẩy hội nhập kinh tế và tạo thêm việc làm
trong khu vực thông qua phát triển chuỗi sản xuất và chuỗi cung ứng
khu vực.
 Doanh nghiệp vừa và nhỏ: Các cam kết sẽ giải quyết những quan ngại
của doanh nghiệp vừa và nhỏ về khó khăn trong việc hiểu và vận dụng
các hiệp định thương mại, khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ
giao thương quốc tế.
 Phát triển: Tự do hóa thị trường một cách toàn diện và mạnh mẽ, cải
thiện thương mại và đầu tư, tăng cường kỷ cương và những cam kết
khác, bao gồm việc thiết lập cơ chế giúp các thành viênTPP thực thi
hiệu quả và tận dụng được tối đa những lợi ích mà Hiệp định mang
lại, qua đó góp phần tăng cường vai trò của những thể chế quan trọng
đối với quản lý và phát triển kinh tế, và từ đó góp phần đáng kể vào
việc thúc đẩy những ưu tiên phát triển kinh tế của từng thành viên
TPP.
 Những vấn đề mới trong thương mại: thúc đẩy thương mại và đầu tư đối với
các sản phẩm và dịch vụ mang tính sáng tạo, trong đó có nền kinh tế kỹ thuật
số và công nghệ xanh, và đảm bảo một môi trường kinh doanh cạnh tranh
trong toàn bộ khu vực TPP.
 Hiệp định mở: cho phép cập nhật hiệp định khi phù hợp để giải quyết các vấn
đề thương mại nảy sinh trong tương lai cũng như các vấn đề mới phát sinh
trong quá trình mở rộng Hiệp định để kết nạp thêm những thành viên mới.
1.2.2.2 Các vấn đề đàm phán chính của Hiệp định TPP
Hiệp định TPP được đàm phán theo cách tiếp cận cả gói, bao gồm toàn bộ

các lĩnh vực then chốt về thương mại và có liên quan đến thương mại. Không chỉ
cập nhật các cách tiếp cận truyền thống đối với những vấn đề đã có trong các FTA
trước đây, Hiệp định TPP bao gồm thêm nhiều vấn đề mới, đang nổi và xuyên suốt.
Hơn hai mươi nhóm đàm phán đã làm việc tích cực nhằm đạt được thỏa thuận về
mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ và mua sắm chính phủ của các thành viên TPP
khác. Tất cả chín nước thành viên cũng nhất trí thông qua những tiêu chuẩn cao
nhằm đảm bảo các bên sẽ cùng chia sẻ tất cả lợi ích và nghĩa vụ của Hiệp định. Một
bộ các cam kết mới, xuyên suốt nhằm mục tiêu cắt giảm chi phí, tạo thuận lợi phát
triển dòng chảy và mạng lưới thương mại thông thoáng hơn giữa các thành viên
TPP, khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thương mại
quốc tế, và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống.


Các vấn đề chính đang đàm phán được mô tả trong Bản mô tả các lĩnh vực
đàm phán chính của Hiệp định TPP bao gồm:
 Cạnh tranh: Các thành viên TPP đã cam kết về việc thiết lập và duy trì các
luật và cơ quan quản lý cạnh tranh, thủ tục công bằng trong việc thực thi luật
cạnh tranh, minh bạch hóa, bảo vệ người tiêu dùng, quyền riêng tư về hành
động và hợp tác kỹ thuật.
 Hợp tác và nâng cao năng lực: Các thành viên đã triển khai một số hoạt
động hợp tác và nâng cao năng lực nhằm đáp ứng các yêu cầu cụ thể và đang
lên kế hoạch về những hoạt động bổ sung nhằm hỗ trợ các nước đang phát
triển đạt được các mục tiêu của Hiệp định.
 Cung cấp dịch vụ qua biên giới: Các thành viên TPP đã thống nhất phần lớn
các vấn đề cốt lõi liên quan đến cung cấp dịch vụ qua biên giới, đảm bảo một
thị trường công bằng, mở và minh bạch cho thương mại dịch vụ.
 Hải quan: Các nhà đàm phán đã đạt được thỏa thuận trong các vấn đề chính
về hải quan cũng như về tầm quan trọng của hải quan dễ dự báo, minh bạch
và sự kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan hải quan của các thành viên.
 Thương mại điện tử: Đàm phán đã đạt được những tiến bộ quan trọng trong

