Tải bản đầy đủ (.docx) (109 trang)

Nghiên cứu chương trình giảng dạy môn bóng chuyền vào giờ giáo dục thể chất nội khóa tự chọn tại trường đại học đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (757.51 KB, 109 trang )

1
1
1
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

……….o0o……….

ĐÀM XUÂN

Tên đề tài:
“NGHIÊN CỨU CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY MÔN
BÓNG CHUYỀN VÀO GIỜ GIÁO DỤC THỂ CHẤT NỘI
KHÓA TỰ CHỌN TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI”.

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


2
2
2
2

Tp. Hồ Chí Minh, Năm 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


……….o0o……….

ĐÀM XUÂN

Tên đề tài:
“NGHIÊN CỨU CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY MÔN
BÓNG CHUYỀN VÀO GIỜ GIÁO DỤC THỂ CHẤT NỘI
KHÓA TỰ CHỌN TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI”.

Chuyên ngành: Giáo dục thể chất
Mã số : 60140103

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


3
3
3
3
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Lê Đức Chương

Tp. Hồ Chí Minh, Năm 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết
quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2016

Tác giả

Đàm Xuân


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
VIẾT TẮT
GDTC
HL
HLTT
HLV
SV
LVĐ
RLTT
TDTT
TP. HCM
VĐV

THUẬT NGỮ TIẾNG VIỆT
Giáo dục thể chất
Huấn luyện
Huấn luyện thể thao
Huấn luyện viên
SV
Lượng vận động
Rèn luyện thân thể
Thể dục thể thao

Thành phố Hồ Chí Minh
Vận động viên


DANH MỤC CÁC BẢNG


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ


9

ĐẶT VẤN ĐỀ
Vai trò của giáo dục có vị trí hết sức quan trọng, là yếu tố quyết định
phát triển tiềm năng con người, là đòn bẩy mạnh mẽ để tiến vào tương lai. Có
thể nói Giáo dục - Đào tạo đóng vai trò bậc nhất trong công cuộc phát triển
đất nước, phát triển con người trong thời đại mới.
Với đường lối của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, công tác giáo dục thể
chất là một trong những nội dung giáo dục không thể thiếu được trong hệ
thống giáo dục Việt Nam. Bởi vì giáo dục thể chất có mục đích tăng cường
sức khỏe cho người tham gia tập luyện và là nhân tố tác động trực tiếp đến
các mặt giáo dục khác, góp phần tích cực giáo dục học sinh, SV trở thành con
người phát triển toàn diện.
Cùng với sự phát triển của đất nước, thể dục thể thao đã và đang không
ngừng phát triển để trở thành một bộ phận quan trọng không thể thiếu của nền
văn hóa xã hội, chính sách phát triển kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước đề
ra nhằm đem lại vốn quý nhất cho con người đó là sức khỏe, qua đó góp phần
bồi dưỡng nhân cách đạo đức, tạo môi trường sống lành mạnh nói chung, góp
phần phát triển con người toàn diện, đồng thời vươn tới mục tiêu xa hơn là
đưa thể thao Việt Nam đến gần hơn với thể thao khu vực và thế giới, qua đó

góp phần mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác quốc tế.
Tập luyện thể dục thể thao thường xuyên sẽ đem lại những biến đổi
thích nghi về hình thái chức năng có lợi cho cơ thể. Ngày nay với trang thiết
bị hiện đại, dụng cụ thể dục thể thao cho phép xác định chính xác sự biến đổi
các chức năng cơ thể, điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc đánh giá trình độ
tập luyện và năng lực hồi phục của những người tham gia luyện tập, cũng như
công tác huấn luyện, giảng dạy. Việc đánh giá chính xác chất lượng, hiệu quả
công tác giáo dục thể chất cũng như sự phát triển thể lực của SV dưới tác


10

dụng của bài tập là một vấn đề hết sức quan trọng cần được tiến hành một
cách khoa học, thường xuyên nhằm xây dựng hệ thống dữ liệu, phục vụ cho
công tác kiểm định, đánh giá hiệu quả công tác đào tạo trong nhà trường.
Trường Đại học Đồng Nai là trường công lập duy nhất của tỉnh Đồng
Nai, có nhiệm vụ đào tạo nguồn lao động trực tiếp cho tỉnh và các tỉnh lân
cân. Cùng với sự phát triển ngày càng lớn mạnh, đang từng bước chuyển
mình trên mọi lĩnh vực của cả nước, thể dục thể thao Trường Đại học Đồng
Nai là cầu nối tạo sự đoàn kết hữu nghị giữa các trường trên địa bàn Tỉnh và
các tỉnh lân cân.
Qua thực tế công tác GDTC tại Trường Đại học Đồng Nai còn chuyển
biến rất chậm và gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện định hướng GDTC
cho SV, bên cạnh còn phụ thuộc vào chương trình khung của Bộ giáo dục đào
tạo, trường chưa mạnh dạn xây dựng cho mình một chương trình và phương
pháp dạy cải tiến chương trình GDTC, tạo sự đam mê, yêu thích tập luyện cho
SV.
Ở góc độ nhà trường cũng được sự đồng tình của ban giám hiệu với
việc tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho các môn thể thao tự chọn Bóng
chuyền và là cơ sở phát triển cho các môn thể thao. Cùng đội ngũ giáo viên

