Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Nguyên tắc chủ quyền nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.93 KB, 11 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG
TIẾP XÚC CỬ TRI CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI

1. Khái niệm
Tiếp xúc cử tri là một sinh hoạt chính trị, xã hội, có thể hiểu một cách chung
nhất, là việc đại biểu Quốc hội gặp gỡ, trao đổi với cử tri nhằm mục đích nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng chính đáng của các cử tri. Tiếp xúc cử tri là dịp để tập hợp
các ý kiến của nhân dân; là cầu nối vững chắc giữa đại biểu với cử tri diễn ra dưới
nhiều hình thức ở mỗi địa phương.
2. Vai trò của hoạt động tiếp xúc cử tri
2.1. Vị trí, vai trò của đại biểu Quốc hội trong cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất
Theo Hiến pháp năm 1992, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(CHXHCNVN), tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhưng nhân dân
không thể trực tiếp, thường xuyên sử dụng quyền lực nhà nước cho nên phải bầu ra
các cơ quan đại biểu là Quốc hội ở trung ương và Hội đồng nhân dân các cấp ở địa
phương để thay mặt mình sử dụng quyền lực nhà nước. Vì vậy, các cơ quan này
được gọi là cơ quan quyền lực nhà nước. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất ở nước ta. Quốc hội nước ta đại diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân lao
động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đây là một tổ chức chính
quyền thể hiện rất rõ tính chất đại diện và tính chất quần chúng. Cơ cấu tạo nên
Quốc hội chính là các đại biểu Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) là những công dân ưu tú trong các lĩnh vực hoạt
động của Nhà nước và xã hội được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra bằng tổng
tuyển cử tự do. Đó là những đại biểu chân chính của nhân dân. Các ĐBQH là
những người được bầu ra để thay mặt nhân dân ở cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất. Theo quy định của các bản Hiến pháp từ trước đến nay, đặc biệt là Hiến pháp
1992, ĐBQH nước ta có địa vị pháp lí rất quan trọng. Địa vị đó được thể hiện ở
những khía cạnh sau:
ĐBQH là thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
CHXHCNVN - cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định các


vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
bộ máy nhà nước.
ĐBQH do nhân dân bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp
và bỏ phiếu kín. Qua bầu cử, nhân dân ủy nhiệm quyền lực của mình để ĐBQH
thay mặt nhân dân quyết định các công việc quan trọng của đất nước. Dù được bầu

1


cử ở một đơn vị hành chính theo đơn vị bầu cử, nhưng trong hoạt động của mình,
ĐBQH phải xuất phát từ lợi ích của đất nước, lợi ích của nhân dân.
ĐBQH có những thẩm quyền đặc biệt mà các cá nhân khác trong bộ máy nhà
nước không có được. Đó là các quyền gắn với quyền lực của Quốc hội và các
quyền miễn trừ do pháp luật quy định.
ĐBQH có địa vị pháp lí rất đặc biệt. Đó là người đại diện của nhân dân đồng
thời là đại biểu cấu thành cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Vì vậy, ĐBQH có
vai trò là cầu nối quan trọng giữa chính quyền nhà nước với nhân dân. ĐBQH vừa
chịu trách nhiệm trước cử tri vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất. ĐBQH là người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
trong Quốc hội. Khi làm nhiệm vụ, đại biểu phải xuất phát từ lợi ích chung của cả
nước đồng thời cũng phải quan tâm thích đáng đến lợi ích của địa phương đã bầu
ra mình, phải căn cứ vào pháp luật của Nhà nước và những quy định của chính
quyền nhà nước ở địa phương.
Để ĐBQH thực hiện tốt vai trò đại diện cho ý chí cho và nguyện vọng của
nhân dân, thể hiện đầy đủ trách nhiệm to lớn trước nhân dân Hiến pháp và pháp
luật quy định ĐBQH phải đi sâu đi sát, liên hệ chặt chẽ với cử tri, tiếp xúc với cử
tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri, thu thập và phản ánh đúng ý kiến của
cử tri với Quốc hội, với các cơ quan nhà nước hữu quan. Đại biểu là tế bào sống, là
yếu tố cấu thành của Quốc hội, có vai trò quyết định đến quá trình thực hiện các
chức năng của Quốc hội hay nói cách khác hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc

hội quyết định hiệu quả hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở Việt
Nam.
2.2. Tầm quan trọng của hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội
trong việc thực hiện các chức năng của Quốc hội
Vị trí của ĐBQH được xác định trong mối liên hệ giữa Nhà nước với nhân
dân; là người đại diện cho nhân dân, phản ánh ý chí, tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân đồng thời cũng là người biến ý chí, nguyện vọng của nhân dân thành các quy
định pháp luật của nhà nước. Trong hoạt động của nhà nước, ĐBQH là người đại
diện cho nhân dân xem xét, quyết định các vấn đề của đất nước về lập hiến, lập
pháp, các chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại và giám sát tối cao đối với toàn
bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Mọi hoạt động của ĐBQH phải gắn với nhân
dân, phát huy sức mạnh của nhân dân, sự tham gia của nhân dân vào hoạt động của
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và mỗi ĐBQH.
Là hạt nhân cấu thành cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, các ĐBQH có
trách nhiệm thường xuyên giữ mối liên hệ với cử tri, tiếp xúc với cử tri đã tín
nhiệm bầu ra mình. Đối với các ĐBQH, đây là hoạt động có tính thực tiễn rất cao.
Tính thực tiễn đó được thể hiện thông qua hoạt động đối thoại trực tiếp để đại biểu
2


nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Các kiến nghị chính đáng của
cử tri là hình thức phản ánh bản chất của quyền làm chủ trực tiếp và gián tiếp của
nhân dân đối với công việc của đất nước. Chỉ có thể xây dựng được mối quan hệ
máu thịt với nhân dân, ĐBQH mới có khả năng hòa cùng nhịp đập của cuộc sống,
đem hơi thở cuộc sống, đem được tiếng nói của nhân dân vào các nghị quyết, các
đạo luật và giám sát có hiệu quả việc thực hiện các nghị quyết các đạo luật đó. Nếu
không giữ mối liên hệ gắn bó với cử tri, ĐBQH sẽ xa rời thực tiễn, trở nên quan
liêu, không thể đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân,
không thể thay mặt nhân dân quyết định các công việc quan trọng của đất nước. Vì
vậy, không thể phản ánh đúng bản chất của Nhà nước ta là nhà nước của dân, do

dân và vì dân.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện ba chức năng
giám sát tối cao và chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Với chức năng lập pháp, Quốc hội có nhiệm vụ xây dựng một hệ thống pháp luật
hoàn thiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân đồng thời xây
dựng một nhà nước pháp quyền XHCN. Với chức năng giám sát, Quốc hội giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo nhà
nước thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với
các quy định của pháp luật. Đối với chức năng quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước, Quốc hội là cơ quan quyết định về chính sách ngoại giao, các vấn đề
chiến tranh và hòa bình, và những vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của
đông đảo người dân trong xã hội. Để thực hiện tốt các chức năng này, Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội và mỗi ĐBQH cần rất nhiều loại thông tin từ nhiều
nguồn khác nhau nhưng nguồn thông tin trực tiếp từ cử tri là nguồn thông tin
không thể thiếu được giúp cho pháp luật do Quốc hội ban hành mang hơi thở cuộc
sống; giám sát của Quốc hội mới có hiệu quả thiết thực; các quyết định của Quốc
hội mới có ý nghĩa thực tiễn và cuối cùng, Quốc hội mới thực sự là cơ quan đại
diện của dân, ĐBQH mới thực sự là người đại diện cho quyền lợi, ý chí và nguyện
vọng của người dân.
Như vậy, để thực thi tốt nhiệm vụ đại biểu của mình nói riêng và chức năng
của Quốc hội nói chung, các ĐBQH cần phải giữ mối quan hệ thường xuyên và mật
thiết với các cử tri. Chính vì lẽ đó, TXCT là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của ĐBQH đã được Hiến pháp năm 1992, Luật tổ chức Quốc hội, Quy chế hoạt
động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội quy định khá cụ thể.
3. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của hoạt động tiếp xúc
cử tri của đại biểu Quốc hội ở nước ta
Quá trình hình thành và hoàn thiện những quy định về hoạt động TXCT của
ĐBQH ở nước ta gắn liền với quá trình hình thành và hoàn thiện của bộ máy nhà
3