việc giải quyết thuế hải quan trong môi trường số, việc chứng nhận các giao
dịch điện tử và bảo vệ người tiêu dùng. Các đề xuất khác về luồng thông tin
và việc xử lý các sản phẩm số đang tiếp tục được thảo luận.
 Môi trường: Các thành viên TPP đã thống nhất các điều khoản về các cấp độ
bảo vệ môi trường và việc thực thi luật. Ngoài ra các vấn đề khác như đánh
bắt thủy sản và các vấn đề bảo tồn khác, đa dạng sinh học, sự xâm lấn của
các sinh vật lạ, biến đổi khí hậu, hàng hóa và dịch vụ môi trường đang được
thảo luận.
 Dịch vụ tài chính: Các thành viên TPP đang đàm phán về đầu tư vào các thể
chế tài chính và thương mại qua biên giới trong dịch vụ tài chính sẽ giúp
đảm bảo tính minh bạch, không phân biệt đối xử, đối xử công bằng với các
dịch vụ tài chính mới, các biện pháp bảo vệ đầu tư và một cơ chế giải quyết
tranh chấp hiệu quả để thực hiện những biện pháp bảo vệ này.
 Mua sắm chính phủ: Các nhà đàm phán TPP về cơ bản đã thống nhất các
nguyên tắc và cam kết về các hoạt động mua sắm chính phủ nhằm đảm bảo
các hoạt động này sẽ được thực hiện công bằng, minh bạch và không phân
biệt đối xử.
 Sở hữu trí tuệ: Các thành viên TPP đã nhất trí tăng cường và xây dựng các
quyền và nghĩa vụ dựa trên Hiệp định WTO về những khía cạnh liên quan
đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) nhằm đảm bảo một cách
tiếp cận hiệu quả và cân bằng đối với vấn đề quyền sở hữu trí tuệ giữa các
nước thành viên TPP.


 Đầu tư: Các thành viên TPP đang tiếp tục đàm phán về sự bảo vệ cơ bản về
pháp lý đối với các nhà đầu tư và các hoạt động đầu tư của mỗi quốc gia
thành viên TPP trong lãnh thổ các thành viên TPP khác cũng như cơ chế giải
quyết tranh chấp giữa các nhà đầu tư và Nhà nước một cách nhanh chóng,
công bằng và minh bạch trên cơ sở cơ chế phù hợp bảo vệ Nhà nước.
 Lao động: Các nhà đàm phán đang tiếp tục thảo luận các cam kết về bảo vệ

quyền lao động và các cơ chế nhằm đảm bảo hợp tác, phối hợp và đối thoại
về các vấn đề lao động mà các thành viên cùng quan tâm.
 Các vấn đề pháp lý: Các thành viên TPP đã đạt được tiến bộ về các điều
khoản liên quan đến thực thi hiệp định, các trường hợp ngoại lệ đối với các
nghĩa vụ của hiệp định cũng như về các quy tắc xử lý vấn đề minh bạch
trong việc xây dựng các điều luật, quy định hay các quy tắc khác.
 Tiếp cận thị trường hàng hóa: Các thành viên TPP đã thống nhất đưa ra các
cam kết quan trọng cao hơn các nghĩa vụ của WTO hiện nay, cũng như xóa
bỏ các rào cản phi thuế quan hiện nay. Ngoài ra, các bên cũng đang cân nhắc
các vấn đề liên quan đến cấp giấy phép xuất nhập khẩu, cạnh tranh xuất khẩu
hàng nông nghiệp và an ninh lương thực, cam kết ở mức cao với hàng dệt
may,v.v...
 Quy tắc xuất xứ: Các thành viên TPP đã nhất trí xây dựng một bộ quy tắc
xuất xứ chung khách quan, minh bạch và dễ dự đoán nhằm xác định một sản
phẩm có xuất xứ từ khu vực TPP hay không. Ngoài ra, các đề xuất xây dựng
một hệ thống chứng nhận xuất xứ ưu đãi đơn giản, hiệu quả cũng đang được
thảo luận.
 Các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động, thực vật (SPS): Các quốc
gia thành viên đã nhất trí tăng cường và phát triển nội dung này dựa trên các
quyền và nghĩa vụ hiện tại của các bên theo Hiệp định về kiểm dịch động
thực vật (SPS) của WTO.
 Các rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT):Hiệp định TPP sẽ củng cố và
phát triển các quyền và nghĩa vụ hiện tại quy định ở Hiệp định về Các rào
cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT) của WTO. Hiệp định bao gồm các
cam kết về lộ trình thực hiện, các thủ tục đánh giá sự phù hợp, các tiêu chuẩn
quốc tế, cơ chế thể chế và minh bạch hóa.
 Viễn thông: Các thành viên TPP ngoài việc thống nhất một hiệp định rộng,
thể hiện sự cần thiết về tiếp cận mạng lưới một cách hợp lý dành cho các nhà
cung cấp thông qua kết nối và tiếp cận cơ sở vật chất, đang tiếp tục thảo luận
về tăng cường tính minh bạch của quá trình ban hành chính sách và bảo đảm

