Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Rủi ro trong kinh doanh chứng khoán phân loại, nguyên nhân và các quy định pháp luật để hạn chế, phòng ngừa rủi ro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.73 KB, 15 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, kinh doanh Chứng khoán là một ngành nghề thương mại khá đặc thù
và còn tương đối mới mẻ. Tuy nhiên, đây được coi là hoạt động trọng tâm, giữ vai trò
quan trọng trong sự phát triển của thị trường Chứng khoán nói riêng và của nền kinh tế
nước ta nói chung. Kinh doanh chứng khoán là hoạt động mang tính hai mặt: vừa đem
lại nhiều hiệu quả về mặt kinh tế, xã hội (thu hút vốn đầu tư, tăng thu nhập, tạo công ăn
việc làm…) vừa tiềm ẩn trong đó nguy cơ gánh chịu rủi ro lớn cho các nhà kinh doanh,
nhà đầu tư, thị trường chứng khoán,… Vì vậy, ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động kinh
doanh chứng khoán có một ý nghĩa quan trọng giúp bảo vệ quyền lợi các nhà đầu tư, các
tổ chức kinh doanh chứng khoán trên thị trường, từ đó thúc đẩy thị trường chứng khoán
phát triển.
Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về rủi ro trong kinh doanh chứng khoán và các quy
định của pháp luật Việt Nam nhằm hạn chế hiện tượng này, trong phạm vi bài tập lớn
học kỳ, em xin lựa chọn đề tài: “Rủi ro trong kinh doanh chứng khoán: phân loại,
nguyên nhân và các quy định pháp luật để hạn chế, phòng ngừa rủi ro”.

NỘI DUNG
I- Khái quát chung về rủi ro trong kinh doanh chứng khoán
1. Khái niệm rủi ro trong kinh doanh chứng khoán
Luật chứng khoán 2006 có quy định: “Kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện
các nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, phát hành chứng khoán, tư
vấn đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán”.
Trong khi đó, rủi ro được hiểu là: “khả năng xảy ra sự cố bất lợi cho chủ thể”.
Như vậy, có thể hiểu rủi ro trong kinh doanh chứng khoán là khả năng xảy ra
những việc bất lợi cho các chủ thể kinh doanh chứng khoán khi thực hiện các nghiệp vụ
kinh doanh chứng khoán.
2. Đặc trưng của rủi ro trong kinh doanh chứng khoán
Cũng như rủi ro trong các hoạt động kinh doanh khác, rủi ro trong kinh doanh
chứng khoán thường mang lại những yếu tố bất lợi cho các chủ thể tham gia hoạt động
này. Tuy nhiên, rủi ro trong kinh doanh chứng khoán cũng có những đặc trưng riêng:
Thứ nhất, rủi ro trong kinh doanh chứng khoán luôn gắn liền với đối tượng đặc


biệt- chứng khoán.
Theo Khoản 1- Điều 6- Luật chứng khoán 2006: chứng khoán là bằng chứng xác
nhận quyền sở hữu và các quyền liên quan của người sở hữu chứng khoán với phần tài
sản đã góp vốn, đã cho vay đối với tổ chức phát hành chứng khoán và đây được coi là
loại hàng hóa đặc thù. Khi các chủ thể tiến hành các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán
của mình thì chứng khoán luôn có mặt ở tất cả các giai đoạn của hoạt động này.
Thứ hai, rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán có phạm vi tác động rộng
lớn, ảnh hưởng tới nhiều chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán.
Khi phát sinh rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán, chủ thể chịu tác động
đầu tiên là nhà đầu tư, các chủ thể kinh doanh chứng khoán, nếu rủi ro có tính hệ thống
hoặc gây ra mức thiệt hại lớn có thể tác động tiêu cực cho cả thị trường chứng khoán, thị
trường tài chính và sự phát triển của nề kinh tế nói chung.
Thứ ba, rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán có thể dự báo trước hoặc
không thể dự báo trước.
Hoạt động kinh doanh chứng khoán chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khách
quan và chủ quan. Vì vậy, có những yếu tố có thể dự báo trước là sẽ mang lại rủi ro (tài
1


chính khó khăn, an ninh chính trị bất ổn…) nhưng cũng có nhiều yếu tố nằm ngoài tầm
kiểm soát của con người. Nên khi rủi ro ập đến, các chủ thể kinh doanh chứng khoán khó
có thể ứng phó kịp thời.
3. Tác động của rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán
* Đối với các chủ thể kinh doanh chứng khoán:
Ở nước ta hiện nay, chưa có quy định thống nhất về các chủ thể kinh doanh chứng
khoán. Tuy nhiên, theo cách hiểu phổ biến nhất thì có hai chủ thể kinh doanh chứng
khoán là: Công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ. Khi rủi ro xảy ra, các chủ thể
này phải chịu tổn thất khá lớn về tài chính: đã bỏ ra chi phí thực hiện các nghiệp vụ kinh
doanh nhưng lại không thu được khoản lợi nhuận bù đắp, hoặc không đủ, không có
lãi…; uy tín kinh doanh bị suy giảm; mất niềm tin của khác hàng, nặng nề nhất là có thể

ảnh hưởng tới sự tồn tại của công ty.
* Đối với các nhà đầu tư:
Khi tham gia vào thị trường chứng khoán, mục tiêu chủ yếu mà họ hướng tới là lợi
nhuận, tuy nhiên, đây lại là loại chủ thể ít có kinh nghiệm dự đoán thị thị trường, khả
năng phân tích và dự báo rủi ro. Vì thế, họ có thể phải gánh chịu những hậu quả nặng nề
về tài chính (không thu được khoản lợi nhuận mong đợi, không thu hồi được vốn đầu
tư…) hoặc ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh (không huy động được lượng
vốn cần thiết cho nhu cầu kinh doanh) khi rủi ro xảy ra
* Đối với thi trường chứng khoán nói riêng và nền kinh tế nói chung
Khi có rủi ro, các giao dịch trên thị trường giảm sút đáng kể do tâm lý lo sợ hoặc
“chờ” thị trường bình ổn trở lại nên hoạt động kinh tế diễn ra chậm chạp hơn, khả năng
huy động vốn qua kênh chứng khoán, cổ phiếu, trái phiếu,… thấp hơn.
Nếu rủi ro ở mức độ cao, khi không được kiểm soát kịp thời, sẽ dẫn đến nguy cơ
sụp đổ của thị trường chứng khoán và có thể đến những hệ lụy không thể lường trước
được đối với toàn bộ nền kinh tế và đơi sống xã hội của quốc gia.
II- Phân loại và nguyên nhân của rủi ro trong kinh doanh chứng khoán
1. Phân loại rủi ro trong kinh doanh chứng khoán.
Việc phân loại các rủi ro trong Kinh doanh chứng khoán có ý nghĩa quan trọng
giúp cho các chủ thể tham gia hoạt động này có sự chuẩn bị các phương án để hạn chế
thấp nhất hậu quả mà các hoạt động rủi ro mang lại. Điều này cũng giúp cho các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền trong việc quản lý thị trường chứng khoán nói chung và hoạt
động kinh doanh chứng khoán nói riêng có những phân tích chính xác để ngăn ngừa
những rủi ro gây tác hại sâu rộng đến thị trường, ảnh hưởng đến nhiều cá thể tham gia.
Đặc biệt, đây cũng là tiền đề để nhà nước đưa ra khung pháp lý hoàn thiện giúp ngăn
ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh chứng khoán. Bởi lẽ, thông qua cách phân loại
rủi ro trong kinh doanh chứng khoán, các nhà làm luật sẽ có cái nhìn tổng quát nhất, cụ
thể nhất về hoạt động kinh doanh này để rồi có thể dự đoán được nguyên nhân phát sinh
rủi ro trong hoạt động (như các nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan) và từ
đó đưa ra các quy phạm pháp luật cấm, hạn chế các hành vi là nguyên nhân chính gây ra
rủi ro.