tương đối đầy đủ, với nhu cầu SV tự lựa chọn cho mình một môn thể thao ưa
thích rèn luyện thể chất thường xuyên. Với những lý do nêu trên tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài cải tiến chương trình môn thể thao phù hợp với nhu cầu SV:
Nghiên cứu chương trình giảng dạy môn Bóng chuyền vào giờ giáo dục
thể chất nội khóa tự chọn tại Trường Đại học Đồng nai.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài tiến hành giải quyết các
nhiệm vụ sau:
Nhiệm vụ 1: Nghiên cứu đánh giá thực trạng công tác GDTC cho SV
Trường Đại học Đồng Nai.


11

Nhiệm vụ 2: Nghiên cứu xây dựng chương trình giảng dạy môn Bóng
chuyền vào giờ GDTC nội khóa tự chọn tại Trường Đại học Đồng Nai.
Nhiệm vụ 3: Đánh giá hiệu quả của việc thực hiện chương trình giảng
dạy môn Bóng chuyền vào giờ GDTC nội khóa tự chọn đối với việc phát triển
thể chất của SV Trường Đại học Đồng Nai.


12

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác GDTC.
Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam và là nhà văn hoá lớn.

Sinh thời, Bác rất quan tâm đến hoạt động TDTT, lịch sử đã chứng minh: Bác

Hồ là người khai sinh, người sáng lập nền TDTT cách mạng nước ta. Tư
tưởng bao trùm của Bác Hồ trong việc đặt nền tảng xây dựng nền TDTT mới
của nước ta là sự khẳng định có tính chất cách mạng của công tác TDTT, là
nhu cầu khách quan của một xã hội phát triển, là nghĩa vụ của mỗi một người
dân yêu nước.Mục tiêu cao đẹp của TDTT là bảo vệ, tăng cường sức khoẻ của
nhân dân, góp phần cải tạo nòi giống, làm cho dân cường nước thịnh.Những ý
tưởng đó, được xuyên suốt trong các lời huấn thị, văn kiện, bài viết của Bác
Hồ [15].
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến mọi lĩnh vực hoạt
động của đất nước, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì sự tiến bộ và
hạnh phúc của nhân dân. Thể dục thể thao là một trong những lĩnh vực được
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm, chỉ đạo, xây dựng và phát triển ngay từ sau
Cách mạng Tháng Tám thành công và trong suốt quá trình xây dựng và bảo
vệ đất nước [47].
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Thể dục thể thao là một công tác
cách mạng”, tức là Người đã đặt thể dục thể thao ngang hàng với các công tác
khác, như công tác chính trị tư tưởng, công tác tổ chức, công tác văn hoá, giáo
dục... Công tác thể dục thể thao có nhiệm vụ “nghiên cứu phương pháp và
thực hành thể dục trong toàn quốc” nhằm “tăng bổ sức khoẻ quốc dân và cải
tạo nòi giống Việt Nam” [47].


13

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin, sự quan tâm đặc biệt vào thế
hệ trẻ. Theo quan niệm của Người “Một năm khởi đầu từ mùa xuân.Một đời
khởi từ tuổi trẻ.Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” [47].Tuổi trẻ gắn liền với
tiền đồ, tương lai của đất nước, dân tộc. Bởi vậy, Người rất quan tâm đến việc
giáo dục toàn diện “trí, đức, thể, mỹ” cho thế hệ trẻ Việt Nam.Trong đó, việc
GDTC là điều kiện để phát huy các mặt giáo dục khác đạt hiệu quả cao nhất.