quyền khiếu nại các quyết định.
 Di chuyển thể nhân: Các thành viên TPP về cơ bản đã kết thúc các điều
khoản chung về tăng cường tính minh bạch và hiệu quả trong quá trình giải


quyết nhập cảnh tạm thời, đồng thời thúc đẩy hợp tác kỹ thuật hiện tại giữa
các nước TPP.
 Các biệp pháp phòng vệ thương mại: Các thành viên TPP đã nhất trí khẳng
định các quyền và nghĩa vụ của mình trong WTO và xem xét các vấn đề mới
liên quan đến những nghĩa vụ mới xây dựng trên cơ sở những quyền lợi và
nghĩa vụ hiện hành trong lĩnh vực minh bạch hóa và quy trình tố tụng.
1.3 Tự do hóa thương mại dịch vụ trong Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP)
1.3.1 Cách tiếp cận với tự do hóa thương mại dịch vụ trong Hiệp định TPP
Hiệp định TPP áp dụng cách tiếp cận “chọn – bỏ” – cách tiếp cận phổ biến
trong các FTA thế hệ sau. Cách tiếp cận được thực hiện như sau:
Dự thảo mới nhất của Hiệp định TPP quy định những nghĩa vụ cơ bản của
các Thành viên trong việc mở cửa thị trường và tự do hóa hoạt động thương mại
dịch vụ cho nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Có 06 nghĩa vụ chủ yếu, bao gồm:
 Dành đối xử quốc gia (MFN).
 Dành đối xử tối huệ quốc (NT).
 Loại bỏ một số điều kiện đầu tư, hoặc điều kiện để được hưởng ưu đãi đầu
tư, trái với nghĩa vụ đối xử quốc gia và không áp dụng các biện pháp hạn chế
số lượng đối với sản xuất hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ.
 Loại bỏ các hạn chế, cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được cung
cấp dịch vụ qua biên giới (Phương thức 1 và 2) và thành lập hiện diện
thương mại trên lãnh thổ nước mình để cung cấp dịch vụ (Phương thức 3).
 Loại bỏ yêu cầu “phải hiện diện ở nước sở tại” để được phép cung cấp dịch
vụ qua biên giới (Phương thức 1 và 2).
 Loại bỏ yêu cầu về quốc tịch của nhân sự quản lý cao cấp của doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài.
Khi thông qua đàm phán, các thành viên được quyền bảo lưu một số biện
pháp không phù hợp với các nghĩa vụ nêu trên (được gọi là các biện pháp không
tương thích – non-conforming measures). Các biện pháp này được liệt kê theo lĩnh
vực hoặc chủ đề trong Danh mục bảo lưu của Thành viên kèm theo Hiệp định. Đặc
biệt với một hiệp định có tính mở cao như Hiệp định TPP, Danh mục bảo lưu cần
phải rất rõ ràng và chi tiết.
Hiệp định TPP cho phép 2 Danh mục bảo lưu, gồm:
 Danh mục I gồm các biện pháp phù hợp với các nghĩa vụ về đầu tư và dịch
vụ, được quy định trong pháp luật hiện hành hoặc điều ước quốc tế đã có
hiệu lực thi hành. Các biện pháp đã bảo lưu trong Danh mục I sẽ được tiếp
tục áp dụng theo đúng mô tả trong Danh mục. Hiệp định TPP không hạn chế
quyền của Thành viên điều chỉnh, sửa đổi pháp luật hiện hành có liên quan
đến các biện pháp này nhưng chỉ được điều chỉnh, sửa đổi theo hướng “tự do
hơn”, hoặc ít ra không kém thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, một khi đã được điều


