Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TÁM LOẠI LỖI VI PHẠM QUY LUẬT LOGIC HÌNH THỨC VÀ SÁU LỖI VI PHẠM QUY LUẬT LOGIC BIỆN CHỨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.17 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO
--------

Báo cáo tiểu luận
ĐỀ TÀI: TÁM LOẠI LỖI VI PHẠM QUY LUẬT LOGIC HÌNH THỨC VÀ SÁU LỖI VI
PHẠM QUY LUẬT LOGIC BIỆN CHỨNG
GVHD: PGS.TS Đoàn Đức Hiếu

Sinh viên thực hiện:

MSSV

Trịnh Vũ Tuấn Hùng

16147039

Nguyễn Quốc Huy

16147036

Trương Ngọc Trúc Lâm

16147049

Nguyễn Văn Hùng

16147038

Trần Nguyễn Quang Minh



16147057

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 11 năm 2018


Lời cám ơn
Sống trong xã hội, mỗi người không tồn tại một cách cô lập mà luôn có mối quan hệ với
nhau và quan hệ với tự nhiên. Cùng với ngôn ngữ, Lôgíc giúp còn người hiểu biết nhau
một cách chính xác và nhận thức tự nhiên đúng đắn hơn.
Trải qua quá trình lao động, tư duy lôgíc của con người được hình thành trước khi có
khoa học về lôgíc. Tuy nhiên tư duy lôgíc được hình thành bằng cách như vậy là tư duy
lôgíc tự phát. Tư duy lôgíc tự phát gây trở ngại cho việc nhận thức khoa học, nó dễ mắc
phải sai lầm trong quá trình trao đổi tư tưởng với nhau, nhất là những vấn đề phức tạp.
Lôgíc học giúp chúng ta chuyển lối tư duy lôgíc tự phát thành tư duy lôgíc tự giác. Tư
duy lôgíc tự giác đem lại những lợi ích sau :




Lập luận chặt chẽ, có căn cứ; trình bày các quan điểm, tư tưởng một cách rõ ràng,
chính xác, mạch lạc hơn.
Phát hiện được những lỗi lôgíc trong quá trình lập luận, trình bày quan điểm, tư
tưởng của người khác.
Vạch ra các thủ thuật ngụy biện của đối phương.

Lôgíc học còn trang bị cho chúng ta các phương pháp nghiên cứu khoa học : Suy diễn,
Qui nạp, Phân tích, Tổng hợp, Giả thuyết, Chứng minh v.v… nhờ đó làm tăng khả năng
nhận thức, khám phá của con người đối với thế giới.
Ngoài ra, lôgíc học còn có ý nghĩa đặc biệt đối với một số lĩnh vực, một số ngành khoa

học khác nhau như : Toán học, Điều khiển học, Ngôn ngữ học, Luật học v.v…
Với sự hướng dẫn của PGS.TS Đoàn Đức Hiếu, nhóm em đã hoàn thành được
bản tiểu luận này. Mọi tài liệu sử dụng trong tiểu luận này hoàn toàn do tụi em sưu tầm
và chọn lọc, cũng như nghiêm cứu.


Mục lục


MỞ ĐẦU
Chúng ta thường gặp lỗi khi tư duy như thế nào?
Logic học với tư cách là khoa học về tư duy coi nhiệm vụ nghiên cứu chính là làm sáng
tỏ những điều kiện đạt tới tri thức chân thực, phân tích kết cấu của quá trình tư duy,
vạch ra thao tác logic của tư duy và phương pháp luận nhận thức chuẩn xác. Logic học
tiến hành xem xét, đánh giá kinh nghiệm suy nghĩ thông thường, phát hiện những bản
chất sâu sắc hơn và chỉ đạo, hướng dẫn cho việc tư duy đúng đắn hơn.
Dù biết hay không biết về logic học thì việc suy nghĩ của con người cũng đều phụ thuộc
vào các quy luật logic và các hình thức tư duy. Và như vậy, logic học chiếu rọi vao kinh
nghiệm tư duy của mỗi người giúp cho con người tư duy chủ động và tự giác hơn, thể
hiện tính chính xác, tính đúng đắn, nâng cao hiệu quả và tính thuyết phục của các tư
tưởng. Quan trọng hơn, việc nghiên cứu logic học giúp chúng ta phát hiện ra những sai
lầm logic của chúng ta và những người khác, cũng như để tránh khỏi sai lầm logic do
vô tình hay hữu ý phạm phải.
Hình thức cơ bản của tư duy trong quá trình nhận thức là suy luận. Nó xuất phát từ
những phán đoán đã biết để rút ra những phán đoán mới. Cá nhân tôi qua quan sát tư
tưởng của nhiều người thông qua các tài liệu, sách báo, hay sinh hoạt đời sống, công
tác… đã gặp và ghi nhận được rất nhiều loại lỗi suy luận. Bên cạnh những lỗi về tính
chân thực gắn với quan sát thực tế, kiến thức của nhiều ngành, lĩnh vực tri thức khác
nhau, còn có một số lượng đáng kể các lỗi liên quan cả đến những thao tác suy luận .
Những lỗi này sẽ gây ra những kết luận sai ở bất kì ai. Lỗi suy luận thậm chí có thể ở

cả trường hợp kết quả cuối cùng là đúng.
Trong phạm vi bài viết này, tôi phân loại lỗi suy luận căn cứ vào sự vi phạm các nguyên
lý và quy luật logic, gồm: 8 loại lỗi vi phậm quy luật logic hình thức và 6 lỗi vi phạm quy
luật logic biện chứng .
Việc phát hiện, mô tả rõ những lỗi thường gặp này sẽ giúp chúng ta sửa chữa cách suy
nghĩ hàng ngày, nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình.

4


I. Logic học
Logic học là ngành khoa học nghiên cứu về tư duy với tư các là một quá trình nhận
thức. Đây chính là sự tự ý thức về hoạt động tư duy.
Tư duy với tư cách là một sự vật, hiện tượng đặc thù cũng có quá trình vận động và
phát triển của mình. Trong quá trình ấy, bản thân tư duy cũng là sự thống nhất của hai
trạng thái động và tĩnh. Việc nghiên cứu tư duy cũng phải xem xét với cả trạng thái tĩnh
và trạng thái động của nó. Trạng thái tĩnh là đối tượng nghiên cứu của logic hình thức,
còn trạng thái động là đối tượng nghiên cứu của logic biện chứng. Ví dụ, các loại hình
tư duy cổ đạ, cổ điển – như những sự vật đồng nhất trừu tượng là đối tượng của logic
hình thức, ngược lại sự vận động của tư duy là loại hình cổ đại lên loại hình cổ điển là
đối tượng của logic học biện chứng.
Cũng tương tự như vậy, các hình thức của tư duy như khái niệm , phán đoán, suy lý,
….cũng nằm trong sự thống nhất của trạng thái động và trạng thái tĩnh. Với mỗi hình
thức này, logic hình thức và logic biện chứng cũng có những nhiệm vụ khác nhau.
Logic hình thức nghiên cứu chúng trong trạng thái tĩnh (ví dụ, vạch ra các thuộc tính ,
dấu hiệu được phản ánh tjai một thời điểm cố định, trong một quan hệ nhất định). Trái
lại, logic biện chứng nghiên cứu trạng thái động của chúng (ví dụ, sự vận đọng, phát
triển của khái niệm; sự vận động, phát triển của các thuộc tính, dấu hiệu trong các khái
niệm).
Logic học tập trung làm rõ tính chân thực của tư tưởng, nó thống nhất giữa 2 bộ phận:

logic học hình thức và logic học biện chứng .
Những lý luận là hình thức của logic hình thức có cơ sở của thực tế khách quan là sự
đứng im tương đối và ranh giới xác định của các sự vật. Khi con người nhận thức ở
trong trạng thái ổn định, không quan tâm đến mối liên hệ giữa các sự vật thì môn logic
hình thức với phạm trù cố định là cần thiết và có hiệu quả, nhưng nếu tuyệt đối hoá vai
trò của logic hình thức thì sẽ dẫn đến sai lầm.
Logic biện chứng vượt ra ngoài phạm vi của logic hình thức, nó không chỉ phản ánh sự
khác nhau giữa sự vật mà còn phản ánh mối liên hệ giữa chúng, không chỉ phản ánh
trong trạng thái yên tĩnh của sự vật mà còn phản ảnh quá trình vận động của sự vật.
Con người nhận thức các trạng thái vận động, quan tâm đến mối liên hệ giữa các sự
vật thì môn logic biên chứng với phạm trù biến động sẽ là cân thiết và có hiệu quả.
Logic hình thức và logic biện chứng bổ sung cho nhau. Trong quá trình nhận thức
không thể vi phạm những quy luật của logic hình thức, dẫn đến những mâu thuẫn làm
cho tư duy rối loạn. Mâu thuẫn logic ở đây là do sai lầm chủ quan của con người trong
quá trình nhận thức, không phải là mâu thuẫn trong hiện thức khách quan. Để nhận
thức được mâu thuẫn trong hiện thực, trước hết phải theo những quy luật của logic
hình thức, loại trừ mâu thuẫn logic, trên cơ sở đó vận dụng phương pháp tư duy biện
chứng mới có thể nhận thức ra được biện chứng khách quan, phát hiện ra mâu thuẫn
của bản thân sự vật.
5


Ta gọi những quy luật cơ bản là những tính chất chung, đúng đắn có hiệu lực và làm cơ
sở cho mọi quá trình tư duy có logic.
Bảng sau so sánh hệ thống nguyên lý và quy luật cơ bản của hai học thuyết logic hình
thức và biện chứng

Tiếp theo chúng ta khảo sát các nguyên lý và quy luật logic cụ thể.
II. Nhưng quy luật của logic hình thức cổ điển
1. Quy luật đồng nhất . Mỗi tư tưởng (để phản ánh về đối tượng ở phẩm chất xác

định) phải đồng nhất với chính nó. A là A
Quy luật đồng nhất đảm bảo cho tư duy có được tính xác định. Tính xác định của khái
niệm phản ánh tính xác định của sự vật mà khái niệm đó phản ánh. Chừng nào sự vật
vẫn còn là nó, chưa biến thành cái khác thì nội hàm của khái niệm về sự vật đó phải
được giữ nguyên, phải được đồng nhất.
2. Quy luật phi mâu thuẫn.
Một tư tưởng (đã được định hình) không được đồng thời mang 2 giá trị logic trái ngược
nhau. Điều này đảm bảo cho tư duy có tính nhất quán.
3. Quy luật bài trừ cái thứ 3 - luật bài trung.
Một tư tưởng phải mang giá trị logic xác định, hoặc chân thực, hoặc giả dối không có
khả năng thứ 3.
4. Quy luật lý do đầy đủ.
Bất kì một phán đoán nào muốn được thừa nhận là chân thực thì phải có đầy đủ những
luận điểm chân thực khác làm căn cứ / lý do để xác minh. Các phương pháp logic giúp
chúng ta tư duy đúng logic và khám phá bản chất, quy luật, phổ biến của sự vật tồn tại.
Ngoài ra, tính thực tiễn cũng đóng vai trò quan trọng không kém đối với việc kiểm tra,
đánh giá chân lý của tri thức con người.

6


III. Những quy luật của logic biện chứng
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong những
mối liên hệ, tác động lẫn nhau.
2. Nguyên lý về sự phát triển: Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong
sự vận động, biến đổi và phát triển.






Quy luật 1: Chuyển hoá lượng - chất. Sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi
về chất và ngược lại. Quy luật giải thích cách thức của sự phát triển.
Quy luật 2: Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Mọi sự vật, hiện tượng
đều chứa đựng những mâu thuẫn nghĩa là chứa những mặt đối lập. Những mặt
đối lập này vừa thống nhất với nhau vừa đấu tranh với nhau. Quy luật giải thích
nguyên nhân của sự phát triển.
Quy luật 3: Phủ định của phủ định. Quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng
là quá trình phủ định của phủ định, phủ định để tạo điều kiện, tiền đề cho sự phát
triển. Quy luật giải thích chu kỳ, quá trình của sự phát triển, đổi mới.

IV. Các loại lỗi logic
a) 8 lỗi logic hình thức
1. Lỗi “Mãi mãi không thay đổi". Ta suy nghĩ về sự vật hay hiện tượng mãi giống như
nó đang ở điều kiện hiện tại hoặc là mãi có một tính chất, thuộc tính cố định nào đó.
2. Lỗi “Nhìn nhận một quá trình lâu dài như một sự kiện nhất định”. Ta suy nghĩ về
các đối tượng dựa trên một vài sự kiện , hiện tượng liên quan chứ không phải là trong
suốt cả quá trình.
3. Lỗi “Giải quyết cách định nghĩa lại”. Một dạng của suy nghĩa đánh tráo khái niệm
nghĩa là thay đổi nội dung khái niệm trong khi giữ nguyên tên gọi.
4. Lỗi “Phân tích tính độc lập”.
Sự việc, sự vật ta chọn được tác khỏi tồn tại, phân tách hoàn toàn một bộ phận khỏi
tương tác/quan hệ với môi trường, độc lập trong khi mỗi thứ đều phụ thuộc lẫn nhau, có
quan hệ với những cái khác.
5. Lỗi “Cô lập vấn đề”: lưu tâm tới vấn đề như một sự việc riên rẽ , rời rạc trong ngữ
cảnh rộng của nó.
6. Lỗi “Kết quả duy nhất”: Một kết quả chỉ tạo ra từ 1 nguyên nhân tương ứng.
7. Lỗi “Loại trừ phương án khả thi”: hướng đến giới hạn cách chúng ta nghĩ và lựa
chọn. Thực tế cho thấy nhiều khi chúng ta lựa chọn trong hơn 2 phương án.
8. Lỗi “Nguyên nhân đúng đắn”: Nghĩ rằng đó là lý do đầy đủ cho sự kiện Khách

quan <> Chủ quan. Thoả mãn sớm: phụ thuộc vào những mong muốn, mục tiêu, thái
độ, tình cảm, chưa đủ nhũng cứ liệu thực tiễn vững chắc.

7


Đa số các lỗi đều bắt nguồn từ thiếu sót là coi mọi khái niệm, đối tượng, người, sự
vật… là không biến đổi, không có liên hệ gì với nhau.
Giải thích cụ thể
Lỗi 1: “Mãi mãi là không thay đổi”
Khó có thể hẹn chế hay khẳng định những ngữ cảnh khác nhau áp dụng chỉ một cách
duy nhất. Logic hình thức trong sâu xa không xem xét đến yếu tố thay đổi theo thời
gian. Chúng ta phải tự xoay sở đối xử với sự thay đổi liên tực của thế giới và cả chính
những kết quả, cách thức tư duy của chúng ta. Và đó làm nảy sinh lỗi suy nghĩ ta
thường xuyên rơi vào.
Ví dụ, “Đó là đế quốc thực dân mãi mãi là sen đầm trong khu vực và trên thế giới !”
(như trước kia và lúc này). Chính sách của mỗi nước sẽ thay đổi trong quá khứ, ở thời
điểm xem xét và trong tương lai. Vậy nhận định như thế là không phù hợp
Lỗi này còn xuất hiện trong nhiều tình huống khác nhau, (đặc biệt là với những sự vật,
hiện tượng vận động đa dạng) dẫn đến những kết luận nhanh chóng có thể là những
sai lầm.
Ví dụ, nếu năm 1983 chúng ta nhận định kinh tế Trung Quốc luôn là nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp, khó có hy vọng thay đổi thì chỉ áu 4 năm, năm 1987 Trung
Quốc đã chuyển đổi 70% sang thành kinh tế thị trường tự do.
“Mãi mãi không thay đổi” là một lỗi mang đầy tính chât bảo thủ, tự coi mình là tiên tri
trong mọi việc suy xét thực tế.
Lỗi 2: Nhìn nhận một quá trình lâu dài như một sự kiện nhât định.
Quá trình được xem như chuỗi các sự kiện diễn ra liên tiếp, mỗi sự kiện lại được xem
xét như một thay đổi. Chúng ta nghĩ về một sự kiện như là một quá trình ngắn hay một
thời điểm. Bởi vậy trong ngôn ngữ chứng ta cũng thường dùng danh từ để chỉ sự kiện

bắt ngườn từ một động từ. Lỗi này xuất hiện từ việc chúng ta dừng thời gian và coi tư
duy với các sự vật, hiện tượng, quá trình là đồng nhất. Vấn đề là chúng ta cần định
nghĩa kỹ những ranh giới xác định cho một sự kiện vẫn là nó.
Ví dụ: chỉ diễn ra 1 sự kiện là mọt cuộc hội thảo bản về phòng chống tội phạm tạo cho
nhiều người cảm nghĩ chúng ta có một quá trình tích cực chống tội phạm lâu dài.
Lỗi 3: Giải quyết vấn đề bằng định nghĩa lại nó.
Con người sử dụng và phụ thuộc vào những từ ngữ trừu tượng do mình sinh ra. Một từ
đơn giản chưa chắc đã là dễ hiểu, nhất là nó thay đổi theo tình huống sử dụng, định
nghĩa nó. Chúng ta có thể làm biến mất vấn đề, đảo ngược vấn đề khi phân loại lại nó
vào trong một phạm trù khác, lĩnh vực kiến thức, môi trường văn hoá khác. Logic hình
thức hàm ý là không được thay đổi các khái niệm theo định nghĩa lại, phân loại lại
chúng khi đang tiến hành quá trình tư duy. Điều này không tất yếu làm thay đổi điều
kiện. Hiểu sai những thuộc tính cơ bản của khái niệm hay mức độ hiểu biết thiếu sâu
8


sắc khái niệm cũng thường dẫn đến nhưng thay đổi khái niệm và là nguyên nhân nảy
sinh lỗi 3 loại này.
Ví dụ, suy luận “Vật chất luôn vận động. Cái ghế này là vật chất sao chẳng thấy di
chuyển gì?”. Khái niệm Vật chất, vận động trong triết học đã bị đánh tráo thành khái
niệm vật chất, vận động của đời thường. Khi thay đổi khái niệm như vậy, chung ta đã
vượt khỏi ranh giới vận dụng đúng đắn nguyên lý của logic hình thức. Một ví dụ khác ,
trong quan hệ giữa Trung Quốc - Đài Loan, việc Trung Quốc luôn coi Đài Loan là một
bộ phận không thể tách rời của mình. Định nghĩa này xuất phát từ quan điểm coi Đài
Loan, Trung Quốc là 2 đối tượng khác nha của tư duy thành một đối tượng, đã từ lâu
không cho phép bàn luận, thay đổi tình hình, quan hệ quốc tế đối với Đài Loan.
Lỗi 4. Tự mình độc lập
Lỗi này do người nghĩ coi mình riêng biệt , phân biệt rõ ràng với những người khác,
quên đi những mối quan hệ, phụ thuộc lẫn nhau. Logic hình thức đa coi rằng chính ra là
ta chứ không phải một ai khác. Quy luật cơ bản xác định hoạt động của một người hay

một tổ chức không xem xét đến những ảnh hưởng sâu xa đến những người khác, tổ
chức khác.
Trong nhiều mối quan hệ, nhiều lúc một cá nhân hay tổ chức hoạt động mà không quan
tâm đến ảnh hưởng của nó đối với những đối tác khác. Như việc thay đổi chính sách
thuế ở các nước, tăng cường mua sắm thiết bị ở một phân xưởng… Nguồn gốc lỗi là
người định nghĩa đã tự mình coi như độc lập, không thấy hết những mối quan hệ tinh tế
lẫn nhau.
Lỗi 5. Cô lập vấn đề
Xu hướng của lỗi là lưu tâm tới vấn đề như rời rạc, độc lập trong hoàn cảnh rộng lớn
hơn. Nó là kết quả của việc dùng sai quy luật cấm mâu thuẫn. Nếu một vấn đề là duy
nhất thì không được cùng lúc nối nó với nhiều ngữ cảnh rỗng rãi. Một cách đúng dắn
sự phân tích đúng đắn là khảo sát tương tác hệ thống đang hoạt động với những hệ
thống lớn hơn mà nó chỉ là một thành phần.
Chúng ta cũng thường xuyên tách riêng một vấn đề nào đó và coi những vấn đề khác
là không có liên quan. Đó cũng yêu cầu tâm trí của người do hạn chế của trí não. Lỗi
này có thể ẩn dụ như “lỗi đườnng hầm”. Vấn đề B là lý lẽ chính để hướng đến mục đích
A mong ước. B dẫn dắt tới C. C thì dẫn dắt tới D. Và như vậy ra dễ coi rằng D chính
cách chủ yếu để đạt được C, B và tức là A mong muốn. Thực ra nếu chúng ta hướng
tâm trí và vị trí bên ngoài thế giới của A, B, C, D có thể để lộ ra những mối quan hệ
khác quan trọng không kém, không thuộc đường dẫn A-B-C-D mà chúng ta đã chọn lựa
ra.
Lỗi 6. Lỗi kết quả duy nhất.
Lỗi này cho rằng mỗi vấn đề hay hoạt động chỉ đem lại một và chỉ một kết quả duy nhất.
Bẫy này sử dụng nhầm lẫn quy luật loại trừ lẫn nhau, ước định coi một cái bất kỳ không
thể vừa là thế này vừa là thế kia. Chúng ta phải hiểu đúng nguyên lý này là tại một
9


thười điểm duy nhất xác. Nó có thể không đúng nếu ta xem xét các kết quả ở những
thời điểm khác nhau. Kết quả cũng có thể thay đổi khi những người quan sát có những

lợi ích khác nhau khi nhìn nhận kết quả ấy.
Ví dụ, các bộ trưởng các nước OPEC đã tin tưởng rằng việc tăng giá dầu ở những năm
1970 sẽ không gây hậu quả xấu nào với nền kinh tế thế giới. Nó cũng giúp cho mỗi
nước thu thêm đưuọc những lợi tức đáng kể. Nhưng kết quả là sau vài tháng nhu cầu
dầu lửa giảm, họ cũng tự cắt giảm sản lượng của mình và các nước chẳng có thêm
một chút lợi nhuận nào từ việc bán dầu mỏ.
Ví dụ tương tự có thể kể ra như diệt chim sẻ ở Trung Quốc , khai thác chặt phá rừng
quá mức ở các nước. Bản chất của lỗi này có thể nói ngắn gọn là: “Bản chất mọi vấn
đề không thể chỉ đơn giản là một thứ.Ý tưởng cần được xem xét đến trong một hệ
thống vấn đề liên quan lẫn nhau.”
Lỗi 7. Loại trừ phương án khả thi
Logic hình thức chỉ ra những cảnh quan dẫn dắt chúng ta đến việc công thức hoá chọn
một giải pháp trong nhiều giải pháp bới chúng phải tự loại trừ lẫn nhau, không chấp
nhận giải pháp trộn lẫn.
Ví dụ kinh điển nhất trong khoa học là từ lâu những nhà vật lý thế kỷ 19 tranh luận về
bản chất hạt và sóng của ánh sáng. Những thực nghiệm khác nhau cho thấy ánh sáng
mang bản chất hạt, một số khác lại làm lỗ rõ ra bản chất sóng của nó. Lúc bấy giờ việc
chọn một trong 2 dạng bản chất là giải pháp chủ yếu , không ai chấp nhận là ánh sáng
mang lưỡng bản chất sóng – hạt. Một lỗi khác tinh tế hơn là trong lĩnh vực triết học. Khi
chúng ta đang cố phân biệt hai trù “tinh thần” với “vật chất” một cách rạch ròi và xem
xét một sự kiện hay hiện tượng thì thuộc loại phạm trù duy nhất nào, mối quan hệ của
nó với phạm trù kia.
Trong thực tế cuộc sống chính trị thế giới, chúng ta gặp không ít lỗi tương tự kiểu của
tổng thống Mỹ W.Bush: thế giới chỉ có 2 lực lượng: một là đứng về phía chúng tôi đại
diện cho tiến bộ và một là đứng về bọn ủng hộ khủng bố” (quan điểm về trật tự thế giới
chia hai: Hiện nay, mỗi một quốc gia, bất kể ở nơi đâu, cần phải đưa ra quyết định:hoặc
là đứng về phía với chúng tôi, hoặc với bộn khủng bộ!) Chúng ta đã mắc vào loại lỗi
Loại trừ nhau nói trên.
Lỗi 8: lý do đầy đủ.
Con người thường có thói quen tư duy miên man và dễ xa rời, lệch lạch nhiều so với

thực tế.
Hoặc là thiếu những căn cứ thực tiễn được xem xét , thu thập chính xác; thiếu những lý
thuyết tin cậy đến thời điểm hiện tại và xem xét những lý thuyết đó một cách khách
quan , suy luận đúng đắn, có phản biện. Hoặc là kết quả suy luận không được kiểm
chứng, đối chiếu lại với thực tế.

10


b) 6 lỗi logic biện chứng
Thật dễ hiểu , mọi suy luận đúng đắn đến đâu mà thiếu căn cứ vào thực tế là đều bất
ổn và càng dẫn đến đi trệch thực tế ngày một nhiều.Điều này còn đúng cả khi quan sát
thực tế không khách quan, tiếp nhận phán đoán chưa có cơ sở của người khác qua
truyền thông như một dạng trung gian của thực tế. Loại lỗi tư duy này được các nhà
quảng cáo , tuyên truyền ở rất nhiều nước vận dụng.
Bên cạnh logic hình thức, logic biện chứng cần cho chúng ta để áp dụng nó chính xác
và chấp nhận những hạn chế của nó. Cảnh quan suy nghĩ biện chứng cũng có thể làm
cho chúng ta mắc những lỗi tiềm tàng. Nó chứa đựng những phép ẩn dụ mạnh dẫn dắt
tư duy của ta gần như loại trừ đi những khả năng khác.
Lỗi 1: Coi càng nhiều lượng là càng tốt.
Lỗi này giả thiết rằng bất cứ việc gì cũng có thể giải quyết được được nếu được sử
dụng thật nhiều tài nguyên hơn.
Lỗi 2: Vũ lực có thể được chọn
Chúng ta tin chắc rằng để giải quyết tình trạng mâu thuẫn trong một thời gian ngắn bắt
buộc phải dùng đến vũ lực.
Lỗi 3:Những thay đổi hiệu quả tạo nên bằng những mâu thuẫn.
Ý tưởng của ta là mâu thuẫn có thể thao nên những thay đổi và mâu thuẫn sẽ giúp sinh
ra những kết quả có lợi.
Lỗi 4: Đối kháng là tất yếu
Ta giả thuyết rằng có xung đột, đối kháng tất yếu giữa sự vật-sự vật, người – người , cơ

quan, tổ chức, nhóm, cộng đồng, dân tộc,…
Lỗi 5: Không có một giới hạn nào.
Tài nguyên và nguồn lực…vô hạn định cho sự hoạt động, phát triển.
Lỗi 6: Kẻ thắng cuộc
Ý tưởng là luôn có một kẻ thắng và kẻ khác thua cuộc.
Những lỗi này thường xuyên xuất hiện do sự công nhận vô ý thức, thiếu nghiên cứu
những cảnh quan ẩn trong những nguyên lý tiền đề của logic biện chứng. Đó là:
- Thiếu những ranh giới hay mức độ giới hạn. Thời gian, tài nguyên, mức dộ của nguồn
lực cho hoạt động là vô hạn đối với người tư duy biện chứng.
- Sự có mặt mâu thuẫn: nhà tư duy biện chứng giả thuyết mâu thuẫn là cần thiết để sản
sinh ra những thay đổi.

11


Giải thích cụ thể:
Lỗi 1: Trong bất kỳ tình huống nào, tài nguyên, nguồn lực càng lớn thì càng có
lợi.
Ví dụ như ở mức doanh nghiệp, giải thích nguyên nhân chậm, kém phát triển của
doanh nghiệp là do thiếu vốn, ở mức quốc gia các siêu cường chạy đua vũ trang và coi
vũ khí càng nhiều thì càng có lợi, đảm bảo được sự an toàn cho quốc gia.
Lỗi 2: Dùng vũ lực có thể thúc đẩy sự phát triển.
Sử dụng sức mạnh để chiến thắng các trờ ngại, thay đổi tình trạng của những người
khác hoặc tự mình. Bằng cách nào đó gây những ảnh hưởng hoặc bắt buộc những
người khác, dùng vũ lực chiến thắng nếu người khác phản ứng lại. Ví dụ, đó là dạng
quan hệ đối ngoại “Cây gậy-củ cà rốt” trên trường quốc tế. Hệ quả cho thấy là những
kết quả bất ngờ, tàn khốc, khó dự báo. Hiệu ứng quân sự, chính trị, kinh tế thê thảm.
Vũ lực không phải không bao giờ được sử dụng nhưng cũng không phải luôn là giải
pháp duy nhất.
Lỗi 3: Mâu thuẫn thay đổi mọi cái theo cách hiệu quả

Nếu cho rằng nguồn gốc mọi trạng thái, thời điểm đều chứa đựng những mâu thuẫn và
chính mâu thuẫn điều khiển, sản sinh nên những thay đổi thì những gì cần làm là bằng
mọi cách khuấy động lên mâu thuẫn. Đó là cơ sở lý luận của khủng bố: xúi giục nên
những mâu thuẫn để giải quyết những hận thù tinh thần.
Văn học dân gian khuyên chúng ta “Mâu thuẫn làm trong sạch không khí”. Chính mâu
thuẫn trở thành trung tâm của sự tranh giành, đấu đá quyền lực. Thái độ, chính sách
đối với kinh tế tư nhân trước kia… không đàn áp để các nguồn lực phát triển cũng là sự
bảo trì, duy trì mâu thuẫn.(??)
Lỗi 4: Mẫu thuẫn là tất yếu
Kể cả có giải quyết được mâu thuẫn hay không thì mâu thuẫn vẫn luôn luôn tồn tại và
tiếp tục vận động. Nhiều học thuyết cho rằng giữa những dân tộc luôn có xung đột vì
mối quan tâm, lợi ích, tư tưởng mỗi nơi mỗi khác. Từ đó làm cơ sở chứng minh sự
tương tác giữa các nền văn minh là sự đương đầu, đối chọi và xung đột. Kết quả của
mâu thuẫn là những hình ảnh xuyên suốt lịch sử: Chúa trời – quỷ xa tăng , tội lỗi-hạnh
phúc, chính nghĩa-phi nghĩa…..
Lỗi 5: Không có một giới hạn nào.
“Luôn luôn có ngày mai” – sự biến đổi vô hạn định ngụ ý luôn có thời gian để giải quyết
các vấn đề. Giả thuyết về việc không ngừng tăng cường lực lượng và can thiệp là có
thể thực hiện được mọi mưu đồ như trường hợp Mỹ can thiệp vào Việt Nam, các khái
niệm như Dự trữ năng lượng, Quỹ an ninh xã hội....
Kết hợp với logic hình thức, lỗi này có thể trở thành: phân loại vô hạn, không xác định
và sắp đặt hợp lý trong thời hạn chấp nhận.
12


Lỗi 6: Kẻ thắng, người thua.
Bắt nguồn từ mỗi quá trình trong cuộc sống là sự xung đột hoặc giải quyết mâu thuẫn.
Những cái người này thu được thì kẻ khác sẽ bị mất đi. Thay cho lập luận tổng = Zero
như vậy, giải pháp khôn ngoan cho vấn đề chung là mọi bên đạt được những chiến
thắng và thỏa mãn.

VI. Kết luận
Chúng ta thường chọn cách lập luận tiện nhất, dễ nhất với mình mà đôi khi không nghĩ
kỹ để cách lập luận sao cho đúng, đặc biệt trong vận dụng các quy luật của logic hình
thức và logic biện chứng. Vì vậy, bài biết này như một thức tỉnh của cá nhân tôi về thực
tế suy luận của bản thân và cũng là báo động chung cho tất cả mọi người tránh sa vào
những lỗi đã nêu rất dễ mắc phải.
Mong muốn của chúng tôi là chúng ta hạn chế được các lỗi suy luận bằng cách tiếp tục
chia sẻ kinh nghiệm suy luận của mình để cùng cho chung cách suy luận tốt và đúng
đắn. Ít lỗi trong suy nghĩ và lập luận sẽ giúp chúng tôi và các bạn mau chóng thành
công !
Một vài ghi chú:
Trong quá trình viết bài này, chúng tôi nhận ra còn một vài dạng lỗi logic biện chứng
khác và chúng tôi đang suy ngẫm thêm và hoàn thiện hơn bài viết
1. Sự chuyển hóa từ sự vật này sang sự vật khác qua những khâu trung gian mà
các yếu tố cũ mới đan xen, chuyển hóa dẫn lẫn nhau. Kho học đã tìm thấy những loài
là khâu trung gian giữa động vật có xương sống và động vật không có xương sống,
giữa loài cá và lưỡng thể...
Bỏ qua giai đoạn chuyển dần về lượng qua khâu trung gian là vi phạm quy luật khách
quan của sự phát triển. Khâu trung gian là tất yếu trong quá trình nhảy vọt về chất.
Nhảy vọt là kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình
vận động liên tục của sự vật, nhưng không cắt đứt mối liên hệ tự nhiên giữa sự vật cũ
và mới. Cho nên nhảy vọt bao giờ cũng gắn liền với những khâu trung gian. Nhảy vọt là
quá trình tất yếu để chuyển hóa chất cũ thành chất mới trên cơ sở đã tích lũy đủ lượng,
còn khâu trung gian lại là trạng thái tồn tại của sự vật đang trong quá trình nhảy vọt.
2. Đặc điểm của quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt đối lập khi nó đã trở
nên chín muồi là ở sự chuyển hóa từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia. Để thực
hiện được sự chuyển hóa, các mặt đối lập không thể tồn tại tách rời nhau, mà phải
“dung hợp” với nhau trong những hình thức nhất định. Khâu trung gian được coi là
những thực thể mang mâu thuẫn, trong đó sự dung hợp của các mặt đối lập là nững
tiền đề, những điều kiện khách quan để chúng đấu tranh và chuyển hóa lẫn nhau.

Quan điểm sai lầm là không thấy được tác động qua lại giữa các mặt, khuynh hướng
mâu thuẫn, vừa bao hàm sự hài hòa lẫn xung đột, cả sự đấu tranh lẫn sự hợp tác. Do
vậy, trong khi tiến hành giải quyết mâu thuẫn tìm cách can thiệp tiêu cực, vứt bỏ giản
13


đơn một trong các mặt đối lập của mâu thuẫn, trong khi lại xem mặt kia như một chỉnh
thể “phi” mâu thuẫn. Việc tự đề ra cho mình vấn đề tự loại bỏ mặt xấu, người ta đã
“chặn đứng” sự vận động biện chứng rồi. Sự phủ định không đơn giản là sự xóa bỏ
giản đơn cái này để có ngay cái khác mà bao gồm sự liên hệ, chuyển hóa lẫn nhau
giữa cái cũ và cái mới trên cơ sở chuyển hóa dẫn về lượng và thông qua cái trung gian.
3. Trong logic hình thức không nhìn thấy mối quan hệ chi phối lẫn nhau, tách bạch
rạch ròi nguyên nhân quả mà không tính tới kết quả lại có thể tác động trở lại nguyên
nhân làm cho không thể phân định rạch ròi nguyên nhân. (Ngụy biện: con gà và quả
trứng)
4. Nhầm lẫn đã đấu tranh các mặt đối lập là đi lên, phát triển – thực ra là vận động.
Vận động là sự biến đổi nói chung, là sự tác động qua lại giữa các khách thể vật chất
và tinh thần, có thể tạo ra các chiều hướng đi lên hoặc đi xuống, tiến tới hoặc thụt lùi qu
sự vật. Còn phát triển là sự biến đổi hợp quy luật, hướng tới và không qua trở lại của
cách khách thế, là sự vận động từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ cái cũ
đến cái mới. Sự kết hợp các mặt đối lập – cũng có thể là cách thức có ý thức, có chủ
đích của con người nhằm đạt được mục đích, lợi ích thực tiễn của mình. Trong thực tế
thể hiện qua các hình thức như thỏa hiệp, hợp tác hay liên minh tạm thời.
Sau đây là khái niệm mâu thuẫn: mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn của những nhóm
người có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Mức độ đối kháng có thể phân biệt là: đang ở
mức gay gắt, có thể điều hòa được, không thể điều hòa được
5. Nhầm lẫn đơn giản hóa mâu thuẫn chuyển hóa lẫn nhau, nghĩa là coi vị trí của
mặt này chuyển thành vị trí của mặt kia và ngược lại. Thực tế, đúng là trong hiện thực
có những sự chuyển hóa như sáng – tối, nóng – lạnh, thống trị - bị trị có thể chuyển hóa
cho nhau. Nhưng đó là một dạng của sự chuyển hóa. Nếu nhận thức chỉ dừng ở dạng

chuyển hóa giữa các mặt đối lập thì chỉ là biện chứng tuần hoàn. Dạng chuyển hóa cơ
bản là chuyển từ quan hệ này sáng quan hệ khác, là kết thúc của mâu thuẫn này và mở
đầu của quan hệ khác, chuyển hóa lẫn nhau hoặc chuyển hóa thành hình thức cao
hơn. Thực ra, nếu con người biết điều hòa lợi ích của mình thì những mâu thuẫn không
đối kháng đều có thể chuyển thành mâu thuẫn đối kháng
6. Về cách thức giải quyết mâu thuẫn – coi chỉ giải quyết được bằng con đường đấu
tranh chứ không phải là điều hòa mâu thuẫn, không chấp nhận mâu thuẫn là khách
quan, là phổ biến và có thể tồn tại lâu dài. Thực tế nhiều trường hợp đấu tranh vẫn
không giải quyết được mâu thuẫn như nô lệ - chủ nô, nông dân – phong kiến... nhưng
chỉ có mâu thuẫn đối kháng mới giải quyết lