Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Tây Hồ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 98 trang )

1

Khóa luận tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU
Theo thống kê của Bộ kế hoạch và Đầu tư năm 2007, cả nước hiện nay
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) chiếm khoảng 96% trong tổng số
250000 doanh nghiệp. Với sự ra đời của Luật doanh nghiệp năm 1999 và
được sửa đổi bổ sung vào năm 2005, môi trường kinh doanh dần được cải
thiện, môi trường đầu tư thông thoáng đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc ra
đời và phát triển nhanh về số lượng doanh nghiệp. Vai trò của DNNVV ngày
càng thể hiện sự quan trọng trong nền kinh tế hội nhập, phát huy được khả
năng thu hút lao động và đóng góp GDP hàng năm trong nền kinh tế đất nước.
Bên cạnh những lợi thế đang được phát huy, DNNVV vẫn đang gặp không ít
khó khăn trong quá trình phát triển, đặc biệt là khó khăn về vốn. Vì vậy mà
các DNNVV luôn sẵn sàng hợp tác với các ngân hàng.
Nhận thức được rõ lợi ích từ cho vay đối với DNNVV, trong thời gian
qua các NHTM nói chung cũng như ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn Tây Hồ (NHNo Tây Hồ) nói riêng luôn coi các DNNVV là khách
hàng mục tiêu và đã có nhiều nỗ lực trong việc cung ứng vốn cho các
DNNVV. Tuy nhiên những biến động khó lường của thị trường nói chung, lãi
suất, tỷ giá hối đoái,…trên thị trường tài chính nói riêng đều có thể ảnh hưởng
tới chất lượng của hoạt động cho vay. Hơn nữa trong giai đoạn gần đây rủi ro
trong hoạt động cho vay có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho
vay đối với DNNVV.
Tối đa hóa lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu của ngân hàng. Vì vậy
bất cứ một hoạt động nào đều phải đảm bảo mục tiêu này. Do đó đi đôi với
việc mở rộng cho vay thì việc nâng cao chất lượng cho vay cũng cần được đặt
lên hàng đầu tại NHNo Tây Hồ.
Qua quá trình thực tập tại NHNo Tây Hồ, em thấy nâng cao chất lượng


Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

2

cho vay đối với DNNVV là một vấn đề cần được quan tâm hơn nữa. Vì vậy
em đã lựa chọn đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Tây Hồ” cho bài luận tốt nghiệp của mình.
Kết cấu của chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận gồm có 3 chương
Chương 1: Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp Tây Hồ.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp thôn Tây Hồ.

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


3

Khóa luận tốt nghiệp


CHƯƠNG 1
CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ
VÀ VỪA TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay tại ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử hình
thành và phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Quá trình phát triển kinh tế là
điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng và đến lượt mình, sự phát
triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ
vàng. Trong điều kiện lưu thông tiền kim loại (bạc hoặc vàng), các chủ cửa
hàng vừa đổi tiền, thanh toán hộ, vừa đúc tiền. Những ngân hàng này gọi là
ngân hàng của những thợ vàng. Nghề ngân hàng cũng được bắt đầu từ những
người cho vay nặng lãi. Một số người cho vay nặng lãi đã thực hiện cả nghiệp
vụ đổi tiền, giữ hộ và thanh toán hộ.
Như vậy có thể nói rằng hình thức ngân hàng đầu tiên là ngân hàng của
các thợ vàng, hoặc ngân hàng của những kẻ cho vay nặng lãi đã thực hiện cho
vay với các cá nhân, chủ yếu là những người giàu: quan lại, địa chủ…với mục
đích phục vụ tiêu dùng. Thậm chí nhiều chủ ngân hàng lớn còn mở rộng cho
vay đối với vua chúa, nhằm tài trợ một phần chi tiêu cho chiến tranh. Hình
thức cho vay chủ yếu là thấu chi, tức là cho phép khách hàng chi nhiều hơn số
tiền gửi tại ngân hàng, một hình thức cho vay nhiều rủi ro. Do lợi nhuận từ
hình thức cho vay này rất cao, nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng ưu thế của
chứng chỉ tiền (lưu thông thay vàng hoặc bạc), phát hành chứng chỉ tiền gửi
để khống chế cho vay. Thực trạng này đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B



Khóa luận tốt nghiệp

4

khả năng thanh toán và phá sản. Sự sụp đổ của các ngân hàng gây ra khó khăn
lớn cho hoạt động thanh toán, ảnh hưởng xấu tới hoạt động buôn bán. Hơn
nữa, lãi suất cao nên những nhà buôn không thể tiếp tục sử dụng nguồn vay
này. Trước tình hình đó nhiều nhà buôn đã đứng ra thành lập ngân hàng của
riêng mình, gọi nó là ngân hàng thương mại. Theo đó, ngân hàng thương mại
được hình thành xuất phát từ vận động của tư bản thương nghiệp, và gắn liền
với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp. Sự phá sản của nhiều
ngân hàng thương mại đã gây tổn thất lớn cho những người gửi tiền là nguyên
nhân dẫn đến hình thành ngân hàng tiền gửi. Ngân hàng này không cho vay,
chỉ thực hiện giữ hộ, thanh toán để lấy phí.
Hoạt động của ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh cùng với sự
phát triển kinh tế và công nghệ. Đầu tiên phải kể đến là sự đa dạng các loại
hình ngân hàng và hoạt động ngân hàng. Nhiều nghiệp vụ truyền thống vẫn
được giữ vững đồng thời rất nhiều nghiệp vụ mới đang ngày càng phát triển.
Ngân hàng thương mại xuất phát từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn đã mở rộng
sang cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản. Thậm chí
hầu hết các NHTM hiện nay còn mở rộng cho vay tiêu dùng, kinh doanh
chứng khoán, cho thuê…Bên cạnh đó các hình thức huy động tiền gửi cũng
được các ngân hàng chú trọng nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng.
Thanh toán điện tử đang ngày một chiếm ưu thế hơn so với hình thức thanh
toán thủ công về tốc độ, tính thuận tiện, an toàn trong thanh toán.
1.1.1.2. Khái niệm ngân hàng thương mại
NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, tự huy động vốn để cho
vay, hay nói cách khác là “đi vay để cho vay”, hưởng chênh lệch tỷ lệ lãi suất

