Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.39 KB, 18 trang )

TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
BÀI LÀM
I. Những vấn đề chung về pháp luật phá sản
1. Cơ sở pháp lý
2. Vai trò của pháp luật phá sản trong nền kinh tế thị trường
3. Thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
II. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, HTX
1. Những tiến bộ của Luật phá sản năm 2004 so với Luật phá sản doanh nghiệp
năm 1993
2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực hiện pháp luật về phá sản doanh
nghiệp, HTX
3. Những bất cập của pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
4. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
Danh mục tài liệu tham khảo.

0


TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

MỞ ĐẦU
Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường mà
hậu quả của nó là sự xung đột lợi ích của các bên tham gia quan hệ kinh doanh.
Khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản sẽ làm nảy sinh nhiều
mối quan hệ phức tạp cần được giải quyết. Vì vậy việc giải quyết kịp thời các
vấn đề đó có ý nghĩa rất quan trọng nhằm thiết lập một trật tự cần thiết để thúc
đẩy sự phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo quyền chủ thể của các mối quan hệ
hay các bên liên quan.


Luật phá sản doanh nghiệp (PSDN) lần đầu tiên được ban hành vào năm
1993. Sự ra đời của Luật phá sản doanh nghiệp đã góp phần quan trọng vào việc
hình thành một cơ chế pháp lý đồng bộ cho hoạt động xử lý nợ của các doanh
nghiệp, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực tài chính. Tuy nhiên trong thời
gian thực hiện Luật PSDN, số lượng các doanh nghiệp được giải quyết theo thủ
tục phá sản là rất thấp, chưa phản ánh chính xác số lượng doanh nghiệp phá sản
trên thực tế. Theo Thông báo của Tòa án nhân dân tối cao, từ khi Luật PS có hiệu
lực đến hết quý II/2012, cả nước có hơn 600.000 doanh nghiệp đã ngừng hoạt
động, nhưng có rất ít doanh nghiệp trong số đó nộp đơn xin phá sản theo Luật PS
(chỉ chiếm khoảng 15% trong tổng số các doanh nghiệp ngừng hoạt động). Đây
là một con số thể hiện sinh động nhất tính kém hiệu quả của Luật PSDN trong
cuộc sống ở nước ta trong thời gian vừa qua.
Đối với nước ta việc phá sản vẫn là một vấn đề mới mẻ. Thực tiễn giải
quyết phá sản của nước ta trong thời gian qua cũng gặp không ít khó khăn vướng
mắc. Vì vậy nên em quyết định chọn câu hỏi số 8: “Thực tiễn thực hiện pháp
luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.’ làm bài tập học kỳ để làm rõ hơn
những vấn đề trên.

1


TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

BÀI LÀM
I. Những vấn đề chung về pháp luật phá sản .
1. Cơ sở pháp lý.
Pháp luật hiện hành điều chỉnh các vấn đề liên quan đến phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã dựa trên các cơ sở pháp lý sau:
- Luật phá sản năm 2004;
- Nghị định của Chính phủ số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 hướng dẫn

áp dụng Luật phá sản với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức hoạt động của tổ
quản lý, thanh lí tài sản;
- Nghị định của Chính phủ số 114/2008/NĐ-CP ngày 3/11/2008 hướng
dẫn chi tiết thi hành Luật phá sản đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực bảo hiểm, chứng khoán và tài chính khác;
- Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số
03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/4/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của
Luật phá sản.
2. Vai trò của pháp luật phá sản trong nền kinh tế thị trường
2.1. Bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ:
Luật Phá sản bảo đảm sự bình đẳng của các chủ nợ trong việc đòi nợ.
Không một con nợ nào được quyền đòi nợ một cách riêng lẻ. Không một chủ nợ
nào được con nợ trả nợ cho mình trong khi các chủ nợ khác chưa được trả nợ.
Tất cả các chủ nợ đều phải đợi đến khi Tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp và
cùng nhau chia số tài sản còn lại của doanh nghiệp theo những tỷ lệ (trừ những
chủ nợ có một sự đảm bảo đặc biệt cho món nợ của mình như có tài sản cầm cố,
thế chấp).
2.2. Bảo vệ quyền lợi cho con nợ:

2


TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

Pháp luật tạo điều kiện để cho con nợ khắc phục khó khăn để khôi phục
sản xuất kinh doanh. Chỉ khi nào không thể cứu vãn nổi mới tuyên bố phá sản.
Đồng thời, khi bị tuyên bố phá sản, người kinh doanh được giải thoát khỏi các
khoản nợ khi đã giao lại toàn bộ tài sản còn lại để chi trả cho các chủ nợ. Sau đó
một thời gian họ có thể trở lại môi trường kinh doanh khi có cơ hội.
2.3. Bảo vệ người lao động:

Khi doanh nghiệp bị phá sản thì những người lao động trong doanh nghiệp
sẽ phải chịu hậu quả trực tiếp, họ sẽ bị mất việc làm, mất nguồn thu nhập để đảm
bảo đời sống. Sự bảo vệ của Luật Phá sản đối với người làm công thể hiện ở chỗ
pháp luật cho phép người lao động được quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố
phá sản doanh nghiệp hoặc phản đối yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp,
quyền được tham gia quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, quyền được
ưu tiên thanh toán nợ lương trước các khoản nợ khác của doanh nghiệp, ….
2.4. Góp phần bảo vệ trật tự kỷ cương trong xã hội:
Khi doanh nghiệp bị phá sản thì chủ nợ nào cũng muốn lấy được càng
nhiều càng tốt tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản. Như vậy nếu không
có Luật để đưa vấn đề phân chia tài sản của con nợ theo một trật tự nhất định,
nhằm bảo đảm sự công bằng và khách quan mà cứ để mạnh ai người nấy lấy một
cách vô tổ chức thì sẽ gây ra tình trạng lộn xộn, mất trật tự, gây ra mâu thuẫn
giữa chủ nợ với con nợ, giữa chủ nợ với nhau. Bằng việc giải quyết công bằng,
thỏa đáng mối quan hệ về lợi ích giữa chủ nợ và con nợ và giữa các chủ nợ với
nhau, pháp luật về phá sản góp phần giải quyết mâu thuẫn, hạn chế những căng
thẳng có thể có giữa họ với nhau.
2.5. Tái tổ chức lại doanh nghiệp và cơ cấu lại nền kinh tế:
Phá sản bao giờ cũng kéo theo những hậu quả về kinh tế xã hội nhất định
nhưng phá sản không phải là hiện tượng hoàn toàn tiêu cực. Phá sản là một giải
pháp hữu hiệu trong việc cơ cấu lại nền kinh tế, là sự đào thải tự nhiên đối với
3


TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

doanh nghiệp làm ăn yếu kém, góp phần duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp làm
ăn có hiệu quả. Vì vậy, Luật Phá sản là công cụ răn đe buộc các nhà kinh doanh
luôn luôn phải năng động sáng tạo nhưng không được mạo hiểm và liều lĩnh,
đồng thời, Luật Phá sản doanh nghiệp là cơ sở pháp lý để xóa bỏ doanh nghiệp

làm ăn thua lỗ, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cho các nhà đầu tư.
3. Thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
Điều 5 Luật Phá sản 2004 quy định thủ tục giải quyết phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã bao gồm: “a) Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản; b) Phục
hồi hoạt động kinh doanh; c) Thanh lý tài sản, các khoản nợ; d) Tuyên bố doanh
nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.”
3.1. Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản
+) Nộp đơn yêu cầu
Chủ thể có quyền nộp đơn bao gồm: chủ nợ không có bảo đảm hoặc có
bảo đảm một phần; người lao động; chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước, các cổ
đông công ty cổ phần, thành viên hợp danh. Chủ thể có nghĩa vụ nộp đơn là bản
thân doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản trong thời hạn ba tháng
kể từ khi nhận thấy mình lâm vào tình trạng phá sản.
Nộp đơn là một cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền quyết định mở hay
không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
+) Thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản
Điều 23 đến Điều 24 LPS quy định về việc thụ lý đơn yêu cầu được coi là
một hình thức nhằm chính thức hóa trách nhiệm của Tòa án trong quá trình tiến
hành giải quyết vụ việc phá sản và buộc các chủ nợ vào một khuôn khổ chung
trong quá trình đòi nợ; bảo vệ và giúp doanh nghiệp tránh được các phương thức
đòi nợ mang tính “côn đồ”, “luật rừng” có thể có từ phía các chủ nợ.
Điều kiện để Tòa án thụ lý đơn là nội dung đơn đã đầy đủ theo quy định;
người nộp đơn đã nộp đủ các tài liệu kèm theo, đã nộp tạm ứng lệ phí phá sản; và
4


TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

không thuộc các trường hợp trả lại đơn. Thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố
phá sản doanh nghiệp thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân

cấp tỉnh.
3.2. Hội nghị chủ nợ
Hội nghị chủ nợ là cơ quan quyền lực cao nhất của các chủ nợ do Tòa án
triệu tập và chủ trì. Hội nghị này được lập ra nhằm giúp cho các chủ nợ và doanh
nghiệp có cơ hội đàm phán với nhau để đi đến vấn đề thanh toán ổn thỏa bao
gồm 2 trường hợp: phục hồi nếu hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua nghị
quyết đồng ý với giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh hoặc thanh lý tài
sản của doanh nghiệp nếu nghị quyết của hội nghị chủ nợ không đồng ý cho
doanh nghiệp cơ hội phục hội hoặc hội nghị chủ nợ không thành thì Tòa sẽ quyết
định mở thủ tục thanh lý tài sản.
3.3. Phục hồi hoạt động kinh doanh
Mục tiêu hàng đầu của bất kỳ luật phá sản nào trên thế giới cũng là tạo
điều kiện để cứu giúp doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh
toán nợ và chỉ đặt vấn đề thanh lý (chấm dứt tồn tại) nếu thực sự không còn khả
năng phục hồi. Chính vì vậy, phá sản không chỉ bao gồm trình tự thu hồi tài sản
và thanh toàn (phát mại tài sản) mà thủ tục phá sản còn một khía cạnh khác đáng
lưu ý: tạo cơ hội cho con nợ và chủ nợ thỏa thuận tái tổ chức kinh doanh và lập
một kế hoạch trả nợ phù hợp, được giám sát thực hiện bởi Tòa án và tạo cơ hội
cho các chủ nợ thu hồi được một phần hợp lý các khoản nợ của mình đối với các
doanh nghiệp thua lỗ.
3.4. Thanh lý tài sản, các khoản nợ
Về nguyên tắc, phương án phân chia tài sản do Hội nghi chủ nợ đề nghị,
được Tòa án phê chuẩn và do chấp hành viên phụ trách việc thi hành quyết định
tuyên bố phá sản cùng với Tổ quản lý, thanh lý tài sản thực hiện. Thủ tục này,
ngoài ra cũng mang ý nghĩa nhất định đối với nền kinh tế xã hội, bằng việc thanh
5


TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.


lý tài sản, nền kinh tế được cơ cấu lại khi loại bỏ những doanh nghiệp đã yếu
kém, tạo điều kiện cho những doanh nghiệp mới phát triển mạnh hơn.
3.5. Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản
Điều 84 của Luật phá sản quy định thẩm phán ra quyết định tuyên bố
doanh nghiệp bị phá sản. Tòa án có trách nhiệm thông báo công khai quyết định
tuyên bố phá sản như đối với quyết định mở thủ tục phá sản và phải gửi quyết
định tuyên bố phá sản cho cơ quan đăng kí kinh doanh để xóa tên doanh nghiệp
trong sổ đăng kí kinh doanh. Ngoài ra, thời điểm ra quyết định tuyên bố doanh
nghiệp phá sản có ý nghĩa là căn cứ để tính thời điểm bắt đầu cho thời hạn cấm
đảm nhiệm chức vụ đối với chủ DN tư nhân, thành viên hợp danh của công ty
hợp danh, Giám đốc (Tổng giám đốc), Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản
trị, Hội đồng thành viên của DN (Khoản 3 Điều 94 Luật phá sản).
II. Thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã dưới góc độ
thực tiễn
1. Những tiến bộ của Luật phá sản năm 2004 so với Luật phá sản doanh
nghiệp năm 1993
1.1. Hoàn thiện khái niệm phá sản hay khái niệm doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản.
Doanh nghiệp, HTX bị coi là lâm vào tình trạng phá sản theo Luật phá sản
năm 2004 là khi “không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi
chủ nợ có yêu cầu”.
Như vậy, tiêu chí xác định tình trạng phá sản đã được quy định theo hướng
ngắn gọn, đơn giản mà không căn cứ vào thời gian thua lỗ, nguyên nhân của tình
trạng thua lỗ cũng như không đòi hỏi doanh nghiệp, HTX con nợ đã áp dụng các
biện pháp để tự cứu mình mà không đạt kết quả hay chưa như Luật PSDN năm
1993 đã từng quy định; đây được coi là tiêu chí đã đi được vào bản chất của hiện

