Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN MỘT SỐ BÀI TẬP PHÁT TRIỂN SỨC BỀN TỐC ĐỘ CHO NAM SINH VIÊN CHUYÊN SÂU BÓNG RỔ KHÓA 37 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (804.48 KB, 100 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
……….o0o……….

CAO TRƯỜNG HẢI

Tên đề tài:
“NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN MỘT SỐ BÀI TẬP PHÁT TRIỂN

SỨC BỀN TỐC ĐỘ CHO NAM SINH VIÊN CHUYÊN SÂU
BÓNG RỔ KHÓA 37 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC
THỂ THAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH”

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Tp. Hồ Chí Minh, Năm 2016


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
……….o0o……….



CAO TRƯỜNG HẢI

Tên đề tài:
“NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN MỘT SỐ BÀI TẬP PHÁT TRIỂN

SỨC BỀN TỐC ĐỘ CHO NAM SINH VIÊN CHUYÊN SÂU
BÓNG RỔ KHÓA 37 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC
THỂ THAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH”

Chuyên ngành: Giáo dục thể chất
Mã số : 60140103

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS NGUYỄN XUÂN SINH

Tp. Hồ Chí Minh, Năm 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố
trong bất cứ cơng trình nghiên cứu nào khác.

Tác giả luận văn


LỜI CẢM ƠN

Với lịng biết ơn chân thành nhất, tơi xin cám ơn Ban Giám Hiệu, quý
thầy cô giáo, sinh viên Trường Đại Học Thể Dục Thể Thao Thành Phố Hồ Chí
Minh, đã tạo điều kiện giúp đỡ tơi trong q trình học tập và nghiên cứu.
Tơi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo GS.TS
Nguyễn Xuân Sinh - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ đạo giúp đỡ tơi trong
suốt q trình học tập và nghiên cứu.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành đến quý thầy, cô giáo giảng dạy
cho lớp Cao học 19, đã dành nhiều tâm huyết để truyền thụ cho chúng tôi
những kiến thức quý báu, làm tiền đề cho việc nghiên cứu luận văn này.
Mặc dù tôi đã cố gắng rất nhiều nhưng điều kiện về thời gian còn hạn
chế, đề tài mới chỉ bước đầu được nghiên cứu trong phạm vi hẹp nên sẽ
không tránh khỏi những sai sót nhất định. Vậy rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của thầy cơ giáo cùng tất cả các bạn bè.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG

BẢNG

TÊN BẢNG

Bảng 3.1

Bảng Kết quả p

Bảng 3.2


Bảng Kết quả k

Bảng 3.3

Bảng Kết quả p

Bảng 3.4

Bảng Tiến trình

Bảng 3.5

Bảng Kết quả k

Bảng 3.6

Bảng Kết quả k

Bảng 3.7

Đánh giá nhịp

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
BIỂU ĐỒ

TÊN BIỂU ĐỒ

TRAN
G


Biểu đồ
3.1

Biểu đồ Biểu diễn đặc điểm đối tượng phỏng
vấn.

61

Biểu đồ thành tích trung bình của hai nhóm
trước thực nghiệm

Error:
Referen
ce
source
not
found

Biểu đồ
3.3

Biểu đồ Thành tích trung bình của hai nhóm
sau thực nghiệm

Error:
Referen
ce
source
not

found

Biểu đồ

Biểu đồ Nhịp tăng trưởng của hai nhóm

Error:
Referen

Biểu đồ
3.2


3.4

trước và sau thực nghiệm.

ce
source
not
found


DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

ĐH

Đại học

GS.TS


Giáo sư tiến sỹ

HLTT

Huấn luyện thể thao

SLVR

Số lần vào rổ

SQVR

Số quả vào rổ

TDTT

Thể dục thể thao

VĐV

Vận động viên

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

LỜI MỞ ĐẦU

Bóng rổ ra đời năm 1891 do tiến sĩ James Naismith (1861-1936) – một

giáo viên môn giáo dục thể chất ở học viện Springfield thuộc bang
Massachusetts (Hoa Kỳ) sáng tạo ra. Trên thế giới, bóng rổ là một trong những
mơn thể thao hấp dẫn, có đơng đảo người tham gia tập luyện và thi đấu.
Bóng rổ được du nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Thời kỳ đầu,
Bóng rổ chỉ được phát triển ở các thành phố lớn, như Hà Nội, Sài Gòn, Huế