(giữa tỷ lệ lãi suất huy động tiền gửi và lãi suất cho vay). Sự mô tả như thế
giúp hiểu được tính chất của NHTM, nhưng nó chưa đủ để định nghĩa NHTM
một cách trọn vẹn. Ngày nay, các nhà kinh tế nhận thấy có khó khăn trong

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

5

việc định nghĩa “Ngân hàng”, bởi vì quan niệm về ngân hàng thay đổi trong
không gian (tập quán, luật lệ của mỗi nước) và thời gian (theo đà tiến triển
kinh tế - xã hội).
Đã có một thời, NHTM huy động vốn bằng tiền mặt, cho vay bằng tiền
mặt, thu nợ bằng tiền mặt và trả tiền gửi bằng tiền mặt, người ta gọi nó là
NHTM cổ điển. Và khi các NHTM biết cách dùng công cụ để thay thế tiền
mặt để thanh toán qua ngân hàng chẳng hạn như séc, thì người ta gọi là
NHTM hiện đại.
Tóm lại, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh
tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai
trò mà chúng thể hiện trong nền kinh tế. Trên thực tế có rất nhiều tổ chức tài
chính, bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới
chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng
cung cấp dịch vụ mà ngân hàng đang cung cấp. Ngược lại, ngân hàng cũng
đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng)
bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới
chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực

hiện nhiều dịch vụ môi giới khác.
Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét ngân hàng trên phương
diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp:
“Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế”.1
Một số định nghĩa lại dựa trên các hoạt động chủ yếu của ngân hàng.
Chẳng hạn như trong Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ghi“ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

6

tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. 2
1.1.2. Cho vay tại ngân hàng thương mại
Khái niệm cho vay
“Cho vay là một hình thức cấp tín dụng theo đó tổ chức tín dụng giao
cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất
định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi”.3
Thời hạn nhất định ở đây được hiểu là thời hạn cho vay.
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt
đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được

thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
Các hình thức cho vay tại ngân hàng thương mại
Dựa vào thời hạn, có thể chia cho vay thành cho vay ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn.
 Cho vay ngắn hạn là các khoản cho vay có thời hạn cho vay đến 12
tháng
 Cho vay trung hạn là các khoản cho vay có thời hạn cho vay từ trên
12 tháng đến 60 tháng.
 Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 60
tháng trở lên.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng, cho vay được chia
làm 2 loại:
 Cho vay có bảo đảm
 Cho vay không có bảo đảm
Căn cứ vào phương thức cấp tín dụng, cho vay chia làm 2 loại:
 Cho vay trực tiếp

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

7

 Cho vay gián tiếp
Căn cứ vào mục đích, cho vay được chia ra thành các loại sau:
 Cho vay bất động sản
 Cho vay công nghiệp và thương mại

 Cho vay nông nghiệp
 Cho vay cá nhân
1.2. Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng
thương mại
1.2.1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tại mỗi quốc gia, mỗi khu vực khác nhau đều có những nét đặc thù riêng
về điều kiện kinh tế - xã hội, do vậy việc phân loại doanh nghiệp không thể
thống nhất giữa tất cả các quốc gia trên thế giới. Ở mỗi nước, người ta có tiêu
chí riêng để xác định DNNVV ở nước mình. Một doanh nghiệp được đặt
trong điều kiện kinh tế của nước mình thì được coi là DNNVV nhưng nếu đặt
trong điều kiện kinh tế của quốc gia khác thì có thể lại được coi là doanh
nghiệp lớn, hay thậm chí là doanh nghiệp siêu nhỏ. Và ngay cả giữa các thời
điểm khác nhau thì quan niệm về DNNVV cũng có sự thay đổi rõ rệt, nhiều
doanh nghiệp trong quá khứ được coi là doanh nghiệp lớn nhưng đến nay lại
chỉ được đánh giá là doanh nghiệp có qui mô vừa. Chính vì những lý do trên
mà mỗi khi nói đến DNNVV thì ta phải đặt chúng trong quốc gia nào? Trong
điều kiện kinh tế như thế nào? Tại thời điểm nào? Nói một cách khác đi, khái
niệm về DNNVV chỉ có ý nghĩa trong phạm vi một quốc gia và tại một thời
điểm nhất định. Tuy nhiên việc đưa ra một khái niệm về DNNVV cho riêng
mình lại có vai trò quan trọng trong việc đưa ra chiến lược phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia. Thực tế cho thấy rằng một quốc gia có một khái niệm rõ
ràng về DNNVV thì chính sách hỗ trợ cho nhóm doanh nghiệp này sẽ có hiệu

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp


8

quả hơn.
Khi tiếp cận khái niệm về DNNVV thường dựa trên các nhóm chỉ tiêu
định tính và định lượng song các chỉ tiêu định lượng vẫn đóng vai trò quyết
định để phân biệt nhóm doanh nghiệp này với nhóm doanh nghiệp lớn.
Có ba chỉ tiêu định lượng sau đây thường được dùng độc lập hoặc kết
hợp với nhau để xác định tính chất nhỏ và vừa của doanh nghiệp:
Thứ nhất, lượng vốn đầu tư vào máy móc, dây chuyền sản xuất.
Thứ hai, số lượng lao động.
Thứ ba, qui mô sản xuất hoặc doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Xét về mặt định tính, các chỉ tiêu được xem xét là cơ cấu công ty, số
lượng người quản lý, người ra quyết định chính, ngành nghề kinh doanh,…
Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới việc phân loại DNNVV không hề
liên quan đến hình thức sở hữu cũng như tư cách pháp nhân của doanh
nghiệp, điều đó có nghĩa là khái niệm sẽ được áp dụng cho tất cả các loại hình
doanh nghiệp như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp
danh, công ty liên doanh, hộ kinh doanh…
Dưới đây là khái niệm về DNNVV của một số quốc gia trên thế giới:
Tại Nhật Bản: Tiêu chí để xác định DNNVV được quy định trong “Luật
cơ bản về DNNVV” như sau:
 Đối với các ngành sản xuất, các doanh nghiệp có số nhân viên thường
xuyên dưới 300 người hoặc số vốn kinh doanh dưới 100 triệu Yên thì
được xem là DNNVV.
 Đối với ngành bán buôn, các doanh nghiệp có số nhân viên thường
xuyên dưới 100 người hoặc số vốn kinh doanh dưới 30 triệu Yên thì
được coi là DNNVV.
 Đối với ngành bán lẻ hoặc dịch vụ, các doanh nghiệp có số nhân viên
dưới 50 người hoặc số vốn kinh doanh dưới 10 triệu Yên thì được coi