nước, đặc biệt là gắn với sự ra đời của bốn bản Hiến pháp (Hiến pháp năm 1946,
1959, 1980, 1992). Có thể nói mỗi bản Hiến pháp là một bước phát triển của quy
định về hoạt động TXCT của ĐBQH ở nước ta. Ngay từ Hiến pháp 1946 đã ghi rõ:
“Nghị viên không phải chỉ thay mặt cho địa phương mình mà còn thay mặt cho toàn
thể nhân dân” 1. Năm 1957, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của
đại biểu Quốc hội, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá I đã ra Nghị quyết về vấn đề
kiện toàn tổ chức của Quốc hội, trong đó quy định cụ thể một số nhiệm vụ của
ĐBQH như “Để hiểu rõ tình hình nhân dân đề đạt ý kiến, nguyện vọng của nhân
dân lên Quốc hội, các đại biểu Quốc hội phải giữ sự liên hệ với nhân dân ở địa
phương đã bầu ra mình hay là ở một nơi thuận lợi với hoàn cảnh cư trú. Chính
quyền các cấp có trách nhiệm giúp đỡ các đại biểu hiểu rõ tình hình nhân dân. Tuỳ
theo nhu cầu công tác Ban Thường trực Quốc hội tổ chức những đoàn đại biểu đi
tiếp xúc với nhân dân” 2.
Cũng tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá I, Ban Thường trực Quốc hội đã quyết
định tăng thêm các Uỷ viên thường trực và thành lập 3 Tiểu ban, mỗi Tiểu ban do
một Uỷ viên thường trực phụ trách, trong đó có Tiểu ban Dân nguyện (hoạt động
hết nhiệm kỳ Quốc hội khoá I). Nhiệm vụ của Tiểu ban Dân nguyện là phụ trách
việc nghiên cứu các đơn, thư, nguyện vọng, các ý kiến của nhân dân đề đạt lên
Quốc hội. Với cách thức tổ chức này, các đơn thư phản ánh tình hình, nguyện
vọng, kiến nghị…của nhân dân gửi lên Quốc hội, Ban Thường trực Quốc hội đã
được Tiểu ban Dân nguyện nghiên cứu và xử lý, tuỳ từng trường hợp cụ thể Tiểu
ban Dân nguyện phối hợp với các cơ quan của Chính phủ giải quyết thích đáng.
Các báo cáo của Ban thường trực Quốc hội tại các kỳ họp đều có kiểm điểm về
công tác này trong mục “Vấn đề liên hệ với nhân dân”. Năm 1959, Quốc hội thông
qua Hiến pháp thay thế Hiến pháp 1946. Năm 1960, Quốc hội ban hành Luật tổ
chức Quốc hội, trong đó đã cụ thể hóa một bước quy định về trách nhiệm của
ĐBQH “phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và
pháp luật, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân” 3.
Đến Hiến pháp năm 1980 đã quy định rõ hơn trách nhiệm của ĐBQH và

được Luật tổ chức Quốc hội năm 1981 cụ thể hóa, theo đó trách nhiệm tiếp xúc cử
tri của ĐBQH đã được quy định: “Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử
tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về
hoạt động của mình và của Quốc hội, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri.
Sau mỗi kỳ họp Quốc hội, các đại biểu Quốc hội báo cáo với cử tri về kết quả kỳ
họp, phổ biến và giải thích các luật và nghị quyết đã được Quốc hội thông qua”. 4
1

