Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bài thu hoạch Khóa bồi dưỡng lý luận chính trị cho đảng viên mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.98 KB, 14 trang )

Câu 1: Đ/c hãy làm rõ sự cần thiết của việc xây dựng Đảng về đạo đức trong giai
đoạn hiện nay?
1.1 Khái niệm về đạo đức
Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình thái của ý thức xã hội, bao
gồm những nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa nhận, có
tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con người và toàn xã hội. Đối với mỗi cá
nhân, hành vi đạo đức mang tính tự giác, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu bên trong,
đồng thời chịu tác động của dư luận xã hội, sự kiểm tra của những người xung
quanh. Đạo đức bao gồm ý thức đạo đức và hành vi đạo đức, thể hiện trong các
quan hệ đạo đức.
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về đạo đức, như thiện, ác, tốt, xấu,
lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng...; về những quy tắc đánh giá, điều
chỉnh hành vi, ứng xử của cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân.
Hành vi đạo đức là sự biểu hiện trong ứng xử thực tiễn của ý thức đạo đức mà
con người đã nhận thức và lựa chọn. Đó là sự thể hiện trong các mối quan hệ giữa
cá nhân với cá nhân, với tự nhiên, đồ vật, với xã hội và với chính mình theo các
phạm trù lương tâm, trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ, quyền lợi...
1.2 Vai trò và chức năng của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức có những vai trò sau:
Đạo đức với những chuẩn mực giá trị có tác dụng chi phối đời sống tinh thần
của xã hội. Đạo đức là một bộ phận quan trọng của nền tảng tinh thần của xã hội.
Đạo đức góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội, qua đó thúc đẩy sự phát
triển của kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
Trong xã hội, sự suy thoái của đạo đức, sự “lệch chuẩn”, “loạn chuẩn” trong
mỗi con người và toàn xã hội là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng
hoảng chính trị, kinh tế, xã hội...


Từ những vai trò trên đạo đức có chức năng giáo dục, điều chỉnh hành vi và
chức năng phản ánh.


1.3 Đạo đức cách mạng là “chí công vô tư”
Để rèn luyện đạo đức, đảng viên cần nhận thức đúng đạo đức, tư cách của
Đảng ta, một Đảng chân chính cách mạng. Đảng ta không phải là một tổ chức đặc
quyền, để làm quan phát tài, cầu danh, cầu lợi, hẹp hòi, nhỏ nhen. Ngoài lợi ích của
dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác. Vì vậy, đạo đức cách mạng
cao nhất của đảng viên là chí công vô tư, tức là phải luôn luôn, mọi lúc, mọi nơi,
bất cứ việc gì đều phải tính đến lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của Tổ
quốc, của Nhân dân; phải đặt lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc và Tổ quốc
lên trên hết, trước hết, việc của cá nhân và lợi ích của cá nhân phải để lại sau. Đảng
viên phải thật thà, trung thành, hăng hái; phải quán triệt sâu sắc rằng lợi ích của cá
nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định
phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi
ích lâu dài. Nếu khi gặp lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá
nhân, phải kiên quyết hy sinh lợi ích riêng của cá nhân cho lợi ích của Đảng. Điều
quan trọng là lòng mình chỉ biết vì Tổ quốc, vì Nhân dân thì sẽ tiến đến chỗ chí
công vô tư. Quyền lực và danh vọng thường làm thay đổi và hư hỏng con người.
Tư tưởng và hành vi ham muốn địa vị, tham nhũng, luẩn quẩn trong vòng danh lợi,
dối trá, vô trách nhiệm, nói không đi đôi với làm… là con đẻ của chủ nghĩa cá
nhân, một thứ vi trùng rất độc, trái với lợi ích của Đảng, phải được loại ra khỏi
Đảng.
1.4 Quá trình Đảng xác định sự cần thiết của xây dựng Đảng về đạo đức
Không phải đến bây giờ Đảng ta mới nói đến vấn đề đạo đức trong công tác
xây dựng Đảng mà sách “Đường Cách mệnh” - “cuốn giáo trình đầu tiên” do chính
Nguyễn Ái Quốc biên soạn và giảng dạy cho các thanh niên yêu nước để vận động
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã viết về “Tư cách một người cách mệnh”. Đó


là một trong 15 vấn đề của cuốn sách và được viết ngay từ trang đầu với đầy đủ các
mối quan hệ xác định của đạo đức: đối với tự mình, đối với người và đối với việc.
Ngay từ những năm đầu cầm quyền của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận

ra những khuyết điểm, nguy cơ thoái hóa, biến chất, quan liêu, xa dân của một bộ
phận cán bộ, đảng viên do thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc” - “cuốn giáo trình thứ hai” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
biên soạn và triển khai học tập trong toàn Đảng cũng dành hẳn 1 chương nói về
“Tư cách và đạo đức cách mạng” trong 6 chương của cuốn sách.
Trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường
xuyên cảnh báo, nhắc nhở, răn dạy cán bộ, đảng viên về đạo đức cách mạng bằng
rất nhiều bài phát biểu, bài viết trên báo. Đặc biệt, tại Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày
thành lập Đảng, Người khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”; và
trong “Di chúc”, vấn đề đạo đức cách mạng được viết nghiêng trong những lời căn
dặn căn cốt nhất về xây dựng Đảng: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”
Tuy vậy, từ khi giải phóng hoàn toàn đất nước, Đảng cầm quyền trên phạm vi
cả nước, vấn đề đạo đức trong xây dựng Đảng lại chưa được đặt xứng tầm. Công
tác giáo dục, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên thường chỉ được đề cập một
cách khiêm tốn trong nội dung xây dựng Đảng về tư tưởng. Tại Đại hội IV (năm
1976) Đảng ta mới chỉ xác định phương châm “phải xây dựng Đảng vững mạnh về
cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức”. Đại hội IX nhận định: “Tình trạng tham
nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng”. Đại hội X tiếp tục khẳng định: “Tình trạng
suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn đang diễn ra
nghiêm trọng chưa được ngăn cản có hiệu quả”. Đại hội XI nhận định: “Tình trạng


suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng”.
Hội nghị Trung ương 4 Khóa XI đánh giá cụ thể hơn: “Một bộ phận không

nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể
cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với
những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích
kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham
nhũng, lãng phí, tuỳ tiện, vô nguyên tắc...”. Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi”.
Từ những nhận định trên đây của các kỳ Đại hội Đảng và Hội nghị Trung
ương, có thể thấy sự suy thoái các mặt trong nội bộ Đảng từ chỗ rất nghiêm trọng,
còn nghiêm trọng, đến chỗ chưa bị đẩy lùi, nghĩa là vẫn chưa được khắc phục, chưa
tìm được đúng thuốc chữa hoặc dùng thuốc chưa đủ liều.
Đại hội IX đánh giá là rất nghiêm trọng, bởi vì, đối với một đảng chính trị
khi đang nắm quyền lãnh đạo đất nước mà lại có một bộ phận không nhỏ đảng viên
ở tất cả các cấp không những không mạnh về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo
danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, lại còn mắc cả bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, hành dân, xa dân, v.v. thì sức mạnh và uy tín của Đảng bị suy giảm là điều rất
đáng báo động. Nguy cơ một Đảng cầm quyền lãnh đạo đất nước mà có nhiều đảng
viên suy thoái về nhiều mặt nếu không được khắc phục kịp thời thì đến một lúc nào
đó khó tránh khỏi Đảng sẽ mất sức chiến đấu, mất uy tín và mất lòng tin của nhân
dân, đe dọa nghiêm trọng vai trò lãnh đạo của Đảng và sự sống còn của chế độ.
Như vậy, suốt 15 năm, qua 4 kỳ Đại hội Đảng, dường như chưa có sự chuyển
biến rõ rệt trong việc khắc phục tình trạng suy thoái các mặt về đạo đức, lối sống và
tư tưởng chính trị, trong đó có tệ nạn tham nhũng, lãng phí ở một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên. Đại hội XII của Đảng (năm 2016), vấn đề xây dựng Đảng về