là DNNVV.

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

9

Tại Philipin: DNNVV được chia ra làm 4 cấp: cấp kinh doanh nhỏ, hộ
kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Tiêu chí mà Philipin lựa
chọn để phân loại là giá trị tổng tài sản, trong đó bao gồm cả những khoản nợ,
những loại trừ giá trị đất đai dùng để xây dựng công sở và lắp đặt máy móc.
Bảng 1.1: DNNVV tại Philipin phân chia theo tổng tài sản
Quy mô

Tổng tài sản

Kinh doanh nhỏ

Không vượt quá 150.000 Pêxo

Hộ kinh doanh

Trong khoảng 150.000 Pêxo đến 1,5tr. Pêxo

Doanh nghiệp nhỏ


Trong khoảng 1,5tr. Pêxo đến 15tr. Pêxo

Doanh nghiệp vừa

Trong khoảng 15tr. Pêxo đến 60tr. Pêxo

Theo tiêu chí của ngân hàng thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh
nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao
động từ 10 đến 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động.
Ở Việt Nam, theo nghị định số 90/2001/NĐ – CP ngày 23/11/2001 về trợ
giúp phát triển DNNVV quy định: “ DNNVV là các cơ sở sản xuất kinh
doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn
đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không
quá 300 người”.
Đây là văn bản pháp luật đầu tiên chính thức quy định về DNNVV. Nghị định
cũng cho phép căn cứ vào tình hình cụ thể của ngành, địa phương có thể linh hoạt
áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu trên hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên.
Theo đó các DNNVV theo pháp luật hiện hành bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đã đăng ký kinh doanh theo nghị định số

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp


10

02/2000/NĐ – CP ngày 03/02/2000
Ở Việt Nam, tính từ năm 2000 đến năm 2006, cả nước có 207034 doanh
nghiệp dân doanh (chủ yếu là các DNNVV) đăng ký kinh doanh thành lập
mới với tổng số vốn đăng ký đạt hơn 466 nghìn tỷ đồng.4
Mặc dù khái niệm về DNNVV khác nhau tại mỗi quốc gia nhưng chúng ta
vẫn có thể kết luận rằng thuật ngữ DNNVV là hàm ý nói tới một tập hợp các
thực thể kinh tế có quy mô vừa và nhỏ xét trên phương diện vốn và lao động so
với mặt bằng phát triển chung của nền kinh tế tại mỗi quốc gia nhất định.
Một vấn đề đặt ra là nhóm doanh nghiệp này có những đặc điểm gì khác
biệt mà nhờ nó chúng trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế, đồng thời thu hút rất nhiều sự quan tâm đặc biệt của mọi
quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế.
1.2.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tại Nhật Bản, DNNVV chiếm hơn 90% trong tổng số các doanh nghiệp,
chiếm hơn 70% nguồn lao động. Tại Mê Hi Cô DNNVV chiếm tới 98%, cung
cấp 64% tổng việc làm, tạo ra 42% trong GDP; tại Việt Nam DNNVV chiếm
trên 95% tổng số doanh nghiệp hiện có trên cả nước, các DNNVV đang hoạt
động trong môi trường kinh tế chưa hoàn toàn thuận lợi cả về mặt vi mô và vĩ
mô. Trong đó gặp nhiều khó khăn về công nghệ sản xuất kinh doanh, mô hình
quản lý, trình độ, kỹ năng của đội ngũ lãnh đạo và tay nghề của người lao
động, phương thức tiếp thị sản phẩm, đặc biệt là sự hạn chế về tiếp cận thị
trường và dịch vụ tài chính, vốn đầu tư…
Khu vực DNNVV hiện nay đang gặp phải rất nhiều khó khăn về vốn. Đa
phần các DNNVV có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ lại luôn trong tình
trạng thiếu vốn, “khát vốn” cho mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đầu tư
cải tiến máy móc, trang thiết bị mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…
Tuy nhiên theo khảo sát của 48 ngân hàng từ 14 nền kinh tế có 38% ngân


Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

11

hàng coi DNNVV quan trọng hơn các doanh nghiệp lớn, 47% coi DNNVV và
các doanh nghiệp lớn có tầm quan trọng như nhau và chỉ có 15% coi doanh
nghiệp lớn có vai trò quan trọng hơn DNNVV. Với nhiều khó khăn đòi hỏi
DNNVV phải vượt qua và vươn lên để có thể tồn tại và đứng vững trên thị
trường đã tạo ra cho nhóm doanh nghiệp này những đặc điểm nổi bật của
riêng mình:
Thứ nhất, hoạt động kinh doanh của các DNNVV rất năng động, linh hoạt