chỉnh theo hướng tự do hơn thì việc điều chỉnh đó mặc nhiên trở thành nghĩa
vụ ràng buộc mới, các Thành viên không được rút lại nữa và cũng không cần
phải điều chỉnh lại Danh mục bảo lưu trong TPP.
 Danh mục II gồm các lĩnh vực, vấn đề mà các Thành viên bảo lưu quyền ban
hành mới (hoặc duy trì thực tiễn áp dụng) các biện pháp không phù hợp với
các nghĩa vụ về đầu tư và dịch vụ. Đây chủ yếu là những biện pháp chưa
xuất hiện hoặc chưa được đưa vào pháp luật và điều ước quốc tế hiện hành
của mỗi Thành viên. Danh mục này có tính linh hoạt cao hơn Danh mục I bởi
các bên được quyền ban hành, điều chỉnh, sửa đổi pháp luật có liên quan theo
cả 2 hướng “tự do hơn” hoặc “hạn chế hơn”, không phải tuân thủ nguyên tắc
“không kém thuận lợi hơn” và “mặc nhiên trở thành nghĩa vụ mới” như
Danh mục I.
1.3.2 Mục tiêu của các nước tham gia Hiệp định TPP trong lĩnh vực thương mại

dịch vụ
Hiệp định TPP có ý nghĩa vô cùng quan trọng với chính sách thương mại
toàn cầu vì nó được coi là giải pháp cho Vòng đàm phán Doha bế tắc, giúp giảm
thuế quan, mở cửa thị trường đặc biệt thị trường dịch vụ. Nó là một thỏa thuận tiến
bộ của các đối tác có tư duy giống nhau, tránh được các thỏa thuận song phương
phức tạp. Đối với mối quan hệ thương mại Châu Á – Thái Bình Dương, Hiệp định
giúp tăng cường phát triển kinh tế và tạo công ăn việc làm cho các nước thành viên;
đặc biệt củng cố mối quan hệ Mỹ - Châu Á; đồng thời bổ sung và gây ảnh hưởng
với các FTA khác trong châu Á. Hiệp định TPP được coi là mô hình mẫu cho các
FTA của thế kỉ 21 vì nó tự do hóa toàn diện thị trường trong nước; giúp thống nhất
các FTA đan xen chằng chịt giữa các quốc gia đàm phán hiện nay; đặc biệt chú
trọng vào các ngành mới như công nghệ, dịch vụ và đầu tư và tăng cường hợp tác
trong các lĩnh vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển, lao động. Chính vì ý nghĩa
to lớn như vậy mà các quốc gia tham gia đàm phán Hiệp định TPP đều đặt rất nhiều
kỳ vọng vào sự thành công của hiệp định.
Đối với Hoa Kỳ - đối tác lớn nhất của Hiệp định TPP, Châu Á được coi là thị
trường đặc biệt quan trọng. Theo Cơ quan đại diện thương mại Hoa Kỳ, khu vực
châu Á – Thái Bình Dương là chìa khóa thúc đẩy kinh tế toàn cầu, chiếm tới gần
60% GDP toàn cầu và khoảng 50% thương mại quốc tế. Từ năm 1990, thương mại
hàng hóa ở khu vực đã tăng 300% trong khi đầu tư quốc tế vào khu vực này tăng
400%. Việc gia nhập đàm phán TPP mang tính chiến lược với Hoa Kỳ, thể hiện
quyết tâm cao của nước này trong việc tiếp cận hoàn toàn vào thị trường rộng lớn
và đầy tiềm năng này. Mục tiêu chính của Hoa Kỳ khi gia nhập Hiệp định TPP là:
Thứ nhất, giải quyết tình trạng việc làm trong nước bằng cách đẩy mạnh xuất
khẩu sang thị trường các nước châu Á. Tại Hội nghị các nhà lãnh đạo APEC diễn ra
vào ngày 13/12/2010, Tổng thống Obama đã phát biểu:” Ở khu vực này, Hoa Kỳ
nhận thấy cơ hội vô cùng lớn để tăng cường xuất khẩu vào một trong những thị
trường tăng trưởng nhanh nhất thế giới...” Chính ông đã nhấn mạnh mục tiêu của