đạo đức lần đầu tiên được nhắc đến với tư cách là “mặt thứ tư” trong công tác xây
dựng Đảng để trở thành một chỉnh thể: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức” và là một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm

trong 5 năm 2016-2020: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hoá" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ
cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII vượt ra khỏi giới hạn, phạm vi một Nghị quyết
Trung ương mà trở thành một Nghị quyết có tầm ảnh hưởng rộng lớn, lâu dài, cả
trong nhiệm kỳ khóa XII và mãi mãi. Nó gắn liền với sự tồn tại của Đảng, với vai
trò lãnh đạo và địa vị cầm quyền của Đảng, có quan hệ tới sinh mệnh của Đảng và
sự tồn vong của chế độ.
1.5 Xây dựng Đảng về đạo đức trong giai đoạn hiện nay là một đòi hỏi tất yếu,
khách quan, vừa cấp bách trước mắt vừa lâu dài gắn chặt với nội dung xây
dựng chính trị, tư tưởng, tổ chức?
- Xét về mặt lý luận, nói đạo đức ở trong tư tưởng và xây dựng Đảng về tư
tưởng là đã bao hàm xây dựng Đảng về đạo đức thì đây mới chỉ là ý thức đạo đức,
nhận thức xây dựng Đảng về đạo đức chưa trở thành một nội dung độc lập, có quan
hệ với tất cả các lĩnh vực khác trong xây dựng Đảng.
Rõ ràng là, ý thức đạo đức, nhận thức, tri thức về đạo đức, tự bản thân nó
không nói lên đầy đủ các vấn đề đạo đức trong Đảng và trong xây dựng Đảng. Cái
cần thiết và quan trọng nằm ở tình cảm đạo đức, hành vi đạo đức, trở thành lẽ sống,
lối sống hằng ngày. Do thiếu hụt ở phần quan trọng này mà, xét về mặt thực tiễn, sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ
đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, kể cả cấp cao… do nhiều nguyên
nhân gây ra, trong đó có nguyên nhân không nhận thức rõ, không thấy hết tầm quan
trọng của đạo đức, của văn hóa làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh.


- Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức nếu tách rời với đạo đức văn
hóa thì đã thiếu những bảo đảm về đạo đức, văn hóa vốn hết sức cần thiết và quan
trọng cho sự vững mạnh của chính trị tư tưởng và tổ chức.
Hơn nữa, do thiếu vắng hoặc xem nhẹ đạo đức, văn hóa trong xây dựng Đảng,

nhất là khi Đảng đã cầm quyền, lại lãnh đạo, cầm quyền trong nền kinh tế thị
trường, mở cửa, hội nhập… cho nên đã dẫn tới tình trạng suy thoái.
Không thể không nhắc tới những trường hợp bổ nhiệm cán bộ là người thân,
người nhà của các vị lãnh đạo vào các chức vụ mang lại nhiều lợi ích kinh tế, đã
được các phương tiện truyền thông phanh phui; Đảng và Nhà nước ta đã và đang
xử lý nghiêm khắc. Đảng cũng đã thẳng thắn chỉ ra, có không ít cán bộ “lợi dụng
chức vụ, quyền hạn... để trục lợi; để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng,
tiêu cực”; “thao túng trong công tác cán bộ, chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy
luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội”; “sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần
phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia
đình và xã hội”.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XII, Đảng ta nêu rõ: Thực trạng yếu kém trong
công tác xây dựng Đảng đã cho thấy yếu kém về đạo đức trong Đảng, với rất nhiều
biểu hiện: “Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp,
thậm chí có nơi mất sức chiến đấu…tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình
còn yếu”. Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn bị động, hiệu quả chưa
cao.
- Việc triển khai thực hiện các Nghị quyết, chỉ thị, chủ trương, chính sách của
Đảng về rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, nâng cao năng lực, trình độ của cán
bộ đảng viên chưa thật sự tích cực, đồng bộ, thường xuyên, một số nơi thực hiện
chưa nghiêm túc.


- Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa đều, chưa đi
vào chiều sâu ở nhiều ngành, địa phương cơ quan, đơn vị; một số nơi thực hiện còn
mang tính hình thức.
- Việc đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa
có những tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học để khắc phục. Tình trạng chạy chức,
chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp… chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Công tác

phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt mục tiêu, yêu cầu. Tham nhũng, lãng
phí vẫn còn nghiêm trọng với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra
trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp, nhiều ngành, làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã
hội, gây bức xúc trong dư luận, là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo
của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Còn có
biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thật sự sâu sát thực tế, cơ sở. Tình trạng nói
không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít chậm được khắc phục. Do những hạn chế,
yếu kém đó mà Đảng ta chưa thật sự trong sạch, vững mạnh, làm giảm lòng tin của
cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Để khắc phục những nhược điểm nêu trên, Đại hội XII của Đảng cũng đã đề
ra nhiều giải pháp để xây dựng Đảng về đạo đức: Một là, “Tiếp tục đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi đó là công
việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị
- xã hội, địa phương, đơn vị, gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ”. Hai là, “Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ
nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi
với làm”. Ba là, “Xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương
mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối
công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu
các cơ quan đơn vị”. Bốn là, “Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm
soát của tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ


chức chính trị - xã hội và của nhân dân về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên”.
Với những nhận thức nêu trên, rõ ràng đưa việc thường xuyên giáo dục, rèn
luyện phẩm chất đạo đức thành một nội dung quan trọng trong mục tiêu xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức là đúng và
trúng, hết sức cần thiết, là nhân tố cực kỳ quan trọng để Đảng ta xứng đáng là đội

tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam. Tùy từng công việc, vị trí công tác của mỗi người
để việc học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác trở thành những việc làm
thường xuyên, hàng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên.
Câu 2: Với tư cách là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, đồng chí sẽ làm gì để
góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh?
Đảng trong sạch, vững mạnh theo nghị quyết Đại hội XII của Đảng
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, khuyết
điểm của công tác xây dựng Đảng “…làm cho Đảng ta chưa thật sự trong sạch,
vững mạnh, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước và chế độ”. Do đó, Đảng ta chủ trương: Đẩy mạnh hơn nữa công tác xây
dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI). Nghị quyết Đại hội XII Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh các
nhiệm vụ trọng tâm, trong đó nhiệm vụ hàng đầu là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ
cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ”.
Vấn đề đặt ra là mọi tổ chức đảng, từ Trung ương đến cơ sở, mọi cán bộ, đảng
viên phải nắm vững toàn bộ nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, lý luận,
đạo đức, tổ chức, cán bộ và phương thức lãnh đạo. Đây là vấn đề sống còn của


Đảng, nếu không làm được điều đó thì “sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của
Đảng và sự tồn vong của chế độ”.
Xây dựng Đảng về chính trị, trước hết phải kiên định, trung thành và vận dụng
sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với
thực tiễn Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng luôn luôn xác định đó là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động của mình. Hiện nay, có một bộ phận cán bộ,
đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, nghĩa là xa rời hệ tư tưởng của Đảng, phụ

họa với các thế lực thù địch phê phán hoặc xuyên tạc lý luận, tư tưởng khoa học và
cách mạng đó. Cần phải tăng cường nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh một cách căn bản, có hệ thống, sâu sắc; thường xuyên bám sát thực
tiễn, tổng kết lý luận, làm rõ bản chất cách mạng, khoa học và giá trị bền vững của
hệ tư tưởng chính trị của Đảng. Xây dựng Đảng về chính trị đặt ra yêu cầu không
ngừng bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối đổi mới của Đảng; đồng thời,
phòng ngừa nguy cơ sai lầm về đường lối, vì điều đó không chỉ ảnh hưởng đến bản
chất cách mạng của Đảng mà còn tác động xấu đến sự phát triển của đất nước và
cuộc sống của nhân dân. Bản lĩnh chính trị của Đảng phải được nâng cao. Đó là sự
kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chủ động, bình
tĩnh vượt qua khó khăn, thách thức, không dao động trong bất cứ tình huống nào,
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến”; nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, lợi ích quốc gia, dân
tộc; thẳng thắn tự phê bình, phê bình, thừa nhận khuyết điểm, yếu kém và quyết
tâm sửa chữa. Xây dựng Đảng về chính trị đòi hỏi nâng cao trình độ trí tuệ, tính
chiến đấu của toàn Đảng và năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với
quy luật khách quan, đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển. Hoàn
thiện cơ chế, quy chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc tự phê
bình, phê bình, chất vấn trong nội bộ Đảng. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả cơ
chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận cần có sự đổi mới mạnh mẽ. Vấn đề hàng
đầu là đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí


Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đẩy
mạnh công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng
sao cho thiết thực, hiệu quả. Đồng thời, tích cực đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”; chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản bác các thông tin, quan điểm
xuyên tạc, sai trái. Chú trọng nâng cao trình độ lý luận, trí tuệ của Đảng, của cán

bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Tiếp tục đổi mới tư duy lý
luận, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để làm rõ cơ sở lý luận, thực
tiễn hoàn thiện hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định, phát triển
đường lối, chủ trương, chính sách. Đổi mới mô hình, tổ chức và phương thức hoạt
động của các cơ quan nghiên cứu lý luận, xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý
luận; nhất là những chuyên gia đầu ngành.
Xây dựng Đảng về tổ chức, hướng mạnh vào tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ
chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các
tổ chức trong hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
Đồng thời, xác định rõ cơ chế tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nêu cao trách
nhiệm của người đứng đầu; thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn
ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương; nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp
nhất một số cơ quan Đảng và Nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ. Cùng
với đó, cần tinh giản tổ chức bộ máy và biên chế; kiện toàn tổ chức, nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng
viên; kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không giữ được tư cách, vi
phạm nghiêm trọng Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước. Đổi mới mạnh mẽ công
tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả


công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng và công tác dân vận; đẩy mạnh đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, v.v.
Điểm mới trong tư duy về xây dựng Đảng, đó là, lần đầu tiên, tại Đại hội XII
của Đảng đặt nội dung xây dựng Đảng về đạo đức ngang với xây dựng Đảng về
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nhấn mạnh xây dựng Đảng về đạo đức, vì đạo đức là
một bộ phận của hình thái ý thức xã hội, đạo đức cộng sản quyết định bản chất cách
mạng của Đảng Cộng sản. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và nhiều thế hệ cán
bộ, đảng viên ưu tú của Đảng đã tạo dựng sức mạnh chính trị - tinh thần, niềm tin

và uy tín lớn trong Đảng và nhân dân. Trên thực tế, đang có một bộ phận cán bộ,
đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, cần phải ngăn chặn,
đẩy lùi. Để xây dựng Đảng về đạo đức, cần nhận thức rõ nội dung đạo đức cách
mạng đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng rèn luyện, giáo dục suốt
86 năm qua, đặc biệt là tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đạo đức cách mạng là
suốt đời đấu tranh, phấn đấu cho lý tưởng, mục tiêu, sự nghiệp cách mạng của
Đảng và dân tộc, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hết lòng hết sức phụng sự
Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, của nhân dân lên
trước lợi ích của cá nhân mình, chống chủ nghĩa cá nhân. Đó là “cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư”; không quan liêu, lãng phí, tham ô; có lối sống khiêm tốn,
giản dị, không màng danh vọng, địa vị, không tham muốn vật chất; ra sức học tập
lý luận, chuyên môn, nâng cao trình độ học vấn, trí tuệ, rèn luyện tư tưởng, trung
thực và nêu cao tinh thần trách nhiệm hoàn thành tốt nhất công việc được giao.
Phải có tình cảm trong sáng, tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, yêu thương, gắn
bó với nhân dân, gương mẫu về mọi mặt, “dĩ công vi thượng”, “lo trước thiên hạ,
vui sau thiên hạ”.
Cùng với đề cao xây dựng Đảng về đạo đức, Đại hội XII có bước đổi mới rất
quan trọng về công tác cán bộ: lần đầu tiên thực hiện quy hoạch và lựa chọn đội
ngũ cán bộ cấp chiến lược. Công việc đó được thực hiện dân chủ, công khai,
nghiêm túc và có trách nhiệm. Đó cũng là quyết tâm chính trị thực hiện Nghị quyết


