Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (962.12 KB, 49 trang )






























MỤC LỤC
Lời mở đầu 1


Phần thứ nhất: Các quan điểm tiếp cận vấn đề IP trong đàm phán TPP 2
1. Lựa chọn nào thích hợp: Lợi ích suy đoán hay Thiệt hại có thật? 2
2. Mức độ bảo hộ IP như thế nào là thích hợp? 6
Phần thứ hai: Các Khuyến nghị về Phƣơng án đàm phán trong một số
vấn đề cụ thể Chƣơng Sở hữu trí tuệ TPP 8
I. Về Sáng chế (Patent) 8
1. Quan điểm tiếp cận đối với bảo hộ Sáng chế ở Việt Nam 8
1.1. Vấn đề sáng chế đối với dược phẩm và các biện pháp chữa bệnh cho người 9
1.2. Vấn đề sáng chế đối với lĩnh vực nông nghiệp (đặc biệt là nông hóa
phẩm, các loại thực vật, động vật) 11
2. Các kiến nghị phương án đàm phán cụ thể về sáng chế 12
2.1. Đối với đề xuất mở rộng đối tượng có thể được bảo hộ thông qua
Bằng Sáng chế của Hoa Kỳ 12
2.2. Đối với các đề xuất khiến việc đăng ký độc quyền sáng chế đơn giản
và nhanh chóng hơn 15
2.3. Đối với các đề xuất của Hoa Kỳ về độc quyền dữ liệu và liên kết
sáng chế 16
II. Về độc quyền dữ liệu (Data exclusivity) và Tuyên bố Doha 2001 17
1. Về độc quyền dữ liệu (đối với dược phẩm, nông hóa phẩm) 17
2. Tuyên bố Doha 2001 về IP đối với dược phẩm 18
III. Về Chỉ dẫn địa lý (Geographical indications – GI) 19
1. Quan điểm tiếp cận vấn đề chỉ dẫn địa lý đối với Việt Nam 19
2. Các kiến nghị phương án đàm phán cụ thể về chỉ dẫn địa lý 20
IV. Về Bản quyền (Copyrights) 23
1. Quan điểm tiếp cận về vấn đề bản quyền 23
2. Các kiến nghị cụ thể về phương án đàm phán Mục Bản quyền trong TPP 25
V. Về việc coi quyền sở hữu trí tuệ là một hình thức đầu tƣ trong
Chƣơng Đầu tƣ 27
Phụ lục I - Bảng so sánh chi tiết Dự thảo Mục Sáng chế - Chương IP của
Hoa Kỳ trong TPP với pháp luật Việt Nam 29

Phụ lục II - Danh sách các Đơn vị ủng hộ Khuyến nghị này 46

1

LỜI NÓI ĐẦU
Đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) giữa chín nước trong
khu vực APEC (trong đó có Hoa Kỳ) nhằm thiết lập một khu vực thương mại tự do
hai bờ Thái Bình Dương bắt đầu cuối năm 2009, đến nay đã qua 11 Vòng đàm phán
chính thức và nhiều phiên đàm phán giữa kỳ. Việt Nam là thành viên chính thức từ
tháng 11/2010.
Theo dự kiến đầy tham vọng của các nước thành viên TPP về việc sớm kết thúc đàm
phán, các cuộc thảo luận, trao đổi và thương lượng đang được thực hiện rất khẩn
trương trong tất cả các lĩnh vực.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (IP) là một trong những lĩnh vực đàm phán quan trọng
trong khuôn khổ các đàm phán FTA thế hệ mới thời gian gần đây và là lĩnh vực
được đặc biệt nhấn mạnh bởi các đối tác phát triển (Hoa Kỳ) trong đàm phán TPP.
Bản Dự thảo Chương IP của Hoa Kỳ trong đàm phán TPP được tiết lộ lần gần nhất
tháng 5/2012 cho thấy nước này nhấn mạnh yêu cầu áp dụng “TRIPS +”, tức là yêu
cầu điều chỉnh các biện pháp IP theo hướng tăng quyền của chủ sở hữu, giảm các
điều kiện đối với đăng ký bảo hộ và áp dụng các biện pháp nhằm tăng cường khả
năng thi hành (bảo đảm) các quyền sở hữu trí tuệ so với mức của WTO hiện tại.
Nhiều vấn đề đàm phán trong Chương IP này như sáng chế, bản quyền, chỉ dẫn địa
lý, biện pháp thực thi, giải quyết tranh chấp… suy đoán là sẽ có tác động trực tiếp,
tức thì và nghiêm trọng tới nhiều lợi ích quan trọng của Việt Nam, đặc biệt là khu
vực nông nghiệp, y tế, nghiên cứu khoa học (liên quan đến dược phẩm, giống cây
trồng vật nuôi, phân bón, thú y, thuốc bảo vệ thực vật, nghiên cứu cơ bản…). Vì
vậy, việc cơ quan đàm phán của Việt Nam có quan điểm thích hợp và kiên quyết
theo đuổi các mục tiêu đàm phán trong các vấn đề này là điều có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng.
Khuyến nghị được thực hiện bởi Trung tâm WTO – Phòng Thương mại và Công

nghiệp Việt Nam (VCCI) trên cơ sở phân tích Bản dự thảo bị tiết lộ về Chương IP
mà Hoa Kỳ đưa ra trong đàm phán TPP (tháng 5/2012) từ góc độ lợi ích và quan
điểm của cộng đồng doanh nghiệp, các nhóm bị ảnh hưởng trực tiếp. Do điều kiện
hạn chế, Khuyến nghị chỉ tập trung vào những vấn đề suy đoán có ảnh hưởng
nghiêm trọng nhất tới các lợi ích công cộng quan trọng của Việt Nam. Mặc dù vậy
nhiều vấn đề chi tiết khác chưa được đề cập tại đây cũng cần được nghiên cứu thấu
đáo để có thể có phương án đàm phán phù hợp nhất cho Việt Nam.
Rất mong các cơ quan có thẩm quyền trong đàm phán TPP cân nhắc các nội dung tại
Khuyến nghị này trong quá trình xây dựng phương án đàm phán của Việt Nam cho
lĩnh vực này.
Trung tâm WTO
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

2

Phần thứ nhất
CÁC QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN VẤN ĐỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
TRONG ĐÀM PHÁN HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƢƠNG
Bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ (IP) là một trong những lĩnh vực được quan tâm
trong khuôn khổ các đàm phán FTA gần đây của các nước phát triển. Sở hữu trí tuệ
vì vậy cũng là một chủ đề lớn trong đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình
Dương (TPP), một hiệp định được cho là “thế hệ mới”, “tiêu chuẩn cao” giữa chín
nước trong đó có những nước phát triển ở mức độ cao như Hoa Kỳ, phát triển ở mức
độ vừa phải như Úc, New Zealand, Singapore, Brunei, Chi lê và cả các nước đang
phát triển như Malaysia, Peru, Việt Nam.
Đối với Hoa Kỳ, một thành viên có tiếng nói quan trọng trong đàm phán TPP, IP là
vấn đề luôn được nhấn mạnh trong đàm phán, theo hướng TRIPS+ (các đòi hỏi về
mức độ bảo hộ IP cao hơn mức độ đã được ghi nhận tại Hiệp định WTO về các khía
cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)). Điều này cũng được thể hiện rất
rõ ràng trong Dự thảo Chương IP (bản bị tiết lộ tháng 5/2012) mà Hoa Kỳ đưa ra

trong đàm phán này.
Theo thông tin được tiết lộ thì trong đàm phán Chương IP, các nước đối tác TPP có
những cách tiếp cận riêng căn cứ vào những lợi ích cụ thể của mình trong vấn đề
này. Phần này phân tích các khía cạnh kinh tế xã hội cụ thể của Việt Nam từ góc độ
lợi ích của doanh nghiệp, người dân và của cả nền kinh tế, từ đó kiến nghị các quan
điểm tiếp cận thích hợp với Việt Nam trong vấn đề này.
1. Lựa chọn nào thích hợp: “Lợi ích suy đoán” hay “Thiệt hại có thật”?
Về nguyên tắc, IP là vấn đề gắn với sáng tạo, tri thức, trí tuệ của con người, là động
lực và cơ sở cho mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội. Bảo hộ các quyền IP là bảo
vệ quyền lợi cho người sáng tạo/sở hữu các sản phẩm trí tuệ này, khuyến khích và
tạo động lực cho họ tiếp tục sáng tạo, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất và chất
lượng cuộc sống. Cũng như Chính phủ Việt Nam, doanh nghiệp và người dân Việt
Nam nhận thức khá rõ về những lợi ích cũng như sự cần thiết của việc bảo hộ các
quyền sở hữu trí tuệ trong thúc đẩy năng lực sáng tạo, tiến tới một nền kinh tế công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và một sự phát triển bền vững. Do đó, đã có một sự đồng
thuận tương đối trong việc Việt Nam tham gia dần dần vào những Công ước quốc tế
quan trọng trong việc bảo hộ IP (các Công ước WIPO) theo một lộ trình thích hợp.
Từ góc độ kinh tế vĩ mô, vấn đề bảo hộ IP cũng được biết tới như là một trong
những yếu tố có thể giúp thu hút đầu tư, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, góp phần
vào việc xây dựng nền sản xuất hiện đại hóa. Trong hoàn cảnh các nước đang phát
triển như Việt Nam có nhu cầu rất lớn về thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) và hướng
tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đây là các lợi ích rất hấp dẫn mà các đối tác phát