Hiện nay có khá nhiều tiêu chí để phân biệt các loại rủi ro có khả năng phát sinh
trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Cụ thể:
* Thứ nhất, Căn cứ vào mức độ tác động của rủi ro, rủi ro trong kinh doanh chứng
khoán được phân thành: Rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống.
- Rủi ro hệ thống là những rủi ro tác động chung đến hoạt động của thị trường và
bắt nguồn từ các yếu tố vĩ mô, các chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh chứng khoán
buộc phải chấp nhận. Rủi ro hệ thống được chia thành 3 loại rủi ro chính:
2


+ Rủi ro thị trường: Loại rủi ro này xuất hiện khi có những phản ứng của nhà đầu
tư trước sự kiện hữu hình hay vô hình (thường là phản ứng vượt quá những sự kiện đó).
Nó làm cho giá cổ phiếu có thể dao động mạnh trong một thời gian ngắn mặc dù thu
nhập của công ty không thay đổi.
Ví dụ: Các trào lưu mua bán theo tâm lý đám đông, đầy cảm tính và xúc cảm, làm
phá vỡ các quy luật vận động bình thường của thị trường. Ta có thể thấy rõ tác động của
các trào lưu này qua diễn biến của thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2007, khi mọi
người đổ xô đi mua chứng khoán, chỉ số VN-INDEX liên tục phá vỡ những kỉ lục và đã
vượt xa mốc 1000 điểm, vượt xa giá trị thực tế của thị trường.
+ Rủi ro lãi suất: là loại rủi ro phản ánh sự không ổn định trong giá trị thị trường
và số tiền thu nhập trong tương lai. Nguyên nhân chính và cốt lõi của loại rủi ro này là
sự lên xuống của lãi suất trái phiếu Chính phủ, khi đó sẽ có sự thay đổi trong mức sinh
lời kỳ vọng của các loại chứng khoán khác (cổ phiếu và trái phiếu công ty).
+ Rủi ro sức mua: rủi ro sức mua là tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư,
biến động giá càng cao thì sức mua càng tăng.
Với những loại rủi ro này, các chủ thể kinh doanh chứng khoán khó có thể tránh
được mà chỉ có thể áp dụng các biện pháp làm giảm mức độ tác động của rủi ro.
- Rủi ro phi hệ thống: là phần rủi ro mà các chủ thể kinh doanh có thể loại bỏ được
trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. Loại rủi ro này là kết quả của những
biến cố ngẫu nhiên hoặc không kiểm soát được, nó chỉ tác động đến một hoặc một nhóm

chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán.
+ Rủi ro từ tính thanh khoản thấp của chứng khoán đầu tư
Tính thanh khoản thấp mà chủ thể kinh doanh chứng khoán đang sở hữu có thể do
chứng khoán đó khó và thậm chí không thể bán được hoặc không được phép bán hay
chuyển nhượng nhằm thu hồi vốn đầu tư. Hàng hóa thông thường không thể bán được
phần nhiều do: chất lượng và tiện ích của hàng hóa không đáp ứng nhu cầu; không phù
hợp với “gu” của người mua; cung vượt quá cầu; có hàng hóa khác thay thế tương
đương, thậm chí có sức hấp dẫn hơn.
+ Rủi ro từ thông tin chứng khoán và thị trường
Có thể thấy hiếm có hoạt động kinh doanh nào mà sự thành bại của nhà đầu tư lại
gắn bó mật thiết, thậm chí phụ thuộc vào sự đa dạng, hệ thống, toàn diện, cập nhật và
chính xác các thông tin có liên quan trực tiếp và gián tiếp như đầu tư chứng khoán.
Một báo cáo tài chính hoặc cáo bạch chưa được kiểm toán, thẩm định bởi các tổ
chức độc lập, chuyên nghiệp, có uy tín và trình độ chuyên môn cao; một thông tin đến
chậm hoặc bị cắt xén không đầy đủ, không chính xác về hoạt động kinh doanh của công
ty phát hành cổ phiếu, về môi trường pháp lý và về các nhà đầu tư khác trên cùng “sân
chơi”, hoặc đơn giản là về tình hình thời tiết hay dịch bệnh nào đó… đều có thể trở thành
đầu mối trực tiếp gây ra các thiệt hại khôn lường cho nhà đầu tư chứng khoán.
+ Rủi ro từ lựa chọn đối nghịch
Trên thị trường chứng khoán, lựa chọn đối nghịch xuất hiện khi nhà đầu tư không
biết thông tin về các loại cổ phiếu của các công ty khác nhau do đó có thể mua phải cổ
phiếu của một công ty hoạt động kém, rủi ro cao. Vấn đề lựa chọn đối nghịch cũng xuất
hiện trong nhiều hoạt động khác của nền kinh tế. Nói một cách tổng quát, lựa chọn đối
nghịch là những quyết định sai lầm của một bên tham gia giao dịch mà nguyên nhân là
do cac rủi ro về thông tin. Ví dụ, công ty chứng khoán A mua cổ phiếu N trong lĩnh vực
bất động sản từ nhà đầu tư C, C biết rõ khả năng kinh doanh sinh lời của công ty X
nhưng A thì không. Kết quả là C sẵn sàng bán ở mức giá có lợi và không bao giờ bán ở
3



mức giá bất lợi cho anh ta. Và khi A mua cổ phiếu N từ C với mức giá bất lợi cho mình,
C đã thực hiện một lựa chọn đối nghịch do thiếu thông tin.
+ Rủi ro từ đạo đức
Rủi ro đạo đức cũng là một hậu quả của thông tin không cân xứng trên thị trường.
xuất hiện sau cuộc giao dịch khi một bên thực hiện những hành động ẩn giấu và có ảnh
hưởng đến lợi ích của phía đối tác. Có nhiều cách định nghĩa về rủi ro đạo đức: Rủi ro
đạo đức là tình trạng một bên tham gia thị trường không thể giám sát hoạt động của
phía bên kia. Rủi ro đạo đức phát sinh khi những người sở hữu thông tin riêng thực hiện
những hành động có ảnh hưởng đối lập đến xác suất đưa đến những hậu quả xấu:
(.) Có sự xuất hiện của hành động ẩn giấu (hidden action).
(.) Bên có hành động ẩn giấu, vô tình hay cố ý, sẽ làm tăng xác suất xảy ra hậu quả
xấu.

Ví dụ: Hành vi đi ngược lại lợi ích của các cổ đông của người lãnh đạo công ty.
người quản lý công ty có thể theo đuổi những chiến lược của công ty nhằm đề cao quyền
lực cá nhân mà không làm tăng lợi ích của công ty.
Tùy thuộc vào từng loại rủi ro mà chủ thể kinh doanh chứng khoán có thể phòng
tránh hoặc làm giảm mức độ tác động của rủi ro.
* Thứ hai, Căn cứ vào nguyên nhân dẫn đến rủi ro, bao gồm: Rủi ro phát sinh từ
nguyên nhân khách quan và rủi ro phát sinh từ nguyên nhân chủ quan:
Rủi ro từ nguyên nhân khách quan: là những rủi ro xảy ra ngoài tầm kiểm soát
của chủ thể tham gia kinh doanh chứng khoán, đây là yếu tố khó có thể hạn chế được.
Ví dụ: động đất, thiên tai, khủng hoảng kinh tế, chính trị,… khi xảy ra thường ảnh
hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Rủi ro từ nguyên nhân chủ quan: là những rủi ro phát sinh do lỗi của các chủ thể
tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Ví dụ: rủi ro về pháp lý xuất hiện do việc soạn thảo hợp đồng không phù hợp với
các văn bản pháp luật hoặc tiến hành các hành vi kinh doanh vi phạm điều cấm của pháp
luật, rủi ro xảy ra trong quá trình thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán do các
chủ thể không thực hiện nghĩa vụ của mình…

