Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Quy chế pháp lý và hoạt động của pháp nhân nước ngoài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.7 KB, 9 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang ngày một mở cửa chào đón cả thế giới, hòa chung vào
dòng chảy của cả thế giới trên mọi lĩnh vực. Điều đó đem lại nhiều điều tươi mới cho
nền kinh tế đã bao năm trì trệ cũng đem lại bao nhiều kinh nghiệm cho những con
người đi làm giàu cho đất nước và nó cũng đòi hỏi một hàng rào pháp lý đủ mạnh đủ
cũng chắc để đảm bảo cho những sự phát triển ấy đi đúng hướng. Trong khôn khổ bài
luận, vấn đề sẽ được nhắc đến đó là pháp nhân nước ngoài cùng những hoạt động của
nó ở Việt Nam.
B.NỘI DUNG
I. Khái niệm pháp nhân và pháp nhân nước ngoài trong tư pháp quốc tế ở Việt
Nam
Theo Giáo trình Tư pháp Quốc tế trường Đại học Luật Hà Nội (Nxb Công an
Nhân dân) thì pháp nhân là “một tổ chức nhất định của con người, được pháp luật Nhà
nước quy định có quyền năng chủ thể”, bên cạnh đó cũng đưa ra nhận định “Không
phải bất kỳ tổ chức nào cũng được công nhận có tư cách pháp nhân. Chỉ những tổ chức
được thành lập theo trình tự thủ tục và có đủ các điều kiện do pháp luật của Nhà nước
quy định hoặc tồn tại trên thực tế và được Nhà nước công nhận thì mới có tư cách
pháp nhân”. Còn trong giáo trình “Luật Tư pháp Quốc tế” (Nxb Giáo dục Việt Nam) do
Thạc sĩ Bùi Thị Thu làm chủ biên đưa ra một khái niệm khác, theo đó pháp nhân “được
hiểu là một tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật một quốc gia nhằm
thực hiện những chức năng hoặc mục đích nhất định”. Từ những khái niệm được nêu ra
trong hai cuốn giáo trình có thể hiểu pháp nhân luôn luôn là một tổ chức và mỗi nhà
nước khác nhau lại có những quy định của riêng mình về điều kiện để tổ chức đó được
gọi là một pháp nhân. Đối với luật Dân sự Việt Nam, để được công nhận là một pháp
nhân thì các tổ chức cần hội đủ 4 điều kiện : được thành lập hợp pháp, có cơ cấu tổ
chức chặt chẽ, có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng
tài sản đó và nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập ( căn cứ
theo điều 84 Bộ luật Dân sự năm 2005 ).
Căn cứ theo chức năng, mục đích hoạt động, pháp nhân được phân thành hai
nhóm chính : pháp nhân công ( cơ quan, tổ chức công quyền của nhà nước, các tổ chức
quốc tế phi chính phủ…) và pháp nhân tư (chủ yếu là các công ty, doanh nghiệp, hiệp


hội, nghiệp đoàn…) . Còn nếu căn cứ vào dấu hiệu quốc tịch có thể phân loại pháp nhân
1


trong tư pháp quốc tế thành hai nhóm: pháp nhân Việt Nam nhưng tham gia các quan hệ
dân sự thương mại có yếu tố nước ngoài, pháp nhân nước ngoài là pháp nhân được
thành lập ở nước ngoài theo pháp luật nước ngoài nhưng thành lập chi nhánh, văn
phòng đại diện tại Việt Nam. Pháp luật Việt Nam đều thống nhất dựa trên tiêu chí “nơi
thành lập” để đưa ra khái niệm pháp nhân nước ngoài. Có thể đưa ra đây một số quy
định trong luật định như khoản 20 điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005, khoản 1 điều
16 luật Thương mại năm 2005, khoản 4 và 5 điều 3 Nghi định 138/2006/ NĐ-CP ngày
15/11/2006 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự
về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo đó
4. “Cơ quan, tổ chức nước ngoài” là các cơ quan, tổ chức không phải là cơ quan, tổ chức Việt Nam
được thành lập theo pháp luật nước ngoài, bao gồm cả cơ quan, tổ chức quốc tế được thành lập theo
pháp luật quốc tế.
5. “Pháp nhân nước ngoài” là pháp nhân được thành lập theo pháp luật nước ngoài.