và Hải Phịng... Sau khi đất nước được giải phóng, phong trào tập luyện Bóng
rổ ngày càng phát triển mạnh mẽ và có sức thu hút đơng đảo tầng lớp xã hội
tập luyện nhất là học sinh, sinh viên.
Mặc dù, cịn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, nhưng hàng năm Uỷ
ban TDTT phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo đều tổ chức giải Bóng rổ học
sinh, sinh viên tồn quốc, các giải vơ địch quốc gia và các giải trẻ thanh thiếu
niên trên phạm vi tồn quốc. Bóng rổ là mơn thể thao tập thể mang tính đối
kháng, địi hỏi kỹ, chiến thuật nhuần nhuyễn. Đây cũng là mơn thể thao có
sức hấp dẫn và lôi cuốn mạnh mẽ, nhất là đối với lứa tuổi học sinh, sinh viên.
Nhìn lại phong trào tập luyện bóng rổ ở Việt Nam trong những năm gần
đây nhận thấy rằng: Tuy bóng rổ cịn chưa phát triển rộng rãi, chỉ tập trung ở
một số trung tâm, các thành phố. Song, bóng rổ Việt Nam đang từng bước
khơi phục và phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là các thành phố thị xã và các
trường đại học, cao đẳng, trung học…thu hút được nhiều đối tượng tham gia
tập luyện và đã đem lại những bước tiến về kĩ thuật, chiến thuật. Minh chứng
cho sự phát triển mạnh mẽ của Bóng rổ Việt Nam, năm 1992 Liên đồn Bóng
rổ Việt Nam đã chính thức gia nhập Liên đồn Bóng rổ thế giới đưa Bóng rổ
Việt Nam bước sang một thời kỳ mới.
Bóng rổ là môn thể thao phát triển rộng khắp trên thế giới và có mặt tại
các kỳ Thế vận hội Olympic, châu lục và khu vực. Bóng rổ là mơn thể thao
địi hỏi các VĐV phải có thể lực, chiều cao, sức bật tốt, đồng thời phải có sự
phối hợp thống nhất giữa các thành viên trong đội. Trong thi đấu Bóng rổ,
ngồi việc tăng khả năng tranh đua về mọi mặt, cịn giúp VĐV hồn thiện

mình trong lối chơi và năng động trong cuộc sống. Đây là một môn thể thao
tập thể, thi đấu có sự đối kháng va chạm trực tiếp, cho nên đòi hỏi vận động
viên phải có kỹ thuật và thể lực tốt. Xu thế bóng rổ hiện đại ngày nay, trận
đấu được diễn ra với tốc độ nhanh và quyết liệt, do đó tần suất hoạt động của


các vận động viên rất cao. Vì vậy, yếu tố sức bền tốc độ đóng vai trị rất quan
trọng trong thi đấu.
Sức bền tốc độ là một dạng của sức bền, là một tố chất thể lực chuyên
môn giúp cho các cầu thủ bóng rổ thực hiện được những kỹ thuật hay chiến
thuật được tốt hơn. Nó đóng vai trị quan trọng, đáp ứng một cách hiệu quả
các tình huống phản cơng nhanh, quay về phịng thủ khi bị mất quyền khống
chế bóng, duy trì được tốc độ thi đấu nhanh. Nếu cầu thủ có trình độ cao về
mặt thể lực và tốc độ, thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho đồng đội về mặt thể
lực cũng như tâm lý thi đấu được tốt hơn.
Dựa trên nhận định và phân tích chung của các chuyên gia, huấn luyện
viên, các nhà nghiên cứu bóng rổ, thì trình độ thể lực, kỹ - chiến thuật, tâm lý
thi đấu và quan trọng là tố chất sức bền tốc độ của các vận động viên bóng rổ
Việt Nam cịn yếu.
Qua quan sát thực tiễn thi đấu và tập luyện của các sinh viên chuyên
sâu bóng rổ trường Đại học Thể dục thể thao thành phố Hồ Chí Minh, chúng
tơi nhận thấy tố chất thể lực chun mơn của các cầu thủ cịn yếu, nhất là tố
chất sức bền tốc độ, thể hiện qua các động tác nhồi bóng tốc độ, duy trì tốc độ
trong trận đấu, các động tác chạy tốc độ, nước rút...
Trong những năm gần đây, mơn học Bóng rổ ln được tuyển sinh vào
các khóa của trường Đại học TDTT, nhằm thúc đẩy phong trào tập luyện và
thi đấu bóng trong cả nước đạt hiệu quả cao hơn.
Trong mối quan hệ giữa các tố chất thể lực thì sức bền và sức nhanh
cũng cần huấn luyện nhiều nhất. Huấn luyện sức bền tốc độ ở đây được gắn
liền với các u cầu chun mơn trong thi đấu Bóng rổ, có nghĩa là huấn

luyện sức bền tốc độ trong Bóng rổ ln có sự khác biệt với cơng tác huấn
luyện sức bền tốc độ của Điền kinh. Ở đây, công tác huấn luyện sức bền tốc


