Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

quan điểm mới và những bước chuyển trong nhận thức của đảng ta về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.33 KB, 8 trang )

1. Những quan điểm mới và những bước chuyển trong nhận thức của
Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Liên hệ thực tiễn
Trả lời:
Những quan điểm mới của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa:
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nước ta là nền kinh tế
vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường.
Đây là luận điểm đã được đề cập trước đây nhưng lần này được Đảng ta
khẳng định rõ và cụ thể hơn, bởi lẽ, trên thực tế, nền kinh tế nước ta đang từng
bước được công nhận là nền kinh tế thị trường và đến năm 2018, sẽ được các thành
viên WTO công nhận là nền kinh tế thị trường đầy đủ. Điều đó cũng có nghĩa là
nền kinh tế của chúng ta không khác biệt mà mang đầy đủ các đặc trưng phổ biến
của kinh tế thị trường, như: tự do kinh doanh và cạnh tranh; mở cửa và hướng tới
tự do hóa; đa dạng hóa các hình thức sở hữu; lấy quy luật giá trị và quan hệ cung
cầu để xác định giá cả; đề cao tinh thần khởi nghiệp; coi cạnh tranh là động lực
phát triển; phân bổ nguồn lực phát triển và xử lý những yếu kém nội tại của nền
kinh tế theo các nguyên tắc của thị trường; v.v..Thực tiễn phát triển của đất nước ta
cũng đã minh chứng sinh động rằng: không vận hành đầy đủ và đồng bộ các quy
luật của kinh tế thị trường, chúng ta không thể giải phóng sức sản xuất, phát triển
và hội nhập quốc tế thành công.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta là nền kinh
tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Đây là luận điểm lần đầu tiên Đảng ta khẳng định trong văn kiện nhưng rất
cần thiết và phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước hiện nay, phản ánh tiến
trình hội nhập quốc tế sâu, rộng trên nhiều cấp độ; đưa nền kinh tế Việt Nam trở
thành một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị trường thế giới. Nhấn mạnh tính hiện
đại và hội nhập của nền kinh tế là sự khẳng định việc tuân thủ các chuẩn mực
chung của thế giới để phát triển, thực hiện tự do hóa trong các lĩnh vực thương
mại, đầu tư, tài chính, dịch vụ, lao động kỹ năng, v.v.. và quan trọng hơn, là phải
tuân thủ các cam kết quốc tế đã ký, nỗ lực cải cách thể chế kinh tế bên trong, đáp
ứng các tiêu chí để được công nhận là nền kinh tế thị trường đầy đủ.Thuộc tính


mới này của nền kinh tế đặt ra cho chúng ta yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện thể
chế phát triển; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế nhằm nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả; phát triển nhanh và bền vững; tham gia vào chuỗi
giá trị và mạng sản xuất toàn cầu; phát triển kinh tế tri thức, chú trọng đổi mới
sáng tạo trên nền tảng khoa học - công nghệ hiện đại; thiết lập các thị trường yếu tố
sản xuất, hàng hóa và dịch vụ hiệu quả; phát triển hệ thống an sinh và phúc lợi xã
hội tiên tiến; thúc đẩy và hoàn thiện những chuẩn mực văn minh trong sản xuất và
tiêu dùng...


2

Thứ ba, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu
quả các nguồn lực phát triển; là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất.
Chúng ta đã vận hành nền kinh tế theo nguyên lý này trên thực tế nhưng đây
cũng là luận điểm lần đầu được đề cập, khẳng định trong văn kiện chính thức.
Trong giai đoạn vừa qua, sự phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân, khu vực FDI,
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, phát triển thị trường chứng khoán, xã hội hóa
dịch vụ công, triển khai đối tác công - tư một cách sáng tạo trong xây dựng cơ bản
và phát triển kết cấu hạ tầng, v.v.. đã góp phần giải phóng sức sản xuất và mọi tiềm
năng phát triển trong và ngoài nước. Điều kiện cơ bản để huy động và phân bổ có
hiệu quả các nguồn lực phát triển là bảo đảm tự do kinh doanh và thúc đẩy cạnh
tranh; thiết lập và hoàn thiện cơ chế thị trường lành mạnh, minh bạch; phát triển
đầy đủ, đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường; các chủ thể thị trường
cạnh tranh bình đẳng; đặc biệt cần có sự bình đẳng trong cơ hội đầu tư, sản xuất và
kinh doanh đối với mọi chủ thể kinh tế, không phân biệt đối xử với cá nhân hay tập
thể, doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp nhà nước. Thị trường cũng chính là cơ
chế chủ yếu thực hiện phân phối các thành quả của tăng trưởng kinh tế, trong đó
thu nhập của mỗi người được hình thành trên cơ sở và phù hợp với kết quả lao
động cũng như mức đóng góp về các nguồn lực trong quá trình tạo ra của cải xã