Hoa Kỳ là tăng gấp đôi sản lượng xuất khẩu trong vòng 5 năm kể từ năm 2010, và
điều này sẽ tạo ra 2 triệu việc làm tại Hoa Kỳ.
Thứ hai, ngầm giải quyết sự mất cân bằng toàn cầu – một trong những
nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế thế giới, do sự kết hợp giữa tình trạng thâm
hụt thương mại của Hoa Kỳ và thặng dư thương mại của các nước khu vực Đông Á.
Hoa Kỳ muốn kêu gọi các quốc gia với thặng dư thương mại lớn phát triển nhu cầu
trong nước của mình, chứ không chỉ tập trung xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
Cuối cùng, việc gia nhập Hiệp định TPP cũng thể hiện rõ mục tiêu của Hoa
Kỳ để khắc phục tình trạng bị đứng ngoài một khu vực kinh tế có tốc độ phát triển
nhanh nhất thế giới – khu vực châu Á – Thái Bình Dương do việc gia tăng các FTA
trong khu vực này mà không có sự tham gia của Hoa Kỳ. Thêm vào đó, điều này
cũng có ý nghĩa giúp Hoa Kỳ chống lại những ảnh hưởng ngày càng gia tăng của
thương mại Trung Quốc trong khu vực và trên thế giới.
Với các nước có trình độ thấp hơn khi tham gia đàm phán TPP, các nước
mong muốn có thể nâng cao trình độ thương mại dịch vụ trong nước, mở cửa và
đón nhiều cơ hội đầu tư hơn, phát triển kinh tế và tạo thuận lợi trong thương mại.
Bản thân các nước này cũng có cơ hội tiếp cận với thị trường rộng lớn từ các quốc
gia khác để thúc đẩy xuất khẩu những thế mạnh của mình.

CHƯƠNG 2: CAM KẾT VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ TRONG
CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VÀ DỰ BÁO CHO HIỆP
ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
2.1 Thực trạng cam kết về thương mại dịch vụ trong một số hiệp định thương
mại tự do của các nước tham gia đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP)
Các nền kinh tế tham gia đàm phán Hiệp định TPP có mối quan hệ chặt chẽ
và phức tạp với nhau được quy định bởi nhiều FTA song phương và đa phương.


Việc nghiên cứu các FTA tiêu biểu giữa các thành viên đàm phán TPP sẽ giúp có cái

nhìn tổng quan về thực trạng tự do hóa thương mại dịch vụ giữa các quốc gia và dự
đoán kết quả đàm phán Hiệp định TPP trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
2.1.1 Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Australia – New Zealand
(AANZFTA)
2.1.1.1 Tổng quan về Hiệp định AANZFTA
Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Australia – New Zealand là một hiệp
định kinh tế toàn diện giữa 10 quốc gia ASEAN ( Brunei, Myanmar, Campuchia,
Indonesia, Malaysia, Phillipines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam) với Australia và
New Zealand. Hiệp định mở ra cho khu vực kinh tế năng động với quy mô dân số
623 triệu dân (2010) và GDP 3,2 tỷ USD (2010) (Australian Government Department of Foreign Affairs and Trade, 2012) này nhiều cơ hội mới dựa trên nền
tảng cơ chế tiếp cận thị trường và cơ chế đầu tư tự do, minh bạch và thuận lợi hơn.
Hiệp định được kí kết vào ngày 27/02/2009 tại Thái Lan, và có hiệu lực bắt
đầu từ ngày 01/01/2010 sau khi được phê chuẩn bởi 8 bên bao gồm: 6 quốc gia
ASEAN (Brunei, Malaysia, Myanmar, Phillipines, Singapore, Việt Nam), Australia
và New Zealand. Sau đó, Hiệp định AANZFTA bắt đầu có hiệu lực với Thái Lan từ
ngày 12/03/2010. AANZFTA có hiệu lực với Lào và Campuchia lần lượt vào ngày
01/01/2011 và 04/01/2011. Indonesia đã phê chuẩn Hiệp định vào ngày 06/05/2011
và đang trong quá trình ban hành các quy phạm pháp luật cần thiết để thực hiện các
cam kết thuế quan theo AANZFTA. Đây là lần đầu tiên Australia và New Zealand
cùng kết hợp tham gia đàm phán một FTA với bên thứ ba, và cũng là lần đầu tiên
các nước ASEAN bắt tay vào đàm phán một FTA bao gồm tất cả các lĩnh vực: hàng
hóa, dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ đồng thời. Điều này làm cho AANZFTA trở
thành FTA toàn diện nhất mà các nước ASEAN từng đàm phán.
Thông qua Hiệp định AANZFTA:
 Thuế quan sẽ giảm dần kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, và loại bỏ ít nhất
90% tất cả các dòng thuế trong thời hạn quy định.
 Quy tắc xuất xứ hiện đại, linh hoạt hơn, đơn giản hóa thủ tục hải quan và
nhiều cơ chế minh bạch hóa sẽ tạo điều kiện cho dòng lưu chuyển hàng hóa
thuận lợi hơn.
 Những rào cản thương mại dịch vụ sẽ dần được tự do hóa, cho phép các nhà