độ của các hoạt động có chu kỳ và khơng có chu kỳ là hai yếu tố tạo nên sức
nhanh bền trong thi đấu Bóng rổ. Phương tiện giáo dục ở đây là các bài tập
việc lựa chọn và sử dụng các bài tập làm nền tảng vững chắc để phát triển
sức bền tốc độ trong quá trình huấn luyện thể lực của học sinh chun sâu
Bóng rổ.
Chính vì vậy, điều quan trọng trong mơn Bóng rổ là việc huấn luyện tố
chất thể lực của học sinh chuyên sâu cần được tiến hành trong suốt nhiều năm
huấn luyện. Trong đó, cần chú trọng tới công tác huấn luyện sức bền tốc độ
cho người mới học, trong thời kỳ học sinh cần tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho sự phát triển tố chất này.
Nhưng cho đến nay, chưa có tác giả nào quan tâm nghiên cứu về sức
bền tốc độ trong mơn Bóng rổ. Trong khi đó, sức bền tốc độ là một tố chất
quan trọng được sử dụng trong tập luyện và thi đấu Bóng rổ.
Các cơng trình nghiên cứu về bóng rổ của các tác giả trong nước cho
đến nay rất đa dạng. Nghiên cứu về tố chất sức bền, có cơng trình nghiên cứu
của T.S Đặng Hà Việt (2007); Cơng trình nghiên cứu về trình độ tập luyện của
VĐV bóng rổ do GS-TS Lê Nguyệt Nga (2004); Về sức mạnh có các cơng
trình nghiên cứu của T.S Đặng Hà Việt (2002); Th.S Vương Quang Thiệp
nghiên cứu sức mạnh tốc độ cho nữ VĐV lứa tuổi 16 - 18 tỉnh Cao Bằng....
nhưng chưa có ai nghiên cứu về tố chất sức bền tốc độ cho các vận động viên
bóng rổ. Xuất phát từ những vấn đề nêu, đề góp phần xây dựng hệ thống bài
tập nhằm phát triển sức bền tốc độ cho nam sinh viên khóa 37 chuyên sâu
bóng rổ trường Đại học Thể dục thể thao thành phố Hồ Chí Minh, Chúng tơi
nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu lựa chọn một số bài tập phát triển sức bền tốc độ cho nam
sinh viên chuyên sâu bóng rổ khóa 37 trường Đại học Thể dục thể thao

thành phố Hồ Chí Minh”.


Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu lựa chọn các bài tập phát triển sức bền tốc độ có hiệu quả nhất
cho nam sinh viên chuyên sâu bóng rổ khóa 37 trường ĐH TDTT TPHCM, góp
phần nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên chuyên sâu bóng rổ.
Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để giải quyết mục đích nghiên cứu trên, để tài tiến hành giải quyết ba
nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng sức bền tốc độ của nam sinh viên
chuyên sâu bóng rổ khóa 37 trường ĐH TDTT TPHCM.
Nhiệm vụ 2: Xây dựng và ứng dụng một số bài tập phát triển sức bền
tốc độ cho nam sinh viên chuyên sâu bóng rổ khóa 37 trường ĐH TDTT
TPHCM.
Nhiệm vụ 3: Đánh giá hiệu quả một số bài tập phát triển sức bền tốc độ
cho nam sinh viên chuyên sâu bóng rố khóa 37 trường ĐH TDTT TPHCM
sau 1 năm tập luyện.


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Đặc điểm hoạt động thể lực trong mơn Bóng rổ.
Ngày nay, cùng với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật. sự phát
triển mạnh mẽ về kinh tế, TDTT ngày càng trở thành nhu cầu thiết thực đối
với con người. Hoạt động TDTT đem lại sức khỏe, hoàn thiện về thể chất trở
thành nhân tố không thể thiếu được trong đời sống xã hội, góp phần phát triển
con người tồn diện, con người XHCN.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 3 đã khẳng định “con người là vốn quý

nhất của chế độ xã hội. Bảo vệ và bồi dưỡng sức khỏe của con người là mục
tiêu cao quí của ngành y tế và TDTT dưới chế độ ta”.
Nhận định được sâu sắc về vai trò của TDTT, Đảng và Nhà nước ta đã
quan tâm đầu tư nhằm phát triển phong trào TDTT rộng khắp cả nước, để
nâng cao sức khỏe cho nhân dân và phát triển thể thao thành tích cao. Trong
đó, việc phát triển các mơn thể thao truyền thống như: Võ, Vật, Đua thuyền,
Điền kinh và các môn thể thao hiện đại như: Bóng chuyền, Bóng bàn, Cầu
lơng, Bóng rổ có tầm quan trọng to lớn…
Bóng rổ là môn thể thao phát triển khá phổ biến và rộng rãi trên khắp
thế giới. Cũng như các môn thể thao khác, Bóng rổ chiếm một vị trí quan
trọng trong sự nghiệp giáo dục và phát triển con người toàn diện, vì nó là mơn
thể thao có tính đồng đội và đối kháng cao, phải hoạt đông liên tục, đồng thời
qua tập luyện và thi đấu, nó cịn phát triển tính nghệ thuật, sự thông minh
nhanh nhẹn, khéo léo, tâm lý vững vàng của VĐV. Trận đấu Bóng rổ được
chia thành 4 hiệp, mỗi hiệp 10 phút và thời gian nghỉ giữa hiệp có ít phút, địi
hỏi VĐV vận động tích cực trong thời gian thi đấu và có khả năng hồi phục


nhanh. Mục đích thi đấu của mỗi đội, là ném bóng vào rổ đối phương càng
nhiều càng tốt, kết thúc hiệp đấu khơng có tỷ số hịa, tức là khơng thể quyết
định có tính chất thỏa hiệp về trận đấu.
Bóng rổ hiện đại là môn thể thao được thể hiện bằng cường độ vận động
cao. Đối với VĐV đẳng cấp cao trong một trận đấu phải di chuyển tổng hợp
17000-25000m, trong lúc đó phải thực hiện từ 130-140 lần bật nhảy, chạy
tăng tốc và dừng. Khi di chuyển với tốc độ lớn được kết hợp với chuyền bóng
và ném rổ. Với các hoạt động thi đấu căng thẳng về mọi mặt, đòi hỏi người
tập phải huy động tới cực hạn các khả năng chức phận của cơ thể, các tố chất
nhanh, mạnh tối đa. Khơng có thể lực tốt, sẽ khơng thể phát huy hết trình độ
kĩ – chiến thuật trong tập luyện và thi đấu. Do vậy, với các VĐV Bóng rổ,
việc nâng cao các tố chất thể lực phải dược coi trọng tương ứng với phát triển