II. Quy chế pháp lý của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam.
1.

Đặc điểm quy chế pháp lý của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam.
Pháp nhân luôn mang quốc tịch của một nước nhất định và được tổ chức, hoạt

động theo pháp luật của nước đó, hay nói cách khác năng lực pháp luật dân sự, điều
kiện thủ tục thành lập, hợp nhất, sáp nhập, chia tách , giải thể pháp nhân…do pháp luật
của nước pháp nhân mang quốc tịch quy định.
Khi hoạt động với tư cách là pháp nhân nước ngoài ở một nước nào đó, năng lực
pháp luật dân sự của pháp nhân trên lãnh thổ nước sở tại tùy thuộc vào quy định của
pháp luật nước sở tại. Những vấn đề liên quan đến cơ cấu tổ chức cũng như tài sản vẫn

theo quy định của pháp luật nước pháp nhân mang quốc tịch.
Việc cho phép hay không cho phép vào, vào để tiến hành những hoạt động gì,
trong lĩnh vực nào, ở phạm vi nào, cho phép nhân đó hưởng thêm quyền gì và có những
nghĩa vụ gì cụ thể đều là quyền của nước sở tại. Và thường được quy định trong các
văn bản pháp luật quốc gia cũng như các điều ước quốc tế mà nước sở tại ký kết hoặc
tham gia. Như vậy đặc điểm quy chế pháp lý dân sự của pháp nhân nước ngoài trước
hết được thể hiện ở chỗ cùng một lúc pháp nhân nước ngoài phải tuân theo hai hệ thống
pháp luật là pháp luật của nước mà pháp nhân mang quốc tịch và pháp luật của nước sở
tại. goài ra, đặc điểm quy chế pháp lý dân sự của pháp nhân nước ngoài còn thể hiện ở
2


chỗ nếu các quyền và lợi ích hợp pháp của pháp nhân nước ngoài bị xâm phạm trên
lãnh thổ nước sở tại thì pháp nhân đó được nhà nước bảo hộ về mặt ngoại giao.
2. Quy chế pháp lý của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam.
 Quy chế pháp lý của pháp nhân nước ngoài đầu tư tại Việt Nam
Đây là một lĩnh vực rộng lớn được nhà nước ta quy định rất cụ thể trong Luật
Đầu tư SỐ 59/2005/QH11 NGÀY 29 THÁNG 11 NĂM 2005 cùng các văn bản hướng dẫn như
nghị định số 78/2007/NĐ-CP cũng như là nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng
9 năm 2006.
- Chủ thể và lĩnh vực đầu tư.
Các tổ chức được khuyến khích đầu tư vào Việt Nam thuộc mọi quốc tịch và mọi
,thành phần kinh tế bao gồm cả các tổ chức quốc té. Đối tác của các nhà đầu tư nước
ngoài là các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, các doanh nghiệp thành lập theo luật
công ty, doanh nghiệp tư nhân được thành lập theo luật doanh nghiệp tư nhân, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam ký kết và thực hiện hợp đồng xây dựngkinh doanh chuyển giao, hợp đồng , hợp đồng xây dựng -chuyển giao kinh doanh và
hợp đồng xây dựng chuyển giao. Các pháp nhân nước ngoài dược đầu tư vào lĩnh vực
của nền kinh tế quốc dân của Việt Nam
- Hình thức đầu tư.
Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp dồng hợp tác kinh doanh

