Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐẢNG VIÊN MỚI Ở ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC CƠ QUAN HUYỆN CAN LỘC, TỈNH HÀ TĨNHTRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (704.11 KB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

VÕ THỊ HẰNG TRANG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ CHO ĐẢNG VIÊN MỚI Ở ĐẢNG BỘ
KHỐI CÁC CƠ QUAN HUYỆN CAN LỘC, TỈNH HÀ TĨNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


2

NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

VÕ THỊ HẰNG TRANG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ CHO ĐẢNG VIÊN MỚI Ở ĐẢNG BỘ
KHỐI CÁC CƠ QUAN HUYỆN CAN LỘC, TỈNH HÀ TĨNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: LL &PP dạy học bộ môn Giáo dục Chính trị
Mã số: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Lương Bằng




3

NGHỆ AN - 2014


2

LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới toàn thể quý thầy cô
Trường Đại học Vinh, Khoa Giáo dục chính trị, phòng Sau đại học đã truyền đạt
cho tôi những kiến thức hữu ích làm cơ sở cho tôi thực hiện tốt luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS- TS Nguyễn Lương Bằng đã tận tình
hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Tôi cũng xin gửi lời cảm
ơn tới Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện Can Lộc và Huyện ủy Can Lộc
trong việc thu thập dữ liệu và thông tin luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn kịp thời động viên, hỗ
trợ, giúp đỡ để tôi hoàn thành chương trình học cũng như thực hiện luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng luận văn vẫn còn thiếu sót. Rất mong
nhận được ý kiến góp ý của quý thầy cô và các anh chị học viên.
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả

Võ Thị Hằng Trang


3

MỤC LỤC

Trang

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐVM

Đảng viên mới

THPT

Trung học phổ thông

THCS

Trung học cơ sở

TTHNDN&GDTX

Trung tâm hướng nghiệp dạy nghề và giáo dục
thường xuyên

CTCP TMDV

Công ty cổ phần thương mại dịch vụ

BMSG

Bình Mỹ Sài Gòn

CTCP XD NT


Công ty cổ phần xây dựng Nguyễn Thủy

CNH- HĐH

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa


4

DANH MỤC BẢNG
Trang

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


5
Trong tiến trình phát triển của đất nước Việt Nam, Đảng cộng sản Việt
Nam là lực lượng lãnh đạo, đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động. Nhờ sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc. Để có được những kết quả đó, một trong những yếu tố
quan trọng làm nên năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng chính là đội
ngũ đảng viên, là chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam.
Đảng Cộng Sản Việt Nam hơn 80 năm qua luôn lấy lý luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động. Trung thành với lý tưởng đó, Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc ta làm nên
thắng lợi vẻ vang Cách mạng tháng Tám, hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ và trong gần ba mươi năm công cuộc đổi mới. Tuy nhiên,
bên cạnh đó, thực tiễn cách mạng còn cho thấy, khi trình độ lý luận của một số

cán bộ, đảng viên không đáp ứng yêu cầu thì việc thực thi đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước sẽ dẫn đến những sai lầm, khuyết điểm. Chính vì thế, sinh
thời Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn
chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, trong đó Người đặc biệt
quan tâm đến việc học tập lý luận của đảng viên, bởi theo Người lý luận không
có thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mù quáng.
Trong thời điểm hiện nay, trên thực tế trong Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
có một số không nhỏ đảng viên bị suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối
sống làm giảm sức chiến đấu của Đảng và lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Chính vì thế để tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và
đồng thời để giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng buộc đảng viên
phải có lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị đồng thời có đủ kiến thức, năng
lực vững vàng để thực hiện công cuộc đổi mới mới và tuyên truyền cho nhân
dân đi theo Đảng.


6
Một Đảng mạnh không phải chỉ ở số lượng đảng viên mà chính là chất
lượng đảng viên. Chính vì thế phải hết sức coi trọng nhận thức chính trị, phẩm
chất đạo đức lối sống của quần chúng khi xem xét để kết nạp đảng viên.
Thực tế ở tỉnh Hà Tĩnh nói chung và huyện Can Lộc nói riêng cho thấy,
hàng năm vẫn có một tỷ lệ đảng viên bị xếp loại đảng viên vi phạm tư cách.
Điều này xuất phát từ công tác quản lý, giáo dục đảng viên của các tổ chức đảng
nhưng có nguyên nhân sâu xa là công tác bồi dưỡng lý luận để nâng cao nhận
thức chính trị cho đảng viên chưa được quan tâm đúng mức. Bên cạnh đó, sự tác
động của xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế mang lại những thời cơ
tốt nhưng cũng không ít thách thức cho nhân dân Việt Nam. Chiến lược diễn
biến hòa bình, bạo loạn lật đổ và sự du nhập các luồng văn hóa khác nhau ngày
càng tác động lớn đến lập trường, bản lĩnh, tư tưởng của một số cán bộ đảng

viên. Đó là thực trạng đáng báo động và đáng lo ngại đối với chất lượng đảng
viên của Đảng bộ huyện nói riêng và các tổ chức Đảng nói chung hiện nay.
Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu vấn đề: “Nâng cao chất lượng bồi
dưỡng lý luận chính trị cho Đảng viên mới ở Đảng bộ khối các cơ quan
huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay” là đề tài có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ nói chung và đảng viên nói
riêng đã được nhiều Nghị quyết của Trung ương Đảng, nhiều nhà nghiên cứu và
một số luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học Chính
trị quan tâm nghiên cứu, trao đổi. Tiêu biểu trong đó có các công trình:
Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 20/9/1979, Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng về tình hình và nhiệm vụ cấp bách. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về một
số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Nghị
quyết số 16-NQ/TW, ngày 18/3/2002 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành


7
Trung ương Đảng khoá IX về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận
trong tình hình mới. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương khoá IX số 16-NQ/TW, ngày 18 tháng 3 năm 2002 về nhiệm vụ chủ yếu
của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.
Ban Tuyên giáo Trung ương, Chương trình bồi dưỡng chuyên đề Phương
pháp dạy lý luận chính trị dành cho giáo viên giảng dạy lý luận chính trị tại
Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, Nxb Lao động xã hội, năm 2008.
Vũ Ngọc Am, Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ
cơ sở, Nxb Chính trị Quốc gia năm 2003; Vũ Ngọc Am, Một số vấn đề về đổi
mới phương pháp giáo dục lý luận chính trị, Nxb Thông tấn, 2009.
Nguyễn Quyết Tiến: "Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng ở Đảng bộ

huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tỉnh trong giai đoạn hiện nay” (Qua thực tế hoạt động
của các tổ chức Đảng ở Đảng bộ huyện Can Lộc của tỉnh Hà Tĩnh), luận văn
Thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và Phương pháp DH bộ môn GD chính trị.
Nguyễn Thị Lệ Hà, “Nâng cao chất lượng bồi dưỡng lý luận chính trị cho Đảng
viên mới ở Đảng bộ khối cơ quan cấp tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay”,
(Qua thực tế hoạt động của các tổ chức Đảng ở Đảng bộ Khối cơ quan cấp tinh
của tinh Hà Tĩnh), luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và Phương pháp DH
bộ môn GD chính trị. Từ Bá Thảo, “Nâng cao chất lượng bồi dưỡng lý luận
chính trị cho Đảng viên mới ở Đảng bộ huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh trong
giai đoạn hiện nay”, (Qua thực tế hoạt động của các tổ chức Đảng ở Đảng bộ
huyện Thạch Hà của tỉnh Hà Tĩnh), luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và
Phương pháp DH bộ môn GD chính trị.
Ngoài ra có một số bài viết trên các tạp chí Xây dựng Đảng, tạp chí cộng
sản, báo mạng Vietnamnet. Cụ thể: PGS- TS Nguyễn Lương Bằng, Đổi mới
phương pháp giảng dạy lý luận Mác- Lênin ở các trường đại học hiện nay , tạp
chí Lý luận chính trị số 7-2000. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về kết nạp đảng
viên, tạp chí Xây dựng Đảng số 7/2010; Nguyễn Thanh Bình, Bí thư tỉnh ủy Hà


8
Tĩnh, Đảng bộ Hà Tĩnh đổi mới công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và phát
triển Đảng.
Các nghị quyết của Đảng, những công trình khoa học, luận văn trên đã làm
sáng tỏ nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn trong vấn đề bồi dưỡng lý luận chính
trị với nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Bên cạnh đó hằng năm tại huyện ủy
Can Lộc cũng đã có những báo cáo tổng hợp các hoạt động nâng cao chất lượng
lý luận chính trị cho đảng viên. Tuy nhiên vẫn chưa có một công trình nào đi sâu
nghiên cứu một cách có hệ thống và đánh giá đầy đủ, khách quan về thực chất của
nâng cao bồi dưỡng lý luận chính trị cho đảng viên mới. Vì vậy, tôi chọn đề tài
này làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành lý luận và phương pháp dạy học bộ môn

lý luận chính trị với mong muốn có một đề tài hoàn chỉnh để góp phần thúc đẩy
việc nâng cao chất lượng bồi dưỡng lý luận chính trị cho Đảng viên mới Đảng bộ
khối các cơ quan trên địa bàn huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ vai trò và thực trạng bồi dưỡng lý luận chính trị cho
Đảng viên mới Đảng bộ khối các cơ quan huyện Can Lộc, luận văn đề xuất quan
điểm và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng lý luận
chính trị cho Đảng viên mới Đảng bộ khối cơ quan huyện Can Lộc trong giai
đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Phân tích vai trò của lý luận chính trị và công tác bồi dưỡng lý luận chính
trị cho Đảng viên mới.
Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho Đảng
viên mới Đảng bộ khối các cơ quan trên địa bàn huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng lý
luận chính trị, nâng cao nhận thức chính trị cho Đảng viên mới của Đảng bộ
khối các cơ quan huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.