6



TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

tượng, đơn giản và hợp lý hơn vì đã không căn cứ vào thời gian thua lỗ, nguyên
nhân của tình trạng thua lỗ…
Ngoài ra, quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được mở rộng thêm
cho một số đối tượng. So với Luật PSDN 1993 thì ngoài chủ nợ không có bảo
đảm, con nợ và người lao động; Luật phá sản 2004 đã mở rộng quyền nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản cho một số đối tượng khác là chủ sở hữu doanh
nghiệp nhà nước, cổ động của công ty cổ phần, thành viên hợp danh của công ty
hợp danh
1.2. LPS 2004 khẳng định thủ tục phá sản là một thủ tục tư pháp đặc
biệt.
Theo Điều 5 LPS 2004 thủ tục phá sản là một thủ tục lớn bao gồm nhiều
thủ tục cấu thành (thủ tục nhỏ) và giữa những thủ tục cấu thành đó có mối liên hệ
với nhau theo những nguyên tắc khác nhau.
Trong Luật PSDN 1993, phục hồi hoạt động kinh doanh gần như là một
hoạt động bắt buộc trước hoạt động thanh lý. Điểm tiến bộ được ghi nhận trong
LPS 2004 chính là những quy định về mối quan hệ đặc thù giữa các thủ tục cấu
thành trong thủ tục phá sản. Điều này cho phép Tòa án giải quyết yêu cầu tuyên
bố phá sản một cách uyển chuyển tùy thuộc vào những tình huống cụ thể. Tòa án
có thể quyết định tuyên bố phá sản với con nợ ngay mà không cần thụ lý đơn yêu
cầu tuyên bố phá sản (khoản 1 Điều 87 LPS 2004) hoặc sau khi thụ lý (khoản 2
Điều 87) hoặc khi đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản (Điều 86). Không những thế,
khi mà nhiệm vụ của thủ tục này không thể thực hiện được hoặc thực hiện không
thành công thì có thể chuyển đổi sang thủ tục thanh lý tài sản ngay (Điều 79, 80).
1.3. LPS 2004 bảo vệ lợi ích của các chủ nợ triệt để hơn.
LPSDN 1993 hạn chế khả năng thu hồi vốn của các chủ nợ. Ví dụ như quy
định về nghĩa vụ của chủ nợ phải chứng minh con nợ mất khả năng thanh toán vì
thua lỗ trong hoạt động kinh doanh khi nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, quy
7



TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

định thời hạn hai năm thua lỗ hoặc khó khăn trong kinh doanh như là một yếu tố
bắt buộc của khái niệm “lâm vào tình trạng phá sản”, quy định về trình tự phục
hồi như là giai đoạn bắt buộc trong mọi trường hợp sau khi có quyết định mở thủ
tục giải quyết tuyên bố phá sản… LPS 2004 đã khắc phục những hạn chế đó, mở
rộng khả năng đòi nợ của các chủ nợ.
Thứ nhất là quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ. Khi
thực hiện quyền này chủ nợ không có nghĩa vụ nào ngoài các nghĩa vụ sau:
Chứng minh mình là chủ nợ; Chứng minh khoản nợ đã đến hạn thanh toán (xuất
hiện quyền đòi nợ); Chứng minh mình đã yêu cầu con nợ thanh toán nợ nhưng
con nợ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của mình.
Thứ hai là LPS 2004 đã bổ sung nhiều biện pháp bảo toàn tài sản của con
nợ; điều này cũng có nghĩa là mở rộng khả năng thu hồi nợ của các chủ nợ. LPS
2004 đã dành hẳn một chương về những biện pháp bảo toàn tài sản của con nợ
với nhiều biện pháp chưa được biết đến trong LPSDN 1993. Cụ thể:
+ Cử người quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
theo yêu cầu của Hội nghị chủ nợ nếu xét thấy người quản lý của doanh nghiệp
không có khả năng điều hành hoặc nếu tiếp tục điều hành hoạt động kinh doanh
sẽ không có lợi cho việc bảo toàn tài sản của doanh nghiệp (Điều 30);
+ Bù trừ nghĩa vụ (Điều 48);
+ Đình chỉ thi hành án dân sự (Điều 57);
+ Giải quyết vụ án bị đình chỉ trong thủ tục phá sản (Điều 58);
+ Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 55);
+ Đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực (Điều 54);
+ Chủ nợ không có bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch
vô hiệu (Điều 44).
2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực hiện pháp luật về phá sản doanh