Trong bối cảnh đất nước bị thực dân đô hộ, đời sống nhân dân vô cùng
cực khổ, ngay cả các em thiếu niên cũng bị vắt kiệt sức lao động. Sự tàn tạ về
sức khoẻ, lạc hậu về văn hoá, yếu kém về trí tuệ của nhân dân ta, nhất là đối
với thanh niên Việt Nam khiến Người luôn day dứt, thôi thúc tìm con đường
cách mạng để đem lại quyền sống, quyền làm người cho nhân dân trong đó,
sức khoẻ là một trong những quyền sống cơ bản nhất và cao nhất của con
người.
Vào những năm 1910-1911, khi làm thầy giáo tại trường Dục Thanh Phan Thiết, Người có nhãn quan mới về giáo dục để phát triển hài hoà các
mặt đạo đức, tri thức và thể chất cho học sinh. Bên cạnh việc dạy hán văn và
quốc ngữ, Người còn được phân công dạy thể dục cho học sinh toàn
trường.Người luôn nhắc nhở học sinh “Cái quý nhất của con người là sức
khỏe. Các em chịu khó tập thể dục là giữ gìn cái quý báu nhất của con người”.
Nói là làm, mỗi buổi sáng thầy Nguyễn Tất Thành hướng dẫn học sinh tập thể
dục, nhảy cao, nhảy xa, kéo xà đơn, chơi bóng rổ, rồi thì luyện đôi chân bằng
cách đi bộ ra bãi biển Thương Chánh để tập bơi... Việc dạy thể dục cho học
sinh trong trường thực sự là việc làm có tính chất cách mạng đối với nền giáo
dục Việt Nam lúc bấy giờ.
Sau khi ra đi tìm đường cứu nước trở về, một trong những vấn đề quan
tâm hàng đầu của Người là vấn đề giáo dục thế hệ trẻ. Trong 10 chính sách
lớn của Mặt trận Việt Minh, đã đề cập đến việc xây dựng nền giáo dục quốc


14

dân mới, trong đó có GDTC “khuyến khích nền giáo dục quốc dân làm cho
nòi giống ngày càng thêm mạnh” và “Nhi đồng được chính phủ săn sóc đặc
biệt về thể dục và trí dục”.
Tháng 3 năm 1941, trong chương trình cứu nước của mặt trận Việt
Minh, Bác Hồ nêu rõ: “Khuyến khích và giúp đỡ nền TDTT quốc dân, làm
cho nòi giống thêm khoẻ mạnh”. Sau khi nước nhà vừa mới độc lập, chính

quyền Cách mạng còn non trẻ, đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn
như thù trong, giặc ngoài, kinh tế đói kém, xã hội chưa ổn định... Vậy mà với
tầm nhìn chiến lược, Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh thành lập Nhà thể dục trung
ương thuộc bộ thanh niên, trên cơ sở: “Xét vấn đề thể dục rất cần thiết, để bồi
bổ sức khoẻ quốc dân và cải tạo nòi giống Việt Nam” [47].
Cách mạng tháng Tám thành công, với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ
Chí Minh nhắc nhở cán bộ và các cơ quan chức năng bốn việc cần quan tâm
đó là: Công tác phòng bệnh, công tác thể dục thể thao, công tác vệ sinh và
thực hiện đời sống mới. Người cho rằng: Việc xây dựng nước nhà, gây đời
sống mới việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành công [34]. Trong nền
giáo dục cách mạng, Hồ Chí Minh coi trọng tất cả các mặt đức, trí, thể,
mỹ.Người chỉ rõ, GDTC là một mặt cần thiết, quan trọng như các mặt giáo
dục khác. Hơn nữa, GDTC được Người đưa lên hàng đầu chính là nói lên vai
trò tiền đề của GDTC đối với tất cả các mặt khác, bởi nó đem lại cho tuổi trẻ
sức khoẻ - vốn quý báu nhất của con người.
Ngày 27/6/1946, Người ký sắc lệnh thành lập Nhà Thanh niên và Thể
dục thuộc Bộ Quốc gia giáo dục nhằm triển khai công tác GDTC trong học
sinh, thanh thiếu niên cả nước. Đây được xem là một dấu mốc quan trọng
trong sự hình thành và phát triển của nền thể dục thể thao cách mạng. Từ đó
đến nay, công GDTC trong tuổi trẻ học đường không ngừng được quan tâm
và phát triển. Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Người


15

từng căn dặn "Phải rèn luyện thân thể cho khoẻ mạnh. Khỏe mạnh thì mới có
đủ sức để tham gia một cách dẻo dai bền bỉ những công việc ích nước lợi
dân" [32].
Đồng thời, Bác còn luôn quan tâm đến sức khỏe của nhân dân, Bác rất
tin yêu và luôn quan tâm đến sự phát triển thể chất của thế hệ trẻ. Về thăm