hội. Đây là những tiền đề quan trọng để mọi chủ thể xã hội phát huy năng lực và
sức sáng tạo, làm giàu cho chính mình và làm giàu cho xã hội.
Thứ tư, Đảng ta khẳng định mạnh mẽ hơn vai trò của kinh tế tư nhân giai
đoạn trước, ta đã coi “kinh tế tư nhân là một trong các động lực của nền kinh tế”,
lần này Đảng ta khẳng định và dứt khoát hơn, coi “kinh tế tư nhân là động lực
quan trọng của nền kinh tế”.
Nhận thức về kinh tế tư nhân là động lực quan trọng xuất phát từ thực tiễn
phát triển hết sức sinh động của nền kinh tế đất nước. Trong những năm qua, hàng
trăm nghìn doanh nghiệp tư nhân đã làm nên sự phát triển năng động của nền kinh
tế, góp phần quan trọng tạo việc làm, nâng cao thu nhập của người dân, mạnh dạn
đột phá và đi đầu trong nhiều lĩnh vực sản xuất - kinh doanh mới. Trong quá trình
hội nhập, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã vươn ra bên ngoài và khẳng định thương
hiệu của mình trên thị trường thế giới. Lực lượng doanh nhân Việt Nam đông đảo,
rộng khắp, ở mọi loại hình và quy mô, đang có tiếng nói và vai trò ngày càng quan
trọng trong các quyết sách phát triển đất nước. Do đó, tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho khu vực tư nhân phát triển cũng chính là tạo điều kiện để giải phóng các nguồn
lực phát triển trong xã hội, để nền kinh tế thị trường phát huy tối đa các tiềm năng
to lớn của nó. Luận điểm này chắc chắn là nguồn cổ vũ tinh thần khởi nghiệp, đổi
mới và sáng tạo, tạo sức sống và đột phá phát triển mạnh mẽ đất nước ta trong giai
đoạn mới. Cần nhấn mạnh rằng, việc xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
và kinh tế tư nhân là động lực quan trọng trong nền kinh tế hoàn toàn không hàm ý
sự phân biệt đối xử, mà với ý nghĩa là tùy thuộc vào chức năng của mỗi thành phần
kinh tế để xác định vai trò của chúng. Kinh tế nhà nước với các nguồn lực, công
cụ, chính sách của mình chủ đạo trong việc định hướng và điều tiết nền kinh tế,
đảm bảo các cân đối lớn cho nền kinh tế, kiểm soát các nguồn tài nguyên chiến


3

lược, phát triển các kết cấu hạ tầng và dịch vụ công có vốn đầu tư lớn, luân

chuyển chậm, lợi nhuận không cao, rất cần thiết cho nền kinh tế - xã hội nhưng
khu vực tư nhân không sẵn sàng đảm nhận; các lĩnh vực quốc phòng - an ninh, một
số hoạt động đầu tư mạo hiểm... Về thực chất, kinh tế nhà nước luôn có vị trí quan
trọng trong các nền kinh tế thị trường hiện đại, ví dụ: các nền kinh tế khu vực
Nodic, như Nauy, luôn có khu vực kinh tế nhà nước lớn, rất mạnh và hiệu quả,
nhất là trong các ngành dầu khí, hàng hải và viễn thông.
Cũng bởi vậy, nhiều nhà kinh tế nổi tiếng thế giới cảnh báo rằng, phải nâng cao
hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước song đừng vì tính kém hiệu quả của khu
vực này, nhất là của một số doanh nghiệp nhà nước, trong một số ngành, lĩnh vực
và ở một số thời điểm mà trượt sang tư tưởng cực đoan, phủ nhận vai trò kinh tế
nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng; họ không ủng hộ độc
quyền nhà nước trong kinh doanh, nhưng luôn cảnh báo rằng sẽ là vô cùng nguy
hiểm nếu điều đó dẫn tới độc quyền tư nhân. Rõ ràng, Đảng ta tiếp tục xác định
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo với nội hàm mới, phù hợp với Cương lĩnh xây
dựng đất nước (sửa đổi, bổ sung năm 2011) và Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam (sửa đổi năm 2013) là hoàn toàn hợp lý và cần thiết.
Thứ năm, các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển nhưng phải phù hợp với cơ chế thị trường.
Ở trình độ phát triển chưa cao như nền kinh tế nước ta, Nhà nước đóng vai
trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước sử dụng các nguồn lực
của mình, cùng các công cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế,
thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường. Trong điều kiện hiện nay, việc phân bổ các nguồn lực của Nhà nước không
thể theo ý muốn chủ quan, bất chấp quy hoạch và kế hoạch phát triển, mà phải theo
các tín hiệu tích cực của thị trường, đảm bảo sự minh bạch và có hiệu quả. Đây là
luận điểm đặt ra yêu cầu phải đoạn tuyệt dứt khoát với cơ chế bao cấp, “xin - cho”;
là định hướng quan trọng để xử lý các vấn đề về đầu tư dàn trải, lãng phí và kém
hiệu quả trong sử dụng các nguồn lực phát triển của Nhà nước và xã hội. Điều này
đòi hỏi phải tiếp tục đẩy nhanh các tiến trình cơ cấu lại đầu tư công, doanh nghiệp
nhà nước và ngân sách nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường; chú trọng xử lý