Trung ương 4 (khóa XI), xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất
là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
hội nhập quốc tế, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới. Toàn bộ sự
nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, từ đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến
chống xâm lược, cứu nước trước đây đến công cuộc đổi mới hiện nay đã chứng
minh tính đúng đắn quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc”. Trong thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Đại hội đã thể chế hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc về:

quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính
sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ; quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu;
giữa đức và tài; giữa kế thừa và phát triển; giữa quản lý thống nhất với phát huy
đầy đủ trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị. Đại hội cũng nhấn
mạnh, gắn công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những hiện tượng cục bộ bè phái, “lợi ích nhóm”
gây mất đoàn kết trong Đảng. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên phát ngôn,
tuyên truyền, phát tán tài liệu trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị,
quy định của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước; đấu tranh có hiệu quả
với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức có quan hệ mật thiết
với nhau, tạo nên bản chất cách mạng, khoa học và sức chiến đấu của Đảng. Những
giá trị đạo đức cách mạng của người cộng sản góp phần rất quan trọng trong xây
dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phòng ngừa và đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống.
Quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng là cơ sở để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới
của cách mạng.


Những việc cần phải làm với tư cách là Đảng viên Đảng cộng sản Việt
Nam để góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Trước tiên, mỗi đảng viên, đặc biệt là mọt đảng viên mới phải có lập trường
tư tưởng vững vàng, không để xảy ra sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Trong công tác chuyên môn, là một đảng viên mới cần làm gương bằng cách
phấn đấu hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chuyên môn được giao.
Thường xuyên nghiên cứu, học tập các văn kiện, nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước để bản thân thực hiện cho đúng đồng thời quán triệt, vận

dụng vào bài giảng góp phần tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước đến với đồng nghiệp, bạn bè, gia đình và quần chúng
nhân dân; gắn lý luận với thực tiễn để người học có thể vận dụng vào trong thực tế
công việc nhằm đem lại hiệu quả cao hơn.
Trong hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học, cần xác định đúng đắn và
thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ học tập và nghiên cứu, gắn với công tác chuyên
môn; có trách nhiệm tham gia, thực hiện và hoàn thành tốt các khóa học nâng cao
trình độ chuyên môn; không ngừng nâng cao năng lực tư duy, khả năng phân tích,
tổng hợp, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; tham gia viết tham luận cho các Hội nghị
của Trường, các báo, tạp chí chuyên ngành. Nêu gương bằng các sáng kiến, đề xuất
đổi mới quy trình, nội dung, phương thức thực hiện nhiệm vụ theo hướng kịp thời,
thiết thực, chất lượng, hiệu quả và tiết kiệm.
Trong công tác xây dựng Đảng bộ, cơ quan, các đoàn thể, cần tích cực “học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; nêu gương về tư
tưởng chính trị, gương mẫu về đạo đức, lối sống, tác phong. Nghiêm chỉnh chấp
hành Điều lệ, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nêu gương về tự phê
bình và phê bình; nêu gương về ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần đoàn kết; gương
mẫu thực hiện nền nếp, chế độ sinh hoạt Đảng, quy chế hoạt động cơ quan; làm
việc có “nguyên tắc, kỷ cương, có lý, có tình”. Chân thành học hỏi, chia sẻ, giúp đỡ


đồng chí, đồng nghiệp; dũng cảm nhận trách nhiệm và sửa chữa khuyết điểm; thực
sự chăm lo, xây dựng đoàn kết trong Đảng bộ, chi bộ, cơ quan, đơn vị, các đoàn thể
nhà trường. Dám đấu tranh, không né tránh, chống các biểu hiện “chia rẽ, bè phái,
gây mất đoàn kết nội bộ”, chống “tư tưởng cục bộ và các biểu hiện cơ hội, thực
dụng, vì lợi ích cá nhân”…
Nhằm thực hiện tốt các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, các quy định về xây
dựng Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII. Mỗi đảng viên của Đảng bộ Trường Đại học Mỏ - Địa chất
phải cố gắng phát huy hiệu quả vai trò tiên phong, gương mẫu trên mọi phương

diện, phải thật sự vững vàng về chính trị và tư tưởng, ý chí và hành động, trong
sạch về đạo đức và lối sống, đề cao ý thức tổ chức kỷ luật… để giữ vững danh hiệu
Đảng bộ Nhà trường trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo toàn diện các hoạt động của
Trường đạt kết quả tốt.



×