Các chủ doanh nghiệp không ngừng tìm kiếm lĩnh vực mà ở đó sự cạnh
tranh chưa cao, song lại đem lại lợi nhuận nhanh chóng. Bên cạnh đó nhóm
doanh nghiệp này có thể dễ dàng thay đổi ngành nghề kinh doanh với chi phí
thấp do lượng vốn bỏ ra không nhiều.
Về ngành nghề kinh doanh
Với nhiều hạn chế về nguồn vốn và chất lượng nguồn nhân lực nên có
rất nhiều lĩnh vực mà các DNNVV không thể tham gia như các ngành luyện
kim, khai thác mỏ, ngân hàng tài chính,…Vì vậy lĩnh vực kinh doanh của
nhóm doanh nghiệp này thường là các ngành công nghiệp nhẹ như:may mặc,
giày dép, hải sản đông lạnh, đồ gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ , sản xuất bao bì,
đóng gói …Lĩnh vực dịch vụ được các DNNVV chú trọng là vận tải nội hành,
vui chơi giải trí, dịch vụ ăn uống, chăm sóc khách hàng…Ngoài ra thương
mại cũng là một trong những thế mạnh của DNNVV như: xuất khẩu gạo, thu

mua nguyên vật liệu trong và ngoài nước, đại diện bán hàng, tham gia vào các
kênh phân phối sản phẩm…
Về chu kỳ kinh doanh
Chu kỳ kinh doanh của các doanh nghiệp thường diễn biến theo mùa.
Việc lập chiến lược phát triển dài hạn của các doanh nghiệp này thường
không được chú trọng và không rõ ràng.
Về thị trường và mức độ cạnh tranh

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

12

Thị trường của các DNNVV chủ yếu là phục vụ các doanh nghiệp lớn,
cung cấp nguyên vật liệu, làm đại lý bán hàng, kênh phân phối, hoặc những
đoạn thị trường còn bỏ ngỏ với quy mô nhỏ và độ sâu hạn chế. Những thị
trường này chứa đựng nhiều rủi ro và không ổn định khiến hoạt động của
DNNVV bấp bênh, không ổn định. Do đó sự cạnh tranh ngày càng trở nên
gay gắt hơn, mà đối thủ cạnh tranh lớn nhất ở đây không phải là các doanh
nghiệp lớn mà lại là chính các doanh nghiệp có cùng qui mô. Nguyên nhân là
do các doanh nghiệp lớn thường có thị trường ổn định, với nhóm khách hàng
mục tiêu được xác định trước. Khi có ý định mở rộng thị trường các doanh
nghiệp lớn thường tìm kiếm những thị trường có quy mô lớn, có chiều sâu.
Trong khi đó các DNNVV, số lượng đông đảo, có mục đích tương tự nhau là
tìm kiếm những thị trường còn bỏ ngỏ. Còn hình thức cạnh tranh mà các
DNNVV thường dùng là cạnh tranh về giá cả.

Thứ hai, DNNVV tạo điều kiện duy trì tự do cạnh tranh
Khác với những doanh nghiệp lớn đòi hỏi một thị trường lớn, thậm chí
là cần tới sự bảo hộ của Chính phủ và có sự độc quyền, các DNNVV hoạt
động với số lượng đông đảo dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh,
thường không có tình trạng độc quyền. Mặt khác, DNNVV cũng có tính tự
chủ cao hơn so với các doanh nghiệp lớn, sẵn sàng khai thác triệt để các cơ
hội phát triển mà không ngại rủi ro. Chính điều đó là động lực thúc đẩy nền
kinh tế phát triển năng động hơn, khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước.
Đây là một ưu thế rất quan trọng của DNNVV.
Thứ ba, DNNVV có thể phát huy được tiềm lực trong nước.
Thành công của DNNVV là nắm được những điều kiện cụ thể của đất
nước về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động. Đối với doanh nghiệp lớn,
việc sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương gặp rất nhiều khó khăn
do lượng dự trữ thấp. Ngược lại, các DNNVV có lợi thế trong việc sử dụng

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

13

lao động dồi dào tại địa phương và tận dụng các tài nguyên, tư liệu sản xuất
sẵn có, phát huy được tiềm lực trong nước cho sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, DNNVV góp phần tạo lập sự phát triển cân bằng giữa các
vùng trong một quốc gia.
Do được tạo lập một cách dễ dàng, DNNVV có thể phát triển rộng rãi ở
vùng lãnh thổ và tạo ra những sản phẩm phong phú, đồng thời tạo ra sự phát

triển cân bằng giữa các vùng lãnh thổ trong mỗi nước. Đặc biệt là các
DNNVV có thể có mặt ở khắp mọi miền đất nước, kể cả nông thôn hay miền
núi, những nơi thưa dân, kinh tế chưa phát triển. Theo đó các DNNVV cung
cấp hàng hóa và dịch vụ cho cư dân địa phương và những vùng phụ cận. Trên
thực tế các DNNVV cung ứng sản phẩm tại chỗ với khoảng 95% sản phẩm
tiêu thụ nội địa, mà chủ yếu là tiêu trong vùng, khoảng 5% sản phẩm dành
cho xuất khẩu. Do đó nhóm doanh nghiệp này đã góp phần đắc lực cho sự
tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước.
Không chỉ dừng lại ở đó DNNVV còn góp phần vào việc giải quyết các
vấn đề xã hội như giải quyết nạn thất nghiệp, góp phần tăng thu nhập cho
người lao động, cải thiện đời sống và xóa dần những khoảng cách về thu
nhập, mức sống giữa khu vực thành thị và nông thôn.
Mặc dù có nhiều lợi thế song các DNNVV của Việt Nam vẫn còn tồn tại
không ít những khó khăn, hạn chế:
Thứ nhất, theo nhiều chuyên gia kinh tế nhận xét, với quy mô nhỏ,
phần lớn mới được thành lập trong vòng gần chục năm trở lại đây, nhất là
sau khi có Luật Doanh nghiệp ra đời nên DNNVV còn ít kinh nghiệm kinh
doanh, chi phí kinh doanh cao. Thêm vào đó là năng suất lao động thấp,
năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và quản lý ở các
DNNVV còn yếu. Để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao
độ như hiện nay, các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ,

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

14


máy móc, thiết bị, các phương pháp, bí quyết sản xuất. Thế nhưng công nghệ
được sử dụng trong các DNNVV Việt Nam được đánh giá là lạc hậu. Do ảnh
hưởng của tư duy sản xuất nhỏ và một phần là do thiếu vốn nên rất nhiều
DNNVV đầu tư từng giọt, làm từng phần, mỗi năm mua thêm một số máy
móc, thiết bị, vừa làm vừa cải tiến. Điều đó làm cho công nghệ được sử dụng
trong các doanh nghiệp này trở thành mớ hỗn độn, chắp vá dẫn đến hạn chế
khả năng sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm, hạn chế năng suất, chất lượng sản
phẩm, làm tăng chi phí sản xuất.
Thứ hai, khó khăn lớn nhất, bức xúc nhất của các DNNVV hiện nay
vẫn là thiếu vốn bởi năng lực vốn nội tại của các doanh nghiệp này còn
hạn chế (số vốn của các DNNVV còn rất thấp). Theo ông Cao Sỹ Khiêm,
Chủ tịch hiệp hội DNNVV thì “ở nhiều nước khác, doanh nghiệp ra đời bao
giờ vốn tự có cũng là chính, vay ngân hàng chỉ là bổ sung nên phát triển rất
vững chắc. Còn ở Việt Nam doanh nghiệp ra đời với vốn điều lệ ít hoạt động
sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn vay” 5. Qua khảo sát điều tra hơn 63
nghìn doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phía bắc thì có khoảng 50% doanh
nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng, gần 75% doanh nghiệp có vốn dưới 2 tỷ đồng
và có tới 90% doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng 6. Đa phần các DNNVV có
quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ lại luôn trong tình trạng thiếu vốn, “khát
vốn” cho mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, đầu tư cải tiến máy móc, trang
thiết bị mới. Điều đó cho thấy nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh
của các DNNVV là rất lớn. Về lý thuyết với số lượng DNNVV đông đảo như
vậy với đặc thù vốn ít chính là đối tượng khách hàng đầy tiềm năng của các
ngân hàng. Bằng chứng là ước tính có đến 80% lượng vốn cung ứng cho
DNNVV là từ kênh ngân hàng.
1.2.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với mỗi quốc gia
Thực tế nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam, DNNVV đã

Lê Thị Linh Chi


Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

15

có nhiều đóng góp rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia.
 DNNVV đóng góp quan trọng vào GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Các DNNVV được đánh giá là bộ phận năng động, hoạt động có hiệu quả
của nền kinh tế. Mức độ đóng góp của DNNVV vào nền kinh tế ngày càng
lớn. Các DNNVV đang trở thành bộ phận quan trọng đóng góp đáng kể vào
nền nền kinh tế. DNNVV đóng góp hơn 40% GDP, luôn duy trì tốc độ tăng
trưởng trên 18%, đóng góp khoảng 14.8% tổng thu ngân sách nhà nước. Đây
là bộ phận có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, là vệ tinh gắn kết, hỗ trợ thúc đẩy phát triển của các doanh
nghiệp lớn trong nền kinh tế. Ngoài ra tốc độ tăng trưởng sản xuất của khu
vực DNNVV cũng thường cao hơn so với các khu vực doanh nghiệp khác.
Phát triển DNNVV đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất coi trọng,
được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của nước ta.
Ở những nước khác DNNVV cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng
trong nền kinh tế. Ngay như ở Mỹ, một đất nước mà ở đó có những cái tên
như Microsoft, IBM hay Ford nổi tiếng toàn cầu - các doanh nghiệp vừa và
nhỏ vẫn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Điều này thể hiện ở con số 40%
GDP của nước Mỹ là nhờ sự đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực
này. Những doanh nghiệp lớn như Boeing hay Microsoft cũng không thể hoạt
động đơn lẻ mà phải có sự hợp tác với các công ty có quy mô vừa và nhỏ.

 DNNVV góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Việc nhiều doanh nghiệp, chủ yếu là các DNNVV được thành lập tại các
vùng nông thôn, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa sẽ làm giảm tỷ trọng
ngành nông nghiệp và tăng trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Điều này sẽ
giúp cho việc chuyển dịch cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế theo hướng giảm tỷ

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

16

trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Mặt
khác, DNNVV luôn tạo ra một khối lượng lớn công việc, tạo thu nhập cho
người lao động, nhất là những lao động thủ công trong nền kinh tế. DNNVV
đã và đang thu hút được nhiều lao động ở thành thị và nông thôn. Theo ước
tính DNNVV tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn,
chiếm khoảng 25% đến 26% lực lượng lao động của cả nước. Mỗi năm nhóm
doanh nghiệp này thu hút khoảng 45 vạn lao động mới với thu nhập bình quân
1.07 triệu đồng/tháng.7
 DNNVV tham gia tích cực vào hoạt động xuất khẩu
Trong những năm qua, thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta về
mở rộng và khuyến khích thương mại quốc tế, tạo điều kiện cho mọi thành
phần kinh tế tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, DNNVV nhất là các doanh
nghiệp kinh doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản, thủy sản
đã năng động đầu tư vào các ngành nghề có nhiều lợi thế, chủ động tìm kiếm
và khai thác thị trường quốc tế, qua đó góp phần tích cực tăng kim ngạch xuất

khẩu, thu ngoại tệ cho đất nước.
 Các DNNVV bước đầu tham gia vào quá trình hình thành mối liên kết
với các doanh nghiệp lớn.
Trong thời gian qua, các DNNVV đã có quan hệ liên kết với các doanh
nghiệp lớn trong việc cung ứng nguyên vật liệu, thực hiện các hợp đồng phụ,
…Một doanh nghiệp lớn để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình thường phải có mạng lưới các nhà cung cấp và phân phối sản phẩm.
Thực hiện công việc này không ai khác chính là những DNNVV. Có thể nói
đây là quan hệ hỗ trợ lẫn nhau: các doanh nghiệp lớn đảm bảo vững chắc cho
các DNNVV về thị trường tài chính, công nghệ, tiêu chuẩn kỹ thuật và kinh
nghiệm quản lý. Đến lượt các DNNVV lại hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn về
công nghiệp bổ trợ, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm.

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

17

1.2.2. Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng
thương mại
1.2.2.1.Khái niệm cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng
thương mại
Cho vay khách hàng doanh nghiệp là loại cho vay chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong hoạt động cho vay tại các NHTM, chiếm khoảng 70% hoạt động
cho vay của ngân hàng. Điều đó không chỉ đúng với những nước đang phát
triển mà còn đúng với những nước có thị trường tài chính rất phát triển. Mỹ là

một ví dụ điển hình, với thị trường chứng khoán phát triển vào loại bậc nhất
thế giới, các doanh nghiệp có thể vay vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ
phiếu nhưng theo số liệu thống kê cho thấy vốn vay từ ngân hàng vẫn chiếm
một tỷ trọng lớn trong tổng vốn vay của các doanh nghiệp.
Cho vay đối với DNNVV tại NHTM là một hình thức cấp tín dụng theo
đó NHTM giao cho DNNVV một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích
nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
1.2.2.2. Các phương thức cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
ngân hàng thương mại
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp cần đầu tư vốn vào tài sản lưu
động và tài sản cố định. Doanh nghiệp hoàn toàn có thể sử dụng cả nguồn vốn
ngắn hạn và dài hạn để tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động. Tuy nhiên do
vốn đầu tư vào tài sản cố đinh là rất lớn nên thông thường doanh nghiệp khó có
thể sử dụng nguồn vốn dài hạn để đầu tư vào tài sản lưu động. Về nguyên tắc,
doanh nghiệp nên tận dụng và huy động tất cả các nguồn vốn ngắn hạn mà
doanh nghiệp có thể tận dụng được. Khi nào thiếu hụt, doanh nghiệp có thể sử
dụng nguồn tài trợ ngắn hạn của ngân hàng. Căn cứ vào nhu cầu tài trợ ngắn hạn

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

18

của doanh nghiệp có thể chia thành: nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên và
nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời vụ. Nhu cầu tài trợ thường xuyên do đặc điểm luân
chuyển vốn của doanh nghiệp quyết định trong khi nhu cầu tài trợ thời vụ do đặc

điểm thời vụ của ngành sản xuất kinh doanh quyết định.
Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp có nhu cầu tài trợ ngắn hạn,
thường xuyên hoặc thời vụ từ phía ngân hàng. Chính nhu cầu tài trợ này là cơ
sở để ngân hàng thực hiện cấp tín dụng cho doanh nghiệp. Điều này có lợi cho
cả hai phía, DNNVV và ngân hàng. Về phía các DNNVV, việc cấp tín dụng
của ngân hàng giúp doanh nghiệp bổ sung vốn thiếu hụt đảm bảo cho DNNVV
có thể duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Về phía
ngân hàng, việc cấp tín dụng cho DNNVV giúp ngân hàng có thể “tiêu thụ
được sản phẩm” của mình góp phần mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
 Phương thức cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Có nhiều phương thức cho vay, nhưng cho vay ngắn hạn đối với các doanh
nghiệp các ngân hàng thương mại thường thoả thuận với khách hàng áp dụng
một trong hai phương thức cho vay phổ biến hiện nay là:
Cho vay từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng
đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều
kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở
hữu là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới
vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn
nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh
Đặc điểm của phương thức cho vay từng lần là mỗi lần khách hàng vay
món nào thì phải làm hồ sơ vay món đó. Vì vậy, đôi khi phương thức cho vay
này còn được gọi là cho vay theo món. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và
kí hợp đồng cho vay, xác định qui mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả
nợ, lãi suất và yêu cầu bảo đảm nếu cần. Nghiệp vụ cho vay từng lần có ưu

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B



Khóa luận tốt nghiệp

19

điểm là: thủ tục tương đối đơn giản; Khách hàng chủ động được nguồn vốn
vay; Lãi vay trả cho ngân hàng thấp và ngân hàng có thể kiểm soát từng món
vay tách biệt. Tuy nhiên nhược điểm của loại cho vay này là ngân hàng dễ bị
đọng vốn kinh doanh, thu nhập từ lãi cho vay thấp
Cho vay theo hạn mức tín dụng là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân
hàng thỏa thuận cấp tín dụng cho khách hàng hạn mức tín dụng (là mức dư nợ
cho vay tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất định mà ngân hàng và
khách hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng).
Hạn mức tín dụng có thể được tính cho cả kì hoặc cuối kỳ. Hạn mức tín
dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu
vay vốn của khách hàng. Trong kì khách hàng có thể vay trả nhiều lần, song mức
dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng
quy định hạn mức cuối kì, do đó dư nợ trong kì có thể lớn hơn hạn mức.
Đặc điểm cơ bản của phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng là
khách hàng chỉ cần lập một bộ hồ sơ vay vào đầu kỳ kế hoạch có thể sử dụng
cho nhiều món vay.
Khác với loại cho vay từng lần là ngân hàng không xác định kỳ hạn nợ
cho từng món vay mà chỉ khống chế theo mức tín dụng nghĩa là tại một thời
điểm nào đó nếu dư nợ vay của khách hàng lên đến mức tối đa cho phép, thì
khi đó ngân hàng sẽ không phát tiền vay cho khách hàng.
 Các phương thức cho vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp nhỏ
và vừa
Mục đích của cho vay trung và dài hạn có thể xem xét trên hai góc độ:
doanh nghiệp và ngân hàng. Doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn trung và dài
hạn nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định và đầu tư vào một phần
tài sản lưu động thường xuyên.


Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

20

Để vay vốn trung và dài hạn của ngân hàng, doanh nghiệp phải lập và nộp
bộ hồ sơ vay vốn. Hồ sơ vay vốn cũng tương tự như hồ sơ vay vốn ngắn hạn
chỉ khác ở chỗ là doanh nghiệp phải lập và nộp cho ngân hàng dự án đầu tư
vốn dài hạn, thay cho gửi tới ngân hàng phương án sản xuất kinh doanh hoặc
vay vốn như khi vay ngắn hạn. Dựa vào mục đích cho vay ngân hàng có thể
cho doanh nghiệp vay vốn dài hạn để đầu tư mua sắm tài sản cố định như máy
móc thiết bị hoặc cho doanh nghiệp vay vốn dài hạn đầu tư vào một dự án đầu
tư. Các phương thức cho vay dài hạn có thể là:
Cho vay mua sắm máy móc thiết bị: Doanh nghiệp có nhu cầu tín dụng
trung và dài hạn để mua sắm thiết bị, cải tiến kỹ thuật, mua công nghệ. Với sự
phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, để tồn tại và phát triển,
nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng cao.
Cho vay đầu tư dự án: khi doanh nghiệp có nhu cầu mua sắm, xây
dựng tài sản cố định…nhằm thực hiện dự án nhất định, có thể xin vay ngân
hàng. Một trong những yêu cầu của ngân hàng là doanh nghiệp phải xây dựng
dự án. Và thẩm định dự án là điều kiện để ngân hàng quyết định phần vốn cho
vay và xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp. Dự án được xây dựng
gồm nhiều mục như phân tích thị trường, nguồn nhân lực, địa điểm, công
nghệ, qui trình sản xuất, phân tích tài chính,…trong đó phân tích tài chính là
mục tiêu quan tâm hàng đầu của ngân hàng.

1.3. Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng
thương mại
1.3.1. Khái niệm chất lượng cho vay đối với DNNVV
Như đã trình bày ở trên, cho vay khách hàng doanh nghiệp là loại cho vay
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động cho vay tại các NHTM. Nó cũng là
hoạt động phức tạp và nhiều rủi ro nhất. Hiệu quả của hoạt động cho vay

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

21

được thể hiện bởi chất lượng hoạt động cho vay.
Chất lượng cho vay được hiểu là sự đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu về
vốn cho DNNVV và được doanh nghiệp đưa vào quá trình sản xuất kinh
doanh một cách có hiệu quả nhất, có thể tạo ra được lượng tiền lớn hơn để
chi trả đủ chi phí, có lợi nhuận và hoàn trả nợ đầy đủ cho ngân hàng cả gốc
và lãi đúng hạn.
Chất lượng cho vay được thể hiện ở chất lượng của từng khoản vay khác
nhau. Mỗi khoản vay có chất lượng sẽ góp phần tạo nên chất lượng chung của
hoạt động cho vay của mỗi NHTM.
Chất lượng cho vay không chỉ có lợi ích của NHTM mà nó còn bao hàm
cả lợi ích của khách hàng và cả nền kinh tế.
Đứng trên khía cạnh lợi ích của khách hàng thì chất lượng cho vay là sự
đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng với lãi suất, kỳ hạn cho vay hợp lý,
thủ tục đơn giản. Còn đối với ngân hàng, chất lượng cho vay thể hiện ở phạm

vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng của bản thân mỗi
ngân hàng mà vẫn đảm bảo được lợi nhuận, từ đó có thể nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình trên thị trường. Đối với nền kinh tế, chất lượng cho vay
phải góp phần tạo ra các hiệu quả xã hội như phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo
việc làm cho người lao động, gia tăng sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và khai thác khả năng tiềm ẩn trong nền kinh tế.
1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng cho vay đối với DNNVV tại
NHTM
 Đối với NHTM
Xuất phát từ đặc điểm của DNNVV là vốn tự có ít, trang thiết bị công
nghệ lạc hậu, trình độ lao động thấp,…do vậy cần một khối lượng vốn ban
đầu đủ lớn để tiến hành các hoạt động đầu tư. DNNVV chính là một thị

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

22

trường tiềm năng đối với hoạt động cho vay của các NHTM. Các NHTM với
tư cách là một trung gian tài chính trong nền kinh tế, hoạt động vì mục tiêu lợi
nhuận, và để đạt được điều đó thì ngân hàng phải chủ động tìm kiếm khoản
cho vay có khả năng sinh lời cao, rủi ro thấp. Trong hoạt động tài trợ vốn cho
doanh nghiệp, các khoản vay thường lớn và chênh lệch giữa thu nhập - chi phí
của nó ngày càng nhỏ do sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, vì thế, chỉ
cần một số ít khoản cho vay không thu được sẽ làm cho toàn bộ lợi nhuận của
ngân hàng bị mất và họ phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Nhờ việc nâng cao

chất lượng cho vay một mặt ngân hàng vẫn bảo toàn được nguồn vốn của
mình, đảm bảo khả năng sinh lời, đảm bảo được an toàn, nâng cao uy tín ngân
hàng, bảo vệ quyền lợi của khách hàng. Từ đó có thể huy động được nguồn
vốn nhàn rỗi một cách thuận lợi hơn tạo tiền đề cho việc nâng cao chất lượng
cho vay.
 Đối với các DNNVV
DNNVV ngày càng đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội.
DNNVV luôn mong muốn huy động được nguồn vốn cần thiết một cách
nhanh chóng, chi phí thấp để thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của
mình. Nâng cao chất lượng cho vay cũng là mong muốn của các DNNVV.
Một khoản cho vay phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng, với lãi
suất kỳ hạn hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho DNNVV phát triển sản xuất
kinh doanh hiệu quả. Do đó việc nâng cao chất lượng cho vay là động lực
thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn, nâng cao khả năng hạch
toán kinh doanh, khả năng tổ chức sản xuất, tạo động lực tìm kiếm đầu ra,
kinh doanh có lãi, nâng cao hiệu quả sử dụng khoản vay. Ngân hàng cũng vì
thế mà thu nợ dễ dàng, đúng hạn.
 Đối với nền kinh tế
Hoạt động tín dụng nói chung mà phần lớn là cho vay phục vụ sản xuất