9
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận và
thực tiễn của việc nâng cao chất lượng bồi dưỡng lý luận chính trị cho Đảng
viên mới Đảng bộ khối các cơ quan trên địa bàn huyện Can Lộc.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu công tác
bồi dưỡng lý luận chính trị cho đối tượng cụ thể là Đảng viên mới Đảng bộ khối
các cơ quan trên địa bàn huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh, các quan điểm của Đảng ta về công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho
Đảng viên mới. Luận văn kết hợp các phương pháp lịch sử và logic, phân tích và
tổng hợp, các phương pháp so sánh thống kê...
6. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ hơn yêu cầu cấp thiết
phải nâng cao chất lượng bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ Đảng viên mới
ở Đảng bộ các cơ quan huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Qua đó đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng lý luận chính trị cho Đảng viên
mới ở Đảng bộ khối các cơ quan của huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo, giúp
các cấp ủy Đảng, hệ thống các trường chính trị trong việc nghiên cứu, xây dựng nội
dung chương trình, đào tạo bồi dưỡng lý luận chính trị cho Đảng viên mới nhằm
đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn của đội ngũ Đảng viên mới trong tình hình hiện nay.
7. Giả thiết khoa học
Nếu xây dựng được các giải pháp giáo dục một cách phù hợp, khả thi, sẽ
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ
Đảng viên mới ở Đảng bộ khối các cơ quan trên địa bàn huyện Can Lộc, tỉnh Hà
Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
8. Kết cấu của đề tài


10
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung đề tài gồm 3 chương, 7 mục.

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN



11
CHÍNH TRỊ CHO ĐẢNG VIÊN MỚI
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm lý luận
Lý luận chính trị là gì? Để hiểu rõ bản chất của vấn đề này, cần phải
nghiên cứu từ khái niệm “lí luận” và “chính trị”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình
phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong
đầu óc con người dựa trên cơ sở thực tiễn. Quá trình này không đơn giản, thụ
động, máy móc, nhận thức không có sẵn, bất di bất dịch mà là quá trình phản
ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo,
biện chứng. Đó là quá trình đi từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ
không đầy đủ và chưa chính xác trở thành đầy đủ và chính xác hơn.
Nhận thức của con người trải qua hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức,
đó là giai đoạn mà con người sử dụng các giác quan để tác động trực tiếp vào sự
vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Nhận thức lý tính hay tư duy trừu tượng là giai
đoạn cao của nhận thức, nó phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những
thuộc tính, những đặc điểm bản chất của đối tượng. Đây là giai đoạn nhận thức
thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất có tính
quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nếu nhận thức cảm tính mới chỉ dừng lại ở
cái bề ngoài, chưa phân biệt được cái riêng và cái chung, bản chất và hiện
tượng ... thì nhận thức lý tính có thể giúp ta đi sâu vào những mối liên hệ bản
chất, phổ biến tất nhiên, bên trong của sự vật, vì vậy nhận thức lý tính đạt đến
trình độ phản ánh sâu sắc hơn, chính xác hơn và đầy đủ hơn cái bản chất của đối
tượng.
Lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm
thực tiễn phản ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật



12
của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan và được biểu đạt bằng hệ thống
các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật, là sản phẩm của sự phát triển cao
của nhận thức, đồng thời thể hiện như là trình độ cao của nhận thức, nó tồn tại
và phát triển cùng với sự phát triển của trí tuệ loài người trên mọi lĩnh vực tự
nhiên và xã hội. Theo Từ điển Triết học: “Lý luận là sự tổng hợp các tri thức về
tự nhiên và xã hội tích lũy được trong quá trình lịch sử”; là “Hệ thống tư tưởng
chủ đạo trong một lĩnh vực tri thức” [45, 526]. Chủ tịch Hồ Chí Minh định
nghĩa: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp
những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”
[30, 497]. Xét về mặt bản chất, lý luận là một hệ thống tri thức chặt chẽ mang
tính trừu tượng khái quát, đúc kết từ thực tiễn, được diễn đạt thông qua các khái
niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật ... phản ánh bản chất của sự vận động, biến
đổi, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Mọi lĩnh vực đời sống tự nhiên, xã hội, tư duy khi đã trở thành đối tượng
nghiên cứu của con người thì kết quả của quá trình nghiên cứu ấy đều được thể
hiện dưới hình thức tri thức lý luận với trình độ khái quát hóa nhất định. “Lý
luận hiểu theo nghĩa chung nhất là các khái niệm, phạm trù, quy luật được khái
quát từ nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn của con người. Lý luận là
kết quả nhận thức chủ quan của con người về những hiện tượng khách quan
trong tự nhiên, xã hội và tư duy” [18, 183]. Lý luận được hình thành từ thực
tiễn, trên cơ sở thực tiễn đa dạng, phong phú của loài người. Để tồn tại và phát
triển, buộc con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh, phải có tri thức nhất
định về nó. Lý luận chính là sự khái quát hóa, trừu tượng hóa từ những tri thức
thực tiễn đó. Nhưng lý luận không hình thành một cách tự phát từ kinh nghiệm
và không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm.
Nhận thức kinh nghiệm và lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau,
nhưng có mối quan hệ biện chứng với nhau trong đó nhận thức kinh nghiệm là
cơ sở của nhận thức lý luận, nó cung cấp cho lý luận những tư liệu phong phú,
cụ thể, nó gắn chặt trực tiếp với thực tiễn tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra,