3

triển trong các đàm phán FTA thường đặc biệt nhấn mạnh khi thuyết phục các nước
đang phát triển chấp nhận các yêu cầu bảo hộ cao về IP.
Mặc dù vậy, nhiều phân tích logic cho thấy những lợi ích được kỳ vọng này không
hoàn toàn thuyết phục và thống kê thực tế không xác định được có sự gắn kết tương
đối giữa việc tăng cường mức độ bảo hộ IP và sự gia tăng FDI hay phát triển khoa

học công nghệ ở các nước đang phát triển.
Tăng cường bảo hộ IP có phải là điều kiện cần để thu hút FDI?
Một lập luận ủng hộ việc tăng cường các tiêu chuẩn bảo hộ IP là điều sẽ giúp thu hút
đầu tư nước ngoài (FDI), bởi các nhà đầu tư sẽ không phải lo ngại về việc công nghệ của
mình bị đánh cắp ở nước nhận đầu tư.
Trên thực tế, các nghiên cứu lý thuyết cũng như số liệu thực tiễn đã chỉ ra rằng đây
không phải lập luận có căn cứ.
Về mặt lý thuyết, FDI mà các nước đang phát triển mong muốn và kêu gọi là các khoản
đầu tư dài hạn, với các nhà máy, cơ sở sản xuất mở tại nước sở tại, sử dụng nhân công
địa phương, sản xuất ra hàng hóa xuất khẩu và (nếu có thể) chuyển giao công nghệ sản
xuất và kỹ năng quản lý.
Nếu thực sự đầu tư theo cách này, nhà đầu tư nước ngoài được suy đoán là quan tâm
nhiều hơn đến việc pháp luật nước sở tại về lao động có đủ nghiêm khắc để đảm bảo
rằng người lao động sẽ không học lỏm phương thức sản xuất, công nghệ hiện đại của
nhà đầu tư để rồi tự mở cơ sở sản xuất của mình hoặc sang làm việc cho đối thủ cạnh
tranh.
Ngược lại, nếu một nhà đầu tư chỉ quan tâm tới việc mở một cơ sở/văn phòng đại diện
nhỏ để qua đó nhập khẩu các thành phẩm vào bán tại nước sở tại thì họ sẽ rất chú trọng
tới pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu, bản quyền, sáng chế… để đảm bảo rằng các công ty
nội địa của nước sở tại sẽ không bắt chước sản phẩm của họ và khiến họ mất thị phần.
Nói cách khác, tăng cường bảo hộ IP không giúp các nước đang phát triển thu hút được
FDI đích thực mà hầu như chỉ tạo điều kiện cho các kiểu FDI ngắn hạn, bề mặt, hầu như
không mang lại lợi ích đáng kể cho nước nhận đầu tư.
Các số liệu thực tế về tình hình FDI ở các nước cũng cho thấy không có mối liên hệ rõ
ràng nào giữa việc gia tăng mức độ bảo hộ IP và hiệu quả thu hút FDI.
Ví dụ, Trung Quốc và Ấn Độ có mức độ bảo hộ IP thấp nhưng vẫn có thể thu hút nguồn
FDI khổng lồ. Trong khi đó các nước châu Phi với tiêu chuẩn bảo hộ IP thuộc hàng cao
nhất (do tiếp thu gần như toàn bộ pháp luật từ các nước phát triển) lại có mức thu hút
FDI khiêm tốn, nếu không nói là rất thấp.
Đối với cùng một nước, tình hình cũng tương tự. Ví dụ trước năm 1970, Ấn Độ là nước

có hệ thống bảo hộ sáng chế rất mạnh do thừa hưởng từ các quy định của Anh (mà Ấn
Độ là thuộc địa trước đây). Trong thời gian này, FDI vào Ấn Độ hầu như không đáng
kể. Từ sau năm 1970, thời điểm Ấn Độ sửa lại Luật Sáng chế của mình theo hướng giảm
bớt mức độ bảo hộ, nước này đã chứng kiến sự gia tăng ấn tượng về FDI. Ở Pháp, khi

4

mức độ bảo hộ sáng chế trở nên quá nặng nề, hàng loạt các công ty hóa chất và nhuộm
của nước này đồng loạt chuyển sản xuất sang Thụy Sỹ, nơi pháp luật không thừa nhận
bảo hộ các loại hóa chất dưới hình thức sáng chế.
Nghiên cứu của Liên Hợp quốc về mối liên hệ giữa bảo hộ IP và FDI cũng cho thấy
không có mối liên hệ rõ ràng nào giữa hai yếu tố này. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng chi
phí, quy mô thị trường, trình độ nhân lực, cơ sở hạ tầng và các điều kiện kinh tế vĩ mô
mới là các yếu tố quan trọng nhất quyết định hiệu quả thu hút đầu tư.
Do đó, từ cả góc độ logic lý thuyết lẫn số liệu thực tế, không có cơ sở nào để khẳng định
tăng cường bảo hộ IP sẽ là cơ sở thu hút FDI mạnh mẽ, nếu không nói là ngược lại.
Nguồn: Các quyền sở hữu trí tuệ trong các Hiệp định thương mại tự do, Sanya Reid
Smith, TWN 2008

Tăng cƣờng bảo hộ IP có giúp phát triển khoa học công nghệ ở các nƣớc đang phát
triển?
Bảo hộ IP, bảo vệ các quyền và lợi ích của những tổ chức/cá nhân sở hữu các sáng tạo,
vốn được cho là cơ chế cần thiết để khuyến khích các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo.
Điều được xem là khá hiển nhiên này trên thực tế lại không hoàn toàn chính xác khi
nhìn từ góc độ sự phát triển chung của hoạt động nghiên cứu, phát triển và sáng tạo của
xã hội.
Trong lịch sử phát triển của loài người, mọi bước sáng tạo, đặc biệt trong lĩnh vực khoa
học, là sự kế thừa những bước sáng tạo trước đó, người sáng tạo sau đứng trên vai
những người sáng tạo đi trước để sáng tạo và xây dựng nền khoa học thế giới đồ sộ như
hiện nay.

Bảo hộ IP có thể là động lực vật chất để các cá nhân, tổ chức sáng tạo nhưng không phải
là cơ chế để khuyến khích sáng tạo trong cộng đồng. Điều này đúng không chỉ đối với
các nước đang phát triển, nơi nhu cầu sử dụng tri thức, khoa học, sáng tạo đã có để phát
triển là rất lớn, mà còn đúng cả với các nước phát triển.
“Có trên 50 loại protein liên quan đến bệnh ung thư mà công ty chúng tôi không thể
triển khai nghiên cứu được bởi các tổ chức nắm giữ bản quyền sáng chế các loại protein
này từ chối cấp li-xăng hoặc đòi mức phí li-xăng quá cao” – Trích phát ngôn của Cán
bộ phụ trách khoa học của công ty dược Bristil-Myers Squibb.
Từ góc độ này, thay vì khuyến khích sáng tạo, bảo hộ IP có thể là hàng rào cản trở sáng
tạo của xã hội.
Ở góc độ khác, sáng tạo có thể phát triển mà không cần dựa vào hệ thống quy định bảo
hộ IP nào. Phần lớn các sáng tạo, phát minh nổi tiếng nhất của Thụy Sỹ được thực hiện
vào giai đoạn trước khi nước này có pháp luật bảo hộ IP. Tương tự với các phát minh
trong công nghiệp chế tạo máy ở Đài Loan… Ở Phương Tây, những sáng tạo quan trọng
nhất, cơ bản nhất được thực hiện vào thời Phục Hưng, khi chưa có quy định bảo hộ IP
nào. Ở Phương Đông, các loại thuốc đông y truyền thống được tìm tòi, sáng tạo từ hàng

5

nghìn năm nay và được sử dụng bởi hàng ngàn cộng đồng dân cư theo các cách thức
khác nhau mà không cần một hệ thống bảo hộ IP nào để khuyến khích phát triển.
Theo một điều tra do Công ty Carnegie tiến hành với khoảng 2000 giám đốc nghiên cứu
thì pháp luật bảo hộ IP (sáng chế và các quy định khác) đứng cuối cùng trong 5 yếu tố
có tác động lớn nhất đối với sáng tạo (trước đó là Tính bảo mật, Thời gian, Sản xuất hỗ
trợ, Dịch vụ/Bán hàng hỗ trợ).
Nguồn: “Chống độc quyền trí tuệ”, Boldrin&Levin, 2007
Bảo hộ IP gắn với việc bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu IP và ngăn cản việc phổ biến,
sử dụng rộng rãi các sản phẩm IP đó trong cộng đồng. Nói một cách khác, ở đây có
sự mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân với lợi ích chung của cộng đồng. Việc tìm ra một
điểm cân bằng cần thiết giữa hai nhóm lợi ích này cần được thực hiện trên cơ sở

phân tích hoàn cảnh kinh tế xã hội của mỗi nước trong từng thời kỳ.
Đối với Việt Nam, bảo hộ IP cần được đánh giá trong mối tương quan giữa yêu cầu
bảo vệ quyền của chủ sở hữu IP với nhu cầu tiếp cận tri thức, công nghệ và các sản
phẩm sáng tạo với mức chi phí chấp nhận được của các ngành khoa học, sản xuất,
của Nhà nước, các tổ chức nghiên cứu, sản xuất cũng như của người dân Việt Nam
hiện nay. Trong bối cảnh Việt Nam là nước đang phát triển, và chúng ta đang ở
bước sơ khai trong tiến trình ba cấp độ phát triển về khoa học công nghệ của thế giới
(bao gồm cấp độ 1 - làm theo, cấp độ 2 - cải tiến; cấp độ 3 - sáng tạo), nhu cầu của
công chúng, của nền kinh tế cũng như của sự nghiệp phát triển khoa học trong việc
tiếp cận tri thức, khoa học và công nghệ đã có sẵn của thế giới với chi phí thấp hoặc
không mất phí (để có thể “làm theo” được) là rất lớn.
Lịch sử phát triển ở nhiều nước trên thế giới cũng đã chứng minh chính khả năng
tiếp cận thuận lợi, dễ dàng các tri thức khoa học là tiền đề và cơ sở để các quốc gia
phát triển. Trong khi đó các quy định bảo hộ IP ngày nay hướng tới việc bảo vệ tối
đa quyền lợi của các cá nhân/tổ chức sở hữu và nắm giữ tri thức, khoa học công
nghệ, và vì vậy hạn chế quyền tiếp cận tri thức và khoa học của công chúng ở những
mức độ nhất định. Quy định IP càng cao (chặt chẽ), khả năng tiếp cận của công
chúng đối với các tri thức, công nghệ cần thiết càng giảm, và cơ hội để phát triển
cũng bị hạn chế tương ứng. Đây chính là lý do mà việc tăng cường bảo hộ IP ở mức
độ cao nhất có thể hầu như chỉ thích hợp với các nước ở phát triển đến cấp độ 3 (cấp
độ sáng tạo) – những nước đã chuyển từ nhập khẩu công nghệ sang xuất khẩu công
nghệ.
Tóm lại, trong khi bảo hộ IP là điều đã được thừa nhận là cần thiết và hợp lý, các
nước đang phát triển như Việt Nam luôn phải đứng giữa hai lựa chọn về mức độ bảo
hộ: hoặc là giảm mức độ bảo hộ IP để thúc đẩy phát triển phục vụ lợi ích của số
đông, hoặc là tăng mức bảo hộ IP dưới áp lực của các đối tác thương mại với hy
vọng có thể khuyến khích sáng tạo và thu hút FDI.