các kĩ thuật cơ bản. Công tác huấn luyện thể lực là rất quan trọng, song hiện
nay, đa số các đội bóng nước ta còn xem nhẹ. Một số cho rằng, chỉ nên tập
trung vào kĩ – chiến thuật là chính, số khác lại cho rằng, chỉ cần tập sức nhanh
và độ chuẩn xác là đủ, ngoài ra đa số các đội chỉ chú ý đến thành tích trước
mắt, nên đã ảnh hưởng nhiều đến kết quả. Tập luyện vì gị ép thành tính dẫn
tới sự khơng hệ thống, khơng khoa học trong giảng dạy, huấn luyện.
Vì vậy, cần phải thấy rõ tầm quan trọng của tập luyện nâng cao các tố
chất thể lực, chính thể lực là việc tiếp thu kĩ - chiến thuật, qua đó cũng bồi
dưỡng ý chí phẩm chất cho người tham gia tập luyện môn thể thao Bóng rổ.
Hoạt động thi đấu của VĐV trên sân rất phức tạp, không theo chu kỳ
mà thay đổi liên tục theo tình huống và theo các điều luật quy định chặt chẽ
của mơn Bóng rổ, như thời gian quy định cho mỗi đợt tấn công là 24s, VĐV
không được giữ bóng trên tay q 5s, khơng được giữ bóng ở sân nhà q 8s.
Ngồi ra, cịn có khu vực 3s cho đội tấn công. Với các điều luật quy định chặt
chẽ về thời gian, buộc VĐV phải có trình độ chuẩn bị cao về tố chất thể lực;


sức nhanh, sức mạnh, sức bền, sự khéo léo…có như vậy, VĐV Bóng rổ mới
có thể phù hợp với đặc thù chuyên môn thi đấu luôn hoạt động với cường độ
lớn, chịu áp lực về mặt tâm lý, hoạt động với thời gian thi đấu kéo dài. Khi
thực hiện các động tác kĩ thuật phức tạp, phối hợp chiến thuật nhanh, biến
hóa, tính đối kháng tập thể cao, thành tích phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Bóng rổ là mơn thể thao địi hỏi các VĐV phải có thể lực, chiều cao,
sức bật tốt, đồng thời phải có sự phối hợp thống nhất giữa các thành viên
trong đội. Trong thi đấu Bóng rổ, ngồi việc tăng khả năng tranh đua về mọi
mặt, cịn giúp VĐV hồn thiện mình trong lối chơi và năng động trong cuộc
sống. Đây là một môn thể thao tập thể, thi đấu có sự đối kháng va chạm trực
tiếp, cho nên đòi hỏi vận động viên phải có kỹ thuật và thể lực tốt. Xu thế
bóng rổ hiện đại ngày nay, trận đấu được diễn ra với tốc độ nhanh và quyết
liệt, do đó, tần suất hoạt động của các vận động viên rất cao. Vì vậy, yếu tố

sức bền tốc độ đóng vai trị rất quan trọng trong thi đấu.
Để đạt được thành tích cao, cần có sự phối hợp thống nhất phát triển
hoạt động của tất cả các thành viên trong đội, nhằm thực hiện một nhiệm vụ
chung. Các hoạt động của mỗi VĐV có định hướng cụ thể, tương ứng với
định hướng đó, HLV phân chia VĐV ra từng vị trí thi đấu theo khả năng và sở
trường của mỗi người như:
-

Trung phong: các vận động viên cao to và sức mạnh nhất đội. Khi tấn cơng và
phịng thủ, VĐV thường hoạt động ở vị trí gần rổ, phải tranh cướp bóng chính
dưới rổ, có khả năng xoay người ném rổ, ném móc câu, khuấy đảo khu vực
cận rổ nhằm thu hút sự tập trung phịng thủ của đối phương về mình, tạo điều
kiện cho đồng đội có nhiều khoảng trống để kết thúc rổ ở khu vực ngoại vi.
[4]

-

Tiền phong: là các vận động viên cao, nhanh nhẹn, có sức bật, tốc độ, khả
năng linh hoạt, ném rổ tốt ở cực ly 3 điểm, có khả năng đội phá và kỹ năng


kết thúc rổ đa dạng, biến hố, nhằm lơi kéo phòng thủ, tạo khoảng trống cho
trung phong kết thúc rổ ở vị trí cận rổ. [4]
-

Hậu vệ: thường là các vận động viên nhỏ bé nhất đội, nhưng có tố chất thể lực
vượt trội, thơng minh, lanh lợi, có khả năng điều khiển và chuyền bóng tốt,
ném rổ chuẩn xác ở cực ly 3 điểm, là cầu thủ dẫn dắt lối chơi cho toàn đội.
Việc phân chia các vận động viên theo từng chức năng là một trong
những nguyên tắc cơ bản của hoạt động bóng rổ. Sự khác nhau ở các vận

động viên theo chức năng không chỉ ở các kỹ thuật động tác, vị trí trên sân,
mà cịn ở khả năng tâm sinh lý của họ.[4]
Hoạt động của VĐV Bóng rổ trong thi đấu, khơng đơn thuần là tổng
hợp các động tác tấn cơng và phịng thủ riêng biệt, mà còn là tập những hành
động được hợp nhất vào một hệ thống linh hoạt duy nhất, bởi mục đích chung
là ném được bóng vào rổ của đối phương.
Trong thi đấu, mỗi VĐV cần biết thành thạo không chỉ tấn cơng mà cịn
phải biết phịng thủ, bảo vệ rổ của mình một cách tích cực. Để giành bóng từ
tay đối phương, hay không cho đối phương cơ hội ném bóng vào rổ, cần phải
phản ứng đúng lúc và chính xác đối với các hoạt động của đối phương, trong
khi vẫn chú ý tới vị trí của các VĐV đội đối phương, đội mình và vị trí có
bóng. Các hoạt động trong thi đấu, được dựa vào sự ổn định và ứng dụng biến
dạng các kĩ năng vận động vào mức độ phát triển các tố chất thể lực, tình
trạng sức khỏe và tố chất thể lực của VĐV.
Tóm lại, hoạt động thi đấu Bóng rổ là q trình địi hỏi VĐV phải có sự
tiến bộ khơng ngừng về trình độ kĩ chiến thuật, cũng như tiến bộ về thể lực,
trong đó sức bền tốc độ đóng vai trị rất quan trọng nó quyết định đến hiệu
quả thi đấu của VĐV.


Q trình giảng dạy bóng rổ nhằm trang bị cho người tập những kiến
thức, kỹ năng và kỹ xảo, thường xuyên phát triển và hoàn thiện chúng, cũng
như nhằm hoàn thành hệ thống những kiến thức về các vấn đề kỹ thuật, chiến
lược và chiến thuật, luật thi đấu, phương pháp huấn luyện …
Giải quyết các nhiệm vụ giảng dạy là trang bị cho người tập một phạm
vi rộng lớn những kiến thức cần thiết về mơn bóng rổ hiện đại, để có thể hiểu
được các tư liệu cần nghiên cứu và xu hướng phát triển của bóng rổ trong
tương lai.
1.2. Phân loại sức bền và phương pháp phát triển sức bền tốc độ
1.2.1. Phân loại sức bền

Mỗi môn thể thao có đặc thù riêng, sự vận động đặc thù đó, tạo nên sự
phát triển khơng đều nhau ở các nhóm cơ khác nhau, ở các VĐV các mơn thể
thao khác nhau. Sức bền là một trong những nhân tố quan trọng nhất của
VĐV Bóng rổ, đồng thời cịn là một trong những yếu tố dẫn tới sự thành công
của VĐV trong tập luyện và thi đấu.
Theo các tài liệu chun mơn Bóng rổ, thì có hơn 80% các động tác
mang tính sức mạnh - tốc độ. Song khi di chuyển, lúc đứng phịng thủ, các
động tác cướp bóng hay các động tác gọi là các động tác “rắn”, thường đòi
hỏi nỗ lực tĩnh lực lớn. Bởi vậy, việc huấn luyện sức mạnh cần phải toàn diện
và phát triển sức mạnh các cơ theo chế độ khác nhau, ngoài ra sức mạnh bột
phát phản ánh năng lực biểu hiện sức manh đến mức tối đa trong một khoảng
thời gian tối thiểu do điều kiện của bài tập thể thao hay của các tình huống thi
đấu chi phối, VĐV Bóng rổ thường sử dụng dạng sức mạnh này trong các lần
bật nhảy, đột phá tấn cơng nhanh hay chuyền bóng xa.v.v.
Trong thể thao, sức bền là yếu tố quyết định thành tích của nhiều mơn
thể thao. Sức bền phát triển tốt, sẽ nâng cao khả năng chịu đựng lượng vận


động tập luyện và là tiền đề quan trọng để người tập có thể hồi phục nhanh
chóng sau q trình tập luyện và thi đấu [50].
Sức bền là một tố chất thể lực, là năng lực chống lại mệt mỏi trong hoạt
động vận động.
Sức bền phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Năng lực hoạt động của hệ thống tim mạch.
- Q trình trao đổi chất.
- Sự tiết kiệm hố trong vận động (thả lỏng, kĩ thuật).
- Các phẩm chất tâm lý chuyên môn.
Sức bền phát triển tốt, là tiền đề quan trọng để con người có thể sẵn
sàng lao động, học với năng suất cao, đồng thời hình thành những phẩm chất
tốt đẹp, như tính kiên trì, tinh thần bền bỉ, ý chí quyết tâm…