Điều 25, Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946, Hà Nội
Các Nghị quyết của Trung ương Đảng 1996- 1999, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội
3
Điều 41, Luật tổ chức Quốc hội năm 1960, Hà Nội
4
Điều 43, Luật tổ chức Quốc hội năm 1981, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội
2

4


Hiến pháp năm 1992 ra đời một lần nữa khẳng định rõ bản chất Nhà nước ta.
Điều 97 Hiến pháp 1992 quy định “Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra
mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước. Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ
với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến,
nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước hữu quan; thực hiện
chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời
những yêu cầu và kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền
đó” 5.
Luật tổ chức Quốc hội năm 1992 đã cụ thể hóa Hiến pháp năm 1992 về việc

ĐBQH liên hệ chặt chẽ với cử tri, ngoài việc quy định trách nhiệm của ĐBQH
tiếp xúc cử tri “thường xuyên”, còn nêu rõ ĐBQH phải “thu thập và phản ánh trung
thực ý kiến của cử tri với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước hữu quan” 6.
Ngày 10/9/2004, UBTVQH khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt
Nam đã ban hành Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/ UBTVQH11ĐCTUBTWMTTQVN quy định và hướng dẫn cụ thể về các hình thức tổ chức
TXCT.
Nói chung, các quy định pháp luật liên quan đến công tác TXCT của ĐBQH
đã được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành như Luật Tổ
chức Quốc hội (2001), Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu
Quốc hội (2002), Quy chế hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2004), Nội
quy kỳ họp Quốc hội (2002) và được quy định cụ thể tại Nghị quyết liên tịch số
06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 10/9/2004 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam (gọi tắt là
Nghị quyết liên tịch) ban hành hướng dẫn về việc ĐBQH tiếp xúc cử tri.
4. Những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động tiếp xúc cử tri
của Đại biểu Quốc hội
Từ nhiệm kì Quốc hội khóa IX đến nay về tổ chức và phương thức hoạt động
của Quốc hội đã có nhiều đổi mới, các hình thức hoạt động của Quốc hội cũng
được cải tiến, Quốc hội ngày càng thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyền hạn của mình
theo quy định của pháp luật. Vị trí pháp lí của ĐBQH trong Hiến pháp 1992 về cơ
bản vẫn tiếp tục kế thừa các quy định trong Hiến pháp 1980. Tiếp xúc cử tri là một
trong những nhiệm vụ quan trọng của ĐBQH đã được Hiến pháp năm 1992, Luật
tổ chức Quốc hội, Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn đại biểu Quốc hội quy
5

Điều 97, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được Quốc hội sửa đổi năm 2001),
Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội
6
Điều 43, Luật tổ chức Quốc hội năm 1992, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội.


5


định khá rõ. Thời kì này, các văn bản pháp luật quy định về hoạt động TXCT của
ĐBQH khá đầy đủ, cụ thể và toàn diện làm cơ sở cho ĐBQH thực hiện hoạt động
này một cách có hiệu quả.
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội 1992 quy
định: ” Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử
tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri, thu
thập và phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội và cơ quan
nhà nước hữu quan 7.
Như vậy, Luật tổ chức Quốc hội đã phát triển mối quan hệ giữa ĐBQH với
cử tri, theo đó ĐBQH phải liên hệ chặt chẽ với cử tri nhưng cũng phải thường
xuyên TXCT. Về cơ bản hoạt động TXCT được thể hiện khá cơ bản trong các quy
định nêu trên. Ngoài các văn bản trên, Quốc hội còn ban hành các Nghị quyết quy
định hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH, Nghị quyết quy định về nội quy kì họp
của Quốc hội…nhằm cụ thể hóa một cách cụ thể và đầy đủ về hoạt động TXCT.
Nghị quyết Quốc hội số 08/2002/QH11 ban hành quy chế hoạt động của
ĐBQH và Đoàn ĐBQH có quy định:” Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tiếp xúc
cử tri theo chương trình tiếp xúc cử tri của Đoàn đại biểu Quốc hội. Trong trường
hợp không thể tham gia tiếp xúc cử tri thì đại biểu Quốc hội phải báo cáo với
trưởng đoàn đại biểu Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội có thể tiếp xúc cử tri nơi cư trú, nơi làm việc. Đại biểu
Quốc hội liên hệ với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc địa phương nơi cư trú hoặc Ban
chấp hành Công đoàn nơi làm việc để tổ chức cho đại biểu tiếp xúc cử tri” 8
Nghị quyết Quốc hội số 08/2002/QH11 ban hành Quy chế hoạt động của đại
biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội có quy định:” Mỗi năm một lần, kết hợp
với việc tiếp xúc cử tri trong thời gian cuối năm đại biểu Quốc hội báo cáo với cử
tri về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình.
Cử tri có thể trực tiếp hoặc thông qua Ủy ban Mặt trận Tổ quốc địa phương