nghiệp, HTX
8


TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

2.1. LPS 2004 chưa làm rõ bản chất của thủ tục phá sản.
Quan điểm phổ biến hiện nay không nhìn nhận thủ tục phá sản như là một
thủ tục mà trong đó hoạt động của Tòa án là hoạt động thực hiện chức năng xét
xử, theo quan điểm này thì “xét xử” và “giải quyết” là hai khái niệm khác nhau.
Quan điểm này đã được LPSDN 1993 tiếp thu và LPS 2004 tiếp tục kế thừa.
Việc phá sản không được thừa nhận như một tranh chấp pháp lý nên hoạt động
của Tòa án khi giải quyết phá sản không chịu sự chi phối của những nguyên tắc
Hiến định trong hoạt động xét xử của Tòa án. Theo Hiến pháp thì Tòa án là cơ
quan xét xử (Điều 127). Yêu cầu tuyên bố phá sản là một tranh chấp pháp lý. Khi
các chủ nợ thực hiện quyền đòi nợ của mình nhưng yêu cầu đó không được đáp
ứng từ phía con nợ thì xuất hiện xung đột lợi ích tài sản giữa chủ nợ với con nợ.
Xung đột này là xung đột pháp lý, bởi lẽ các quan hệ giữa con nợ và chủ nợ luôn
là các quan hệ pháp luật nảy sinh trên cở sở các hợp đồng khác nhau. Như vậy,
việc phá sản là một tranh chấp pháp lý và giải quyết phá sản là một hình thức
thực hiện chức năng xét xử của Tòa án.
2.2. Khái niệm phá sản.
Điều 3 LPS 2004 không quy định rõ số nợ và thời gian quá hạn không
thực hiện nghĩa vụ thanh toán của con nợ. Vì vậy về hình thức, con nợ chỉ cần
mắc nợ số tiền là 1.000 đồng và quá hạn thanh toán 01 ngày sau khi chủ nợ có
đơn yêu cầu đòi nợ cũng có thể bị xem là lâm vào tình trạng phá sản. Điều này
có thể dẫn đến sự lạm dụng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía
các chủ nợ. Ví dụ như Luật Phá sản của Liên bang Nga quy định số nợ không
thấp hơn 100.000 rúp với chủ nợ là pháp nhân và 10.000 rúp với chủ nợ là cá
nhân. Thuật ngữ “các khoản nợ” trong Điều 3 không được giải thích. Phân tích

Điều 37 cho thấy “các khoản nợ” được hiểu là các nghĩa vụ tài sản của doanh
nghiệp hình thành từ các hợp đồng dân sự, thương mại và lao động. Còn các
khoản nợ thuế, các nghĩa vụ tài sản khác như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngoài
9


TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

hợp đồng, nghĩa vụ thanh toán các khoản phạt hành chính… của doanh nghiệp
không được đề cập đến.
2.3. Về các loại chủ nợ
Luật chỉ phân biệt chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không bảo đảm, chủ nợ có
bảo đảm một phần (Điều 6). Các chủ nợ khác nhau thì có địa vị pháp lý khác
nhau trong thủ tục phá sản. Về nguyên tắc, LPS 2004 đã thể hiện tinh thần bảo
vệ lợi ích của chủ nợ có bảo đảm triệt để hơn so với chủ nợ không có bảo đảm.
Tuy nhiên một số quy định của LPS 2004 không phù hợp với tinh thần chủ đạo
đó. Cụ thể, ngay từ khi có quyết định thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì
quyền được thanh toán nợ đến hạn của chủ nợ có bảo đảm đã bị hạn chế – bị tạm
đình chỉ cho đến khi có quyết định thanh lý tài sản (Điều 27, Điều 35), trừ trường
hợp được Tòa án cho phép. Trong khi đó, các chủ nợ không có bảo đảm vẫn có
thể được thanh toán các khoản nợ đến hạn của mình sau khi có quyết định thụ lý
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.Việc thanh toán các khoản nợ không có bảo đảm
chỉ bị cấm sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản (Điều 31).
2.4. Về giao dịch vô hiệu (Điều 43)
Luật quy định các giao dịch của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
quy định ở khoản 1 Điều 43 được thực hiện trong khoảng thời gian ba tháng
trước ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu. Nói
cách khác là Luật thừa nhận khả năng hồi tố với các loại giao dịch này dù chúng
đã thực hiện xong nhằm bảo toàn tài sản của con nợ. Tuy nhiên quy định này của
Luật không thể áp dụng cho các giao dịch tương tự thực hiện trong khoảng thời

gian từ khi có quyết định thụ lý đến khi có quyết định mở thủ tục phá sản – thời
gian này là 30 ngày. Luật chỉ quy định những giao dịch bị cấm hoặc bị hạn chế
sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản (Điều 31). Đây là sự sơ hở của LPSDN
1993 mà LPS 2004 vẫn không khắc phục được.
2.5. Về người bảo lãnh
10


TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

Khoản 2 Điều 39 quy định trường hợp người bảo lãnh lâm vào tình trạng
phá sản thì người được bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản đối với người
nhận bảo lãnh. Quy định này xung đột với các quy phạm của Bộ luật Dân sự
(BLDS). Con nợ của chủ nợ có bảo đảm lâm vào tình trạng phá sản thì chủ nợ có
bảo đảm có thể tham gia vào thủ tục phá sản để thu hồi nợ và được ưu tiên thanh
toán. Còn khi người bảo lãnh của con nợ lâm vào tình trạng phá sản thì chủ nợ
có bảo đảm lại không được tham gia vào thủ tục phá sản của người bảo lãnh để
thu hồi nợ và chỉ có quyền yêu cầu con nợ – người được bảo lãnh trả nợ cho
mình.
2.6. Về thủ tục phục hồi
Nội dung của thủ tục phục hồi trong LPS 2004 có nhiều tiến bộ hơn so với
LPSDN 1993. Tuy nhiên LPS 2004 không áp dụng quy định này ở thủ tục phục
hồi mà lại áp dụng ở thủ tục thanh lý (Điều 34). Việc giảm nhẹ khó khăn tài
chính cho con nợ như giảm nợ, không tính lãi… hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả
hòa giải giữa con nợ với các chủ nợ. Nói một cách khác là không có sự hỗ trợ,
khuyến khích của Luật đối với thủ tục phục hồi…
2.7. Về mối quan hệ giữa thanh lý tài sản và tuyên bố phá sản
Theo truyền thống, tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản là tiền đề pháp lý
cho việc thanh lý tài sản của nó. LPSDN 1993 đi theo truyền thống đó. Còn LPS
2004 lại thừa nhận thủ tục thanh lý tài sản là thủ tục độc lập với thủ tục tuyên bố

phá sản và đảo lộn thứ tự của chúng. Người ta tiến hành thủ tục thanh lý tài sản
của con nợ trước sau đó mới tuyên bố nó bị phá sản. Thứ nhất là trình tự như
LPS 2004 là không ổn. Trình tự này cho người ta cảm tưởng rằng việc thanh lý
tài sản của con nợ là nội dung quan trọng hơn việc tuyên bố phá sản. Trong khi
đó về lý luận thì tuyên bố phá sản đối với con nợ là một cách thức pháp lý thu
hồi nợ của các chủ nợ, tuyên bố con nợ phá sản phải là cái có trước.

11


TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

Thứ hai là với trình tự như vậy thì thủ tục phá sản trở nên rườm rà hơn. Có
hai quyết định của Tòa án: quyết định mở thủ tục thanh lý và quyết định tuyên
bố phá sản. Cả hai quyết định này đều có thể bị khiếu nại và kháng nghị và đòi
hỏi thời gian giải quyết.
3. Những bất cập của pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
3.1. Về phạm vi, đối tượng áp dụng
Luật phá sản năm 2004 áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật; đối với các
doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp, hợp
tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh
vực thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu do
Chính phủ sẽ quy định cụ thể danh mục và áp dụng. Như vậy, theo quy định này,
chỉ có những cơ sở, sản xuất kinh doanh nào được pháp luật quy định là doanh
nghiệp hoặc hợp tác xã mới thuộc đối tượng áp dụng trong Luật phá sản năm
2004. Quy định này có những điểm chưa phù hợp và thiếu tính khoa học.
Bởi lẽ dù tồn tại dưới hình thức pháp lí là doanh nghiệp hay không phải là
doanh nghiệp nhưng nếu đã là nhà kinh doanh thì đều phải tham gia hoạt động với
mong muốn tìm kiếm được lợi nhuận trong khuôn khổ mà pháp luật không cấm.

Vì vậy, dù phương diện nào thì họ cũng muốn được Nhà nước phải có những thể
chế hỗ trợ, bảo hộ nhằm duy trì và phát triển. Do đó, đều là người kinh doanh
nhưng khi lâm vào tình trạng phá sản thì đối tượng không được gọi là doanh
nghiệp sẽ không được áp dụng các thủ tục pháp lí được quy định trong Luật phá
sản. Điều này không những ảnh hưởng tới lợi ích của bản thân các doanh nghiệp
này mà lợi ích chính đáng của các chủ nợ và nhà đầu tư sẽ không được đảm bảo,
bởi điều dễ nhận thấy là trong trường hợp cá nhân bị phá sản thì bản thân chủ nợ
cũng không biết dựa vào thủ tục hay quy chế nào thực hiện quyền đòi nợ của mình
với con nợ và đồng nghĩa nó có thể kéo theo nhiều hệ luỵ khôn lường cho xã hội.
12


TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

3.2. Về tiêu chí xác định tình trạng phá sản
Điều 3 Luật Phá sản 2004 quy định khi con nợ “không có khả năng thanh
toàn được các khoản nợ đến hạn” là lâm vào tình trạng phá sản. Quy định này có
tiến bộ hơn so với Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993. Luật Phá sản 2004 hiện
quy định tiêu chí “vỡ nợ” là như nhau trong cả trường hợp con nợ nộp đơn và
chủ nợ nộp đơn. Nhưng trong trường hợp con nợ nộp đơn, khi đã “không có khả
năng thanh toán” thì có nghĩa con nợ đã rơi và tình trạng tồi tệ nhất, đã kiệt quệ
và sẽ là quá muộn cho việc bắt đầu một thủ tục phục hồi.
Ngoài ra, Điều 3 Luật phá sản cũng không quy định rõ số nợ và thời gian
quá hạn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán của con nợ. Vì vậy về hình thức,
con nợ chỉ cần mắc nợ số tiền là 1.000 đồng và quá hạn thanh toán 1 ngày sau
khi chủ nợ có đơn yêu cầu đòi nợ cũng có thể bị xem là lâm vào tình trạng phá
sản. Điều này có thể dẫn đến sự lạm dụng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản từ phía các chủ nợ.
3.3. Về các loại chủ nợ và quyền của chủ nợ có bảo đảm
Thứ nhất, về loại chủ nợ, ngoài chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không có bảo

đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần, còn một loại chủ nợ nữa mà Luật Phá sản
2004 không đề cập đến mặc dù sự hiện diện của loại chủ nợ này trong thủ tục
phá sản là hoàn toàn hiện thực và chủ nợ này có quyền đặc trưng của mình. Đó là
chủ nợ mới – chủ nợ xuất hiện trên cơ sở các hoạt động kinh doanh của DN sau
khi có quyết định mở thủ tục phá sản. Luật đề cập đến các khoản nợ mới (Điều
31) nhưng Luật lại không nói về chủ nợ mới. Luật thừa nhận sau khi có quyết
định mở thủ tục phá sản mọi hoạt động kinh doanh của DN vẫn tiến hành bình
thường nhưng phải chịu giám sát, kiểm tra của Thẩm phán, Tổ quản lý tài sản
(Điều 30). Điều này có nghĩa là DN có thể giao kết hợp đồng mới – xuất hiện
những chủ nợ mới, các khoản nợ mới. Đây cũng là điểm không chặt chẽ của
Luật 2004.
13


TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

Thứ hai, đối với chủ nợ có bảo đảm, Luật PSDN 1993 và Luật Phá sản
2004 đều không quy định họ có quyền nộp đơn khởi kiện. Mặc dù Điều 35 Luật
Phá sản 2004 có quy định về trường hợp giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố
không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình
thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Tuy nhiên, Điều 37 luật này quy
định về thứ tự phân chia tài sản lại không hề đề cập đến chủ nợ có bảo đảm trong
trường hợp giá trị tài sản thế chấp, cầm cố không đủ thanh toán số nợ.
Đây có thể nói là một thiếu sót của Luật Phá sản 2004 bởi lẽ nếu quyền lợi
của chủ nợ có bảo đảm không được quan tâm thỏa đáng trong thủ tục phá sản thì
sẽ rất nguy hại đến hệ thống tín dụng bảo đảm.
3.4. Về tài sản phá sản
Điều 49 Luật phá sản năm 2004 quy định tài sản phá sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản bao gồm: “a) Tài sản và quyền về
tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã có tại thời điểm toà thụ lí đơn yêu cầu mở

thủ tục phá sản; b) Các khoản lợi nhuận, các tài sản và các quyền về tài sản mà
doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ có do việc thực hiện các gia dịch được xác lập
trước khi toà án thụ lí đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; c) Tài sản là vật bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã. Trường hợp thanh toán
tài sản là vật bảo đảm được trả cho các chủ nợ có bảo đảm, nếu giá trị của vật
bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo đảm phải thanh toán thì phần vượt quá đó là
tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; d) Giá trị quyền sử dụng đất của doanh
nghiệp, hợp tác xã được xác định theo quy định củ pháp luật về đất đai”.
Tài sản phá sản được quy định tại Điều 49 chưa phản ánh hết các loại tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, vì tài sản phá sản còn bao gồm cả
những tài sản thông qua việc thực hiện các giao dịch trong khoảng thời gian ba
tháng trước ngày toà án thụ lí đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu
như tặng cho động sản và bất động sản cho người khác; thanh toán các khoản nợ
14


TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

chưa đến hạn, các giao dịch nhằm mục đích tẩu tán tài sản. Như vậy, những tài
sản thu hồi được từ các giao dịch vô hiệu phải nhập vào khối tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã hoặc tài sản và quyền tài sản do được thừa kế, hoặc tài sản và
quyền tài sản thu được từ các giao dịch không công bằng của doanh nghiệp, hợp
tác xã lâm vào tình trạng phá sản để xác định chính xác khối tài sản phá sản của
con nợ.
4. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác

4.1. Về phạm vi, đối tượng áp dụng
Ở nước ta hiện nay, lý do không đưa những đối tượng kinh doanh khác
không phải là doanh nghiệp là đối tượng của Luật Phá sản là do: “nếu mở rộng các
đối tượng thuộc phạm vi áp dụng của luật này thì với trách nhiệm của ngành Tòa

án và với số lượng, năng lực đội ngũ cán bộ hiện nay thì khó tránh khỏi sự quá
tải”. Có thể thấy đây chỉ là một lý do tạm thời. Trong tương lai, cần mở rộng đối
tượng của Luật Phá sản theo những nguyên tắc của Luật phá sản hiện đại trên thế
giới, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của hoạt động kinh doanh ở nước ta. Ngoài ra,
trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, các đạo luật của Việt Nam, trong đó có
Luật phá sản đều phải đáp ứng nguyên tắc quan trọng được áp dụng cho pháp luật
là minh bạch hoá pháp luật.
4.2. Về tiêu chí xác định tình trạng phá sản
Với cấu trúc của luật là kết hợp cả thủ tục phục hồi và thủ tục thanh toán;
đặc biệt là với việc xác định mục tiêu của Luật Phá sản là tạo ra những giải pháp
tốt để tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; nên quy định tiêu chí
khởi kiện trong trường hợp con nợ nhận thấy “trong tương lai sẽ không có khả
năng thanh toán nợ”.
4.3. Về các loại chủ nợ và quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm

15


TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

Về lý thuyết, chủ nợ mới – khác với các chủ nợ cũ (những chủ nợ xuất
hiện trên cơ sở các hợp đồng giao kết trước khi có quyết định mở thủ tục phá
sản) luôn có quyền được ưu tiên thanh toán trong mọi trường hợp. Chỉ có như
vậy các quy định của Luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DN mới
có tính khả thi. Bởi lẽ nếu không có sự bảo đảm của Luật về quyền ưu tiên thanh
toán thì không một chủ nợ nào lại giao kết hợp đồng với một con nợ đã có quyết
định mở thủ tục phá sản và mọi cố gắng phục hồi hoạt động kinh doanh của DN
lâm vào tình trạng khánh kiệt tài chính chỉ là mong muốn không có tính khả thi.
Do đó, quyền ưu tiên thanh toán của chủ nợ mới cần được thừa nhận trong cả thủ
tục thanh lý tài sản. Luật cần quy định khả năng bổ sung danh sách chủ nợ trong

trường hợp cần thiết.
Về chủ nợ có bảo đảm, cần khẳng định, các chủ nợ có bản đảm cần được
tham gia vào thủ tục tố tụng phá sản khi thủ tục phá sản đã được bắt đầu. Do đó,
Luật Phá sản nên được sửa đổi theo hướng:
- Các chủ nợ có bảo đảm là các chủ nợ trong tố tụng phá sản;
- Tài sản bảo đảm (bao gồm vật cầm cố) là một bộ phận trong khối tài sản
phá sản;
- Các chủ nợ có bảo đảm được quyền bỏ phiếu như một trong các loại chủ
nợ đối với kế hoạch phục hồi con nợ và quyền của họ có thể bị ảnh hưởng bởi kế
hoạch đó;
- Trong thủ tục thanh lý, quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm (trong trường hợp
giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán khoản nợ) phải được quy định trong
thứ tự phân chia tài sản.

16


TM1.HK - 8. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

Danh mục tài liệu tham khảo
-

Giáo trình Luật Thương Mại, trường đại học Luật Hà Nội.

-

Luật Doanh Nghiệp năm 2005

-


Luật Phá Sản năm 2004

-

Nguyễn Tấn Hơn, Phá sản doanh nghiệp – Một số vấn đề thực
tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995.

-

Đặng Văn Thanh, Dấu hiệu xác định doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7/ 2004

-

Luatminhkhue.vn

-

Irt.mof.gov.vn

17



×