cung cấp dịch vụ tiếp cận gần hơn với các thị trường trong khu vực.
 Sự di chuyển thể nhân, những người tham gia vào các hoạt động thương mại
và đầu tư, sẽ được tạo điều kiện thuận lợi.
 Đầu tư được bảo vệ trong một phạm vi nhất định, bao gồm cả khả năng giải
quyết tranh chấp thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của nước nhà đầu tư.
2.1.1.2 Những cam kết chung về thương mại dịch vụ trong Hiệp định AANZFTA
Được xây dựng dựa trên cam kết về tự do hóa thương mại dịch vụ của WTO,
chương Thương mại dịch vụ của Hiệp định AANZFTA tiếp tục cải thiện và phát


triển các cam kết và nghĩa vụ về thương mại dịch vụ. Các cam kết về thương mại
dịch vụ của Hiệp định AANZFTA mang tính chất “WTO +” (có nghĩa là Hiệp định
AANZFTA có mức độ cam kết mở rộng mà mạnh mẽ hơn so với cam kết của các
bên tại Hiệp định GATS của WTO). Những cam kết cải tiến về tiếp cận thị trường,
đãi ngộ quốc gia, quy định về đối xử tối huệ quốc (MFN) và hàng loạt các biện
pháp và cam kết khác sẽ tăng cường sự chắc chắn và minh bạch, tạo điều kiện thuận
lợi cho các nhà xuất khẩu dịch vụ của các quốc gia trong khu vực.
a) Tiếp cận thị trường và Đãi ngộ quốc gia
Khoản 2 điều 4 chương 8 Hiệp định AANZFTA quy định rằng trong các
ngành được cam kết mở cửa thị trường toàn bộ, các quốc gia thành viên không được
áp đặt các rào cản như:
 Hạn chế số lượng người cung cấp dịch vụ dù dưới hình thức hạn ngạch theo
số lượng, độc quyền, toàn quyền cung cấp dịch vụ hoặc yêu cầu đáp ứng nhu
cầu kinh tế;
 Hạn chế về tổng giá trị các giao dịch về dịch vụ hoặc tài sản dưới hình thức
hạn ngạch theo số lượng, hoặc yêu cầu đáp ứng nhu cầu kinh tế;
 Hạn chế tổng số các hoạt động dịch vụ hoặc tổng số lượng dịch vụ đầu ra
tính theo số lượng đơn vị dưới hình thức hạn ngạch hoặc yêu cầu về yêu cầu
kiểm tra nhu cầu kinh tế;
 Hạn chế về tổng số thể nhân có thể được tuyển dụng trong một ngành dịch

vụ cụ thể hoặc một người cung cấp dịch vụ được phép tuyển dụng cần thiết
hoặc trực tiếp liên quan tới việc cung cấp một dịch vụ cụ thể dưới hình thức
hạn ngạch hoặc yêu cầu đáp ứng nhu cầu kinh tế;
 Các biện pháp hạn chế hoặc yêu cầu các hình thức pháp nhân cụ thể hoặc
liên doanh thông qua đó người cung cấp dịch vụ có thể cung cấp dịch vụ; và
 Hạn chế về tỷ lệ vốn góp của Bên nước ngoài bằng việc quy định giới hạn
phần trăm tối đa cổ phần của Bên nước ngoài hoặc tổng trị giá đầu tư nước
ngoài tính đơn hoặc tính gộp.
Tại Khoản 1 điều 3 chương 8, trong cam kết về đãi ngộ quốc gia, các thành
viên cam kết “mỗi Bên phải dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ
Bên nào khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử được Bên đó dành cho
dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của chính mình”
Tuy nhiên, trong lịch trình cam kết của mỗi bên vẫn có thể bao gồm một số
hạn chế về tiếp cận thị trường hoặc đãi ngộ quốc gia theo chiều ngang (áp dụng trên
tất cả các ngành) hoặc trên từng ngành cụ thể.
b) Quy định trong nước
Hiệp định AANZFTA có một số quy định quan trọng về quy định trong nước
đối với các quốc gia thành viên. Các quy định và việc thực hiện có hiệu quả các quy
định này là vấn đề rất đáng lưu tâm đối với các doanh nghiệp.


×