* Thứ ba, căn cứ vào nghiệp vụ của hoạt động kinh doanh chứng khoán, có thể
chia thành: rủi ro trong môi giới chứng khoán, rủi ro trong bảo lãnh phát hành chứng
khoán, rủi ro trong hoạt động tự doanh chứng khoán, rủi ro trong tư vấn đầu tư chứng
khoán, rủi ro trong lưu ký chứng khoán và rủi ro trong quản lý danh mục đầu tư chứng
khoán.
2. Nguyên nhân của rủi ro trong kinh doanh chứng khoán
* Nguyên nhân khách quan
- Môi trường kinh tế không ổn định:
Hoạt động kinh doanh chứng khoán luôn diễn ra trong một bối cảnh kinh tế cụ thể,
chịu sự chi phối của nhiều yếu tố. Trong điều kiện kinh tế bất ổn, chỉ số giá tiêu dùng
tăng cao, lạm phát khó kiểm soát, lãi suất ngân hàng tăng, mối nguy hại từ khủng hoảng
tài chính toàn cầu,… hoạt động kinh doanh chứng khoán khó có thể phát triển ổn định.
Ví dụ: Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 bắt nguồn từ Mĩ và lan rộng ra khắp
thế giới đã kéo chỉ số VN-INDEX xuống mức thấp kỉ lục, nhà đầu tư ào ạt rút vốn khỏi
thị trường, tính thanh khoản giảm mạnh, rất nhiều công ty chứng khoán làm ăn thua lỗ.
4


Đặc biệt, với những thay đổi ngoài tầm kiểm soát ảnh hưởng tiêu cực tới thị
trường, rủi ro là khó tránh khỏi.
Trong số các tác động từ môi trường kinh tế, ảnh hưởng từ thị trường chứng khoán
là nguyên nhân có tác động trực tiếp và rõ ràng hơn cả đến hoạt động kinh doanh chứng
khoán. Nếu thị trường phát triển bấp bênh, thiếu tính công khai, minh bạch, thiếu sự
quản lý, giám sát, hệ thống cơ sở vật chất phục vụ giao dịch lỗi thời,… thì khả năng xảy
ra rủi ro trong kinh doanh chứng khoán là rất cao.
- Môi trường chính trị bất ổn, hệ thống chính sách, pháp luật của nhà nước còn chưa
được hoàn thiện:
Thị trường chứng khoán khá nhạy cảm với các yếu tố chính trị, pháp luật. Các yếu
tố này nếu không được đảm bảo an toàn và thuận lợi thì thị trường chứng khoán không
thể phát triển một các ổn định và bền vững, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ chịu

nhiều ảnh hưởng tiêu cực dẫn đến rủi ro.
Ở nước ta, thị trường luôn được định hướng phát triển dựa vào những chính sách
kinh tế vĩ mô của nhà nước. Vì thế, chỉ cần có sự thay đổi trong các chính sách tài chính,
tiền tệ, thu nhập… của nhà nước sẽ dẫn đến sự thay đổi của lãi suất, tỷ giá hối đoái, điều
kiện mở rộng hoặc thu hẹp tín dụng. Đây là những yếu tố tạo nên sự bếp bênh cho hoạt
động kinh doanh chứng khoán. Nếu hệ thống các quy định của pháp luật điều chỉnh các
hoạt động của thị trường chứng khoán chồn chéo, mâu thuẫn, xa rời thực tế thì hoạt động
kinh doanh chứng khoán khó có thể phát triển thuận lợi, nguy có phát sinh rủi ro luôn
thường trực.
Ngoài ra, tác động từ các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh của công ty chứng
khoán hoạt động trên thị trường; sự quản lý và giám sát thị trường lỏng lẻo tạo điều kiện
cho các hành vi tiêu cực phát sinh,… là một trong những yếu tố làm rủi ro phát sinh.
- Bản chất của hoạt động kinh doanh chứng khoán
Tính rủi ro thể hiện ngay ở bản chất của hoạt động đầu tư vốn. Cũng như bất kì hoạt
động đầu tư, kinh doanh nào khác, việc kinh doanh chứng khoán là “ đầu tư một lượng
tiền trong hiện tại và chỉ có thể thu hồi trong tương lai” thì cả quãng thời gian đó cũng
chính là thời gian chưa đựng rủi ro. Mức độ rủi ro tiềm tàng đến đâu phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố, như thời gian đầu tư, chủ thể nhận vốn cùng các cam kết khác chính là
những yếu tố cơ bản ảnh hướng tới độ rủi ro. Mức độ rủi ro của chứng khoán có mối
quan hệ chặt chẽ tới tính sinh lời và tính thanh khoản của chứng khoán.
- Tính thanh khoản thấp của chứng khoán được kinh doanh:
Tính thanh khoản thấp của chứng khoán do một số nguyên nhân sau: Tình trạng tài
chính và triển vọng thị trường của công ty, tổ chức phát hành chứng khoán không tốt...
Trên thị trường chứng khoán hiện nay, vẫn đang tiếp tục diễn ra tình trạng công
khai và nô nức đấu giá mua cổ phiếu của cả những công ty trên thực tế đã bị phá sản vì
trình trạng tài chính âm, không thể trả nợ, hoặc của những công ty, quỹ đầu tư thậm chí
mới có quyết định thành lập, chưa hề triển khai hoạt động trên thực tế…
Lựa chọn không đúng cơ cấu chứng khoán đầu tư. Nhà đầu tư chứng khoán có thể
chịu rủi ro từ việc “bỏ hết trứng vào một giỏ”. Việc sở hữu thuần túy các cổ phiếu ưu đãi
mà không được chuyển nhượng trong thời hạn nhất định (thường từ 3-5 năm) cũng có

thể khiến nhà đầu tư gặp rủi ro liên quan đến tính thanh khoản thấp của các chứng khoán
này, nhất là khi họ cần tiền để trả lãi vay ngân hàng hoặc muốn rút vốn về để đầu tư vào
nơi khác có lãi hơn, an toàn hơn…
Sự cạnh tranh khốc liệt và biến động khôn lường của thị trường. Khó có thể giữ
vững được vị thế của mình một cách ổn định, lâu dài trước sự cạnh tranh và biến động
tới chóng mặt của thị trường trong xu thế toàn cầu hóa. Điều này cũng đồng nghĩa với
5


việc các nhà đầu tư chứng khoán có thể phải hứng chịu cả hai dạng thiệt hại “khấu hao
hữu hình” và “khấu hao vô hình” giá trị và tính thanh khoản của các chứng khoán mà họ
nắm giữ.
- Vấn đề không cân xứng thông tin
Trong các giao dịch tài chính luôn xuất hiện một mâu thuẫn cơ bản và cố hữu, một
mâu thuẫn tạo nên cơ sở tồn tại của các điều kiện cho vay trong các tổ chức tài chính, đó
là sự không cân xứng về thông tin giữa người cho vay và người đi vay. Người cho vay
đóng vai trò cung cấp vốn trong giao dịch tài chính và thường không có sự khác biệt lớn
về đồng vốn giữa những người cho vay (sự khác biệt chủ yếu nằm ở thời hạn cho vay và
các ràng buộc liên quan). Nói cách khác, những thông tin về phía đối tác của mình mà
người đi vay có được là tương đối đồng nhất. Người đi vay có thể huy động từ một trong
những người cung cấp vốn mà không cần quan tâm nhiều đến bên cho vay vì chỉ cần vay
được vốn là họ đã đạt được gần như hoàn toàn mục đích của một giao dịch tài chính.
Trong khi đó người cho vay có quyền lựa chọn một trong số những người hỏi vay,
lúc này họ có cả quyền sử dụng và định đoạt đối với vốn, nghĩa là họ có quyền sở hữu
đầy đủ. Nhưng ngay sau khi giao dịch tài chính diễn ra, quyền sở hữu đó bị chia đôi,
quyền sử dụng vốn đã được chuyển sang phía người vay vốn! Nếu không có vật thế chấp
hoặc bảo lãnh của một tổ chức tài chính mạnh, người cho vay chỉ còn sự thừa nhận về
mặt pháp lý đối với khoản tiền đó, họ không cầm giữ và cũng không sử dụng nó. Điều
này đồng nghĩa với việc rủi ro thu hồi vốn tăng lên và mức độ rủi ro phụ thuộc hoàn toàn
vào người vay vốn.

Do vậy, biện pháp để người cho vay phải làm để hạn chế rủi ro là phải thu thập và
phân tích các thông tin liên quan đến người vay vốn. Họ cần biết người đi vay sử dụng
đồng vốn như thế nào, mức độ rủi ro cao hay thấp, sức mạnh tài chính, mức độ tin tưởng,
nguy cơ dẫn đến việc sử dụng vốn không đúng cam kết của người vay, … Tuy nhiên
những thông tin như thế đến với người cho vay thường không đầy đủ hoặc thiếu chính
xác sẽ dẫn đến những lựa chọn của người cho vay có thể là một “lựa chọn đối nghịch”,
hay phải gánh chịu những “rủi ro đạo đức”.
* Nguyên nhân chủ quan
- Về phía các chủ thể kinh doanh chứng khoán:
+ Khả năng tài chính của một số chủ thể kinh doanh chứng khoán còn hạn chế: Khi
tiến hành các hoạt động kinh doanh chứng khoán, các chủ thể kinh doanh phải có lượng
cần thiết. Nếu các chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh trong tinh trạng tiềm lực tài
chính hạn chế, lượng vốn sẵn có và khả năng khai thác, sử dụng các nguồn lực tài chính
không đủ mạnh, không đáp ứng các nhu cầu giao dịch thì các chủ thể này sẽ luôn phải
đối mặt với khó khăn, đối mặt với mọi nguy cơ rủi ro có thể xảy ra.
+ Năng lực của các chủ thể kinh doanh chứng khoán nói chung, đội ngũ nhân viên
nói riêng còn có nhiều hạn chế: Kinh doanh chứng khoán là một lĩnh vực đặc thù, chịu
tác động lớn từ nhân tố con người. Trình độ kiến thức, kỹ thuật hành nghề, đạo đức nghề
nghiệp của các chủ thể kinh doanh chứng khoán, nhân viên của các công ty tiến hành
hoạt động kinh doanh này là yếu tố quan trọng quyết định trực tiếp đến kết quả hoạt
động kinh doanh chứng khoán. Nếu kinh nghiệm, phẩm chất, năng lực… của người hành
nghề còn hạn chế thì đây là một nguyên nhân làm phát sinh rủi ro, gây thiệt hại đến lợi
nhuận của nhà đầu tư. Ngoài ra, còn có một bộ phận chủ thể tuy hiểu biết về pháp luật
nhưng vì lợi nhuận nên đã “lách luật”, không chấp hành các quy định của pháp luật, vì
vậy cũng dễ tạo ra những rủi ro pháp lý, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh.
6


- Về phía khách hàng: Rủi ro rất có thể được bắt nguồn từ khách hàng. Chẳng hạn
như trường hợp khách hàng bị mất khả năng thanh toán (không đủ tiền hoặc chứng

khoán khi đến hạn thanh toán)., hoặc không đủ trình độ, thông tin để đánh giá tình hình
hoạt động của các doanh nghiệp có chứng khoán niêm yết, do đó có những quyết định
đầu tư chưa thực sự chính xác,…
III- Các quy định của pháp luật Việt Nam để hạn chế, phòng ngừa rủi ro trong
kinh doanh chứng khoán
Kinh doanh chứng khoán là ngành nghề kinh doanh khá nhạy cảm, luôn gắn với
nguy cơ rủi ro, có khả năng gây ra những tác động tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế cũng
như lợi ích của các chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán.
Xuất phát từ thực tế đó, hiện nay Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản
pháp lý nhằm hạn chế, phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán ở
mức thấp nhất. Pháp luật về hạn chế, phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh
chứng khoán là tổng hợp các quy phạm nằm trong Luật chứng khoán 2006 và một số văn
bản khác như: Nghị định 11/2007/NĐ-CP của Chính Phủ hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật chứng khoán; các Quyết định của Bộ tài chính về quy chế tổ chức và hoạt
động của công ty Chứng khoán (Quyết định 27/2007/QĐ-BTC), công ty quản lý quỹ
(Quyết định 26/2007QĐ-BTC), Qũy đầu tư chứng khoán (Quyết định số 45/2007/ QĐBTC),… Nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong
kinh doanh chứng khoán được thể hiện qua một số nội dung cơ bản như sau:
1. Pháp luật quy định những hành vi bị cấm trong kinh doanh chứng khoán
Nhằm hạn chế các rủi ro trong kinh doanh chứng khoán, pháp luật Việt Nam đã có
các quy định cấm đối với các chủ thể tham gia vào hoạt động này. Cụ thể:
1. Trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện các hành vi gian lận, lừa đảo, tạo dựng thông
tin sai sự thật hoặc bỏ sót thông tin cần thiết gây hiểu nhầm nghiêm trọng làm ảnh
hưởng đến hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết, giao dịch, kinh
doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
2. Công bố thông tin sai lệch nhằm lôi kéo, xúi giục mua, bán chứng khoán hoặc
công bố thông tin không kịp thời, đầy đủ về các sự việc xảy ra có ảnh hưởng lớn đến giá
chứng khoán trên thị trường.
3. Sử dụng thông tin nội bộ để mua, bán chứng khoán cho chính mình hoặc cho
người khác; tiết lộ, cung cấp thông tin nội bộ hoặc tư vấn cho người khác mua, bán
chứng khoán trên cơ sở thông tin nội bộ.

4. Thông đồng để thực hiện việc mua, bán chứng khoán nhằm tạo ra cung, cầu giả
tạo; giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua, bán
để thao túng giá chứng khoán; kết hợp hoặc sử dụng các phương pháp giao dịch khác
để thao túng giá chứng khoán (Điều 9- Luật chứng khoán 2006).
Việc quy định các hành vi bị cấm đã góp phần tạo ra cơ sở pháp lý cho các công ty
kinh doanh chứng khoán, các nhà đầu tư tham gia các giao dịch kinh doanh có những
định hướng kinh doanh và tiến hành các giao dịch đúng với quy định của pháp luật.
Trong văn bản sửa đổi bổ sung Luật chứng khoán 2010, các nhà làm luật đã đưa
thêm một hành vi bị cấm đối với hoạt động Kinh doanh chứng khoán vào tronng quy
định. Đó là hành vi: “Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán khi chưa được Uỷ
ban chứng khoán nhà nước cấp phép hoặc chấp thuận”.
Quy định này đã góp phần hạn chế được rủi ro đối với các doanh nghiệp kinh
doanh. Bởi việc thực hiện các nghiệp vụ này phải được sự chấp thuận của cơ quan quản
lý nhà nước- Uỷ ba chứng khoán nhà nước. Để có sự cho phép này, các chủ thể phải trải
qua những thủ tục chặt chẽ và quy trình cấp phép nghiêm ngặt của nhà nước.
7


2. Những quy định về quản lý nhà nước trong kinh doanh chứng khoán
Để ngăn ngừa rủi ro trong kinh doanh chứng khoán, cơ quan quản lý nhà nước về
chứng khoán đóng vai trò rất quan trọng. Nhận thấy được điều này, pháp luật phòng
ngừa hạn chế rủi ro trong kinh doanh chứng khoán nước ta đã có những quy định cụ thể
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng
khoán và từng nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán.
Ngay từ những điều đầu tiên của Luật chứng khoán 2006 đã quy định: “Nhà nước
có chính sách quản lý, giám sát bảo đảm thị trường chứng khoán hoạt động công bằng,
công khai, minh bạch, an toàn và hiệu quả” (Khoản 2- Điều 5).
Điều 7- Luật chứng khoán đã nêu rõ: “Chính phủ, Bộ tài chính và Ủy ban chứng
khoán nhà nước là các cơ quan quản lý nhà nước được chuyển giao quyền trong việc
quản lý hoạt động kinh doanh chứng khoán.

Đặc biệt, để đảm bảo sự quản lý chặt chẽ của nhà nước đối với hoạt động kinh
doanh chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán nhà nước- cơ quan trực thuộc Bộ tài chính- là
cơ quan trực tiếp quản lý hoạt động kinh doanh chứng khoán nói riêng và thị trường
chứng khoán nói chung.
Theo Điều 8 Luật chứng khoán thì Uỷ ban chứng khoán nhà nước giữ vai trò quản
lý xuyên suốt tất cả mọi lĩnh vực của thị trường chứng khoán (thể hiện thông qua chức
năng, quyền hạn của Uỷ ban chứng khoán…)
Quy định này thể hiện sự thống nhất trong quản lý hoạt động kinh doanh chứng
khoán ở nước ta. Với việc phân cấp rõ ràng giữa các cơ quan chức năng, pháp luật phòng
ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh chứng khoán đã tránh được hiện tượng chồng
chéo về chức năng cũng như quyền hạn của các cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề
xảy ra trong hoạt động kinh doanh chứng khoán, điều này giúp cho việc quản lý hoạt
động kinh doanh chứng khoán diễn ra dễ dàng và gọn nhẹ hơn.
Tuy nhiên, pháp luật phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh chứng khoán
còn một số hạn chế trong các quy định về quản lý nhà nước. Cụ thể:
Một là, các quy định về hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan này
chưa đầy đủ: Không có quy định ghi nhận thế nào là vi phạm pháp luật, thanh tra không
gây được tính bất ngờ,…
Hai là, pháp luật phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh chứng khoán khi
quy định về công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
không đề cập đến việc cơ quan này có được tiến hành hoạt động điều tra hay không. Sự
thiếu sót này của pháp luật đã hạn chế hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát.
3. Các quy định về điều kiện trở thành chủ thể kinh doanh chứng khoán
Để tránh những rủi ro do sự không phân định rõ ràng chức năng và nhiệm vụ được
thực hiện của các chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh chứng khoán, và đảm bảo về
khả năng giải quyết các tình huống khi rủi ro xảy đến trong ho ạt động kinh doanh chứng
khoán, pháp luật đã có những quy định khá rõ ràng về vấn đề này. Hiện nay, pháp luật
quy định có ba chủ thể được phép kinh doanh chứng khoán là: Công ty chứng khoán,
công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, để
đảm bảo an toàn cho kinh doanh chứng khoán, các công ty trên phải đáp ứng những điều

kiện nghiêm ngặt mà pháp luật đặt ra:
3.1. Điều kiện về tổ chức và hoạt động của chủ thể kinh doanh chứng khoán
Thứ nhất, điều kiện về hình thức pháp lý:
Đối với loại Công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, Luật
chứng khoán 2006 quy định chúng phải được “tổ chức dưới hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghiệp” (Khoản 18


Điều 59). Bởi lẽ, đây là loại hình công ty đối vốn, có tư cách pháp nhân, có chế độ trách
nhiệm hữu hạn, cơ chế huy động vốn hiệu quả và mô hình quản trị kinh doanh chặt
chẽ… những đặc điểm ày hoàn toàn phù hợp với hoạt động kinh doanh chứng khoánnơi có những diễn biến thất thường và tiềm ẩn nhiều rủi ro, đòi hỏi các chủ thể có khả
năng ứng phó với các rủi ro ấy một cách nhanh nhất và có hiệu quả, không ảnh hưởng
đến toàn bộ thị trường chứng khoán của nhà nước.
Với một thị trường mới được hình thành và đang trong quá trình phát triển đầy biến
động, việc pháp luật quy định như trên là hoàn toàn phù hợp với thực tế khách quan, hạn
chế một số rủi ro nhất định.
Thứ hai, điều kiện về vốn pháp định:
Vốn pháp định là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến kế hoạch đầu
tư cũng như khả năng xử lý những rủi ro của một doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt
động kinh doanh trên thị trường. Chính vì vậy, điều kiện về vốn pháp định của các chủ
thể kinh doanh chứng khoán được pháp luật quy định khá chi tiết tại Nghị định số
14/2007/NĐ-CP:
- Đối với công ty chứng khoán mức vốn pháp định cụ thể như sau: Môi giới chứng
khoán: 25 tỉ VNĐ; Tự doanh chứng khoán: 100 tỉ VNĐ; Bảo lãnh phát hành chứng
khoán: 165 tỉ VNĐ; Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỉ VNĐ (Điều 18- Nghị định số
14/2007). Như vậy, theo quy định tại Nghị định này thì số vốn pháp định đối với từng
loại hình kinh doanh đã được nâng lên cao hon so với quy định trước đây (Nghị định
144/2003). Việc quy định tăng mức vốn điều lệ là phù hợp với tình hình phát triển kinh
tế ở Việt Nam hiện nay.
- Đối với công ty quản lý quỹ: Mức vốn pháp định mà pháp luât yêu cầu là 25 tỷ

đồng với cả hai nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư và quản lý quỹ đầu tư.
Như vậy, với những quy định chi tiết về quy mô số vốn pháp định của từng nghiệp
vụ kinh doanh chứng khoán , ta có thể thấy sự cẩn trọng của các nhà làm luật Việt Nam
trong việc ngăn ngừa và hạn chế rủi ro có thể xảy đến trong quá trình kinh doanh của các
chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Thứ ba, Điều kiện về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật:
Kinh doanh chứng khoán là hoạt động kinh doanh đòi hỏi kỹ thuật tiên tiến và đồng
bộ, bởi thế, yêu cầu về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật với các chủ thể này là khá cao. Theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì các chủ thể kinh doanh chứng khoán phải có
trụ sở đáp ứng được yêu cầu theo quy định tại Nghị quyết số 27/2007/QĐ-BTC và Nghị
quyết số 35/2007/QĐ-BTC.
Thứ tư, điều kiện về cán bộ, công nhân viên:
Đội ngũ nhân viên là nhân tố quan trọng quyết định đến sự phát triển của Doanh
nghiệp, đặc biệt là các chủ thể kinh doanh chứng khoán.
Theo đó, pháp luật của chúng ta đã có nhiều quy định cụ thể về điều kiện đối với
đội ngũ nhân viên này. Cụ thể:
Đối với những cá nhân giữ vai trò là cổ đông sáng lập hoặc sáng lập viên, họ “phải
là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không thuộc các trường hợp đang chấp
hành hành phạt tù hoặc bị Tòa án cấm ngành nghề kinh doanh” (Khoản 2- Điều 62Luật chứng khoán); đồng thời họ phải sử dụng chính nguồn vốn của mình để góp vốn
thành lập doanh nghiệp.
Đối với các cá nhân nắm chức vụ cao trong công ty (Tổng giám đốc, giám đốc,
nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán…) thì còn phải có chứng chỉ
hành nghề chứng khoán (theo Khoản 1- Điều 62- Luật chứng khoán) và một số điều kiện
cụ thể khác.
9


Việc pháp luật phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh chứng khoán quy
định về điều kiện đội ngũ nhân viên là tất yếu. Bởi lẽ, đây là những chủ thể trực tiếp điều
hành, thực hiện, giải quyết những vấn đề phát sinh trong hoạt động kinh doanh chứng

khoán. Họ chính là nhân tố quan trọng giúp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh
doanh chứng khoán.
3.2. Điều kiện về giấy phép:
Để được tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán, các chủ thể còn phải đáp
ứng điều kiện về giấy phép kinh doanh chứng khoán.
Hiện nay ở nước ta tồn tại nhiều loại giấy phép kinh doanh chứng khoán khác nhau
với những điều kiện nhất định (giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán,
công ty quản lý quỹ, chứng chỉ hành nghề chứng khoán,…)
Với mỗi loại chủ thể kinh doanh chứng khoán, khi thực hiện một, một số hoặc tất cả
các nghiệp vụ kinh doanh được phép sẽ phải có một, một số hoặc tất cả các loại giấy
phép kinh doanh mà pháp luật Việt Nam quy định. Những loại giấy phép trên được coi
như văn bản chứng thực của cơ quan quản lý nhà nước về khả năng kinh doanh chứng
khoán của các chủ thể cũng như khả năng giải quyết và vượt qua các rủi ro có thể xảy
đến trong kinh doanh.
4. Quy định về các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mà các chủ thể được
phép tiến hành
Nhận thức được vai trò của các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán trong sự phát
triển của thị trường, pháp luật phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh chứng
khoán đã có nhiều quy phạm điều chỉnh các vấn đề của từng nghiệp vụ, tạo nên hành
lang pháp lý để các chủ thể tiến hành theo đúng khuôn khổ pháp luật quy định, tránh
được rủi ro hoặc khắc phục những hậu quả ma các rủi ro này mang đến.
Cụ thể các nghiệp vụ: Nghiệp vụ môi giới chứng khoán, Nghiệp vụ tự doanh chứng
khoán, bảo lãnh, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng
khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý doanh mục đầu tư chứng khoán.
5. Các quy định về nghĩa vụ thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro của các
chủ thể kinh doanh chứng khoán.
Để đảm bảo hoạt động kinh doanh chứng khoán được diễn ra thông suốt và không
gặp phải những rủi ro, các chủ thể kinh doanh (vì lợi ích của chính mình) phải là những
người đầu tiên thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Tuy nhiên, trên thực tế, có
một số chủ thể vì lợi nhuận hay vì một số lý do khác mà không thực hiện các biện pháp

phòng ngừa đó. Chính vì thế, pháp luật phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh
chứng khoán đã tạo nên một khung pháp lý làm nền tảng buộc chủ thể kinh doanh phải
thực hiện theo các quy định này để hạn chế rủi ro xảy ra.
5.1 Quy định về cơ chế quản lý vốn:
Vốn kinh doanh là một điều kiện tiên quyết đối với mỗi doanh nghiệp, mỗi nhà kinh
doanh riêng lẻ khi tiến hành hoạt động, đầu tư và tham gia vào bất cứ một dự án nào.
Kinh doanh chứng khoán mang đặc thù là một loại hình kinh doanh được thực hiện trên
một thị trường- đó là thị trường chứng khoán- chứa đựng nhiều rủi ro và nhiều biến cố
bất ngờ nên đòi hỏi các chủ thể kinh doanh khi tham gia vào loại hình kinh doanh này
cần phải có một số vốn pháp định nhất định và cơ chế quản lý vốn thật chặt chẽ. Có như
vậy, họ mới có thể làm chủ được các hoạt động của mình và hạn chế được những rủi ro
xảy ra. Pháp luật phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh chứng khoán đã có
những quy định rất chặt chẽ về cơ chế quản lý vốn của các chủ thể kinh doanh. Theo đó:
Đối với công ty chứng khoán thì “giao dịch làm thay đổi quyền sở hữu từ 10% trở
lên vốn điều lệ của công ty chứng khoán, trừ trường hợp cổ phiếu của công ty chứng
10


khoán được niêm yết, phải được ủy ban chứng khoán nhà nước chấp thuận” (khoản 1Điều 16- Quyết định số 27/2007/QĐ-BTC).
Đối với công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thì “những giao dịch làm thay đổi
quyền sở hữu cổ phần hoặc phần vốn góp chiếm từ 10% vốn điều lệ trở lên đã góp của
công ty quản lý quỹ” phải được sự chấp thuận của Uỷ ban chứng khoán nhà nước trong
các trường hợp:
“a) Tổ chức, cá nhân nắm giữ dưới 10%, 25%, 50%, 75% vốn cổ phần, vốn góp
của Công ty quản lý quỹ có ý định thực hiện mua vào để nắm giữ từ 10%, 25%, 50%,
75% trở lên vốn cổ phần, vốn góp của Công ty quản lý quỹ.
b) Tổ chức, cá nhân nắm giữ từ 10%, 25%, 50%, 75% trở lên vốn cổ phần, vốn
góp của Công ty quản lý quỹ có ý định thực hiện bán cổ phần hoặc phần vốn góp để sở
hữu dưới 10%, 25%, 50%, 75% vốn cổ phần, vốn góp của Công ty quản lý quỹ” (Khoản
1- Điều 16- Quyết định số 35/2007/QĐ- BTC).

Có thể thấy, sự thay đổi vốn pháp định không chỉ ảnh hưởng khá lớn đến chính họ
mà còn ảnh hưởng đến đối tác của họ và dẫn đến những hậu quả khó lường. Bởi vậy,
việc quy định phải báo cáo cho ủy ban chứng khoán nhà nước khi có sự thay đổi về số
vốn pháp định đã thể hiện sự thận trọng của nhà nước trong quá trình quản lý hoạt động
kinh doanh trên thị trường.
Bên cạnh đó, nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng
khoán, pháp luật còn quy định về nguồn vốn góp của các thành viên công ty, những hạn
chế đối với các cổ đông nắm giữ tỷ lệ vốn lớn, mức vốn khả dụng,…
5.2. Quy định về hạn chế đầu tư
Để phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh chứng khoán, pháp luật hiện
hành đã có các quy định về việc hạn chế đầu tư đối với các chủ thể kinh doanh chứng
khoán. Việc làm này hết sức cần thiết, bởi hạn chế đầu tư sẽ làm phân tán và hạn chế
được các rủi ro trong quá trình hoạt động của các doanh nhiệp.
* Đối với công ty chứng khoán, pháp luật đã có các quy định cụ thể về các trường
hợp hạn chế đầu tư tại Điều 28 và Điều Quyết định số 27/2007/QĐ- BTC. Theo đó,
Công ty chứng khoán được mua, đầu tư vào tài sản cố định của mình theo nguyên tắc
giá trị còn lại của tài sản cố định không được vượt quá 50% vốn điều lệ của công ty
chứng khoán

1. Trừ trường hợp bảo lãnh phát hành theo hình thức cam kết chắc chắn và trường
hợp quy định tại khoản 4 Điều này, công ty chứng khoán không được:
a) Đầu tư vào cổ phiếu hoặc phần vốn góp của công ty có sở hữu trên 50% vốn
điều lệ của công ty chứng khoán;
b) Cùng với người có liên quan đầu tư từ 5% trở lên vốn điều lệ của công ty
chứng khoán khác;
c) Đầu tư từ 20% trở lên tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức niêm
yết;
d) Đầu tư từ 15% trở lên tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức không
niêm yết;
e) Đầu tư hoặc góp vốn từ 15% trở lên tổng số vốn góp của một công ty trách

nhiệm hữu hạn.
2. Đối với các trường hợp đầu tư vượt quá mức quy định tại khoản 1 Điều này,
công ty chứng khoán phải thực hiện các biện pháp cần thiết để tuân thủ hạn mức đầu tư
theo quy định tại khoản 1 Điều này trong thời hạn tối đa là ba mươi (30) ngày. Trong
trường hợp đầu tư vượt quá hạn mức theo quy định tại khoản 1 Điều này do thực hiện
11


bảo lãnh phát hành theo hình thức cam kết chắc chắn, công ty chứng khoán phải áp
dụng các biện pháp cần thiết để tuân thủ hạn mức đầu tư theo quy định tại khoản 1 Điều
này tối đa trong thời hạn sáu (06) tháng.
3. Công ty chứng khoán không được sử dụng quá 20% tổng tài sản để đầu tư,
mua cổ phần hoặc tham gia góp vốn vào một tổ chức khác.
* Đối với công ty quản lý quỹ, các hạn chế đầu tư được quy định tại Điều 19 Quyết
định số 35/2007/QĐ- BTC. Đối với quỹ do mình quản lý, công ty không được:
a) Sử dụng tài sản của Quỹ, Công ty đầu tư chứng khoán do mình quản lý để đầu tư
vào chính Quỹ, Công ty đầu tư chứng khoán đó;
b) Sử dụng tài sản của Quỹ, Công ty đầu tư chứng khoán do mình quản lý để đầu tư
vào các Quỹ đại chúng, Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng khác do mình quản lý;
c) Sử dụng tài sản của Quỹ đại chúng, Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng để
đầu tư vào các Quỹ đầu tư, Công ty đầu tư chứng khoán khác do mình quản lý;
d) Sử dụng tài sản của Công ty, tài sản ủy thác theo danh mục đầu tư do mình quản
lý để đầu tư vào các Quỹ đại chúng, Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng thành lập
theo pháp luật Việt Nam do mình quản lý.
Ngoài ra, khi quản lý quỹ đại chúng, công ty quản lý quỹ còn phải tuân thủ các quy
định về hạn chế đầu tư như quy định tại Điều 92 Luật chứng khoán 2006.
6. Quy định về chế độ báo cáo và công bố thông tin
Chế độ báo cáo và công bố thông tin không chỉ có vai trò giúp cho cơ quản quản lý
nắm bắt được tình hình hoạt động của các chủ thể kinh doanh mà nó còn đóng vai trò
quan trọng với chính các công ty này. Bởi lẽ, thông qua việc báo cáo và công bố thông

tin, các công ty này không những thể hiện được sự minh bạch tronng hoạt động của
mình, thu hút sự quan tâm và đầu tư của chính các nhà đầu tư trên thị trường mà còn
giúp họ có thể dự đoán và kiểm soát được các rủi ro trong quá trình kinh doanh chứng
khoán.
Pháp luật phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh chứng khoán đã nắm bắt
được vai trò cần thiết của việc báo cáo và công bố thông tin của các hủ thể kinh doanh
chứng khoán nên đã có quy định cụ thể về vấn đề này. Điều đó được thể hiện qua việc
Luật chứng khoán đã dành chương 8 để quy định về chế độ công bố thông tin. Bên cạnh
đó, các văn bản pháp luật liên quan cũng có quy định về vấn đề này đối với từng loại
hình kinh doanh: Chương 6 của Quyết định 27/2007/QĐ-BTC, Chương 4 của Quyết
định 35/ 2007/QĐ-BTC...
Theo các văn bản trên thì việc báo cáo của các chủ thể kinh doanh được chia thành
hai hình thức, là: báo cáo định kỳ (tháng, năm, quý,...) và báo cáo bất thường.
Với chế độ công bố thông tin, các chủ thể kinh doanh chứng khoán cần phải được
thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Cụ thể:
Công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ phải tiến hành công bố thông tin định
kỳ và công bố thông tin sau thời hạn 24 giờ trong các trường hợp: Thay đổi thành viên
Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Chủ tịch, Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Tổng
Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc và người hành nghề quản lý quỹ. Báo cáo phải cung cấp
lý do thay đổi những nhân sự nêu trên và đệ trình nhân sự thay thế; Sửa đổi, bổ sung
Điều lệ Công ty; Điều lệ, Bản Cáo bạch Quỹ, Công ty đầu tư chứng khoán do Công ty
quản lý; d) Các sự kiện có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng tài chính, hoạt
động đầu tư của Công ty và các Quỹ, Công ty đầu tư chứng khoán do Công ty quản lý
và hoạt động quản lý danh mục đầu tư.
7. Quy định về chế độ kiểm soát nội bộ
12


Xuất phát từ vai trò của chế độ kiểm soát nội bộ với việc phòng ngừa, hạn chế rủi ro
trong kinh doanh chứng khoán, pháp luật hiện hành quy định phạm vi giám soát của hệ

thống kiểm soát nội bộ rất rộng và trên nhiều phương diện như: Kiểm soát việc tuân thủ
quy trình nghiệp vụ của các bộ phận kinh doanh và của người hành nghề chứng khoán;
kiểm soát nội bộ báo cáo tài chính; giám sát tỷ lệ vốn khả dụng và các tỷ lệ an toàn tài
chính; tách biệt tài sản của khách hàng,...
Từ nội dung hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ, pháp luật đã yêu cầu: “hệ
thống kiểm soát nội bộ phải được thành lập tại trụ sở chính và chi nhánh của công ty
kinh doanh chứng khoán” đồng thời, nó “phải chịu sự điều hành và quản lý của Giám
đốc (Tổng giám đốc) của công ty đó”.
8. Các quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán
* Xử lí hành chính
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 7 Nghị định 36/2007/NĐ-CP về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán quy định hai hình
thức xử phạt vi phạm hành chính mà tổ chức, cá nhân vi phạm phải chịu là phạt cảnh cáo
và phạt tiền.
- Phạt tiền: Cơ sở để tính mức phạt là khoản thu phi pháp, khoản huy động bất hợp
pháp. Mức phạt cụ thể đối với mỗi hành vi thường được tính là mức trung bình của
khung hình phạt tiền tương ứng với hành vi đó, nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền
phạt có thể thấp hơn nhưng không được giảm thấp hơn mức tối thiểu của khung hình
phạt, nếu có tình tiết tăng nặng thì mức phạt tiền có thể tăng cao hơn nhưng không quá
mức tối đa của khung hình phạt.
- Cảnh cáo là hình phạt chủ yếu với những hành vi vi phạm lần đầu, nhỏ, ít nghiêm
trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và gây thiệt hại không lớn cho các chủ thể khác.
Ngoài hình phạt chính thì tùy tính chất, mức độ vi phạm các chủ thể có hành vi vi
phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung kèm theo hình
phạt chính. Các hình phạt bổ sung thường hay được áp dụng là tước có thời hạn hoặc
không có thời hạn quyền sử dụng các loại giấy phép liên quan đến chứng khoán, giấy
phép phát hành chứng khoán, giấy phép niêm yết chứng khoán, giấy phép đăng kí hoạt
động kinh doanh chứng khoán… Hơn nữa các chủ thể vi phạm còn có thể bị áp dụng
một trong các biện pháp khắc phục hậu quả nhất định như hủy bỏ, cải chính những thông
tin sai lệch không đúng sự thật; bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra…

* Xử lý hình sự
Tuy Bộ luật hình sự Việt Nam chưa quy định các tội danh trong lĩnh vực chứng
khoán nhưng để đảm bảo nguyên tắc mọi hành vi vi phạm có đủ yếu tố cấu thành tội
phạm đều bị áp dụng các hình phạt hình sự được pháp luật quy định, việc xử lý hình sự
đối với chủ thể thực hiện hành vi vi phạm nghiêm trọng các quy định pháp luật trong
lĩnh vực chứng khoán được căn cứ trên cơ sở một số tội danh có các yếu tố cấu thành
mang tính tương đồng.
* Xử lý dân sự
Hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán có nhiều vấn đề liên quan đến pháp luật dân
sự, nó được áp dụng thường xuyên là các chế định về hợp đồng dân sự như việc kí kết
các hợp đồng bảo lãnh phát hành, tư vấn phát hành… Để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng, pháp luật dân sự đã quy định rất nhiều biện pháp như cần cố, đặt cọc, kí
quỹ…. Hiện nay có một số biện pháp đã được áp dụng trong lĩnh vực chứng khoán như
cần cố chứng khoán đê cho vay tiền của các ngân hàng thương mại, kí quỹ trong giao
dịch chứng khoán.
13