yêu cầu đại biểu báo cáo công tác và có thể nhận xét đối với việc thực hiện nhiệm
vụ của đại biểu Quốc hội” 9.
Cùng với thực tiễn hoạt động của ĐBQH và các Đoàn ĐBQH, nhất là trước
đòi hỏi ngày càng cao hơn, cụ thể hơn về hoạt động TXCT, để đáp ứng mong đợi
của đại đa số cử tri và thực hiện nhiệm vụ do Quốc hội giao, ngày 10/9/2004,
UBTVQH khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam đã ban hành Nghị
quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN (gọi tắt là
Nghị quyết liên tịch) quy định và hướng dẫn cụ thể về các hình thức tổ chức tiếp
7

Điều 51, Luật tổ chức Quốc hội năm 1992, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8

Điều 12, Nghị quyết Quốc hội số 08/2002/QH11 ban hành Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH.
Điều 16, Nghị quyết Quốc hội số 08/2002/QH11 ban hành Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH

9

6


xúc cử tri. Nghị quyết cũng đã quy định về trách nhiệm của ĐBQH, cơ quan tổ
chức hữu quan trong TXCT; quy định về trình tự, thủ tục tiến hành hội nghị TXCT;
việc tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và giám sát, đôn đốc việc giải
quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri...
Theo Điều 6 của Nghị quyết 06 thì việc TXCT của ĐBQH được thực hiện
theo nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và công khai.
Thời điểm TXCT là trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội khoảng hai mươi
ngày và trong khoảng hai mươi ngày kể từ sau ngày bế mạc kỳ họp Quốc hội,

ĐBQH có trách nhiệm TXCT ở địa phương mình ứng cử để thu thập ý kiến,
nguyện vọng của cử tri về những vấn đề thuộc chương trình, nội dung kỳ họp Quốc
hội và những ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành,
cơ quan tổ chức ở trung ương và địa phương và báo cáo kết quả kì họp Quốc hội
và kết quả giải quyết các kiến nghị của cử tri. Và mỗi năm một lần, vào cuối năm,
kết hợp với việc TXCT, ĐBQH phải báo cáo với cử tri ở đơn vị bầu cử nơi bầu ra
mình về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu và thực hiện chương trình hành động của
mình đã hứa trước cử tri 10.
Hình thức tiếp xúc cử tri bao gồm: Hội nghị TXCT và gặp gỡ, tiếp xúc cá
nhân hoặc nhóm cử tri. Hội nghị TXCT bao gồm: tiếp xúc theo định kỳ trước và
sau kỳ họp Quốc hội tại địa phương nơi đại biểu Quốc hội ứng cử; tiếp xúc theo
nơi cư trú, nơi làm việc và tiếp xúc theo chuyên đề, lĩnh vực nà đại biểu Quốc hội
quan tâm 11.
Về thành phần hội nghị tiếp xúc cử tri bao gồm: Đại diện cấp ủy Đảng,
HĐND, UBND, UBMTTQ, các tổ chức thành viên của MTTQ và các cơ quan, tổ
chức, đơn vị hữu quan ở mỗi cấp; cử tri trực tiếp làm việc, học tập tại các cơ quan,
tổ chức, đơn vị, các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế; cử tri
thôn, buôn, làng, ấp, bản, phum, sóc, tổ dân phố 12.
Việc tiếp xúc cử tri nơi cư trú được quy định như sau: Văn phòng phục vụ
Đoàn ĐBQH giúp ĐBQH hoặc ĐBQH tự liên hệ với Thường trực HĐND, UBND,
Ban thường trực UBMTTQ xã, phường, thị trấn nơi đại biểu cư trú để tổ chức Hội
nghị tiếp xúc cử tri…13
10