13
sữa chữa, bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết, khái quát thành lý luận mới.
Tuy nhiên, khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao
nên nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật của các sự vật
hiện tượng khách quan. Lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác
hơn, hệ thống hơn, do đó, phạm vi ứng dụng của nó cũng phổ biến, rộng hơn
nhiều so với tri thức kinh nghiệm.
Chính vì vậy, lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, lý luận là “kim
chỉ nam” cho hành động, soi đường, chỉ đạo thực tiễn. Như vậy, lý luận được
hiểu là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn khách quan trong tự nhiên,
xã hội và tư duy của con người, được biểu đạt đưới dạng các khái niệm, phạm
trù, quy luật, tư tưởng, quan điểm... nhằm giúp con người cải tạo thực tiễn.
1.1.2. Khái niệm chính trị
Kho tri thức của nhân loại rất đa dạng và phong phú, ở mỗi ngành, mỗi
lĩnh vực có hệ thống lý luận đặc thù riêng. Vậy chính trị là gì? Lý luận chính trị
là gì? Khi đề cập đến chính trị có rất nhiều quan điểm khác nhau. Tuỳ theo cách
tiếp cận cũng như việc bảo vệ lợi ích cho giai cấp mình mà người ta đưa ra các
quan điểm cho phù hợp. Theo quan niệm của các nhà kinh điển Mácxít thì chính
trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc, quốc gia đối với quyền lực nhà
nước. Chính trị là một hiện tượng xã hội đặc biệt, nó xuất hiện cùng với sự phân
chia xã hội thành giai cấp và nhà nước. Sự thăng trầm của lịch sử nhân loại, xét
đến cùng đều có nguồn gốc sâu xa từ những thay đổi trong lĩnh vực chính trị. Vì
tính phức tạp của nó mà cho đến nay vẫn còn nhiều tranh luận xung quanh khái
niệm chính trị. Thuật ngữ chính trị có nguồn gốc từ hy lạp cổ, “politica” nghĩa là
những công việc của nhà nước, là nghệ thuật cai trị đất nước, đó còn là một tổ
chức xã hội nằm dưới một quyền lực nhất định, quyền lực nhà nước.
C.Mác và Ph.Ăngghen xem xét chính trị với tư cách là một hiện tượng xã
hội - chính trị mang tính lịch sử, chỉ ra vai trò to lớn của nó trong đời sống xã hội.

“Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, khi kinh tế phát triển đến một trình độ nhất
định, xã hội phân chia thành giai cấp và mâu thuẫn giữa các giai cấp trở nên gay


14
gắt không thể điều hòa được thì nhà nước, chính trị ra đời” [14, 5]. “Kế thừa
những tinh hoa của nhân loại, đồng thời là lãnh tụ của giai cấp công nhân,
V.I. Lênin cho rằng cái căn bản nhất của chính trị là tổ chức chính quyền Nhà
nước. Chính trị là sự tham gia vào các công việc Nhà nước, định hướng nhà nước,
xác định hình thức, nhiệm vụ và nội dung hoạt động của Nhà nước. Bất kỳ hoạt
động xã hội nào cũng có tính chất chính trị, nếu như việc giải quyết nó trực tiếp
hay gián tiếp gắn với lợi ích giai cấp, gắn với vấn đề chính quyền” [14, 9]. Chính
trị phản ánh cuộc đấu tranh của các giai cấp xung quanh vấn đề giành, giữ, sử
dụng chính quyền và cuối cùng do địa vị kinh tế của những giai cấp đó quy định.
Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Những quan hệ chính trị, những vấn
đề chính trị có ảnh hưởng trở lại mạnh mẽ đối với kinh tế hoặc thúc đẩy, hoặc cản
trở sự phát triển kinh tế. Chính trị biểu hiện trên các tri thức được tích lũy trong
quá trình lịch sử và những quan hệ thực tế gắn với con người, với giai cấp, với
dân tộc và với thời đại. Với tư cách là hệ thống các quan hệ xã hội hiện thực,
chính trị có tính khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất cứ cá
nhân hay đảng phái nào. Với tư cách là một thiết chế xã hội, chính trị luôn tìm
cách dẫn dắt xã hội theo tư tưởng của giai cấp nắm quyền thống trị xã hội.
“Theo Hồ Chí Minh, đời sống xã hội có bốn lĩnh vực cơ bản là kinh tế,
chính trị, văn hóa và xã hội, phải coi các lĩnh vực đó đều quan trọng như nhau.
Trong tác phẩm “thường thức chính trị”, Người đã chỉ rõ nội hàm của khái niệm
chính trị rất cơ bản và dễ hiểu. Theo Người chính trị bao gồm quan hệ giữa các
giai cấp trong xã hội, chế độ xã hội do các giai cấp xác lập, đấu tranh giữa các
giai cấp trên cơ sở lợi ích kinh tế, động lực cách mạng và con đường giải phóng
của người nghèo, quyền và lợi ích của nhân dân, nhiệm vụ của Nhà nước, Đảng
chính trị, quyền và nghĩa vụ của đảng viên, quan hệ quốc tế và xu thế phát triển

hợp quy luật của quốc gia, dân tộc” [14, 9].
1.1.3. Khái niệm lý luận chính trị
1.1.3.1. Khái niệm lý luận chính trị