Thành lập doanh nghiệp liên doanh trên cơ sở hợp đồng liên doanh, doanh
nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, .
Nhà đầu tư nước ngoài được liên doanh với nhà đầu tư trong nước để đầu tư thành lập
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh
theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan. Pháp nhân nước ngoài
tham gia doanh nghiệp liên doanh được góp vốn pháp định bằng các tài sản hợp pháp,
đó có thể là:
a) Cổ phần, cổ phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác;
b) Trái phiếu, khoản nợ và các hình thức vay nợ khác;
c) Các quyền theo hợp đồng, bao gồm cả hợp đồng chìa khóa trao tay, hợp đồng xây dựng, hợp đồng
quản lý, hợp đồng phân chia sản phẩm hoặc doanh thu;
3


d) Các quyền đòi nợ và quyền có giá trị kinh tế theo hợp đồng;
đ) Công nghệ và quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm cả nhãn hiệu thương mại, kiểu dáng công
nghiệp, sáng chế, tên thương mại, nguồn gốc hoặc tên gọi xuất xứ;
e) Các quyền chuyển nhượng, bao gồm cả các quyền đối với thăm dò và khai thác tài nguyên;
g) Bất động sản; quyền đối với bất động sản, bao gồm cả quyền cho thuê, chuyển nhượng, góp
vốn, thế chấp hoặc bảo lãnh;
h) Các khoản lợi tức phát sinh từ hoạt động đầu tư, bao gồm cả lợi nhuận, lãi cổ phần, cổ tức, tiền
bản quyền và các loại phí;
i) Các tài sản và quyền có giá trị kinh tế khác theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên.

Được quy định tại khoản 1 điều 2 Nghị định 108/2006/NĐ-CP. Vốn góp ít nhất phải
chiếm 30% vốn pháp định và không có giới hạn về mức cao nhất được góp cho pháp
nhân nước ngoài, trừ trường hợp do Nhà nước quy định. Các bên chia lợi nhuận và chịu
rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp theo tỉ lệ vón góp.Thời hạn hoạt động của xí
nghiệp liên doanh được chính phủ quy định riêng từng dự án nhưng không quá 50 năm.

Có thể dài hơn nhưng không quá 70 năm
Thành lập một doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài điều 7 Nghị định
108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 quy định:
1. Nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư theo hình thức 100% vốn để thành
lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân theo quy
định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan.
2. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam được hợp tác với nhau
và với nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài mới.
3. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam,
được thành lập và hoạt động kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đầu tư.

Bên cạnh nêu ra những hình thưc đầu tư của pháp nhân nước ngoài đầu tư tại Việt
Nam nghị định 108 cùng với Luật Đầu tư còn chỉ ra cả những quyền và lợi ích của các
nhà đầu tư trong đó có các pháp nhân nước ngoài đầu tư tại Việt Nam.
Hình thức thứ 3 mà các pháp nhân nước ngoài sử dụng để đầu tư tại Việt Nam đó là
hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, điều 9 nghị định số 108/2006/NĐ-CP quy định
4


1. Trường hợp đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa một hoặc nhiều nhà đầu
tư nước ngoài với một hoặc nhiều nhà đầu tư trong nước (sau đây gọi tắt là các bên hợp doanh) thì
nội dung hợp đồng hợp tác kinh doanh phải có quy định về quyền lợi, trách nhiệm và phân chia kết
quả kinh doanh cho mỗi bên hợp doanh.
2. Hợp đồng hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí và một số
tài nguyên khác theo hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm thực hiện theo quy định của pháp luật có
liên quan và Luật Đầu tư.
3. Hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký giữa các nhà đầu tư trong nước với nhau để tiến hành
đầu tư, kinh doanh thực hiện theo quy định của pháp luật về hợp đồng kinh tế và pháp luật có liên
quan.
4. Trong quá trình đầu tư, kinh doanh, các bên hợp doanh có quyền thoả thuận thành lập ban

điều phối để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ban điều
phối do các bên hợp doanh

thỏa thuận. Ban điều phối không phải là cơ quan lãnh đạo của các bên hợp

doanh.
5. Bên hợp doanh nước ngoài được thành lập văn phòng điều hành tại Việt Nam để làm đại diện
cho mình trong việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Văn phòng điều hành của bên hợp doanh nước ngoài có con dấu; được mở tài khoản, tuyển dụng lao
động, ký hợp đồng và tiến hành các hoạt động kinh doanh trong phạm vi các quyền và nghĩa vụ quy
định tại Giấy chứng nhận đầu tư và hợp đồng hợp tác kinh doanh