vấn đề nợ xấu và nợ công. Nhà nước phải chuyển từ vai trò can thiệp trực tiếp sang
hỗ trợ, tạo thuận lợi hóa và quản lý phát triển, trong đó chú trọng bảo đảm ổn định
kinh tế vĩ mô, tạo lập các cơ hội kinh doanh và khởi nghiệp; thiết lập khuôn khổ
pháp luật, chính sách và bộ máy thực thi nhằm đảm bảo các loại thị trường liên tục
được hoàn thiện, hoạt động minh bạch, hiệu quả và cạnh tranh công bằng. Có thể
nói, tuân thủ và tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường trở thành tư tưởng
xuyên suốt trong tổ chức và quản trị phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước
ta. Định hướng XHCN và kinh tế thị trường là một chỉnh thể thống nhất. Phát triển
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHXN, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, hướng vào con
người, vì con người, lấy con người làm trung tâm của sự phát triển, mọi người


4

được tham gia và mọi người được hưởng lợi. Đây cũng chính là thuộc tính nhân
văn của nền kinh tế, đặc trưng riêng có của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN Việt Nam.
Định hướng XHCN được thể hiện trên nhiều phương diện: thứ nhất,ngay
trong mục tiêu phát triển, đó là: xây dựng thành công CNXH,phát triển xã hội và
con người Việt Nam, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”;thứ hai, trong phương thức phát triển, đó là việc phát triển nền kinh tế nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo để khắc phục những hạn chế, khuyết tật và thất bại của thị trường, đảm
bảo thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế - xã hội; thứ ba, trong phương thức
phân phối, đó là việc Nhà nước thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng
bước và từng chính sách phát triển; hoàn thiện chế độ phân phối chủ yếu theo hiệu
quả kinh tế, đồng thời thông qua phúc lợi xã hội, thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội
đối với toàn dân, đặc biệt quan tâm và hỗ trợ người nghèo, những nhóm xã hội yếu

thế, dễ bị tổn thương; và thứ tư, trong phương thức quản trị và quản lý nền kinh tế,
đó là việc thực hiện dân chủ hóa trong đời sống kinh tế; phát huy vai trò làm chủ
của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo vai trò quản lý nền kinh tế
của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Những bước chuyển trong nhận thức của Đảng ta về kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bước chuyển từ sảng xuất theo mô hình kinh tế hiện vật phi thị trường sang
sản xuất theo mô hình kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội ngya
trong từng bước và từng chính sách.
Bước chuyển từ đơn sở hữu với sự phân biệt đối xử sang đa sở hữu, đa thành
phần kinh tế.
Bước chuyển từ quản lý theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang quản
lý theo cơ chế thị trường.
Bước chuyển từ phân phối bình quân cào bằng đến đa dạng hóa hình thức
phân phối.
Bước chuyển từ không chấp nhận phân hóa giàu nghèo, không chấp nhận
bóc lột sang chấp nhận bóc lột, chấp nhận phân hóa giàu nghèo ở mức độ nhất
định.
Bước chuyển từ đảng viên không được làm kinh tế tư nhân sang cho phép
đảng viên được làm kinh tế tư nhân.
Bước chuyển từ quan điểm kinh tế khép kín sang cách nhìn mở, chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, chấp nhận kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Bước chuyển từ quan điểm Nhà nước làm thay thị trường, Nhà nước làm tất
cả, độc quyền sang quan điểm Nhà nước chủ yếu thực hiện vai trò quản lý, kiến tạo
môi trường phát triển, khắc phục các khuyết tật của thị trường, đa dạng hóa các chủ
thể làm kinh tế, giảm độc quyền nhà nước, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp.