Tập luyện sức bền sẽ nâng cao khả năng làm việc của cơ thể, đặc biệt là
hệ thống tuần hồn, hơ hấp và hệ thống vận động.
Qua phân tích và nghiên cứu tài liệu, có thể nhận thấy có một số cách
phân loại như sau:
- Sức bền cơ sở: Là một dạng sức bền, là năng lực của VĐV nhằm
chống lại mệt mỏi trong hoạt động vận động kéo dài, trong đó, khơng có sự
tham gia của q trình trao đổi chất yếm khí.
- Sức bền thi đấu chuyên môn: Là một dạng sức bền, là năng lực của
VĐV nhằm chống lại mệt mỏi, khi thực hiện các yêu cầu chuyên môn của
môn thể thao, hoặc kĩ thuật thể thao trong điều kiện thi đấu.
Sức bền chun mơn trong Bóng rổ thể hiện ở sức bền ý chí và sức bền
cơ bắp. Sức bền trong thi đấu Bóng rổ có liên quan mật thiết tới các tố chất
khác, đặc biệt là tố chất sức nhanh và sức mạnh… Các mối tương quan đó,
được thể hiện trên sơ đồ sau:


SB tốc độ

SB trong thời gian dài

Sức mạnh bền

SB trong thời gian trung bình

SB trong thời gian ngắn

Sức bền chung

Dựa vào đặc điểm của từng môn thể thao, người ta phân sức bền
chuyên môn thành các loại như sau:

- Sức bền mạnh: Là một dạng sức bền, là năng lực của VĐV nhằm
chống lại mệt mỏi khi thực hiện các nhiệm vụ vận động kéo dài, đòi hỏi sự
tham gia của sức mạnh ở mức độ cao.
- Sức bền tốc độ: Là một dạng sức bền, là năng lực của VĐV nhằm
chống lại mệt mỏi, khi thực hiện các nhiệm vụ vận động đòi hỏi tốc độ gần tối
đa, tối đa, trong điều kiện năng lượng được cung cấp chủ yếu thơng qua q
trình yếm khí.
- Sức bền thời gian ngắn: Là một dạng sức bền, là năng lực của VĐV
nhằm chống lại mệt mỏi, khi thực hiện các lượng vận động vận động kéo dài
từ 45 giây đến 2 phút, trong điều kiện năng lượng được cung cấp chủ yếu
thơng qua q trình yếm khí. Sức bền thời gian ngắn phụ thuộc chặt chẽ vào
trình độ phát triển của sức bền mạnh và sức bền tốc độ.
- Sức bền thời gian trung bình: Là một dạng sức bền, là năng lực của
VĐV nhằm chống lại mệt mỏi, khi thực hiện các lượng vận động vận động
kéo dài từ 2 phút đến 11 phút, trong điều kiện đòi hỏi cao về năng lượng
thơng qua q trình yếm khí và ưa khí.


- Sức bền thời gian dài: Là một dạng sức bền, là năng lực của VĐV
nhằm chống lại mệt mỏi, khi thực hiện các lượng vận động vận động kéo dài
từ 11 phút đến nhiều giờ, trong điều kiện năng lượng được cung cấp chủ yếu
thơng qua q trình ưa khí [20].
Trong sinh lý TDTT, căn cứ vào hệ cung cấp năng lượng người ta chia
sức bền ra thành 2 loại:
- Sức bền ưa khí: Là khả năng hoạt động lâu dài của cơ thể trong điều
kiện sử dụng nguồn năng lượng, thơng qua q trình oxy hố hợp chất hữu cơ
giàu năng lượng trong cơ thể.
- Sức bền yếm khí: Là khả năng hoạt động lâu dài của cơ thể, trong
điều kiện dựa vào các nguồn cung cấp năng lượng yếm khí (các phản ứng giải
phóng năng lượng khơng có sự tham gia của oxy) [16], [17], [20].

1.2.2. Khái niệm sức bền tốc độ
• Sức bền tốc độ: Là khả năng chống lại mệt mỏi trong hoạt động về tốc độ.[3]
-

Theo Shabel (Đức): sức bền tốc độ là khả năng chống lại mệt mỏi của cơ thể
con người, khi thực hiện một vận động nào đó.[20]

-

MatVeep khái niệm rằng: Sức bền chuyên môn là khả năng đối kháng lại sự
mệt mỏi dưới nhiều điều kiện của lượng vận động chuyên môn, đặc biệt là
lượng vận động phát huy tối ưu khả năng chức phận của cơ thể, đối với việc
lập thành tích thể thao cao trong mơn thể thao lựa chọn. [20]

-

GS.TS. Dietrich Harre (Đức) cho rằng, sức bền tốc độ là khả năng đối kháng
lại sự mệt mỏi trong lượng vận động với tốc độ cao và tối đa trong điều kiện
thiếu dưỡng.

-

Shehrote: Sức bền tốc độ là khả năng đối kháng của cơ thể đối với sự giảm
tốc độ gây ra, đặc biệt được thông qua sự mệt mỏi của hệ thần kinh trung


ương và khả năng phối hợp động tác kém và hạn chế sức chạy nhanh của
động tác.
Theo các tác giả khác, sức bền tốc độ là khả năng duy trì được cường
độ hoạt động cao trong suốt quá trình thực hiện bài tập, nhờ sự nổ lực của

toàn bộ các cơ quan trong cơ thể.
Các nhà sinh lý học như: Samoaky Mashu (Nhật), Vaikop (Nga),
Dương Tích Nhược (Trung Quốc), thì khái niệm về sức bền tốc độ là năng lực
của cơ thể trong hoạt động kéo dài nào đó. [20]
Việc phát triển sức bền chung đầy đủ, sẽ tạo điều kiện để phát triển sức
bền chuyên môn, sức bền tốc độ và các tố chất thể lực khác tốt hơn, phát triển
sức bền làm tăng thích ứng và nâng dần chức năng của hệ thống các cơ quan
trong cơ thể. Huấn luyện sức bền chung cần phải tạo nên các tiền đề quan
trọng cho việc hình thành và thể hiện sức bền thi đấu chun mơn. Nhiệm vụ
chính của huấn luyện sức bền chung là phát triển khả năng ưa khí và sử dụng
khả năng này một cách “kinh tế”. Việc này đòi hỏi phải nâng cao khả năng
hấp thụ ôxy tối đa và khả năng truyền, phải mở rộng khả năng ơxy hóa các tế
bào của các cơ chịu lượng vận động chính trong điều kiện tập luyện, thi đấu
cũng như phải biết tiết kiệm tối đa các quá trình tuần hồn, trao đổi chất và
hơ hấp.
1.2.3. Cơ sở sinh lý của sức bền tốc độ.
Trong Bóng rổ thì tốc độ phản ứng, tốc độ động tác và tần số động tác
có ảnh hưởng trong việc phát triển tốc độ. Để duy trì tốc độ được lâu dài trong
một trận đấu, thì phải phát triển sức bền tốc độ.
Sức bền tốc độ có được, phải dựa vào các yếu tố: Sức bền yếm khí, sức
mạnh bền.


Theo Diên Phong (Trung Quốc) trong cuốn 180 câu hỏi về huấn luyện
thể thao hiện đại: Tố chất tốc độ được quy định bởi tốc độ phản ứng, tốc độ
động tác, tần số động tác. Muốn đạt được tốc độ cao, thì phải phát huy được
ba yếu tố này.
Tốc độ phản ứng động tác: được quyết định bởi mối quan hệ giữa các
cơ quan cảm thụ thị giác, thính giác và các cơ quan cảm thụ khác, giữa các
quá trình thần kinh trung ương với các tổ chức thần kinh cơ và ở các nhóm

phản ứng động tác khác nhau sẽ có sự khác nhau về cơ chế tốc độ phản ứng
động tác. Đối với tốc độ động tác đơn, thì ngồi sự quyết định của trung ương
thần kinh, cịn được quyết định bởi đặc trưng co duỗi của cơ bắp.
Tần số động tác cũng là một biểu hiện quan trọng của tố chất tốc độ.
Tần số động tác được quyết định bởi tốc độ chuyển đổi giữa ức chế và hưng
phấn của trung ương thần kinh vận động, tức là tính linh hoạt của q trình
thần kinh.
Theo quan điểm sinh học, thì tốc độ động tác quyết định bởi hàm lượng
ATP trong cơ bắp, tốc độ phân giải và tái tổng hợp ATP dưới dạng tác động
của xung động thần kinh. Do tập luyện tốc độ thường có thời gian ngắn, nên
tái tổng hợp ATP cung cấp năng lượng cho cơ bắp làm việc chủ yếu dựa vào
nguồn năng lượng yếm khí, mà chủ yếu là glucơphân và photphogen.[9]
1.2.4. Cơ sở lý luận của các phương pháp nâng cao khả năng yếm
khí trong huấn luyện sức bền tốc độ
Sức bền yếm khí là khả năng duy trì hoạt động với cường độ cao trong
điều kiện trao đổi chất không có ơxi. Năng lượng chủ yếu là các chất giàu
năng lượng dự trữ trong cơ như ATP - CP hoạt động yếm khí, thơng thường
diễn ra khoảng 20 - 30 giây với cường độ hoạt động cực đại.


Năng lượng cung cấp cho hoạt động cực đại chủ yếu là photphogen, tức
là phân giải ATP - CP.
Theo GS. T.G.Mkok (Liên Xơ cũ), thì cơng suất của hệ photphogen gấp 9
lần so với ơxi hóa mỡ. Song, trong thực thế lượng photphogen không lớn do
lượng dữ trữ của CP và ATP trong cơ khơng lớn. Vì vậy, nó chỉ duy trì được
khoảng 20 giây, nếu tiếp tục hoạt động thì cần thêm cả hệ năng lượng lắc tic
hay glucơphân tham gia. Hoạt động của hệ glucôphân phải đảm bảo tái tổng
hợp ATP và CP kết quả các phản ứng này là giải phóng năng lượng để tổng
hợp ATP.[9]
Các kết quả nghiên cứu của GS.TS. I.A.Mkok cho chúng ta thấy, sức