Những vấn đề khác có liên quan đến hính thức đầu tư này cũng được quy định cụ
thể tại nghị định số 108 cùng nghị định số 78 năm 2007 quy định riêng về hình thức đầu
tư thông qua hợp đồng hợp tác
Các ưu đãi về tài chính của hệ thống pháp luật Việt Nam luôn rất thoáng . Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp
đồng nộp thuế lợi tức 25% lợi nhuận thu dược. Ví dụ luật dầu khí và pháp luật có liên
quan nếu khuyến khích đầu tư thuế lợi tức chỉ còn 20 % lợi nhuận nếu có nhiều tiêu
chuẩn khuyến khích đầu tư thì giảm còn 15%, đặc biệt khuyến khích đầu tư giảm 10%.
Ngoài ra còn có hình thưc miễn thuế theo thời hạn 2 năm, 4 năm thậm chí là 8 năm….
Về tổ chức kinh doanh thì nhà nước ta quy định các bên liên doanh, xi nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài có toàn quyền quyết định chương trình và kế hoạch kinh doanh
của mình
5




Quy chế pháp lý của Pháp nhân nước ngoài không thuộc diện đầu tư tại Việt


Nam
Pháp nhân nước ngoài không thuộc diện đầu tư tại Việt Nam thì bao gồm cả những
tổ chức kinh doanh và cả những tổ chức phi chính phủ thực hiện các hoạt động xã hội.
Cả hai đều có thể có văn phòng đại diện hoặc chi nhánh tại Việt Nam ( trong nước)
nhưng với các tổ chức kinh tế lại có thêm những pháp nhân nước ngoài nhưng vẫn có
các hoạt động thương mại trực tiếp tren lãnh thổ Việt Nam. Với các tổ chức cần có đại
diện hoặc chi nhành thì để thành lập được lại phải đáp ứng các yêu cầu thủ tục được
quy định tại điều 4 Nghị định 72/2006/NĐ-CP quy định về điều kiện cáp giấy thành lập
văn phòng đại diện chi nhánh. Các hình thức hoạt động của các pháp nhân nước ngoài
không có văn phòng đại diện cũng như chi nhánh, chỉ tham gia các quan hệ thông qua
các hợp đồng đầu tư (BOT, BBC…) hoặc hợp đồng nhượng quyền hay mang sản phẩm
hàng hóa vào bán theo mô hình bán hàng đa cấp.
III. Hoạt động của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam


Tính cho đến năm 1978 đã có 70 NGOs đặt quan hệ với Việt Nam, giá trị viện

trợ khoảng 30 triệu đô la Mỹ/năm, chủ yếu viện trợ nhân đạo (lương thực, thuốc
men...), giúp ta khắc phục hậu quả chiến tranh. Đặc biệt, kể từ năm 1986, nhờ chính
sách Đổi mới của Nhà nước ta và chủ trương về hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả
hợp tác với các tổ chức NGO quốc gia và quốc tế, góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn
nhau, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân các nước, các tổ chức NGO nước
ngoài có quan hệ với ta tăng lên và giá trị viện trợ tăng dần. Từ 70 đến 100 tổ chức
NGO với tổng giá trị viện trợ khoảng 20-30 triệu đô la Mỹ/ năm trong giai đoạn 19861992. Trong hơn 10 năm qua (1994-2006), số lượng các tổ chức có quan hệ với Việt
Nam đã tăng gấp 3 lần, từ 210 tổ chức vào năm 1994 lên khoảng 650 tổ chức vào năm
2006. Trong số đó, có trên 500 tổ chức có hoạt động thường xuyên, có dự án và đối tác
Việt Nam. Giá trị viện trợ năm 1993 là 40 triệu đô la Mỹ, đến năm 2002 là 85 triệu đô
la Mỹ, năm 2004 là 140 triệu USD, năm 2005 là 175 triệu USD, năm 2006 là 217 triệu
USD. Tính đến tháng 12/2006, ta đã cấp 53 Giấy phép lập Văn phòng Đại diện,