6


Việt Nam, vì vậy, phải nỗ lực để dung hòa giữa nhu cầu tăng cường khả năng tiếp
cận tri thức khoa học của đất nước và áp lực bảo hộ IP đang gia tăng từ các cam kết
thương mại. Về nguyên tắc, nếu việc bảo hộ IP mang đến lợi ích cho một nhóm nhỏ
nhưng ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích công cộng của một nhóm lớn hơn thì bảo hộ IP
cần phải được xem xét lại. Nếu những lợi ích hứa hẹn từ việc bảo hộ IP (như thu hút
đầu tư nước ngoài, thúc đẩy sáng tạo) đi ngược lại lợi ích thực tế trong phát triển của
đất nước thì việc bảo hộ đó càng cần được cân nhắc thận trọng.
Trên thực tế, các nước này lựa chọn chấp nhận bảo hộ IP nhưng việc bảo hộ là có
giới hạn.
2. Mức độ bảo hộ IP nhƣ thế nào là thích hợp?
Các quy định về IP trong khuôn khổ WTO (Hiệp định về các khía cạnh thương mại
của quyền sở hữu trí tuệ - TRIPS) được xây dựng trên cơ sở yêu cầu của các nước
phát triển, nhóm nắm thế chủ động trong đàm phán Uruguay thành lập Tổ chức
WTO này.
TRIPS bị phê phán là không phù hợp với nhu cầu và trình độ phát triển của các nước
đang và kém phát triển bởi các tiêu chuẩn quá cao, bảo vệ lợi ích của một nhóm
thiểu số giàu có (đa phần từ các nước phát triển) chống lại lợi ích công cộng của số
đông ở các nước này.
Mặc dù vậy, các nước đang phát triển trong WTO cũng đều đã phải chấp nhận các
chuẩn bảo hộ IP này trong TRIPS. Đây được xem như sự nhượng bộ và giới hạn tối
đa mà các nước đang phát triển có thể chấp nhận được trong vấn đề này (nói cách
khác, TRIPS là “điểm dung hòa” tối đa về vấn đề bảo hộ IP đối với các nước này).
TRIPS+, cách gọi khác của các yêu cầu bảo hộ IP cao hơn so với TRIPS, vì thế, là
điều đi ngược lại lợi ích chung của các doanh nghiệp, của nền kinh tế cũng như của
toàn xã hội ở những nước như Việt Nam.
Gia nhập WTO, Việt Nam đã chấp nhận áp dụng toàn bộ những tiêu chuẩn về bảo
hộ IP trong TRIPS (mặc dù tại thời điểm gia nhập WTO, nhiều chuyên gia cũng đã
cảnh báo rằng các tiêu chuẩn này là quá cao so với Việt Nam). Trong thời gian qua,
việc đảm bảo thực thi các cam kết trong khuôn khổ WTO về vấn đề này đã và đang
là thách thức đối với Việt Nam, không chỉ đối với các doanh nghiệp mà còn đối với

cả cộng đồng.
Tham gia đàm phán TPP với nhiều đòi hỏi TRIPS+, Việt Nam ở một vị thế khác so
với đàm phán WTO, Việt Nam có quyền có tiếng nói riêng của mình dựa vào nhu
cầu thực tế của Việt Nam về vấn đề này thay vì phải chịu áp đặt như khi đàm phán
WTO. Và vì vậy, việc đưa ra các cam kết về IP, vấn đề có liên quan đến những lợi
ích cộng đồng quan trọng, cần được cân nhắc một cách cẩn trọng và kiên quyết.
Hơn nữa, sau TPP, Việt Nam đang dự định tham gia đàm phán nhiều Hiệp định
thương mại tự do (FTA) với những đối tác quan trọng (ví dụ EU, Nga…). Những

7

cam kết trong TPP có thể là một “ràng buộc” (“trần dưới”) cho những cam kết trong
các FTA tương lai này. Vì vậy, đàm phán TPP càng cần phải thận trọng nhiều hơn.
Tóm lại, nhìn tổng thể, từ nhu cầu thực tế của Việt Nam, các yêu cầu về TRIPS+ nói
chung và TRIPS+ trong TPP (với đối tác lớn, nguồn xuất khẩu tri thức và khoa học
quan trọng mà Việt Nam cần tiếp cận như Hoa Kỳ) cần phải loại bỏ hoàn toàn khỏi
lời văn cam kết mở cửa. Và điều này là hoàn toàn khả thi từ góc độ nguyên tắc đàm
phán TPP.
Cộng đồng doanh nghiệp và người dân mong chờ ở các nhà đàm phán Việt Nam
thái độ cương quyết trong đàm phán về vấn đề này nhằm đảm bảo TRIPS+, nếu có,
ở mức thấp nhất có thể trong khuôn khổ TPP.
TRIPS+ không phù hợp với lợi ích hiện tại và trong tương lai của Việt Nam và do
đó, cần hạn chế tối đa các cam kết TRIPS+ trong TPP


8

Phần thứ hai
CÁC KHUYẾN NGHỊ VỀ PHƢƠNG ÁN ĐÀM PHÁN
TRONG MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỤ THỂ CHƢƠNG SỞ HỮU TRÍ TUỆ TPP

Từ quan điểm tiếp cận chung liên quan đến các cam kết về quyền sở hữu trí tuệ như
Phần thứ nhất, có thể thấy phần lớn các đề xuất chi tiết trong Dự thảo bị tiết lộ về
Chương IP của Hoa Kỳ trong TPP tháng 5/2012 (sau đây gọi là Dự thảo) nếu chấp
thuận sẽ có tác động bất lợi cho Việt Nam ở các mức độ khác nhau.
Do chưa có điều kiện để phân tích cụ thể toàn bộ các đề xuất trong Dự thảo, phần
dưới đây chỉ tập trung vào các đề xuất trong Dự thảo của Hoa Kỳ suy đoán là sẽ có
ảnh hưởng nghiêm trọng nhất tới những lợi ích cơ bản mà Việt Nam cần có quan
điểm kiên quyết trong đàm phán. Trong khi với một số đề xuất khác trong Dự thảo
Việt Nam có thể cân nhắc các phương án khác nhau về mức độ chấp thuận, những
vấn đề được lựa chọn phân tích và nêu dưới đây này là không thể thỏa hiệp do
những tác động tiềm tàng đặc biệt của chúng đối với các lợi ích công cộng quan
trọng và sự phát triển của Việt Nam.
I. Về Sáng chế (Patent)
Sáng chế là một trong những chủ đề gây nhiều tranh cãi trong các đàm phán FTA
của Hoa Kỳ nói chung và đàm phán TPP nói riêng. Điều này xuất phát từ các lợi ích
trái ngược nhau giữa Hoa Kỳ và các nước đang phát triển như Việt Nam trong vấn
đề này. Vì vậy, để có thể đạt được kết quả khả thi trong đàm phán, Việt Nam cần có
quan điểm tiếp cận vấn đề từ hoàn cảnh cụ thể của mình và có các phương án đàm
phán cụ thể thích hợp.
Các nội dung dưới đây phân tích và đưa ra quan điểm cùng các kiến nghị phương án
đàm phán về sáng chế thích hợp cho Việt Nam trên cơ sở cân nhắc lợi ích tổng thể
của các bên liên quan ở Việt Nam.
1. Quan điểm tiếp cận đối với bảo hộ Sáng chế ở Việt Nam
Theo định nghĩa
1
, sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình
nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Như
vậy sáng chế có thể bao gồm hầu như tất cả những sáng tạo khoa học phục vụ cho
sản xuất và phát triển. Cũng vì vậy, bảo hộ độc quyền đối với sáng chế như thế nào
sẽ có tác động trực tiếp đến khả năng phổ biến và ứng dụng khoa học trong sản xuất

và đời sống.
Về bản chất, bằng sáng chế độc quyền mang lại quyền và lợi ích cho chủ sở hữu
bằng sáng chế trong quan hệ với người sử dụng các sản phẩm từ sáng chế được bảo
hộ đó. Người sử dụng phải trả phí bản quyền (thông qua việc trả phí trực tiếp để