15
Từ khái niệm lý luận và khái niệm chính trị ở trên đây thì lý luận chính trị
được hiểu là lý luận trong lĩnh vực chính trị, là hệ thống các quan điểm, chủ
trương, đường lối, chính sách của một Đảng, một giai cấp để giành, giữ và thực
thi quyền lực Nhà nước. Lý luận chính trị ra đời khi xã hội có giai cấp và đấu
tranh giai cấp để đại diện cho lợi ích của một Đảng, một giai cấp nhất định trong
xã hội. Như vậy, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận chính trị của giai
cấp vô sản, là hệ tư tưởng chân chính nhất của giai cấp vô sản và chính đảng của
mình - Đảng Cộng Sản. Đó là kim chỉ nam của giai cấp vô sản trong cuộc đấu
tranh giải phóng mình, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột của
giai cấp tư sản và trả con người về đúng vị trí của nó.
Trong cuốn Phương pháp giảng dạy lý luận chính trị do Ban Tuyên giáo
Trung ương xuất bản năm 2008 cho rằng: “Lý luận chính trị là từ ghép giữa lý
luận và chính trị. Ở đây, lý luận được giới hạn ở lĩnh vực chính trị, khái niệm chỉ
mối liên hệ giữa các giai cấp trong xã hội có giai cấp, xung quanh vấn đề giành
hoặc giữ chính quyền của giai cấp mình. Do vậy, lý luận chính trị được hiểu là
những vấn đề lý luận gắn liền với cuộc đấu tranh giữa các giai cấp trong xã hội
có giai cấp, xung quanh vấn đề giành và giữ chính quyền” [5,16].
Lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay là hệ thống những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước cùng những tinh hoa tư tưởng chính trị của
dân tộc và nhân loại. Nó phản ánh tính quy luật của các quan hệ kinh tế- chính
trị- xã hội, thể hiện lợi ích và thái độ của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Căn cứ vào
những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta xác

định những quan điểm chỉ đạo cơ bản, từ đó xây dựng một hệ thống những chủ
trương, chính sách phù hợp. Nhờ đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác. Cho dù hoàn cảnh nào, Đảng ta vẫn luôn kiên trì chủ


16
nghĩa Mác - Lênin, kiên trì phát triển đất nước theo con đường mà Bác và cả dân
tộc đã lựa chọn.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý
luận không thể tách rời, khẳng định bản chất cách mạng và khoa học trong quá
trình cách mạng Việt Nam, nhất là trong quá trình đổi mới vừa qua. Đại hội lần
thứ VII của Đảng ta lần đầu tiên đã chính thức khẳng định sự song hành gắn kết
giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tạo thành nền tảng tư
tưởng vững chắc: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [15, 127]. Có thể nói, chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch
sử cách mạng Việt Nam. Thực tế cách mạng Việt Nam cũng chứng minh rằng,
khi nào chúng ta vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo hệ thống lý luận này thì
gặt hái được nhiều thành quả, và ngược lại. Trong cách mạng dân tộc, dân chủ
nhờ vận dụng sáng tạo lý luận này mà chúng ta đã đánh bại các thế lực thực dân,
đế quốc và bè lũ tay sai; từ một nước thuộc địa bị xâm chiếm, chia cắt trở thành
một quốc gia độc lập, thống nhất đang trên đà phát triển. Trong thời kì cả nước
cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, đã có lúc chúng ta vận dụng chưa
đúng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nên đã có giai đoạn rơi vào
khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài (1975 - 1985). Sau đó cũng chính nhờ nhận
thức đúng đắn về vai trò nền tảng của lý luận này và vận dụng sáng tạo nó trong
thực tiễn mà chúng ta đã đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và từng bước
phát triển vững chắc.
Đảng ta nhấn mạnh việc học tập, nghiên cứu, rèn luyện và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng quan

trọng nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc do thực tiễn đất nước và thời đại
đặt ra. Tuy nhiên, việc học tập đó phải không ngừng được bổ sung, phát triển
trên cơ sở thực tiễn để lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí


17
Minh luôn có sức sống mãnh liệt trong sự nghiệp cách mạng, trong sự phát triển
trường tồn của dân tộc.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá IX đã đề ra
nhiệm vụ đối với công tác lí luận trong tình hình mới bao gồm những vấn đề sau:
“1. Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng
tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục lý luận
chính trị, tạo sự thống nhất cao hơn nữa trong Đảng, sự đồng thuận trong
nhân dân...
3. Công tác tư tưởng, lý luận phải góp phần giải quyết những vấn đề kinh
tế- xã hội bức xúc, chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, chặn
đà suy thoái về đạo đức, lối sống.
4. Chủ động tiến công, triển khai có hiệu quả cuộc đấu tranh trên mặt trận
tư tưởng, lý luận, làm thất bại chiến lược “Diễn biến hoà bình”, âm mưu bạo
loạn lật đổ của các thế lực thù địch” [17, 95-96].
Lý luận chính trị bao gồm những tri thức tổng hợp, liên ngành mang tính
đảng, tính giai cấp rõ rệt, đồng thời có tính khái quát hóa, trừu tượng hóa và tính
dự báo khoa học cao. Học tập lý luận chính trị, bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính
trị chính là xây dựng, phát triển, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm đường lối của Đảng, hình thành hệ giá trị cách mạng và
khoa học trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Điều này khẳng định vai trò và
tầm quan trọng to lớn của nó đối với nhận thức và hành động của từng cá nhân
nói riêng và sự phát triển của toàn xã hội nói chung, đồng thời cho thấy sự khó
khăn, phức tạp của quá trình sáng tạo, nhận thức và vận dụng lý luận chính trị.

1.1.3.2. Bản chất của lý luận chính trị
Lý luận chính trị xuất phát từ thực tiễn
Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ thực tiễn là cơ sở,
động lực và mục đích của nhận thức. Chính trong quá trình cải tạo thế giới mà


18
nhận thức, lý luận ở con người mới được hình thành và phát triển. Thực tế lịch
sử cho thấy, con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà
bằng thực tiễn. Trong quá trình này, con người sử dụng các công cụ, phương
tiện tác động vào các sự vật, hiện tượng, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc
tính và tính qui luật, nhờ đó mà con người có được những hiểu biết về thế giới
khách quan, từ đó con người tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng
hóa, khái quát hóa... để xây dựng thành lý luận. Do đó, có thể nói, thực tiễn cung
cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận, không có thực tiễn thì không có
nhận thức, không có lý luận. Những tri thức mà chúng ta có được cho đến hôm
nay hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đều nảy sinh từ hoạt động thực tiễn.
Quá trình cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn cũng chính là quá trình
hoàn thiện bản thân con người. Thông qua thực tiễn, con người phát triển năng
lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Ph.Ăngghen viết: “Từ trước đến nay,
khoa học tự nhiên cũng như triết học đã coi thường ảnh hưởng của hoạt động
con người đối với tư duy của họ. Hai môn ấy một mặt chỉ biết tự nhiên mặt khác
chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự nhiên... là cơ sở chủ
yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người phát đã
phát triển song song với việc người ta người đã học cải biến tự nhiên” [11, 270].
Lý luận chính trị phản ánh mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động chính trị.
Lý luận xuất phát từ thực tiễn và có vai trò định hướng, soi đường cho
hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Lý luận là tổng hợp kiến thức, tri thức ở
trình độ khái quát cao, bao hàm các nguyên lý, nguyên tắc, quy luật, quan niệm,

khái niệm, mối quan hệ phổ biến, mang tính bản chất, những nội dung tổng quát
và những tri thức cụ thể... được khái quát từ thực tiễn, được đúc rút từ những
kinh nghiệm, được dự báo có căn cứ khoa học. Như vậy, lý luận không bất biến,
mà luôn thay đổi không ngừng, được bổ sung, làm giàu qua thực tiễn, qua kinh
nghiệm và những dự báo khoa học. Trải qua thời gian, với sự vận động không


19
ngừng của cuộc sống, có những vấn đề lý luận trở nên lỗi thời, lạc hậu, không
còn phù hợp với thực tiễn; cũng có những vấn đề mới nảy sinh từ chính thực tế
cuộc sống, đòi hỏi phải được phát hiện, lý giải bản chất, tính quy luật, dự báo
khả năng xu hướng vận động của nó để đề ra những quyết sách kịp thời, đúng
đắn trong quản lý, phát triển đất nước. Điều đó cũng có nghĩa là, công tác lý
luận là công tác thường xuyên của Đảng. Để lãnh đạo thành công sự nghiệp cách
mạng, đòi hỏi Đảng Cộng Sản phải không ngừng đổi mới, phát triển, hoàn thiện
hệ thống lý luận cách mạng. Muốn đổi mới, phát triển, hoàn thiện hệ thống lý
luận cách mạng, trước hết phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ vai trò, vị trí, tầm
quan trọng của công tác lý luận. Lý luận là căn cứ khoa học nhằm lý giải những
vấn đề phát sinh từ thực tiễn. Công cuộc xây dựng và phát triển đất nước vận
động không ngừng trong một thế giới toàn cầu hóa, biến đổi nhanh chóng khó
lường, nhiều vấn đề mới phát sinh, đòi hỏi phải được lý giải, chỉ ra thực chất, xu
hướng vận động, thái độ ứng xử và giải pháp giải quyết. Thực tiễn muôn màu,
nhiều chiều, luôn vận động và biến đổi, trong khi lý luận thường không bao hàm
hết tất cả mọi mặt của đời sống xã hội, do vậy, lý luận cần liên tục được bổ
sung, hoàn thiện. Nếu hệ thống lý luận bất biến, xơ cứng, không được bổ sung,
hoàn thiện sẽ không thể lý giải được những vấn đề thực tiễn phát sinh, không
làm tròn sứ mệnh dẫn đường của mình.
Thực chất công tác lý luận là quá trình sáng tạo ra hệ tư tưởng và đường
lối chính trị của một giai cấp.
Một quốc gia không thể phát triển nếu thiếu triết lý và chiến lược phát

triển dựa trên một nền tảng lý luận khoa học, phù hợp với thực tiễn, thích ứng
với thời đại và hướng tới những thang bậc giá trị của xã hội văn minh. Đối với
một Đảng cầm quyền, lý luận là kim chỉ nam cho sự lãnh đạo, là cơ sở cho việc
xác định mục tiêu, con đường và phương pháp cách mạng.
Hệ thống lý luận cũng chính là ngọn cờ tập hợp lực lượng, đoàn kết các
dân tộc để thực hiện các nhiệm vụ chính trị của cách mạng. Thiếu hệ thống lý


20
luận đúng đắn sẽ không thể tập hợp được sức mạnh của quần chúng, tạo nên sự
đồng thuận, đoàn kết của dân tộc, của bạn bè quốc tế, hơn thế nữa, chính trong
nội bộ Đảng cũng không thể đoàn kết do bị phân rã về mục tiêu, phương pháp
và các điều kiện căn bản khác để thống nhất ý chí, thống nhất hành động.
Lý luận là cơ sở cho việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Việc hoạch định chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chỉ bảo đảm đúng đắn, hiệu quả
khi được dựa trên cơ sở lý luận đúng đắn và vững chắc. Đến lượt nó, một hệ
thống lý luận khoa học sẽ luôn được bổ sung, làm giàu thông qua quá trình
thực tiễn hiện thực hóa các chủ trương, chính sách, qua đúc rút kinh nghiệm,
qua những nghiên cứu tìm tòi, không ngừng đổi mới và hoàn thiện. Ngoài ra
nó còn cung cấp những luận cứ khoa học, những căn cứ không thể bác bỏ cho
cuộc đấu tranh với sự chống phá của kẻ thù, bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ,
bảo vệ Đảng, bảo vệ những thành quả cách mạng và công cuộc xây dựng, phát
triển đất nước, đổi mới công tác lý luận, nghiên cứu, phát triển lý luận là đòi
hỏi cấp bách từ thực tiễn phát triển của đất nước. Nghiên cứu, phát triển lý
luận không chỉ dừng lại ở việc minh chứng tính đúng đắn, khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của con đường đi lên CNXH, mà
hơn thế, cần phải góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về xây dựng CNXH ở
Việt Nam, dự báo các tiến trình phát triển trong nước và trên thế giới để phục
vụ công cuộc phát triển đất nước. Để lý luận trở thành cơ sở khoa học, cung

cấp các luận cứ khoa học cho các quyết định chính trị, hoạch định chiến lược,
chính sách, đồng thời là tiếng nói tư vấn, phản biện cho quá trình này thì công
tác lý luận cần thường xuyên đổi mới, phát triển, phát hiện, lý giải và tìm lời
giải đáp cho những vấn đề đặt ra từ thực tiễn. Lý luận phải được xem là khoa
học nền tảng, nghiên cứu lý luận phải diễn ra như một hoạt động khoa học với
những tìm tòi, sáng tạo, khách quan, khắc phục tính thụ động, mô tả, minh họa
cho các quyết định chính trị và vấn đề thực tiễn.


21
1.1.3.3. Đặc trưng của lý luận chính trị
Một là, tính trừu tượng và tính khái quát.
Đây là đặc trưng cơ bản của lý luận nói chung, lý luận chính trị nói riêng.
Tư duy là vấn đề cốt lõi của lý luận nhận thức, nếu không có tư duy thì nhận
thức của con người chỉ dừng lại ở nhận thức cảm tính, không hiểu được bản
chất, quy luật của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế
giới hiện thực. Các hình thức thể hiện của lý luận như khái niệm, phạm trù,
nguyên lý…đều là sản phẩm của quá trình khái quát hóa, trừu tượng hóa cao
của tư duy. Vì vậy, lý luận có thể hướng con người trong việc tìm tòi chân lý,
nắm bắt những mối liên hệ khách quan, bản chất, phát hiện ra quy luật chi phối
sự vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng.
Trừu tượng hóa và khái quát hóa là hai quá trình không thể tách rời nhau,
luôn liên hệ chặt chẽ và xâm nhập, bổ sung lẫn nhau. Nhờ đó, con người có
được những tri thức về các mối liên hệ bản chất, tính quy luật trong sự vận động
và phát triển của sự vật. Với đặc tính phản ánh cái chung, cái bản chất có tính
quy luật của các sự vật, hiện tượng, nên quy luật có tính chính xác, chặt chẽ,
lôgíc và có độ tin cậy cao. Mặc dù các khái niệm, phạm trù, nguyên lý…biểu
đạt những khía cạnh, những yếu tố khác nhau nhưng chúng lại có quan hệ chặt
chẽ với nhau, bổ sung, hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Lý luận MácLênin là một điển hình về tính thống nhất, chặt chẽ và lôgic. Do đó, nó là khoa
học về những quy luật chung, phổ biến đang vận động trong thế giới tự nhiên,

xã hội và tư duy con người.
Nhờ có tính trừu tượng hóa, khái quát hóa của lý luận mà tư duy con
người không ngừng tìm tòi, sáng tạo ra những cái mới, khoa học, đáp ứng
những nhu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn.
Hai là, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Đây là nguyên tắc cơ bản của lý luận khoa học nói chung và của chủ
nghĩa Mác - Lênin nói riêng. Lý luận, xét đến cùng là thuộc về lĩnh vực hoạt


22
động tinh thần của xã hội, còn thực tiễn thuộc về hoạt động vật chất. Theo lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin thì vật chất quyết định ý thức, hoạt động vật
chất đóng vai trò quyết định đối với hoạt động tinh thần. Tuy nhiên, lý luận
cũng đóng vai trò tác động trở lại đối với thực tiễn, đặc biệt trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Lý luận chính là kết quả nhận thức của con người, nó có vai trò
chỉ đạo, hướng dẫn thực tiễn, do đó nếu không có nhận thức đúng thì cũng
không thể có hành động đúng. Chính vì vậy, Đảng ta luôn nhấn mạnh đến vai
trò kim chỉ nam của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong
thực tiễn cách mạng của đất nước.
Lý luận và thực tiễn luôn có mối quan hệ biện chứng, là điều kiện, là tiền
đề cho sự tồn tại và phát triển của nhau. Điều đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn
mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông" [30, 496].
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, trước thực trạng: “Một bộ phận
không nhỏ cán bộ đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí phấn đấu, vi
phạm nguyên tắc đảng, phê bình, tự phê bình yếu. Tình thương yêu đồng chí bị
giảm sút. Tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống trong
một bộ phận cán bộ đảng viên rất đáng lo ngại…” [18, 67]. Đảng càng phải
quan tâm nhiều hơn đến việc học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán

bộ đảng viên. Bởi nó góp phần nâng cao trí tuệ cho Đảng, hơn lúc nào hết, để
lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước đi đến thắng lợi, Đảng phải có trí tuệ,
không ngừng nâng cao năng lực tổ chức, từ việc phát hiện và nắm vững quy
luật về sự vận động của đời sống xã hội cho đến việc hiểu biết về thế giới và
thời đại.
Những thắng lợi to lớn của gần ba mươi năm đổi mới đất nước và từ bài
học sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới thời gian qua, cho thấy,
khi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được xây dựng


23
trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự vận dụng sáng tạo lý luận ấy
phù hợp điều kiện của thực tiễn đất nước thì cách mạng sẽ giành được thắng lợi.
Ngược lại, mọi sự rập khuôn, máy móc trái với những nguyên lý cơ bản của lý
luận thì không tránh được hậu quả, đó là nền kinh tế trì trệ, đó là khủng hoảng
kinh tế- xã hội… tất yếu sẽ làm nguy hại đến sự tồn vong của chế độ.
Ba là: Sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học.
Trong xã hội có giai cấp, lý luận bao giờ cũng do một giai cấp nhất định
trong xã hội xây dựng nên xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của giai cấp đó. Lý
luận chính trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay là xuất phát từ nhu cầu và
hoàn toàn phù hợp với lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động, cho nên, lý
luận đó luôn đảm bảo sự thống nhất chặt chẽ giữa tính đảng và tính khoa học.
Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lý
luận chính trị của Đảng ta hiện nay có vai trò to lớn trong việc tìm tòi, sáng tạo,
xây dựng các luận cứ khoa học cho việc đề ra và tổ chức thực hiện thắng lợi
những mục tiêu, đường lối chính trị của Đảng. Lý luận đó là sự tổng hợp những
tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của thời đại, là sự khái quát những thành tựu
khoa học tiên tiến nhất của nhân loại, đồng thời, nó còn là sự đúc kết kinh
nghiệm từ lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, từ sự
tổng kết phong trào cách mạng của thế giới. Đây chính là một điển hình về sự

vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, về sự thống nhất giữa tính đảng và
tính khoa học, giữa tính khoa học và tính cách mạng.
Trong lý luận chính trị không có sự tách rời giữa tính đảng và tính khoa
học, mà là sự thống nhất chặt chẽ, là điều kiện, là tiền đề thúc đẩy nhau cùng
phát triển. Trong đó tính đảng càng cao thì tính khoa học càng sâu sắc. Khẳng
định tính thống nhất đó, Ph.Ăngghen viết: “Khoa học càng được tiến hành một
cách dũng cảm và kiên quyết thì nó càng phù hợp với lợi ích và nguyện vọng
của giai cấp công nhân” [12, 451]. Vì vậy, tại Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta khẳng
định: “Phát triển và kết hợp chặt chẽ các ngành khoa học xã hội và nhân văn, khoa


×