6


101Giấy phép lập Văn phòng Dự án và 402 Giấy phép hoạt động tại Việt Nam. Chương
trình viện trợ của các NGOs được triển khai ở 61 tỉnh thành trong cả nước, đặc biệt tập
trung vào những vùng còn nghèo, vùng sâu, vùng xa và ngày càng tập trung hơn vào
các lĩnh vực phù hợp với các ưu tiên và định hướng phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước ta, đặc biệt là xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Sự trợ giúp của NGOs
nước ngoài không chỉ là viện trợ vật chất mà bao gồm cả chuyển giao kinh nghiệm,
công nghệ, nâng cao dân trí, chăm sóc y tế, phổ cập giáo dục..., và thông qua viện trợ,
quan hệ của nước ta đối với các NGOs nước ngoài làm cho nhân dân thế giới hiểu biết
hơn về Việt Nam, góp phần tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân ta và
nhân

dân

các

nước

trên

thế

giới.

Để tiếp tục chủ động tranh thủ, quản lý tốt hoạt động và nâng cao hiệu quả sử dụng viện
trợ phi chính phủ, Chính phủ ta đã tổ chức hai Hội nghị quốc tế lớn tại Hà Nội, đó là
Hội nghị Tổng kết 10 năm (1991-2001) công tác phi chính phủ nước ngoài (tháng
2/2002) và Hội nghị quốc tế về Sự hợp tác giữa Việt Nam và các tổ chức phi chính phủ

nước ngoài (tháng 11/2003). Kết quả của hai hội nghị trên đã và đang đóng góp vào
những nỗ lực của Nhà nước ta nhằm tạo môi trường ngày càng thuận lợi hơn về cơ chế
và pháp lý cho các hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam
hiện tại và trong tương lai.


Bên cạnh hoạt động sôi nổi của các tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp

vừa và nhỏ ở nước ngoài hay nói cách khác là các pháp nhân nước ngoài thực hiện các
hoạt động thương mại tại Việt Nam cũng ngày một tăng mạnh. Hàng loạt các văn phòng
đại diện cũng như chi nhánh của các hang hàng không, các công ty lớn nhỏ trên khắp
các lĩnh vực…lần lượt được cấp phép hoạt động.
B. KẾT LUẬN
Dù nền kinh tế của VIệt Nam còn không ít khó khăn tồn tại, nhưng trải qua bao nỗ
lực cố gắng cải thiện từ thị trường, cho đến môi trường, liên tục xem xét thay đổi các hệ
thống văn ban luật nhằm phù hợp hơn với xu thế chung của cả xã hội đã đưa nền kinh tế
Việt Nam phát triển lên một nấc thang mới ngày càng thu hút nhiều hơn những nguồn
7


vốn từ các tổ chức nước ngoài có tiềm lực tài chính dồi dào hứa hẹn một nguồn động
lực mạnh mẽ tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nước ta.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Giáo trình Tư pháp Quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội , Nxb Công an Nhân dân.
Giáo trình Luật Tư pháp Quốc tế, Ths Bùi Thị Thu chủ biên, Nxb Giáo dục Việt Nam.
Bộ Luật Dân sự năm 2005
Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006
Nghị định số 72/2006/NĐ-CP ngày 25/07/2006

Nghị định số 78/2007/NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 2007.
Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ

8


MỤC LỤC
Khái niệm pháp nhân và pháp nhân nước ngoài trong tư pháp quốc tế ở Việt Nam …1
Quy chế pháp lý của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam……………………………..2
Đặc điểm quy chế pháp lý của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam………………3
Quy chế pháp lý của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam………………………..4
Hoạt động của pháp nhân nước ngaoif tại Việt Nam……………………………………5

9



×