1
Điều 4.13 Luật Sở hữu trí tuệ

9

được phép sản xuất hoặc trả phí thông qua giá đối với sản phẩm có bản quyền) cho
chủ sở hữu bằng sáng chế. Chính vì phí bản quyền này mà khả năng mở rộng và
phát triển rộng rãi các sáng chế bị giới hạn đáng kể.
Đối với một nước có nền sản xuất còn nhiều hạn chế, khả năng sáng tạo chưa cao,
hầu như chỉ nhập khẩu công nghệ như Việt Nam (tương tự như với tất cả các nước
đang phát triển khác), nhìn chung càng tăng cường bảo hộ sáng chế, doanh nghiệp,
người tiêu dùng các sản phẩm công nghệ ở Việt Nam càng bị thiệt hại. Trong hoàn
cảnh Việt Nam đang cố gắng tiếp nhận, hấp thụ càng nhiều sản phẩm công
nghệ/sáng tạo với giá càng rẻ càng tốt để tăng chất lượng cuộc sống, sức khỏe, hiệu
quả sản xuất thì mọi đề xuất tăng cường bảo hộ sáng chế (dưới bất kỳ hình thức nào)
so với các mức bảo hộ hiện tại của TRIPS đều là bất lợi cho Việt Nam nói chung và
có thể tác động nghiêm trọng tới một số nhóm cụ thể (như sẽ trình bày dưới đây).
1.1. Vấn đề sáng chế đối với dược phẩm và các biện pháp chữa bệnh cho người
Dược phẩm là một trong những lĩnh vực được xem là nhạy cảm nhất trong các vấn
đề về Sáng chế bởi sản phẩm này có liên quan tới một lợi ích công cộng đặc biệt
quan trọng: sức khỏe, tính mạng con người và xa hơn là sự tồn tại và chất lượng
cuộc sống của cộng đồng.
Theo TRIPS, các loại dược phẩm hiện đại (không tính thuốc đông y truyền thống)
đều có thể được xem là sáng chế. Những dược phẩm được đăng ký bảo hộ sáng chế

và còn trong thời hạn bảo hộ được gọi là “thuốc có bản quyền”, chỉ chủ sở hữu có
quyền cho phép sản xuất. Các đơn vị sản xuất khác nếu muốn sản xuất thuốc có bản
quyền đó thì phải trả tiền cho chủ sở hữu sáng chế theo thỏa thuận và vì vậy giá của
các dược phẩm được sản xuất ra sẽ phải bao gồm cả tiền bản quyền này. Trên thực
tế, nhiều hãng dược đã bị chỉ trích bởi đã thu lợi quá lớn từ bản quyền dược phẩm
(bằng cách đòi mức phí bản quyền cao) khiến giá thuốc trở nên bất hợp lý và không
thể “chịu đựng” được bởi người bệnh ở nhiều nước trên thế giới. Giá thuốc chỉ rẻ đi
khi thuốc hết thời hạn bảo hộ độc quyền (gọi là thuốc generic), các nhà sản xuất
khác nếu có khả năng (có công nghệ và nguồn lực) có thể sản xuất thuốc generic mà
không phải trả phí bản quyền cho chủ sở hữu.
Mọi yêu cầu cao hơn TRIPS trong bảo hộ sáng chế (ví dụ gia hạn thời gian bảo hộ,
tạo thuận lợi để việc đăng ký bảo hộ dễ dàng, mức phạt vi phạm cao và nghiêm khắc
hơn…) đối với dược phẩm đồng nghĩa với việc giúp tăng cường quyền bảo hộ của
chủ sở hữu sáng chế. Điều này sẽ làm khó khăn cho việc sản xuất thuốc generic theo
các cách thức khác nhau. Hệ quả trực tiếp và tức thời là giá thuốc cao và điều kiện
để hạ giá thuốc hầu như không khả thi. Đối với một nước đang phát triển nói chung,
nơi thu nhập trung bình của người dân ở mức thấp và chi phí chữa bệnh chiếm một
tỷ trọng cao trong tổng chi phí sinh hoạt, giá thuốc cao đồng nghĩa với khả năng tiếp
cận thuốc giảm rõ rệt, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc bảo vệ sức khỏe của
từng cá nhân.

10

Trong các trường hợp mà chi phí dành cho dược phẩm và chữa trị được tài trợ bởi
Nhà nước thông qua các chương trình bảo vệ sức khỏe cộng đồng, giá thuốc cao
đồng nghĩa với việc số lượng người thụ hưởng ít hơn và/hoặc mức độ hỗ trợ trong
chữa trị giảm đi đáng kể (bởi nguồn lực của Nhà nước dành cho việc này ở các nước
đang phát triển là rất nhỏ). Nói cách khác bảo hộ sáng chế cao hơn TRIPS sẽ có tác
động tiêu cực, trực tiếp, tức thời và nghiêm trọng tới quyền tiếp cận dược phẩm và
công cuộc bảo vệ sức khỏe cộng đồng ở các nước đang phát triển. Và Việt Nam

không nằm ngoài quy luật này.
Thực trạng khả năng tiếp cận thuốc tại Việt Nam
Theo một khảo sát của WHO năm 2010 thì giá thuốc đại trà ở Việt Nam cao gấp 11,41 lần
giá thuốc trung bình trên thế giới, giá thuốc đặc trị thì cao gấp 46,58 lần trung bình thế giới.
Giá thuốc quá cao này là một nguyên nhân quan trọng khiến cho tỷ lệ bệnh nhân có khả
năng tiếp cận thuốc (thuốc có giá vừa phải, chất lượng tốt) rất thấp.
Cụ thể, ở Việt Nam mới chỉ có 20% số người có nhu cầu có thể tiếp cận thuốc (nói chung),
và chỉ có 13% đối tượng có nhu cầu có thể tiếp cận được thuốc dành cho bà mẹ, trẻ em.
Nguồn: Báo cáo “Giá thuốc khiến người dân ốm yếu hơn và nghèo hơn”, Văn phòng WHO
tại Việt Nam, 2010
Đối với các doanh nghiệp sản xuất dược ở các nước đang phát triển, TRIPS+ cũng
gây ra những khó khăn đáng kể bởi đây thường là những doanh nghiệp nhỏ, rất ít chi
phí cho việc nghiên cứu và phát triển dược phẩm mới và chủ yếu sản xuất thuốc
generic. Và TRIPS+ cản trở việc sản xuất thuốc generic của các doanh nghiệp này.
Tại nhiều diễn đàn khắp nơi trên thế giới, có một sự đồng thuận cao về việc trong
khi các lợi ích kinh tế cần được cân nhắc và bù trừ trong những trường hợp nhất
định trong khuôn khổ các đàm phán mở cửa thương mại, sức khỏe cộng đồng là điều
không thể bị hy sinh vì bất kỳ lợi ích nào khác.
Trong khuôn khổ WTO, bản thân các nước cũng thừa nhận rằng TRIPS là tiêu
chuẩn quá cao nếu xét từ góc độ dược phẩm. Đây là lý do tại sao các nước đồng
thuận trong việc đưa ra tuyên bố Doha 2001 về việc áp dụng linh hoạt TRIPS đối
với các trường hợp liên quan đến quyền tiếp cận dược phẩm của công chúng. Và đây
là căn cứ quan trọng để các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, áp dụng cũng
như đòi hỏi những tiêu chuẩn IP linh hoạt và phù hợp trong vấn đề này trong cả
WTO lẫn các đàm phán thương mại khác.
Do đó, cả từ góc độ lợi ích lẫn khả năng đàm phán, các nhà đàm phán của Việt
Nam cần và hoàn toàn có thể không nhân nhượng với bất kỳ đòi hỏi TRIPS+ nào từ
phía các đối tác TPP đối với vấn đề dược phẩm.
Trường hợp không có sự phân biệt về đối tượng áp dụng trong các quy định Chương
IP của TPP, ít nhất cần có quy định nêu rõ dược phẩm và các nhóm sản phẩm dịch


11

vụ y tế là ngoại lệ của các quy định TRIPS+ trong Chương này và rằng các hình
thức áp dụng linh hoạt TRIPS trong Tuyên bố Doha 2001 là một bộ phận không tách
rời của Chương này.
1.2. Vấn đề sáng chế đối với lĩnh vực nông nghiệp (đặc biệt là nông hóa
phẩm, các loại giống cây trồng, vật nuôi)
Với lực lượng lao động (hoạt động toàn bộ hoặc bán thời gian) chiếm tới trên 48%
tổng số dân trong độ tuổi lao động và 69,4% dân số sống ở khu vực nông thôn,
ngành nông nghiệp tuy chỉ đóng góp 22,02% tổng giá trị sản phẩm trong nước
2

nhưng có ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của đa số dân cư Việt Nam.
Các quy định về tăng cường mức độ bảo hộ sáng chế có ảnh hưởng trực tiếp tới giá
của các loại nông hóa phẩm quan trọng trong nông nghiệp như thuốc bảo vệ thực
vật, thuốc thú y, phân bón, thức ăn gia súc… bởi các sản phẩm này hầu hết đều là
đối tượng của các sáng chế. Cơ chế ảnh hưởng tương tự như phân tích đối với dược
phẩm (nêu trên): sản phẩm được bảo hộ thì giá thành phải cõng thêm phí bản quyền
(mà thường là rất cao) và do đó càng tăng cường bảo hộ sáng chế, nguy cơ các sản
phẩm độc quyền bị tăng giá càng cao hơn.
Trong khi đó, với trình độ sản xuất còn thấp như hiện tại, chi phí dành cho thuốc thú
y, thuốc bảo vệ thực vật và các hóa chất phục vụ nông nghiệp chiếm một tỷ trọng
đáng kể trong tổng chi phí sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Giá nông hóa phẩm tăng
sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam, qua
đó tác động tức thời đến thu nhập của một bộ phận lớn dân cư sống dựa vào sản xuất
nông nghiệp.
Hơn nữa, trong nhiều FTA gần đây các nước phát triển như Hoa Kỳ còn ép đưa vào
những quy định mới cho phép mở rộng đối tượng có thể được bảo hộ qua bằng sáng
chế, cụ thể bảo hộ sáng chế đối với các loại giống cây trồng và vật nuôi (vốn là

những đối tượng mà theo TRIPS các nước được phép loại trừ khỏi phạm vi bảo hộ
sáng chế do có thể gây tác động lớn tới sản xuất lương thực, thực phẩm cũng như đa
dạng sinh học). Nếu trong TPP có những quy định như vậy, chi phí cho các loại cây,
con giống mới cho năng suất cao sẽ là rất lớn.
Trong khi đó, khác với lĩnh vực dược phẩm và quyền tiếp cận dược phẩm của công
chúng, nông nghiệp không phải mối quan tâm chung của các nước đang phát triển
trong đàm phán TPP (bởi họ không có ngành nông nghiệp như Việt Nam). Vì vậy,
Việt Nam có thể không nhận được sự ủng hộ của các đối tác trong đàm phán để bảo
vệ những lợi ích nông nghiệp trong các quy định về sáng chế tại chương IP. Do đó,
các nhà đàm phán Việt Nam càng cần phải quyết tâm và cứng rắn hơn trong đàm
phán về vấn đề này nhằm bảo vệ tốt nhất một nhóm lợi ích đặc biệt quan trọng của
Việt Nam. Bởi lợi ích về nông nghiệp và quyền lợi của hàng triệu nông dân, nhóm


2
Theo Báo cáo kinh tế xã hội của Chính phủ năm 2011.

12

đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương và cần bảo vệ nhất trong quá trình hội nhập của
Việt Nam không thể bị đánh đổi cho bất kỳ lợi ích nào (đặc biệt khi những lợi ích đó
chỉ là suy đoán, và không chắc chắn – ví dụ như kỳ vọng tăng trưởng FDI nhờ bảo
vệ IP; hoặc chỉ hướng vào một nhóm nhỏ mà vốn đã có thu nhập rất cao - các chủ sở
hữu sáng chế các nông hóa phẩm ở nước ngoài).
Trong khi các nhà đàm phán Hoa Kỳ thường rất cứng rắn trong các vấn đề về IP
dưới áp lực của các công ty lớn trong nước họ, các nhà đàm phán Việt Nam cũng
cần có sự quyết tâm tương tự trong việc từ chối các đề xuất này bởi lợi ích mà Việt
Nam bảo vệ là chính đáng, và trong so sánh với các nhóm lợi ích mà Hoa Kỳ cần
bảo vệ thì rõ ràng những lợi ích của nhóm yếu thế, đông đảo và có thu nhập thấp cần
phải được ưu tiên hơn.