trường Trung cấp TDTT năm 1961 (nay là trường ĐH TDTT Bắc Ninh), Bác
đã căn dặn: “Các chấu học TDTT ở đây không phải đạt ông kiện tướng này,
bà kiện tướng kia mà cái chính là làm người cán bộ phục vụ đắc lực cho nhân
dân, đem hiểu biết của mình hướng dẫn mọi người cùng tập luyện để nâng
cao sức khỏe, đẩy lùi bệnh tật” [47].
GDTC cho tuổi trẻ trong nhà trường phải gắn liền với việc rèn luyện
thể chất còn được thực hiện ngoài trường học, bằng các động tác, bài tập hoặc
những môn thể thao phù hợp. Hai hình thức đó rất cần thiết đối với giáo dục
và rèn luyện tuổi trẻ, đều cùng mục tiêu là phát triển thể chất cân đối, nâng
cao thể lực. Trong hai hình thức đó, Người nhấn mạnh, GDTC trong nhà
trường là cơ bản, vì nó gắn liền với các mặt giáo dục trí dục, đức dục, cho độ
tuổi thiếu nhi và thanh niên; đồng thời giáo dục và rèn luyện thể chất gắn
cùng với biện pháp giữ gìn vệ sinh phòng bệnh, có tác dụng thiết thực đến
việc bảo vệ sức khoẻ, tăng cường thể lực, nâng cao tầm vóc cho tuổi trẻ học
đường [47].
Có thể thấy rằng, đối với Chủ Tịch Hồ Chí Minh, công tác GDTC là
một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong nền giáo dục của nước nhà.Và
cho đến ngày nay, tư tưởng ấy vẫn giữ nguyên giá trị và có ý nghĩa thời sự
trong công cuộc xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới, hiện đại và hội nhập
quốc tế.


16

1.2.

Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với công tác GDTC trong
trường học.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác
GDTC. Sự nghiệp TDTT đã và đang phát triển mạnh mẽ, đúng hướng, góp

phần quan trọng vào thành tựu chung của công cuộc đổi mới đất nước, từng
bước đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Đảng lãnh
đạo công tác TDTT bằng việc hoạch định đường lối, quan điểm, chính sách,
kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kế hoạch, đưa công tác TDTT lên một tầm
cao mới.
Đường lối quan điểm của Đảng được thể hiện ở nhiều nghị quyết, chỉ
thị trong suốt thời kỳ lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và tiến
lên xây dựng CNXH, qua các thời kỳ Đại Hội Đại biểu toàn quốc của Đảng:
“Từng bước xây dựng nền TDTT XHCN phát triển cân đối, có tính chất dân
tộc, khoa học và nhân dân”, “Công tác TDTT cần coi trọng, nâng cao chất
lượng GDTC trong các trường học, tổ chức hướng dẫn và vận động đông đảo
nhân dân rèn luyện thân thể hàng ngày” [12],[13].
Ngày 9/10/2000, Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam công bố lệnh về việc ban hành Pháp lệnh TDTT đã được ủy ban thường
vụ Quốc hội khóa X thông qua ngày 25/9/2000. Pháp lệnh có 9 chương, 59
điều. Trong đó, điều 14, 15 của chương 1 quy định về TDTT trường học như
sau:
- Điều 14 của pháp lệnh: “TDTT trường học bao gồm GDTC và

hoạt động TDTT ngoại khóa cho người học. GDTC trong trường học là
chế độ GDTC bắt buộc nhằm tăng cường sức khỏe, phát triển thể chất,
góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách, đáp ứng yêu cầu giáo dục
toàn diện người học. Nhà nước khuyến khích hoạt động TDTTngoại
khóa trong nhà trường”.


17

- Điều 15 của pháp lệnh quy định: “Bộ giáo dục đào tạo phối hợp


với ủy ban TDTT thực hiện các nhiệm vụ: xây dựng, chỉ đạo thực hiện
chương trình GDTC. Quy định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể và đánh
giá kết quả rèn luyện thân thể của người học. Đào tạo, bồi dưỡng và
đảm bảo đủ giáo viên, giảng viên TDTT. Quy định hệ thống thi đấu
TDTT trường học".
Luật giáo dục được Quốc hội khóa XI nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam thông qua ngày 14/6/2005: “Nhà nước coi trọng TDTT
trường học, nhằm phát triển và hoàn thiện thể chất cho tầng lớp thanh thiếu
niên, nhi đồng. Giáo dục thể chất là nội dụng bắt buộc đối với học sinh, sinh
viên, được thực hiện trong hệ thống giáo dục quốc dân, từ Mầm non đến Đại
học” .
Luật TDTT được Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua ngày
29 tháng 11 năm 2006, điều 20, chương II quy định “Giáo dục thể chất là môn
học chính khoá thuộc chương trình giáo dục nhằm cung cấp kiến thức, kỹ
năng vận động cơ bản cho người học thông qua các bài tập và trò chơi vận
động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Hoạt động thể thao
trong nhà trường là hoạt động tự nguyện của người học được tổ chức theo
phương thức ngoại khoá phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khoẻ
nhằm tạo điều kiện cho người học thực hiện quyền vui chơi, giải trí, phát triển
năng khiếu thể thao. Nhà nước khuyến khích thể dục thể thao ngoại khóa
trong nhà trường” [38].
Có thể thấy rằng một trong những nhiệm vụ cơ bản quan trọng của
GDTC là không ngừng nâng cao sức khỏe, nâng cao trình độ chuẩn bị thể lực
cho học sinh, sinh viên. Nôvicốp A. D; Mátvêép L. P (1993); khẳng định: “thể
lực là một trong những nhân tố quan trọng nhất, quyết định hiệu quả hoạt


18

động của con người, trong đó những đặc điểm cơ bản, nổi bật của quá trình

GDTC”.
Quyết định số 72 /2008/QĐ-BGDĐT ngày 23 tháng 12 năm 2008 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy định việc tổ chức hoạt động thể thao
ngoại khoá cho học sinh, sinh viên hệ chính quy trong các cơ sở giáo dục phổ
thông, cơ sở giáo dục đại học và trung cấp chuyên nghiệp. Tổ chức các hoạt
động thể thao ngoại khoá trong nhà trường nhằm động viên, khuyến khích
học sinh, sinh viên tự giác tham gia tập luyện thể thao; hình thành thói quen
rèn luyện thân thể thường xuyên cho học sinh, sinh viên; Hoạt động thể thao
ngoại khoá phải được quan tâm, chỉ đạo sâu sát, chặt chẽ, xây dựng kế hoạch
phù hợp và đảm bảo về tài chính, cơ sở vật chất, sân bãi, dụng cụ, đáp ứng
nhu cầu của học sinh, sinh viên; Việc tổ chức hoạt động thể thao ngoại khoá
cho học sinh, sinh viên trong nhà trường phải bảo đảm các nguyên tắc sau:
+ Phù hợp với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, điều kiện
cụ thể của từng địa phương, cơ sở giáo dục, tránh lãng phí, hình thức.
+ Nguời tham gia phải tự nguyện, tự giác, phù hợp với sở thích, giới
tính, lứa tuổi và sức khoẻ.
+ Có chương trình, kế hoạch và có thể được lồng ghép với các hoạt
động có ý nghĩa giáo dục của nhµ trường.
+ Xã hội hóa đối với các hoạt động thể thao ngoại khoá của học sinh,
sinh viên [33].
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành quyết định số 53/QĐ/2008BGDĐT ngày 18/9/2008 Ban hành quy định về việc đánh giá, xếp loại thể
lực học sinh, sinh viên, quy định cụ thể từng nội dung và chuẩn thành tích
kiểm tra thể lực cho học sinh, sinh viên từ 6 đến 20 tuổi [3].
Về GDTC trong trường học, trong báo cáo đã khẳng định bên cạnh
những kết quả đạt được báo cáo đưa ra những tồn tại trong lĩnh vực GDTC:


19

“Công tác GDTC trong trường học vẫn còn nhiều hạn chế và đang đứng trước

những thử thách to lớn. Nghiêm trọng hơn đội ngũ giáo viên TDTT nhà
trường còn thiếu kinh nghiệm tổ chức. Giờ học thể dục bắt buộc chưa thực
hiện đầy đủ. Còn thiếu những hình thức thích hợp để mở rộng TDTT ngoại
khóa và các hoạt động thể thao tự nguyện của học sinh. Vị trí của môn thể dục
trong nhà trường còn bị xem nhẹ, chưa bình đẳng với các môn học khác”, cơ
sở vật chất TDTT còn rất thiếu thốn và lạc hậu, nhất là trong trường học...
Tính chung trong cả nước mỗi học sinh chỉ có 1 mét vuông đất cho hoạt động
TDTT. Từ yếu kém trên, ngành TDTT phối hợp với ngành Giáo dục cần nhấn
mạnh: “Để phát triển TDTT trong trường học, phải quan tâm xây dựng đội
ngũ giáo viên TDTT, trước hết cần phải đảm bảo định biên thể dục cho trường
học”. Từ nhiệm vụ chung của ngành TDTT, mục tiêu cụ thể mà Bộ GD-ĐT
đưa ra là:
Quy mô và chất lượng của công tác GDTC và TT trong học sinh, sinh
viên được mở rộng và nâng cao, cơ sở hạ tầng TDTT trường học được phát triển
đồng bộ theo nhiều cấp độ khác nhau, nhằm đảm bảo có chất lượng và hiệu quả
cao trong GDTC, bồi dưỡng và phát triển tài năng thể thao của đất nước.
Các công trình TDTT trường học được hiện đại hóa, ngang tầm với nhà
trường của các nước tiên tiến trong khu vực.
Đội ngũ cán bộ, giáo viên TDTT có khả năng sáng tạo về lý luận và
phương pháp GDTC, vận dụng công nghệ tiên tiến trong công tác GDTC và
thể thao học đường; tham gia hoạt động có hiệu quả trong các tổ chức thể thao
học sinh, sinh viên khu vực và thế giới. Đào tạo đủ giáo viên TDTT cho
trường học, theo tiêu chuẩn 250 học sinh có một giáo viên TDTT chuyên
nghiệp. Đối với các trường Đại học và Cao đẳng là 150 học sinh/giáo viên.
Để đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng cho chiến lược đào tạo con
người phát triển toàn diện, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh


20


xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, với quan điểm TDTT là công tác cách
mạng Đảng – Chính phủ luôn quan tâm đến công tác TDTT nói chung và
GDTC nói riêng, thấm nhuần quan điểm của Đảng với TDTT – GDTC, hai
ngành GD &ĐT và TDTT đã phối kết hợp, chỉ đạo nội dung công tác GDTC
trong tình hình mới, phục vụ đắc lực mục tiêu đào tạo con người phát triển toàn
diện góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Giáo dục con người phát triển toàn diện phải kết hợp hài hòa sự phong
phú về tinh thần, sự trong sáng về đạo đức, sự toàn diện về thể chất. Sự cường
tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người đồng thời là vốn quý tạo
ra sản phẩm về trí tuệ và vật chất cho xã hội.
Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 1/12/2011 của Bộ chính trị khóa XI về
phát triển TDTT. Tăng cường sự quản lý của Đảng, tạo bước phát triển mạnh
về TDTT đến năm 2020... Tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức, đổi mới quản
lý, nâng cao đội ngũ cán bộ thể dục, thể thao, tăng cường cơ sở vật chất, đẩy
mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ làm nền tảng phát triển mạnh mẽ và
vững chắc sự nghiệp TDTT đến năm 2020. Phấn đấu 90% học sinh, sinh viên
đạt tiêu chuẩn thân thể, các trường học, xã, phường, thị trấn, khu công nghiệp
có đủ cơ sở vật chất thể dục, thể thao phục vụ tập luyện của nhân dân, trình độ
một số môn thể thao trọng điểm được nâng lên tầm châu Á và thế giới; đảm
bảo các điều kiện để đăng cai tổ chức các sự kiện thể thao của châu Á và thế
giới.
Thông tư số 25/2015/TT-BGDĐT ngày 14 tháng 10 năm 2015 quy
định về chương trình môn học giáo dục thể chất thuộc các chương trình đào
tạo trình độ đại học [4].
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác Giáo dục Thể
chất và Thể thao trường học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều văn bản
pháp quy để chỉ đạo thực hiện đến các cơ sở.


21


Có thể nói rằng, Đảng và Nhà nước luôn coi trọng sức khỏe nhân dân,
nhất là thanh thiếu niên. Chăm lo cho mọi người về sức khỏe là chiến lược ổn
định và phát triển nguồn nhân lực, đó là cơ sở vững chắc cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tóm lại, qua những chỉ thị và Nghị quyết trên cho thấy: Đảng và Nhà
nước rất coi trọng việc tăng cường sức khỏe cho nhân dân, nhất là đốì với
tầng lớp học sinh, SV. Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước của
thời đại hiện nay, việc giáo dục và phát triển thể chất là một trong những biện
pháp tích cực nhất góp phần tăng cường và bảo vệ sức khỏe, cải tạo nòi
giống ... Đó cũng là vấn đề cốt lõi mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm hàng
đầu, để góp phần xây dựng một đất nước “dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ văn minh”và phấn đấu đạt vị trí ngang tầm với các nước tiên
tiến trên thế giới trong tương lai.
1.3. Công tác GDTC và Thể thao trường học
1.3.1. Một số khái niệm liên quan
1.3.1.1. Thể chất
Thể chất chỉ chất lượng thân thể con người. Đó là những đặc trưng
tương đối ổn định về hình thái và chức năng của cơ thể được hình thành và
phát triển do bẩm sinh di truyền và điều kiện sống (bao gồm cả giáo dục, rèn
luyện). TDTT gắn bó chặt chẽ với quá trình phát triển thể chất. Đó là một quá
trình hình thành, biến đổi tuần tự theo quy luật trong cuộc đời từng người
(tương đối lâu dài) về hình thái, chức năng và cả những tố chất thể lực và
năng lực thể chất. Thể chất bao gồm thể hình, khả năng chức năng và khả
năng thích ứng. Thể hình gồm hình thái, cấu trúc của cơ thể, bao gồm trình độ
phát triển, những chỉ số tuyệt đối về hình thái và tỷ lệ giữa chúng cùng tư
thế.Năng lực thể chất lại chủ yếu liên quan với những khả năng chức năng của
các hệ thống, cơ quan trong cơ thể thể hiện chính qua hoạt động cơ bắp. Nó



22

bao gồm các tố chất thể lực (sức mạnh, sức nhanh, sức bền, độ dẻo, sự khéo
léo vận động…) và những năng lực vận động cơ bản của con người (đi, chạy,
nhảy, ném, leo trèo, bò, mang vác...). Khả năng thích ứng chỉ trình độ (năng
lực) thích ứng chủ yếu về chức năng của cơ thể con người với hoàn cảnh bên
ngoài, bao gồm cả sức đề kháng với các bệnh tật. Trạng thái thể chất chủ yếu
nói về tình trạng cơ thể qua một số dấu hiệu về thể trạng, được xác định bằng
các cách đo tương đối đơn giản về chiều cao, cân nặng, vòng ngực, dung tích
sống, lực tay, chân, lưng... trong một thời điểm nào đấy. Đặc trưng của sự
phát triển thể chất phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tạo thành (điều kiện bên
trong và bên ngoài) và sự biến đổi của nó theo một số quy luật về tính di
truyền và khả biến, sự phát triển theo lứa tuổi và giới tính, sự thống nhất hữu
cơ giữa cơ thể và môi trường, giữa hình thức - cấu tạo và chức năng của cơ
thể. Từng người và xã hội không thể tuỳ ý thay bỏ hoặc làm ngược lại những
quy luật khách quan này. Mà chỉ có thể đạt hiệu quả phát triển thể chất tốt nếu
hiểu ra được và vận dụng, tác động thích hợp theo nhưng phương hướng, mục
đích nhất định, nhằm đáp ứng những nhu cầu và lợi ích của từng cá nhân và
xã hội [17].
1.3.1.2. Giáo dục thể chất
Mátvêép L.p, Nôvicốp A.D khái niệm rằng “Giáo dục thể chất là một
quá trình giải quyết những nhiệm vụ giáo dục- giáo dưỡng nhất định mà đặc
điểm của quá trình này là có tất cả các dấu hiệu chung của quá trình sư phạm,
hoặc là được thực hiện dưới hình thức tự giáo dục” [24].
Nguyễn Toán đã mô tả GDTC và khái niệm: “Giáo dục thể chất là một bộ
phận của thể dục thể thao. Giáo dục thể chất còn là một trong những hoạt động
cơ bản, có định hướng rõ của thể dục thể thao trong xã hội, một quá trình tổ chức
để truyền thụ và tiếp thu những giá trị của TDTT trong hệ thống giáo dục - giáo
dưỡng chung (chủ yếu là trong nhà trường)... Giáo dục thể chất là một loại hình



23

giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy học vận động (động tác) và phát triển
có chủ định các tố chất vận động của con người” [ 44].
Vũ Đức Thu, Nguyễn Xuân Sinh, Lưu Quang Hiệp và một số tác giả
khác đưa ra khái niệm: Giáo dục thể chất làm một quá trình sư phạm, nhằm
giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ hoàn thiện về thể chất và nhân cách, nâng cao
khả năng làm việc và kéo dài tuổi thọ của con người [52].
GDTC là một loại hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy học
vận động (động tác) và phát triển có chủ đích các tố chất vận động của con
người. Thuật ngữ “GDTC” có từ lâu trong ngôn ngữ nhiều nước. Riêng ở
nước ta, do bắt nguồn từ gốc Hán - Việt nên cũng có người gọi tắt GDTC là
thể dục theo nghĩa tương đối hẹp. Vì theo nghĩa rộng của từ Hán - Việt cũ, thể
dục còn có nghĩa là TDTT. Thông thường, người ta coi GDTC là một bộ phận
của TDTT. Nhưng chính xác hơn, đó còn là một trong những hình thức hoạt
động cơ bản có định hướng rõ của TDTT trong xã hội, một quá trình có tổ
chức để truyền thụ và tiếp thu những giá trị của TDTT trong hệ thống giáo
dục - giáo dưỡng chung (chủ yếu trong các nhà trường). Cũng như các hình
thức giáo dục khác, GDTC theo đặc trưng chung, cũng là một quá trình giáo
dục với đầy đủ những dấu hiệu chung của nó (vai trò chủ đạo của nhà giáo
dục trong quá trình dạy học, tổ chức hoạt động theo những nguyên tắc sư
phạm...). Nhưng đặc trưng cơ bản, chuyên biệt thứ nhất của GDTC là dạy học
vận động (qua các động tác). Nói rõ và đầy đủ hơn, đó là truyền thụ và tiếp
thu có hệ thống những cách thức điều khiển hợp lý sự vận động của con người
qua đó sẽ hình thành những kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản cần thiết và
những hiểu biết có liên quan. Đặc trưng cơ bản thứ hai của GDTC là sự tác
động có chủ đích đến sự phát triển theo định hướng các tố chất thể lực nhằm
nâng cao sức lực vận động của con người. Việc dạy học động tác và phát triển