bền yếm khí phụ thuộc vào các mặt sau:
Năng lượng cung cấp: năng lượng của hệ photphogen
Dung lượng năng lượng ATP - CP trong cơ và dung lượng glucoza trong
máu, glucoza trong cơ và gan.
Năng lượng chịu đựng kích thích của axít lắc tích đối với cơ bắp và
thần kinh.
Trong hoạt động TDTT, bên cạnh các yếu tố hiểu biết về trí thức
chun mơn như đạo đức, ý chí, tâm lý, kỹ chiến thuật, thì yếu tố thể lực là
một yếu tố vơ cùng quan trọng, nó quyết định đến hiệu quả của quá trình hoạt
động luyện tập và thi đấu. Hơn nữa, việc rèn luyện và phát triển thể lực là một
khâu then chốt trong quá trình huấn luyện thể thao. Bởi vậy, các nhà sư phạm
về TDTT rất cần thiết có những hiểu biết về bản chất sự phân loại, cũng như
trí thức chun mơn, các quy luật và phương pháp rèn luyện chúng.
Sức bền tốc độ là khả năng cơ thể chống lại mệt mỏi, khi hoạt động với
tốc độ gần như tối đa, mà chủ yếu là sự tạo thành năng lượng cho hoạt động
sức bền tốc độ là trong điều kiện yếm khí. Điều này có ý nghĩa là, trong bài


tập có chu kỳ, tốc độ động tác đạt được trên các cự ly ngắn không giảm đi quá
mức, thông qua các hiện tượng mệt mỏi và ức chế có ý nghĩa là cơ thể được
tiến hành liên tục động tác nhanh, mặc dù thời gian thi đấu kéo dài.
Như vậy, sức bền tốc độ trong Bóng rổ là sức bền tốc độ khơng có chu
kỳ. Nó bao gồm các bài tập có tính chun mơn cao, như các bài tập chạy gấp
khúc, di chuyển không định hướng, hay chuyển đột ngột về hướng khác nhau,
các bài tập mang tính đặc trưng cao để phát triển sức bền tốc độ trong các
mơn bóng nói chung và mơn Bóng rổ nói riêng.
Để phát triển sức bền tốc độ, làm mất đi hay giảm đến mức tối thiểu
hiện tượng mệt mỏi trong hoạt động với cường độ tối đa, xuất phát nhanh do
mất đi các nguồn dự trữ trong điều kiện hoạt động yếm khí, cũng như do q
trình ức chế phát triển trong các trung khu thần kinh, vì phải hoạt động một

cách căng thẳng để đạt dược tốc độ tối đa. Vì vậy, giáo dục sức bền tốc độ
phải chú ý đến việc hoàn thiện các nhiệm vụ sau:
Khả năng yếm khí là khả năng vận động của cơ thể trong điều kiện dựa
vào các nguồn cung cấp năng lượng yếm khí.
Nâng cao khả năng ưa khí, cũng là yếu tố quan trọng để nâng cao khả
năng yếm khí, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện những hoạt động
yếm khí. Bởi vì, q trình trả nợ oxy được diễn ra một phần ngay trong lúc
vận động, và nếu có khả năng ưa khí cao, thì phần trả nợ oxy trong lúc vận
động đó sẽ lớn hơn và hiệu quả hoạt động của cơ thể sẽ tăng lên.
Phải nâng cao khả năng yếm khí (với mức đồng đều cả cơ chế phốtpho
creatin cũng như cơ chế glucô phân), bởi vì cơ thể hoạt động cường độ cao tới
mức nhu cầu ôxy của cơ thể không đáp ứng thường xuyên trong quá trình vận
động và một phần năng lượng phải tạo thành thơng qua q trình yếm khí.
Khi tốc độ càng cao, thì tỷ lệ huy động yếm khí càng lớn. Theo các tài liệu y


học thể thao, thì tỷ lệ này trong thời gian thi đấu 2 phút khoảng 60% và trong
thời gian thi đấu 10 phút đã lên tới 120%. Tuy vậy, khả năng ưa khí cũng có ý
nghĩa quyết định trong thời gian thi đấu trung bình, vì sự tạo thành năng
lượng ưa khí "kinh tế" hơn so với sự tạo thành năng lượng yếm khí. [12], [20]
Ngồi ra, sự tập trung axit lactic xuất hiện trong hoạt động sẵn sàng sử
dụng năng lượng yếm khí. Năng lượng yếm khí càng cao thì khả năng ưa khí
tối đa càng thấp. Do đó, để nâng cao khả năng yếm khí, người ta thường sử
dụng các bài tập có những đặc điểm sau đây:
* Các bài tập nhằm hồn thiện cơ chế giải phóng năng lượng từ
photphocrêatin:
- Cường độ hoạt động gần mức tối đa, hoặc thấp hơn (95% tốc độ tối đa).
- Thời gian mỗi lần hoạt động từ 3 - 8 giây trở lên. Sở dĩ như vậy vì dự
trữ photphocrêatin trong cơ rất ít, sự phân huỷ hợp chất này chỉ diễn ra vài
giây sau khi bắt đầu vận động.

- Khoảng cách nghỉ ngơi từ 2 - 3 phút, đó cũng là thời gian đủ để phục
hồi photphocrêatin .
- Áp dụng các hình thức hoạt động khác nhau lúc nghỉ ngơi (nghỉ ngơi
tích cực).
- Số lần lặp lại tuỳ thuộc trình độ tập luyện, sao cho tốc độ không bị giảm.
* Cịn cơ chế glucơphân, thì sử dụng các bài tập có các đặc điểm sau:
- Cường độ bài tập xác định theo cự ly để chọn tập luyện (90 - 95%) tốc
độ giới hạn.
- Thời gian mỗi lần vận động, thường biến đổi trong khoảng thời gian
20 giây - 2 phút.


×