Do vậy, từ góc độ lợi ích của nông dân, đối với mọi đề xuất TRIPS+ mà các đối tác
đưa ra trong TPP, nếu có, đoàn đàm phán Việt Nam đều cần đòi hỏi các ngoại lệ
đối với nhóm sản phẩm thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật và các nông hóa phẩm
khác, nhằm bảo vệ lợi ích của một bộ phận dân cư dễ bị tổn thương trong xã hội.
Tăng cường bảo hộ độc quyền sáng chế (TRIPS+ về patent) đi ngược lại lợi ích và
nhu cầu phát triển của Việt Nam

2. Các kiến nghị phƣơng án đàm phán cụ thể về sáng chế
Dưới đây là các phân tích và kiến nghị phương án đàm phán cụ thể đối với một số
đề xuất của Hoa Kỳ về sáng chế suy đoán là có tác động bất lợi nghiêm trọng nhất
tới Việt Nam.
2.1. Đối với đề xuất mở rộng đối tượng có thể được bảo hộ thông qua Bằng
Sáng chế của Hoa Kỳ
Điều 8 Dự thảo Chương IP của Hoa Kỳ trong TPP đề xuất mở rộng đối tượng độc
quyền sáng chế cho các loại sau đây:
- Các hình thức mới hay cách sử dụng mới của các loại thuốc cũ và các phương
pháp điều trị (và quy trình phẫu thuật mới);
- Các phương pháp chẩn đoán và chữa trị cho người và động vật
- Các loại thực vật, động vật
Như đã đề cập trong phần quan điểm tiếp cận, mọi đề xuất mở rộng đối tượng có thể
được bảo hộ thông qua bằng sáng chế đều sẽ làm giảm khả năng tiếp cận và sử dụng
của công chúng đối với những đối tượng được bảo hộ mới đó.
Nhưng đối với đề xuất cụ thể này của Hoa Kỳ, vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn, ít
nhất đối với Việt Nam bởi các đối tượng được đề xuất mở rộng đều gắn với việc sử
dụng, sức khỏe và thu nhập của những nhóm dân cư đặc biệt nhạy cảm. Cụ thể:

13

(i) Đối với các hình thức mới/cách sử dụng mới của các loại dược phẩm và
phương pháp điều trị đã có

Theo các quy định hiện tại của TRIPS (và đã được thể hiện tương tự trong
pháp luật Việt Nam), đối với mỗi loại thuốc, chứng nhận độc quyền chỉ
được cấp trong vòng 20 năm, sau thời gian này, các chủ thể khác có
quyền tiếp cận để sản xuất loại thuốc với thành phần (generic) tương tự
mà không phải trả phí bản quyền/phí sử dụng sản phẩm độc quyền sáng
chế.
Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều công ty dược đã tìm các cách khác nhau để
kéo dài thời hạn 20 năm độc quyền này bằng cách tạo ra những thay đổi
nhỏ đối với các loại thuốc cũ (ví dụ thay vì thuốc viên thì sản xuất thuốc
dạng nước/siro, bổ sung khả năng bảo quản thuốc trong điều kiện độ ẩm
cao hơn,…) và đăng ký nhiều chứng nhận độc quyền bổ sung cho các loại
dạng mới đó (trong chuyên môn, thủ thuật này được gọi là
“evergreening”), từ đó đăng ký độc quyền đối với một số loại thuốc bị kéo
dài thêm nhiều lần quy định 20 năm ban đầu. Điều này khiến cho lợi ích
các bên liên quan (đặc biệt là người bệnh và các tổ chức hoạt động nhằm
đưa nhiều thuốc hơn đến tay người bệnh với giá rẻ hơn) bị ảnh hưởng
nghiêm trọng.
Đề xuất này của Hoa Kỳ thực chất là hợp pháp hóa hiện tượng
evergreening - lạm dụng quyền sáng chế nói trên. Trên thực tế, chính các
công ty dược Hoa Kỳ là nhóm đã vận động Hoa Kỳ thực hiện điều này.
Trên thực tế, nhiều nước đang phát triển (là những nước mà người bệnh
có thu nhập thấp, có nhu cầu rất lớn trong việc tiếp cận thuốc giá rẻ) đã
bắt đầu có những biện pháp khác nhau để cấm hiện tượng evergreening
này của các công ty dược phẩm nước ngoài trên lãnh thổ của mình. Ví dụ
Ấn Độ đã thông qua quy định hạn chế độc quyền về các hình thức mới
của các loại thuốc cũ (kết hợp, siro…) và các cách sử dụng mới của các
loại thuốc cũ. Phillipines cũng đưa vào pháp luật IP của mình về chứng
nhận độc quyền các quy định cấm evergreening năm 2008.
Chấp nhận đề xuất này của Hoa Kỳ đồng nghĩa với việc cho phép gia tăng
thời hạn bảo hộ độc quyền của một sản phẩm lên nhiều lần (so với thời

hạn gốc 20 năm hiện nay). Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải chờ thêm
rất nhiều thời gian để có thể sản xuất thuốc generic giá rẻ. Khả năng tiếp
cận thuốc giá rẻ của người dân Việt Nam cũng từ đó mà bị hạn chế đi rất
nhiều.



14

(ii) Đối với các phương pháp chẩn đoán và chữa trị cho người và động vật
Pháp luật IP Việt Nam, phù hợp WTO (TRIPS), hiện không bảo hộ các
phương pháp chẩn đoán và điều trị. Đằng sau quy định này của TRIPS là
mối quan tâm đến lợi ích của cộng đồng người bệnh trong việc sử dụng
các phương pháp chẩn đoán và điều trị để bảo vệ tính mạng, sức khỏe con
người.
Nếu đề xuất này của Hoa Kỳ được chấp thuận trong TPP, các bệnh viện
và cơ sở y tế sử dụng các phương pháp chẩn đoán và chữa trị sẽ phải trả
tiền bản quyền cho các phương pháp này nếu chúng đã bị các công ty
đăng ký bảo hộ độc quyền. Hiện tại, khi việc sử dụng các phương pháp
này còn chưa phải trả tiền bản quyền, chi phí cho dịch vụ y tế ở Việt Nam
cũng đã rất cao so với thu nhập của một bộ phận dân cư, nếu thực hiện
theo đề xuất này, chi phí này có thể sẽ gia tăng đáng kể.
Cũng như vậy, với các tiêu chuẩn IP cao như thế này, việc sử dụng các
phương pháp trong phòng chống các bệnh ở vật nuôi cũng sẽ gặp khó
khăn và chi phí cho việc này cũng sẽ tăng lên (ảnh hưởng trực tiếp và
đáng kể đến hiệu quả nuôi trồng và thu nhập của nông dân Việt Nam).
(iii) Đối với giống cây trồng, vật nuôi
Hiện tại TRIPS cho phép các nước được loại trừ các loại giống cây trồng,
vật nuôi ra khỏi phạm vi các đối tượng có thể được bảo hộ thông qua bằng
sáng chế. Và điều này chắc chắn không phải là ngẫu nhiên. Mối quan ngại

về an ninh lương thực, về đa dạng sinh học, về cuộc sống của nhiều cộng
đồng dân cư lớn tại khu vực nông nghiệp nhưng yếu thế và dễ bị tổn
thương trong hội nhập… đã được đặt cao hơn những đòi hỏi bảo hộ vì lợi
ích của một nhóm nhỏ các tổ chức, cá nhân có nguồn lực mạnh.
Nếu Việt Nam chấp nhận đề xuất của Hoa Kỳ về việc đưa các loại giống
cây trồng, vật nuôi thành đối tượng của sáng chế để bảo hộ, ít nhất những
nguy cơ sau đây có thể sẽ thành hiện thực:
- Các loại cây, con giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt sẽ không
thể được sử dụng vào nuôi trồng trực tiếp bằng hạt giống, con giống
sau thu hoạch mà phải phụ thuộc vào sự cho phép và phải trả tiền phí
cho tổ chức, cá nhân giữ bản quyền. Điều này ngăn cản người nông
dân tranh thủ các loại giống mới để gia tăng sản xuất, nâng cao thu
nhập;
- Đối với những giống cây trồng “được bảo hộ sáng chế”, người nông
dân sẽ không được phép giữ hạt giống từ mùa này để trao đổi với các
nông dân khác vào các mùa sau;