5


Bước chuyển từ việc coi nhà nước đóng vai trò phân bổ các nguồn lực là chủ
yếu sang cơ chế thị trường đóng vai trò phân bổ các nguồn lực là chủ yếu.
Bước chuyển từ quan điểm công nghiệp hóa bằng con đường ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý….sang chủ trương công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với kinh tế tri thức, phát triển nhanh, bền vững.
Bước chuyển từ chủ trương phát triển mô hình kinh tế theo chiều rộng với
năng suất chất lượng hiệu quả thấp, thâm dụng tài nguyên, lao động giản đơn…
sang mô hình kinh tế tăng trưởng chủ yếu theo chiều sâu với năng suất chất lượng
hiệu quả cao, phát triển nhanh, bền vững gắn với bảo vệ môi trường.
2. Các giải pháp và nhiệm vụ cụ thể để xây dựng tổ chức cơ cở đảng
trong sạch vững mạnh.
Trả lời:
Để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
1. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị
- Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng
tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán
bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao động
trong bất cứ tình huống nào. Kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo
thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc.
2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận
- Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn
đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát
triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước;
khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận. Tạo môi
trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát

huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận.
- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu,
tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ động viên các nhân tố mới, điển hình
tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng.
- Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hoà
bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái


6

về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội. Đổi mới
hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn theo hướng thiết thực, hiệu quả.
3. Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
- Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ
quan trọng, thường xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức
đảng và các tầng lớp nhân dân.
- Cán bộ, đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc,
trước Đảng và nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
- Các tổ chức đảng tạo điều kiện để đảng viên công tác, lao động có năng
suất, chất lượng, hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Đẩy
mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng.
- Triển khai thực hiện tốt Quy chế dân vận trong hệ thống chính trị; đổi mới
và nâng cao chất lượng công tác vận động nhân dân. Định kỳ lấy ý kiến nhận xét
của nhân dân về tư cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm mọi cán bộ,
đảng viên vi phạm về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, lối sống.
4. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống

chính trị
- Tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức của các tổ
chức trong hệ thống chính trị. Sớm tổng kết việc thực hiện sáp nhập một số ban,
bộ, ngành trung ương để có chủ trương phù hợp. Kiện toàn, nâng cao chất lượng
các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, nhất là ở cấp chiến
lược. Tổng kết, đánh giá đúng thực trạng, đề ra các giải pháp củng cố và đổi mới
mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức đảng, nhất là của đảng
đoàn, ban cán sự đảng.
- Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp
uỷ ở cơ sở đến sinh hoạt Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương;
đồng thời giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ. Chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, lối làm việc vô nguyên tắc, vi
phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ.
5. Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên
- Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng, tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình cơ sở
đảng, nhất là tổ chức đảng trong các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế. Kiện toàn tổ chức của hệ thống chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo
toàn diện của Đảng ở cơ sở.
- Đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất
lượng đảng viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụ
thể về tư tưởng chính trị, trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức lối sống của đảng
viên đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới; phát huy tính tiền phong gương


7

mẫu, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được
giao. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên.
6. Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ

- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt Chiến
lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đổi mới tư duy, cách
làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và
thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài.
- Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; khắc phục tình
trạng chạy theo bằng cấp. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý
cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực; xây dựng quy hoạch
cán bộ cấp chiến lược. Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu
chuẩn, quy trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự
tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Không bổ nhiệm cán bộ không đủ
đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa.
- Thực hiện nghiêm quy chế thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ
lãnh đạo, quản lý. Kịp thời thay thế cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không
hoàn thành nhiệm vụ, uy tín giảm sút.
- Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy
chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương. Thực hiện luân chuyển
cán bộ lãnh đạo và quản lý theo quy hoạch ở các ngành, các cấp; khắc phục tư
tưởng cục bộ, khép kín. Tăng cường công tác giáo dục, quản lý cán bộ.
- Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp, đội ngũ
chuyên gia đầu ngành. Đổi mới, trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết
hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển.
- Nghiên cứu ban hành và thực hiện tốt chính sách sử dụng và quản lý cán
bộ, đảng viên có vấn đề về lịch sử chính trị. Chú trọng nắm và giải quyết vấn đề
chính trị hiện nay. Giải quyết dứt điểm những vụ việc tồn đọng.
7. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
- Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt
hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng.
- Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức đảng, nhà nước, mặt
trận và các đoàn thể nhân dân các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ

được giao.
- Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải phối hợp chặt chẽ với công tác
thanh tra của Chính phủ, công tác giám sát của Quốc hội và các cơ quan hành
pháp, tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và
thẩm quyền của mỗi cơ quan.


8

- Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa ủy ban kiểm tra đảng với các tổ chức
đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý
kỷ luật cán bộ, đảng viên.
8. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
- Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây đựng đồng bộ hệ
thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng
Đảng bao biện làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ
Trung ương đến địa phương, cơ sở. Thực hiện tốt chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với
phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm
của người đứng đầu. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên,
cấp uỷ viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân.
- Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện,
kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách
thủ tục hành chính trong Đảng, khắc phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục,
giảm bớt giấy tờ, hội họp, sâu sát thực tế, cơ sở; nói đi đôi với làm./.




×