Điều 1, Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 10/9/2004 của Ủy ban
thường Vụ Quốc hội khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam hướng dẫn về việc đại biểu Quốc hội tiếp
xúc cử tri.
11
Điều 4, Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 10/9/2004 của Ủy ban
thường Vụ Quốc hội khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam hướng dẫn về việc đại biểu Quốc hội tiếp

xúc cử tri.
12
Điều 5, Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 10/9/2004 của Ủy ban
thường Vụ Quốc hội khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam hướng dẫn về việc đại biểu Quốc hội tiếp
xúc cử tri.
13
Điều 12, Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 10/9/2004 của Ủy ban
thường Vụ Quốc hội khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam hướng dẫn về việc đại biểu Quốc hội tiếp
xúc cử tri.

7


Việc tiếp xúc cử tri nơi làm việc được quy định như sau: Văn phòng phục
vụ Đoàn ĐBQH giúp ĐBQH hoặc ĐBQH tự liên hệ với Thủ trưởng cơ quan, Ban
chấp hành công đoàn cơ quan, tổ chức, đơn vị để tổ chức Hội nghị tiếp xúc cử tri…
14

Việc tiếp xúc cử tri theo chuyên đề, lĩnh vực mà ĐBQH quan tâm được quy
định như sau: Văn phòng phục vụ Đoàn ĐBQH giúp ĐBQH hoặc ĐBQH tự liên hệ
với Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan để tổ chức Hội nghị TXCT
theo chuyên đề, lĩnh vực mà ĐBQH quan tâm. Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị
có trách nhiệm giúp ĐBQH thực hiện các cuộc tiếp xúc nói trên…15.
Việc tổ chức gặp gỡ, tiếp xúc cá nhân hoặc nhóm cử tri của ĐBQH được quy
định trong Nghị quyết liên tịch. Theo đó, ĐBQH có thể trực tiếp gặp gỡ với cử tri
để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri và những vấn đề mà đại biểu Quốc hội
quan tâm, chuyển những kiến nghị chính đáng của cử tri đến Đoàn ĐBQH để tổng
hợp, báo cáo UBTVQH hoặc gửi tới cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết 16.
Mối quan hệ giữa ĐBQH với cử tri là gắn bó hữu cơ, nhưng để mối quan hệ
này thực chất và có hiệu quả thì vai trò tổ chức, giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức

hữu quan là rất quan trọng, có tính chất cầu nối để thúc đẩy mối quan hệ này cả về
chiều rộng và chiều sâu. Nghị quyết 06/2004 đã khẳng định:”Đoàn ĐBQH,
Thường trực HĐND, UBND, Ban Thường trực UBMTTQ các cấp và các cơ quan,
đơn vị, tổ chức hữu quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm phối hợp chuẩn bị và tổ chức chu đáo các hội nghị tiếp xúc cử tri của
ĐBQH” 17. Về nhiệm vụ của các cơ quan phối hợp được quy định cụ thể tại các
Điều 7, 8, 9, 10 của Nghị quyết liên tịch.
Về chương trình tiếp xúc cử tri định kỳ diễn ra theo trình tự sau: “ĐBQH
báo cáo với cử tri về Chương trình, nội dung kỳ họp Quốc hội (đối với các hội nghị
tiếp xúc cử tri trước kỳ họp Quốc hội); Kết quả kỳ họp Quốc hội và kết quả giải
quyết các kiến nghị của cử tri (đối với các hội nghị tiếp xúc sau kỳ họp Quốc hội);
Việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu và thực hiện chương trình hành động của mình (ở
Hội nghị TXCT sau kỳ họp cuối năm của Quốc hội). Cử tri phát biểu và trao đổi ý