15

- Các loại cây trồng, vật nuôi được lai tạo (tạo ra) bởi những người nông
dân bình thường có thể bị các công ty “đánh cắp” bằng cách đăng ký
sáng chế cho loại cây trồng, vật nuôi đó. Những người nông dân - chủ
nhân thực sự của các loại giống này (người thường không biết, hoặc
nếu biết cũng không có đủ nguồn lực để đáp ứng các thủ tục và điều
kiện để đăng ký sáng chế) sẽ không được sử dụng chính các loại cây,
con này nếu không trả tiền cho các công ty đã được cấp đăng ký sáng
chế. Những nông dân khác cũng không thể sử dụng các giống cây, con
này ngay cả khi được sự đồng ý của chính những người đã lai tạo ra
chúng.
Từ phân tích nêu trên, có thể thấy đề xuất này của Hoa Kỳ rất bất lợi cho Việt Nam,

đặc biệt cho những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương và cần được bảo vệ đặc biệt.
Do đó Việt Nam có lý do và cơ sở để kiên quyết phản đối đề xuất này của Hoa Kỳ.
Việt Nam cần kiên quyết bác bỏ các đề xuất mở rộng đối tượng của bằng sáng
chế, đặc biệt là đối với:
- Các hình thức mới hay cách sử dụng mới của các loại thuốc cũ và các
phương pháp điều trị (và quy trình phẫu thuật mới);
- Các phương pháp chẩn đoán và chữa trị cho người và động vật
- Các loại thực vật, động vật
2.2. Đối với các đề xuất khiến việc đăng ký độc quyền sáng chế đơn giản và
nhanh chóng hơn
Các thủ tục cấp bằng sáng chế không chỉ là cần thiết để cơ quan có thẩm quyền xem
xét xem đơn yêu cầu đã đáp ứng đủ các điều kiện để được cấp bằng sáng chế chưa
mà còn là thời gian để các bên có quyền và lợi ích liên quan có thể có tiếng nói
trong việc cấp hay không cấp bằng sáng chế.
Khác với các thủ tục hành chính thông thường (thủ tục càng nhanh chóng, càng
thuận tiện càng tốt), thủ tục cấp bằng sáng chế cần phải thực hiện rất thận trọng bởi
ở đây có sự đối lập về lợi ích giữa người sẽ là chủ bằng sáng chế với cộng đồng. Do
đó, việc đơn giản hóa thủ tục cấp bằng sáng chế mang một ý nghĩa khác chứ không
đơn thuần là cải cách hành chính và cần được thực hiện thận trọng.
Trong khi đó, Điều 8.6 và 8.7 Dự thảo Chương IP của Hoa Kỳ trong TPP yêu cầu
các nước thành viên TPP:
- không cho phép các hình thức phản đối việc cấp chứng nhận độc quyền trước
khi chứng nhận này được cấp;
- phải gia hạn bằng sáng chế để tính cả thời gian xem xét cấp bằng.

16

Đề xuất này của Hoa Kỳ khiến cho quá trình cấp bằng đơn giản và dễ dàng hơn nó
vốn phải thế (theo TRIPS) và vì vậy có thể gây ra thiệt hại đáng kể cho những người
có lợi ích đối lập với người xin cấp bằng sáng chế. Cụ thể:

- Đề xuất này tước đi một quyền quan trọng của các chủ thể có lợi ích đối lập
với chủ thể muốn được cấp bằng độc quyền sáng chế theo quy định hiện tại
của Việt Nam
Theo Điều 112 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, bất kỳ ai, nếu có bằng chứng cụ thể,
cũng có thể phản đối việc cấp đăng ký chứng nhận độc quyền đối với một sản
phẩm nhất định tại Việt Nam và việc phản đối này có thể được thực hiện
bằng cách gửi phản đối tới Cơ quan có thẩm quyền cấp bằng sáng chế. Và khi
có một phản đối như vậy, cơ quan có thẩm quyền sẽ phải xem xét và chỉ chấp
nhận cho đăng ký khi đã có kết luận cuối cùng về việc yêu cầu đăng ký đó là
phù hợp. Quy định này góp phần hạn chế quyền đăng ký chứng nhận độc
quyền của các chủ sở hữu và tạo điều kiện để các bên có lợi ích liên quan (ví
dụ các nhóm bệnh nhân, đại diện của những người nông dân bị “đánh cắp”
loại giống cây trồng/vật nuôi, các nhà sản xuất nội địa…) được có thêm kênh
hữu hiệu nhằm bảo về lợi ích hợp pháp và chính đáng của mình.
Tất nhiên, các nhóm này vẫn có thể phản đối sau khi bằng sáng chế được cấp.
Tuy nhiên, việc phản đối nếu thực hiện sau khi chứng nhận đăng ký độc
quyền đã được cấp sẽ kém hiệu quả hơn và gây thiệt hại hơn cho người phản
đối, ít nhất là bởi thực tế là trong quá trình cơ quan có thẩm quyền điều tra về
khiếu nại liên quan đến bằng đăng ký độc quyền, bằng này sẽ vẫn có hiệu lực
và vì vậy các bên liên quan vẫn sẽ phải chịu thiệt hại trong suốt thời gian này.
Hơn nữa, việc dỡ bỏ một bằng sáng chế đã được cấp thường là khó khăn và
phức tạp hơn là xem xét để không cấp bằng này từ ban đầu.
- Đề xuất này đi ngược cách thức truyền thống đã được ghi nhận trong TRIPS
theo đó thời gian xem xét cấp bằng sáng chế được tính vào thời hạn bảo hộ
độc quyền của bằng này (một thỏa hiệp trong TRIPS) và mang lại một sự bảo
đảm lớn về lợi ích cho tổ chức, cá nhân được cấp bằng.
Khác với các thủ tục hành chính thông thường, thủ tục xem xét cấp bằng sáng
chế nếu đi theo hướng thuận lợi, đơn giản và nhanh chóng hơn là đi ngược lại lợi
ích của cộng đồng. Và vì vậy, Việt Nam cần bác bỏ các đề xuất này.
2.3. Đối với các đề xuất của Hoa Kỳ về liên kết sáng chế

Điều 9.5 Dự thảo Chương IP của Hoa Kỳ trong TPP nêu nghĩa vụ của các quốc gia
về liên kết sáng chế, theo đó với mỗi đơn yêu cầu cho phép một sản phẩm thuốc cho
người hoặc động thực vật (mà chủ yếu là thuốc generic) tiếp cận thị trường (đăng ký
lưu hành), cơ quan có thẩm quyền phải rà soát tất cả các bằng sáng chế liên quan

17

đang có hiệu lực, phải thông báo cho chủ sở hữu các bằng sáng chế đó biết về yêu
cầu này và trường hợp có khiếu nại thì phải dừng việc cấp phép lưu hành cho đến
khi nào khiếu nại được giải quyết xong.
Liên kết sáng chế đặt lên vai cơ quan có thẩm quyền cấp phép lưu hành những gánh
nặng trách nhiệm rất lớn và bảo vệ các chủ sở hữu sáng chế đang có hiệu lực một
cách quá mức. Cụ thể, việc đòi hỏi với mỗi yêu cầu đăng ký lưu hành của sản phẩm
generic, cơ quan có thẩm quyền phải rà soát tất cả các bằng sáng chế liên quan đang
có hiệu lực, phải thông báo cho chủ sở hữu các bằng sáng chế đó biết về yêu cầu này
khiến cho cơ quan này mất thêm nhiều thời gian, nguồn lực.
Hơn nữa, quy định này còn chuyển toàn bộ rủi ro sang người có yêu cầu đăng ký lưu
hành thuốc generic bởi cơ quan có thẩm quyền sẽ tự động hoãn việc cấp phép lưu
hành trong trường hợp có khiếu nại từ các chủ sở hữu bằng sáng chế đang có hiệu
lực. Và việc dừng lại này sẽ kéo dài cho đến khi nào khiếu nại được giải quyết xong.
Với những yêu cầu như thế này, việc cho phép thuốc generic được lưu hành sẽ gặp
khó khăn hơn nhiều.
II. Về độc quyền dữ liệu (Data exclusivity) và Tuyên bố Doha 2001
Bên cạnh những đề xuất về IP áp dụng đối với tất cả các đối tượng liên quan, Hoa
Kỳ còn đưa ra đề xuất về độc quyền dữ liệu chỉ áp dụng đối với một số loại sản
phẩm nhất định (dược phẩm, nông hóa phẩm). Phân tích tác động tiềm tàng của các
đề xuất này cho thấy nếu không thận trọng, Việt Nam sẽ chịu thiệt hại đáng kể.
Ngoài ra, liên quan đến dược phẩm, trong khuôn khổ WTO đã có những nguyên tắc
riêng về các ngoại lệ đối với quyền sở hữu trí tuệ có lợi cho Việt Nam, và vì vậy cần
được cân nhắc đưa vào lời văn TPP.

1. Về độc quyền dữ liệu (đối với dƣợc phẩm, nông hóa phẩm)
Điều 9 Dự thảo Chương IP của Hoa Kỳ trong TPP nêu nghĩa vụ của các quốc gia về
độc quyền dữ liệu theo đó cơ quan có thẩm quyền không được dựa trên dữ liệu về
tính an toàn và hiệu quả của dược phẩm (pharmaceutical products) và các nông hóa
phẩm (agricultural chemical products - thuốc bảo vệ thực vật, phân bón…) tương tự
đã đăng ký bảo hộ trước đó để cấp đăng ký lưu hành cho thuốc generic.
Độc quyền dữ liệu khiến các đơn vị muốn đăng ký lưu hành một sản phẩm tương tự
phải thực hiện lại tất cả các thử nghiệm, phải tập hợp các dữ liệu tương tự… để xuất
trình khi yêu cầu cấp phép lưu hành. Điều này đòi hỏi người nộp đơn đăng ký mới
phải có một nguồn lực đáng kể để chứng minh lại những gì đã được chứng minh.
Không phải ai cũng có tiềm lực để đáp ứng được yêu cầu này. Ngoài ra, ngay cả khi
làm được điều này, giá bán sản phẩm cũng sẽ bị đội lên do phải cõng thêm chi phí
thử nghiệm, đặt thêm gánh nặng lên vai người tiêu dùng. Sự tốn kém, lãng phí bất
hợp lý như vậy là rất khó chấp nhận trong hoàn cảnh Việt Nam.