24

các tố chất vận động có liên quan chặt chẽ, làm tiền đề cho nhau thậm chí có
thể “chuyển” lẫn nhau.
Liên quan với các khái niệm trên, sự hoàn thiện thể chất lại là mức tối
ưu của trình độ chuẩn bị thể lực toàn diện và phát triển thể chất cân đối, đáp
ứng đầy đủ những yêu cầu của lao động và những hoạt động cần thiết khác
trong đời sống, phát huy cao độ, đầy đủ những năng khiếu bẩm sinh về thể
chất của từng người phù hợp với những quy luật phát triển toàn diện nhân
cách và giữ gìn, nâng cao sức khoẻ để hoạt động tích cực, bền lâu và có hiệu
quả [52].
Trạng thái thể chất: chủ yếu nói về trạng thái cơ thể qua một số dấu
hiệu về thể trạng được xác định bằng các cách đo tương đôi đơn giản như
chiều cao, cân nặng, vòng ngực, chân, tay... trong một thời điểm nào đó [43 ].
Phát triển thể chất: là quá trình biến đổi và hình thành các tính chất tự
nhiên về hình thái và chức năng cơ thể trong đời sống tự nhiên và xã hội. Hay
nói cách khác, phát triển thể chất là một quá trình hình thành biến đổi tuần tự
theo quy luật trong cuộc đời từng người về hình thái, chức năng kể cả những
tố chất thể lực và năng lực vận động [43].
Phát triển thể chất phụ thuộc nhiều vào yếu tố tạo thành và sự biến đổi
của nó diễn ra theo quy luật di truyền và các quy luật phát triển sinh học tự
nhiên theo lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, phương pháp và biện pháp giáo
dục cũng như môi trường sống.
Hoàn thiện thể chất: Hoàn thiện thể chất là phát triển thể chất lên một
trình độ cao, nhằm đáp ứng một cách hợp lý các nhu cầu của hoạt động lao
động, xã hội, chiến đấu và kéo dài tuổi thọ sáng tạo của con người [33].
Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn cũng đưa ra khái niệm “Hoàn thiện
thể chất là mức tối ưu (tương đối), với một giai đoạn lịch sử nhất định của
trình độ chuẩn bị thể lực toàn diện và phát triển thể chất cân đối; đáp ứng đầy



25

đủ những yêu cầu của lao động và những hoạt động cần thiết khác của đời
sống; phát huy cao độ, đầy đủ những năng khiếu bẩm sinh về thể chất của
từng người; phù hợp với những quy luật pliát triển toàn diện nhân cách và giữ
gìn, nâng cao sức khỏe để hoạt động tích cực, lâu bền và có hiệu quả ” [44].
Để nhấn mạnh tới phương hướng, mục đích của giáo dục thể chất trong
trường đại học, chuẩn bị thể lực được Vũ Đức Thu khái niệm như sau:
“Chuẩn bị thể lực là một nội dung của quá trình giáo dục thể chất, đây ỉà hoạt
động chuyên môn hóa nhầm chuẩn bị thể lực cho con người học tập, lao động
và bảo về Tổ Quốc” [52].
1.3.1.3. Chất lượng GDTC
Chất lượng giáo dục luôn luôn là một vấn đề được toàn xã hội quan
tâm, bởi lẽ, đây là sự phản ánh giá trị đích thực của một nền giáo dục và là cơ
sở, tiền đề cho sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Tuy nhiên, khái
niệm “chất lượng” nói chung và “chất lượng giáo dục” nói riêng là những
khái niệm cơ bản, nhưng rất đa chiều, đa nghĩa, rất khó định danh chính xác
bởi nội dung của nó rất rộng. Vì vậy, đã có rất nhiều tác giả đề xuất các khái
niệm “chất lượng” khác nhau.
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng, “chất lượng” được hiểu là: "cái
làm nên phẩm chất, giá trị của sự vật" hoặc chất lượng được hiểu là "cái tạo
nên bản chất sự vật, làm cho sự vật này khác sự vật kia".
Bộ Tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế ISO.9000 đã xác định "chất
lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể, tạo cho thực thể đó có những
khả năng thoả mãn những nhu cầu đã được công bố hoặc còn tiềm ẩn".
Mục đích cuối cùng của giáo dục là nhằm phát triển cá nhân và đào tạo
nguồn nhân lực để kế thừa, cải tạo, phát triển chính xã hội đó. Do đó, nếu
đánh giá theo mục đích cuối cùng thì chất lượng giáo dục được giới hạn trong

phạm vi đánh giá sự phát triển của cá nhân sau mỗi quá trình học tập và sự


×