14

Điều 13, Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 10/9/2004 của Ủy ban
thường Vụ Quốc hội khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam hướng dẫn về việc đại biểu Quốc hội tiếp
xúc cử tri.
15
Điều 14, Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 10/9/2004 của Ủy ban
thường Vụ Quốc hội khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam hướng dẫn về việc đại biểu Quốc hội tiếp
xúc cử tri.
16
Điều 15, Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 10/9/2004 của Ủy ban
thường Vụ Quốc hội khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam hướng dẫn về việc đại biểu Quốc hội tiếp
xúc cử tri.
17
Điều 3, Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 10/9/2004 của Ủy ban
thường Vụ Quốc hội khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam hướng dẫn về việc đại biểu Quốc hội tiếp

xúc cử tri.

8


kiến với ĐBQH. Sau đó, ĐBQH phát biểu giải trình, tiếp thu ý kiến, kiến nghị của
cử tri...” 18
Về việc tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị cử tri ở địa phương, Nghị quyết
quy định: Sau mỗi đợt TXCT, Đoàn ĐBQH chủ trì phối hợp với Ban thường trực
UBMTTQ cấp tỉnh tập hợp, tổng hợp các ý kiến, kiến nghị của cử tri thuộc thẩm
quyền giải quyết của các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị ở trung ương gửi
UBTVQH và ĐCTUBTWMTTQ; đồng thời chuyển những ý kiến, kiến nghị của
cử tri thuộc thẩm quyền của các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị hữu quan ở địa
phương để xem xét, giải quyết và trả lời cử tri 19.
Về báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri các địa phương giữa 2 kỳ
họp, Nghị quyết cũng chỉ rõ:” Đoàn ĐBQH cấp tỉnh cần tổng hợp nhanh những
vấn đề bức xúc nhất liên quan đến cả nước và địa phương thuộc thẩm quyền giải
quyết của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành gửi đến UBTVQH và Đoàn Chủ
tịch UBTWMTTQ chậm nhất là hai mươi ngày trước ngày khai mạc kì họp Quốc
hội”20.
Bên cạnh đó, Nghị quyết quy định về việc tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến
nghị của cử tri và giám sát, đôn đốc việc giải quyết ý kiến, kiến nghị cử kỳ tri cả
nước. Theo đó, Đoàn chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam chủ trì phối hợp với
UBTVQH xây dựng báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri cả nước để trình
ra kỳ họp Quốc hội. Trên cơ sở đó, UBTVQH chỉ đạo Ban dân nguyện tập hợp,
phân loại ý kiến, kiến nghị của cử tri để gửi tới các cơ quan, tổ chức hữu quan
nghiên cứu giải quyết và báo cáo với UBTVQH và Đoàn Chủ tịch UBMTTQVN.
Bên cạnh đó, HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội giám sát đôn đốc việc giải quyết
các kiến nghị của cử tri thuộc lĩnh vực Hội đồng dân tộc, Ủy ban phụ trách;
UBTVQH chỉ đạo Ban dân nguyện theo dõi, đôn đốc việc trả lời giải quyết các

kiến nghị khác của cử tri.21
Có thể khẳng định rằng, các quy định pháp luật về công tác TXCT của
ĐBQH đã đi vào cuộc sống, có tác dụng hình thành và duy trì mối quan hệ giữa cử
tri với người đại diện của mình ở Quốc hội.
5. Quan điểm của Đảng về tiếp xúc cử tri
18

Điều 11, Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 10/9/2004 của Ủy ban
thường Vụ Quốc hội khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam hướng dẫn về việc đại biểu Quốc hội tiếp
xúc cử tri.
19
Điều 16, Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 10/9/2004 của Ủy ban
thường Vụ Quốc hội khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam hướng dẫn về việc đại biểu Quốc hội tiếp
xúc cử tri.
20
Điều 17, Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 10/9/2004 của Ủy ban
thường Vụ Quốc hội khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam hướng dẫn về việc đại biểu Quốc hội tiếp
xúc cử tri.
21
Điều 18, Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 10/9/2004 của Ủy ban
thường Vụ Quốc hội khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam hướng dẫn về việc đại biểu Quốc hội tiếp
xúc cử tri.