18

Trong khi đó nếu không có quy định về độc quyền dữ liệu, các bên muốn đăng ký
hoàn toàn có thể tiết kiệm được một khoản chi phí và thời gian đáng kể bằng việc sử
dụng các dữ liệu thử nghiệm sẵn có từ các đăng ký đối với sản phẩm tương tự trước
đó.
Đối với dược phẩm, từ góc độ đạo đức y tế, những đòi hỏi về độc quyền dữ liệu
cũng là điều không thể chấp nhận được (đặc biệt khi quy định độc quyền dữ liệu sẽ
khiến các bên khác phải thực hiện lại những thử nghiệm trên người).
Việc chi phí xây dựng dữ liệu thử nghiệm lại đối với trường hợp thuốc thú y, thuốc
bảo vệ thực vật khiến giá nông hóa phẩm tăng cũng là bất hợp lý. Với các nước đối
tác đang đàm phán TPP khác, nông nghiệp không phải là ngành kinh tế quan trọng
và do đó có thể họ không mặn mà đấu tranh cho vấn đề này. Trong khi đó với Việt
Nam đây lại là một ngành sản xuất có vị trí đặc biệt bởi nó gắn với thu nhập của một
bộ phận dân cư lớn. Bất kỳ tác động bất lợi nào đối với khả năng tiếp cận và giá của

thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật ở Việt Nam cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp, tức thời
và nghiêm trọng tới bộ phận dân cư đặc biệt nhạy cảm này. Do đó, trong đàm phán,
Việt Nam càng cần phải kiên quyết hơn về vấn đề này để bảo vệ một lợi ích đặc biệt
quan trọng với riêng Việt Nam.
Cần bác bỏ các đề xuất về độc quyền dữ liệu đối với dược phẩm và nông hóa phẩm
trong Chương IP.
2. Tuyên bố Doha 2001 về IP đối với dƣợc phẩm
Tuyên bố Doha 2001 về việc áp dụng linh hoạt TRIPS đối với dược phẩm là một
văn bản ghi nhận tầm quan trọng, sự cần thiết và phù hợp đạo đức của việc áp dụng
linh hoạt các quy định của TRIPS nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Tuyên bố này
đã nhận được sự đồng thuận của tất cả các thành viên WTO, trong đó có các nước
TPP.
Trên thực tế, dù ngắn gọn và với nhiều nội dung chung, Tuyên bố Doha là một công
cụ hữu hiệu để nhiều nước đang phát triển bảo vệ lợi ích công cộng quan trọng về
sức khỏe cộng đồng của mình trước các yêu cầu bảo hộ IP. Pháp luật và thực tiễn
Việt Nam cũng đã và đang áp dụng những biện pháp linh hoạt (ngoại lệ so với
TRIPS) theo “sự cho phép” trong Tuyên bố Doha này (đặc biệt trong các nội dung
liên quan đến giấy phép bắt buộc).
Do đó, về mặt nội dung, việc đưa nội dung của Tuyên bố Doha và văn bản chính
thức của TPP là rất có ý nghĩa đối với Việt Nam.
Việc đưa Tuyên bố này thành nội dung chính thức của TPP cũng hoàn toàn khả thi
bởi trong Bản khung (Broad Outline) của TPP công bố tháng 11/2011, với sự chấp
thuận của nguyên thủ tất cả các nước thành viên TPP, Tuyên bố Doha cũng đã được
ghi nhận như là một “định hướng tiếp cận” cho đàm phán TPP, việc đưa Tuyên bố

19

này thành nội dung chính thức của TPP chỉ là một bước tiếp theo, phù hợp với ý chí
của lãnh đạo các nước TPP mà thôi.
III. Về Chỉ dẫn địa lý (Geographical indications – GI)

Trong số các đối tượng được bảo hộ IP, chỉ dẫn địa lý là một mảng tương đối quan
trọng với Việt Nam bởi đối tượng này có gắn với một nhóm các sản phẩm nông
nghiệp địa phương mà Việt Nam có thế mạnh, đồng thời nó cũng gắn với lợi ích của
cộng đồng dân cư nông thôn tham gia sản xuất và kinh doanh các sản phẩm đó.
Vì vậy, việc xây dựng quan điểm tiếp cận và phương án đàm phán phù hợp về chỉ
dẫn địa lý, nhằm bảo vệ những lợi ích công cộng đáng kể này cần được thực hiện
cẩn trọng.
1. Quan điểm tiếp cận vấn đề chỉ dẫn địa lý đối với Việt Nam
Chỉ dẫn địa lý – “dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa
phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể”
3
- là một đối tượng IP tương đối đặc
thù. Cụ thể:
- Thứ nhất, không giống với đa số các đối tượng IP khác, chỉ dẫn địa lý thường
không gắn với một sáng tạo đặc thù của cá nhân hay tổ chức cụ thể mà liên
quan tới một sản phẩm đặc trưng của một cộng đồng, tại những khu vực địa
lý nhất định. Cụ thể, chỉ dẫn địa lý cho phép gắn một sản phẩm với một khu
vực địa lý nơi nó được sản xuất ra với hàm ý rằng chất lượng của sản phẩm
đó có đặc trưng riêng biệt xuất phát từ môi trường địa lý, bao gồm cả các yếu
tố tự nhiên (khí hậu, thuỷ văn, địa chất, địa hình, hệ sinh thái ) và con người
(kỹ năng, kỹ xảo của người sản xuất, quy trình sản xuất truyền thống của địa
phương ) của khu vực này
4
. Nói cách khác, chỉ dẫn địa lý có mối quan hệ
chặt chẽ tới nguồn thu nhập, văn hóa và cả sự phát triển của những cộng đồng
dân cư nhất định.
- Thứ hai, vì các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý này có danh tiếng, chất lượng
đã được xác lập lâu dài, chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu để sản phẩm có thể được
đưa vào thương mại tốt hơn, mang lại lợi ích thực sự (chứ không phải là suy
đoán hay tiềm tàng) cho người kinh doanh các sản phẩm này. Nhìn xa hơn, từ

khía cạnh phát triển, chỉ dẫn địa lý còn là điều kiện để tăng cường chất lượng
lao động nông thôn, phát triển các kỹ năng sản xuất truyền thống và gìn giữ
các giá trị văn hóa xã hội gắn liền với các sản vật của cộng đồng liên quan.
Như vậy, chỉ dẫn địa lý là một đối tượng IP gắn với lợi ích quan trọng (cả thương
mại lẫn các lợi ích khác), của một cộng đồng tại một khu vực địa lý nhất định (thay


3
Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ
4
Điều 79 Luật Sở hữu trí tuệ “Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu
do điều kiện địa lý của khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết
định”.

20

vì của một tổ chức, cá nhân cụ thể). Và do đó cách thức để bảo hộ đối tượng này
cũng phải được tiếp cận theo cách thức thích hợp, khác với cách tiếp cận các đối
tượng IP như sáng chế, giải pháp hữu ích…
Trên thực tế, tùy thuộc vào đặc điểm riêng của các sản phẩm có chỉ dẫn địa lý ở mỗi
nước mà các nước lựa chọn hệ thống bảo hộ IP thích hợp. Theo thống kê, trong số
167 nước có hệ thống pháp luật ghi nhận về chỉ dẫn địa lý như một đối tượng của
quyền sở hữu trí tuệ, có tới 111 nước (trong đó có EU) có các quy định riêng biệt về
chỉ dẫn địa lý trong khi 56 nước còn lại (trong đó có Hoa Kỳ) lại sử dụng các quy
định về nhãn hiệu (trademark) để sử dụng cho chỉ dẫn địa lý
5
.
Các sản phẩm có thể gắn với các chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam đều chủ yếu là các sản
vật nông nghiệp hoặc các sản phẩm thủ công được sản xuất bởi các làng nghề truyền
thống ở các khu vực nông thôn và nông nghiệp, gắn với những cộng đồng lớn, thu

nhập thấp, nhạy cảm và cần được bảo vệ đặc biệt trong quá trình hội nhập, mở cửa.
Vì vậy, vấn đề thiết lập cơ chế pháp lý nhằm bảo hộ các chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam
(đặc biệt các cơ chế được thực hiện theo các cam kết quốc tế) cần được tiếp cận trên
quan điểm:
- Bảo hộ chỉ dẫn địa lý phải hướng tới việc bảo vệ và tăng cường lợi ích của
các cộng đồng dân cư sản xuất các sản phẩm liên quan;
- Bảo hộ chỉ dẫn địa lý phải góp phần ngăn chặn mọi ý định hoặc hành vi có
thể dẫn tới việc tách cộng đồng dân cư sản xuất các sản phẩm liên quan khỏi
việc sử dụng và hưởng lợi từ các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý.
Quan điểm tiếp cận này đi theo hướng khác so với cách tiếp cận của Hoa Kỳ (thể
hiện trong pháp luật nội địa cũng như trong các đàm phán thương mại của nước
này). Vì vậy, việc Việt Nam bị Hoa Kỳ gây sức ép mạnh trong đàm phán Chương IP
về chỉ dẫn địa lý là điều có thể nhìn thấy trước. Mặc dù vậy, vì những lợi ích quan
trọng trong nước, Việt Nam không thể nhượng bộ Hoa Kỳ hay bất kỳ đối tác nào
trong TPP về những đề xuất đi ngược lại quan điểm tiếp cận nói trên.
Cần xem chỉ dẫn địa lý là một đối tượng đặc biệt của quyền sở hữu trí tuệ và bảo
hộ theo cách thức đặc thù mang lại lợi ích tốt nhất có thể cho cộng đồng dân cư
liên quan.