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

23

lưu thông hàng hóa, góp phần giải quyết việc làm, khai thác được khả năng

tiềm tàng của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải
quyết tốt mối quan hệ tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Nâng cao chất lượng cho vay đối với DNNVV đem lại lợi ích cho cả
NHTM, DNNVV tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Tuy
nhiên để đánh giá xem chất lượng cho vay đối với DNNVV như thế nào cần
phải căn cứ vào một số chỉ tiêu trình bày ở phần dưới đây.
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ
và vừa tại ngân hàng thương mại
1.3.3.1. Chỉ tiêu định tính
Sự thoả mãn nhu cầu của khách hàng: Chất lượng tín dụng được thể
hiện ở khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho các DNNVV, điều này biểu hiện
bằng việc các DNNVV có được đáp ứng một cách kịp thời, nhanh chóng hay
không? Mỗi doanh nghiệp khác nhau lại có nhu cầu về vốn, thời hạn vay,
phương thức vay khác nhau. Do vậy ngân hàng cần đưa ra được các phương
thức vay đa dạng và phù hợp với từng loại nhu cầu của DNNVV với một quy
trình cho vay khoa học, chi tiết nhưng nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian,
chi phí.
Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của ngành và đất nước: hoạt
động cho vay của ngân hàng đối với DNNVV phải góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế của ngành và đất nước. Khi ngân hàng cho các DNNVV với
mục đích sử dụng vốn vay để phát triển, mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh, nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu
nhập cho người lao động, giải quyết tình trạng thất nghiệp.
1.3.3.2. Nhóm chỉ tiêu định lượng
 Chỉ tiêu hệ số sử dụng vốn vay
Dư nợ đối với DNNVV

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B



Khóa luận tốt nghiệp

24

Tổng nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu này phản ánh cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng. Nếu như hệ số
này càng cao thì chứng tỏ khả năng sử dụng vốn vay của ngân hàng càng tốt.
Dư nợ cho vay phản ánh số vốn mà ngân hàng đã cho các DNNVV vay tại
một thời điểm nhất định. Dư nợ cho vay cho biết khả năng mở rộng cho vay
của ngân hàng.
Tổng nguồn vốn huy động là số tiền mà ngân hàng huy động được từ
nguồn tiền gửi của khách hàng (tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán,…) và
của các tổ chức tín dụng khác.
 Chỉ tiêu Vòng quay vốn vay
Doanh số thu nợ DNNVV
Dư nợ bình quân DNNVV
Doanh số thu nợ cho vay phản ánh số vốn mà các DNNVV đã hoàn trả
ngân hàng trong một thời kỳ nhất định. Doanh số thu nợ cho vay phản ánh hai
khả năng có thể xảy ra, khả năng thứ nhất là khách hàng hoàn trả vốn vay cho
ngân hàng đúng hạn do hoạt động sản xuất kinh doanh (dự án) đạt hiệu quả,
khả năng thứ hai là do ngân hàng tăng khoản thu nợ quá hạn, thu hồi nợ sớm
do có dấu hiệu không lành mạnh biểu hiện ở phía khách hàng.
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thu hồi nợ của ngân hàng theo kế hoạch
trong hợp đồng tín dụng ở mức nào. Nếu chỉ tiêu này lớn chứng tỏ ngân hàng
thu hồi được vốn, hoạt động cho vay có hiệu quả. Ngược lại, chỉ tiêu này lại
báo động cho ngân hàng về những bất ổn có thể xảy ra trong quá trình thu hồi
vốn. Thông qua đó ngân hàng sớm có biện pháp nhắc nhở, đôn đốc khách
hàng, kịp thời hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Đây cũng là căn cứ để đưa ra quyết

định có cho vay trong những lần tiếp theo hay không?
 Chỉ tiêu nợ quá hạn
Nợ quá hạn DNNVV

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


Khóa luận tốt nghiệp

25

Dư nợ cho vay DNNVV
Nợ quá hạn là khoản nợ mà doanh nghiệp không trả được khi đã đến hạn
thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.
Nếu tỷ lệ này cao thì chứng tỏ chất lượng của cho vay thấp và ngược lại.
Theo quy định của NHNN, các ngân hàng có nợ quá hạn/tổng dư nợ lớn hơn
7% được xem là ngân hàng yếu kém. Nếu chỉ tiêu này nhỏ hơn 5% thì ngân
hàng đó được đánh giá là có nghiệp vụ tín dụng tốt, chất lượng cho vay cao.
 Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn vay
Lợi nhuận từ cho vay DNNVV
Tổng dư nợ cho vay DNNVV bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của các khoản cho vay. Lợi nhuận
ở đây được hiểu là sự chênh lệch giữa chi phí huy động vốn để cho vay
DNNVV và lãi thu được từ việc cho vay đối với DNNVV. Chỉ tiêu này đặc
biệt có ý nghĩa quan trọng đối với các ngân hàng thương mại vì lợi nhuận mà
ngân hàng thu được chủ yếu là từ cho vay. Tỷ số này cao chứng tỏ hoạt động
cho vay đối với DNNVV đạt hiệu quả cao tại ngân hàng và ngược lại.
 Hiệu quả quản lý chi phí:

Lợi nhuận từ cho vay DNNVV
Thu lãi từ cho vay DNNVV
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng quản lý chi phí của ngân hàng trong việc
cho vay đối với DNNVV. Nếu tỷ lệ này cao thì khả năng quản lý chi phí của
ngân hàng tốt, chất lượng cho vay đạt hiệu quả cao và ngược lại.
Nhìn chung chất lượng cho vay được xem xét trên nhiều yếu tố như khả
năng thu hút khách hàng, mức độ an toàn, doanh thu, chi phí và lợi nhuận,…
Để đo lường hiệu quả của hoạt động cho vay người ta cần căn cứ trên sự so
sánh giữa yếu tố đầu ra và đầu vào, của kỳ này so với kỳ trước, của đơn vị

Lê Thị Linh Chi

Lớp: Tài chính 46B


×