9


Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp đổi mới toàn diện
đất nước đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, trong đó có việc củng cố và xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Đảng ta luôn xác định Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao

nhất, cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, có vai trò đặc biệt quan trọng trong
hệ thống chính trị. Mỗi đại biểu Quốc hội đều có trọng trách là người đại diện cho
cử tri ở đơn vị bầu cử ra mình, đồng thời là đại diện cho cử tri cả nước.
Đảng ta luôn luôn quan tâm lãnh đạo nhằm phát huy vai trò của Quốc hội,
đồng thời chính Đảng cũng là lực lượng tiên phong định hướng nội dung và
phương thức hoạt động của Quốc hội.
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện theo Nghị quyết Đại hội lần thứ VI
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
(khoá VI) tại Đại hội Đảng lần thứ VII, đặt ra phương hướng và nhiệm vụ phát huy
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước và vai trò
của các đoàn thể nhân dân, trong đó nhấn mạnh việc “Cải tiến tổ chức và hoạt
động của Quốc hội để làm đúng trách nhiệm là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất”.
Từ sau Đại hội VII của Đảng (1991), những diễn biến mới trong bối cảnh
quốc tế và khu vực đòi hỏi bộ máy nhà nước ta cần phải được tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện. Tại Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ X của Đảng, nêu rõ: “Tiếp tục đổi
mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng
cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách,
phát huy tốt hơn vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc hội”.
Quán triệt những yêu cầu, quan điểm của Đảng, Đảng đoàn Quốc hội đã có
Báo cáo số 101/BC-ĐĐQH12 ngày 20/02/2008 một số vấn đề tiếp tục đổi mới tổ
chức và hoạt động của Quốc hội trình Bộ Chính trị đã nêu rõ những bài học kinh
nghiệm là “có gần gũi, gắn bó mật thiết với nhân dân thì đại biểu Quốc hội mới
hiểu sâu sắc những mong muốn, yêu cầu của người dân, mới thực sự làm tròn
trách nhiệm là người đại diện cho tiếng nói, ý chí và nguyện vọng của cử tri cả
nước, Quốc hội mới thực sự trở thành cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân”.
Đồng thời, Báo cáo cũng xác định phương hướng nhiệm vụ của Quốc hội
trong thời gian tới là phải “tiếp tục nghiên cứu, cải tiến phát huy tốt hơn vai trò,
nâng cao hiệu quả hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội và cá nhân đại biểu
Quốc hội, nhất là trong hoạt động giám sát. Có cơ chế thích hợp để đại biểu Quốc

hội thựchiện tốt chức năng đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử và nhân dân cả
nước”.
Bộ Chính trị đã có Thông báo kết luận số 144-TB/TW ngày 28/3/2008 về
một số vấn đề về tổ chức, hoạt động của Quốc hội và Đảng đoàn Quốc hội, trong
10


đó đã xác định một trong những phương hướng nhiệm vụ cần tiếp tục nghiên cứu
của Quốc hội trong thời gian tới là “Đổi mới mạnh mẽ việc tiếp xúc cử tri của các
đại biểu Quốc hội cả về nội dung, cách thức tổ chức; khắc phục tính đơn điệu,
hình thức theo chế độ hội nghị. Từng đại biểu Quốc hội cần có kế hoạch cụ thể,
thiết thực thâm nhập vào các hoạt động của đời sống xã hội ở địa phương để hiểu
rõ những yêu cầu của thực tiễn và tâm tư, nguyện vọng của cử tri , qua đó đại biểu
Quốc hội mới có thể thực hiện được vai trò đại biểu của nhân dân và nhân dân
mới đặt niềm tin vào Quốc hội”.

11



×