2. Các kiến nghị phƣơng án đàm phán cụ thể về chỉ dẫn địa lý
Các quy định về chỉ dẫn địa lý của Việt Nam hiện nay được xem là ở mức độ thích
hợp, phù hợp với TRIPS và chấp nhận được trong hoàn cảnh hiện tại. Vì vậy,
phương án tốt nhất là không đưa vấn đề chỉ dẫn địa lý vào phạm vi các vấn đề IP
được đàm phán trong khuôn khổ TPP, đặc biệt trong hoàn cảnh Hoa Kỳ và một số


5
Guide to Geographical Indications – Link products to their origins, ITC 2009

21


đối tác khác trong TPP có lợi ích và quan điểm tiếp cận trái ngược với Việt Nam
trong vấn đề này.
Trong bản Dự thảo bị tiết lộ về Chương IP theo đề xuất của Hoa Kỳ được xem xét ở
Khuyến nghị này, chỉ dẫn địa lý không được nêu thành một mục riêng trong Chương
IP mà lại được đưa thành một đối tượng trong mục nhãn hiệu. Đây rõ ràng là cách
tiếp cận “truyền thống” của Hoa Kỳ và không phù hợp với Việt Nam.
Cụ thể, nếu chỉ dẫn địa lý được chấp nhận là đối tượng đăng ký bảo hộ tương tự
nhãn hiệu (xem chỉ dẫn địa lý là một loại nhãn hiệu hoặc áp dụng các quy định đăng
ký và phạm vi quyền đối với chỉ dẫn địa lý như đối với nhãn hiệu), lơi ích của các
cộng đồng liên quan tới các chỉ dẫn địa lý sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là ở
các khía cạnh sau:
- Chỉ dẫn địa lý nếu bị một cá nhân, tổ chức đăng ký trước thì toàn bộ cộng
đồng sẽ mất quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý đó cho sản phẩm của mình
Quy định hiện tại về nhãn hiệu cho phép ai đăng ký trước thì được trước, và
chủ sở hữu nhãn hiệu có độc quyền ngăn cản bất kỳ bên thứ ba nào sử dụng
nhãn hiệu hoặc các dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu đã được đăng ký. Nói
cách khác, quy định này cho phép người đăng ký trở thành chủ sở hữu đối
với đối tượng đăng ký. Quy định vốn hợp lý này cho trường hợp nhãn hiệu sẽ
gây ra những hậu quả rất nặng nề cho cộng đồng nếu được áp dụng cho chỉ
dẫn địa lý
6
.
Về bản chất, chỉ dẫn địa lý vốn là “tài sản” của cộng đồng. Nếu áp dụng quy
định nói trên, chỉ dẫn địa lý sau khi được đăng ký sẽ trở thành tài sản riêng
của cá nhân/tổ chức đăng ký. Đây là điều rất bất hợp lý và không công bằng.
Trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, nơi mà hầu hết chỉ dẫn địa lý gắn với
người nông dân và khu vực nông thôn, những chủ thể vốn ít có nhận thức
pháp luật và nguồn lực cần thiết để thực hiện những thủ tục đăng ký theo quy
định, áp dụng quy định này là tạo điều kiện để một vài tổ chức, cá nhân biến

một tài sản quan trọng của cộng đồng thành tài sản của cá nhân mình. Hệ quả
là cộng đồng sẽ mất quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý cho chính những sản phẩm
của mình (bao gồm việc gắn chỉ dẫn địa lý lên hàng hoá, bao bì hàng hoá,
phương tiện kinh doanh, lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để
sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đó…). Tất nhiên trên thực tế để duy trì nguồn
thu nhập và cuộc sống bình thường, người dân ở các cộng đồng này vẫn phải
tiếp tục sản xuất, kinh doanh các sản phẩm này và vì vậy họ bị đặt trước hai
lựa chọn, hoặc là không được sử dụng chỉ dẫn địa lý (ví dụ nước mắm sản


6
Điều 88 Luật Sở hữu trí tuệ quy định “Quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý của Việt Nam thuộc về Nhà nước.
Nhà nước cho phép tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý, tổ chức tập thể đại diện cho các
tổ chức, cá nhân đó hoặc cơ quan quản lý hành chính địa phương nơi có chỉ dẫn địa lý thực hiện quyền đăng
ký chỉ dẫn địa lý. Người thực hiện quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý không trở thành chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý đó”

22

xuất tại Phú Quốc những không được ghi trên nhãn là nước mắm Phú Quốc),
hoặc là phải trả tiền cho chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý đã đăng ký để được phép
sử dụng chỉ dẫn địa lý vốn trước nay đương nhiên là của mình.
Từ góc độ này, áp dụng quy định của nhãn hiệu cho chỉ dẫn địa lý rõ ràng là
tạo điều kiện, tiếp tay cho các cá nhân, tổ chức “ăn cắp” chỉ dẫn địa lý,
“thương hiệu” và “tài sản” có ý nghĩa cả về vật chất và tinh thần của những
cộng đồng liên quan.
- Thủ tục đăng ký chỉ dẫn địa lý nếu tương tự như thủ tục đăng ký nhãn hiệu sẽ
tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức dễ dàng đăng ký hàng loạt chỉ dẫn địa
lý không cần dựa trên những căn cứ đầy đủ nào
Theo pháp luật hiện tại của Việt Nam, để đăng ký một chỉ dẫn địa lý, người
đăng ký phải xuất trình nhiều giấy tờ, trong đó có bản mô tả tính chất, chất

lượng đặc thù, danh tiếng của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý và bản đồ khu
vực địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý
7
. Trong khi đó, để đăng ký nhãn hiệu,
người đăng ký chỉ cần nộp mẫu nhãn hiệu và danh mục hàng hóa, dịch vụ
mang nhãn hiệu
8
.
Nếu chấp nhận đề xuất của Hoa Kỳ áp dụng quy định về thủ tục đăng ký
nhãn hiệu đối với đăng ký chỉ dẫn địa lý, rõ ràng bất kỳ ai, ở bất kỳ nơi đâu
cũng có thể đăng ký chỉ dẫn địa lý và biến nó thành sở hữu độc quyền của
mình miễn là chưa có người đăng ký trước chỉ dẫn địa lý đó.
Đây là điều có tác động trực tiếp, tức thời và bất hợp lý đến quyền và lợi ích
của cộng đồng đang sử dụng chỉ dẫn địa lý liên quan.
Từ các phân tích nêu trên, rõ ràng là cả về lý thuyết lẫn thực tế, vì lợi ích của những
cộng đồng quan trọng (đặc biệt ở khu vực nông thôn), Việt Nam cần bác bỏ mọi đề
xuất trong TPP điều chỉnh chỉ dẫn địa lý theo hướng này.
Việt Nam cần kiên quyết bác bỏ bất kỳ đề xuất nào trong TPP có nội dung:
- Coi chỉ dẫn địa lý là một phần của nhãn hiệu và áp dụng các quy định về
bảo hộ của nhãn hiệu;
- Điều chỉnh các quy định liên quan đến chỉ dẫn địa lý theo hướng tương tự
hoặc gần với quy định áp dụng cho nhãn hiệu.





7
Điều 106 Luật Sở hữu trí tuệ
8

Điều 105 Luật Sở hữu trí tuệ

23

IV. Về Bản quyền (Copyrights)
Bản quyền là lĩnh vực sở hữu trí tuệ điển hình, được ghi nhận và quy định bởi một
hệ thống pháp luật chi tiết. Ở các nước thành viên WTO, các quy định về bản quyền
tuân thủ những tiêu chuẩn bảo hộ theo quy định của TRIPS.
Với phạm vi các đối tượng quyền rất rộng
9
, các sản phẩm chịu tác động của bản
quyền rất đa dạng, bao gồm sách, tạp chí, giáo trình, phim, truyền hình, phát thanh,
nhạc, phần mềm máy tính
Các quy định về bản quyền điều chỉnh việc sử dụng và quyền tài sản đối với các sản
phẩm này vì vậy có ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng tới đời sống văn hóa, tinh thần
của người dân và đặc biệt là liên quan tới hoạt động học tập, nghiên cứu và phát
triển của nền khoa học của bất kỳ quốc gia nào.
Nhìn nhận về vấn đề bản quyền (mức độ bảo hộ cụ thể) cần được xem xét từ hoàn
cảnh và nhu cầu cụ thể của mỗi nước trong từng thời kỳ.
1. Quan điểm tiếp cận về vấn đề bản quyền
Tương tự như trong nhiều vấn đề khác của bảo hộ IP, bảo hộ quyền tác giả và các
quyền liên quan gắn với hai nhóm lợi ích: một bên là lợi ích của tổ chức, cá nhân
sáng tạo hoặc sở hữu tác phẩm, và bên kia là lợi ích của cộng đồng những người sử
dụng các tác phẩm đó cho các mục đích khác nhau.
Khác với các quyền sở hữu công nghiệp, quyền tác giả và các quyền liên quan được
xác lập tự động kể từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo/định hình hay thực hiện mà
không cần bất kỳ một thủ tục công bố hay đăng ký nào với các cơ quan có thẩm
quyền
10
. Nói cách khác, các tác giả và chủ sở hữu tác phẩm có quyền đương nhiên

được bảo hộ bởi pháp luật.
Vì vậy, điểm khác nhau trong pháp luật về bản quyền của các nước tập trung vào
phạm vi và thời hạn các quyền tác giả và quyền liên quan (chứ không liên quan đến
thủ tục đăng ký bảo hộ). Mức độ bảo hộ bản quyền ở mỗi nước thường phụ thuộc
vào hoàn cảnh trình độ phát triển hoặc sức ép từ các nhóm lợi ích liên quan trong
khi vẫn tuân thủ các quy định của TRIPS (đối với với các nước thành viên WTO).
Dù vậy, trên thực tế, trong mọi trường hợp, dù ở nước phát triển hay đang phát triển,
việc bảo hộ càng đi xa hơn so với TRIPS (phạm vi các quyền càng rộng, thời hạn
được thực thi quyền càng dài) thì tổ chức, cá nhân là tác giả hay chủ sở hữu càng có
lợi trong khi lợi ích của cộng đồng (đặc biệt là các đơn vị có chức năng phục vụ,


9
Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ quy định “Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương
trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá”.
10
Điều 49 Luật Sở hữu trí tuệ quy định về đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan. Tuy nhiên, Điều này cũng
ghi rõ việc đăng ký này nhằm mục đích để cơ quan Nhà nước ghi nhận các thông tin về tác giả/chủ sở hữu và
tác phẩm, không phải thủ tục bắt buộc để được hưởng các quyền.

×