Các hình thức xử lí trên phần nào đã có tác dụng răn đe, giáo dục ý thức chấp hành
pháp luật trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.
IV- Một số kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh chứng khoán
1. Hoàn thiện một số quy định của pháp luật
Thứ nhất, Cần tăng mức tiền phạt đối với mỗi hành vi vi phạm cụ thể:
Pháp luật chứng khoán đã quy định việc xử phạt hành chính đối với hành vi vi
phạm cụ thể trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tuy nhiên hiện nay,
các chế tài và mức xử phạt như hiện nay là chưa đủ mạnh để răn đe và xử lí các vi phạm,
trong khi đó, hoạt động trên thị trường chứng khoán chứng kiến nhiều hành vi vi phạm
ngày càng tinh vi và phức tạp, tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng cao.
Vì vậy, thiết nghĩ, mức xử phạt tối đa cần phải được nâng cao hơn nữa. Tuy nhiên,
việc tăng mức xử phạt cũng cần tính đến khả năng chi trả và đảm bảo hoạt động kinh

doanh cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư, do đó đòi hỏi các nhà quản lí và các nhà soạn
thảo luật cần cân nhắc, tính toán chính xác.
Thực tế diễn biến của thị trường chứng khoán trong thời giân qua cần đặc biệt lưu ý
tăng mức tiền phạt đối với 3 nhóm hành vi vi phạm. Đó là:
+ Các hành vi vi phạm về hồ sơ, điều kiện và thực hiện chào bán chứng khoán ra
công chúng.
+ Các vi phạm quy định về chế độ báo cáo.
+ Các hành vi vi phạm quy định về giao dịch chứng khoán: hành vi gian lận trong
giao dịch, thao túng giá chứng khoán và sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng
khoán.
Thứ hai, cần bổ sung một số quy định về xử lí vi phạm vốn còn nhiều thiếu sót.
Liên quan đến phát hành chứng khoán: Nghiên cứu các quy định về chào bán chứng
khoán ra công chúng tại Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành hiện nay
cho thấy, pháp luật mới chỉ hướng tới việc đặt ra quy định mà theo đó các tổ chức, cá
nhân phải thực hiện, phải đảm bảo để được chào bán chứng khoán ra công chúng,...mà
chưa hướng tới việc đặt ra chế độ hậu kiểm các doanh nghiệp trong việc thực hiện chào
bán chứng khoán ra công chúng. Chế độ hậu kiểm ở đây chính là các quy định về quyền
hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lí nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng
khoán, cụ thể là Ủy ban chứng khoán trong việc kiểm tra, kiểm soát, nhằm đảm bảo
doanh nghiệp thực hiên chào bán theo đúng phương án phát hành, đảm bảo việc sử dụng
vốn thu được từ đợt phát hành có hiệu quả và đúng mục đích,...
Trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp đã tận dụng thị trường phát triển nóng để
phát hành với số lượng chứng khoán rất lớn, trong đó một phần đáng kể để đầu tư tài
chính với phương án sử dụng vốn chưa rõ ràng, cụ thể, khiến cho nguồn cung chứng
khoán vượt quá cầu dẫn đến giá cổ phiếu giảm nhanh. Trong khi đó, cơ quan quản lí nhà
nước về chứng khoán lại chưa có công cụ hữu hiệu nào được pháp luật cho phép để ngăn
chặn hay điều tiết. Để khắc phục tình trạng này, cần phải đặt ra các quy định cụ thể về
khoảng cách giữa các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng để tăng vốn điều lệ,
tránh tình trạng doanh nghiệp phát hành huy động vốn một cách ồ ạt, có thể không hiệu
quả trong việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành, ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ

đông. Mặt khác, pháp luật cũng cần quy định chặt chẽ hơn theo hướng cần yêu cầu
doanh nghiệp phải báo cáo cụ thể về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành trước.
việc đánh giá tính hiệu quả của viếc sử dụng vốn, cũng như việc sử dụng vốn đúng mục
đích là một trong những khâu không thể thiếu trong quá trình xem xét chấp thuận cho
đợt phát hành vốn tiếp theo.
Thứ ba, Quy định về tổ chức kiểm toán và báo cáo kiểm toán
14


Sự tồn tại của tổ chức kiểm toán trên thị trường chức khoán có trách nhiêm chủ yếu
là đánh giá mức độ chính xác của các báo cáo tài chính. Tuy nhiên, pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán chưa có
những quy định rõ ràng liên quan đến thực thể này. Vì thế cần thiết phải quy định rõ xử
phạt với hành vi vi phạm liên quan đến báo cáo kiểm toán. Các vi phạm của tổ chức
kiểm toán và kiểm toán viên cần được xử lí nghiêm minh với các hình thức xử phạt thích
đáng.
2. Một số giải pháp khác
Một là, Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Chứng khoán nhà nước
Thực tế hiện nay, thẩm quyền của cơ quan quản lí nhà nước về chứng khoán và thị
trường chứng khoán ở Việt Nam là khá hạn chế. Để đảm bảo khả năng điều tra, xử lí các
hành vi giao dịch nội gián và thao túng trên thị trường, tác giả cho rằng cần mở rộng
thẩm quyền cho Ủy ban Chứng khoán nhà nước, theo đó Ủy ban phải có quyền chất vấn
những người mà xét thấy có thông tin liên quan về các trường hợp bị nghi ngờ có hành
vi lạm dụng thị trường. Hơn nữa, Ủy ban chứng khoán phải có quyền tìm kiếm bằng
chứng và nắm giữ tài liệu cần thiết cho việc điều tra về các trường hợp lạm dụng thị
trường. Pháp luật cũng cần phải mở rộng thời hạn thanh tra, kiểm tra để cơ quan này có
thể thực thi được nhiệm vụ, đặc biệt trong trường hợp các vụ việc phức tạp, liên quan
đến nhiều đối tượng đòi hỏi phải tiến hành thanh tra, kiểm tra sâu rộng mới xác định
được hành vi vi phạm.
Hai là, đẩy mạnh hơn nữa công tác thanh tra, giám sát

Thanh tra, giám sát hoạt động thị trường là một trong những công cụ quản lý hiệu
quả mà các nhà quản lý dù ở bất kỳ thị trường chứng khoán nào cũng đều quan tâm, chú
trọng. Mục tiêu chính của công tác thanh tra, giám sát hoạt động chứng khoán và thị
trường chứng khoán không phải chỉ là để phát hiện, xử lí những người vi phạm pháp luật
chứng khoán, mà quan trọng là nhằm phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi này, đảm bảo
thị trường hoạt động bình ổn, có hiệu quả.
Ba là, cần hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin, kĩ thuật
Xây dựng một hệ thống quả lí, giám sát hiện đại, đủ năng lực xử lí thông tin cho
phép theo dõi toàn bộ diễn biến các giao dịch trên thị trường, phát hiện và xử lí chính
xác kịp thời các hành vi vi phạm, đặc biệt là những hành vi nâng, kích giá cổ phiếu, giao
dịch nội gián, thao túng giá.
Bốn là, Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục ý thức pháp luật
cho các chủ thể hoạt động kinh doanh chứng khoán thông qua các phương tiện truyền
thông như Đài truyền hình, Đài tiếng nói Việt Nam, thông qua các buổi tọa đàm với các
công ty chứng khoán quỹ đầu tư chứng khoán,... các buổi tập huấn để phổ biến kiến thức
cho lãnh đạo các chủ thể hoạt động kinh doanh chứng khoán cũng như các đối tượng có
liên quan.

LỜI KẾT
Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã và đang phát triển vì thế mà các rủi
ro trong quá trình kinh doanh là không thể tranh khỏi. Tuy nhiên, theo những gì đã phân
tích ở trên thì pháp luật nước ta cũng đã có nhiều quy định để phòng ngừa và hạn chế rủi
ro trong hoạt động này. Hy vọng rằng, với những giải pháp đó và sự hoàn thiện dần của
hệ thống pháp luật sẽ tạo được niềm tin cho Nhà đầu tư tham gia vào thị trường, từ đó
thúc đẩy thị trường phát triển hơn nữa.
15




×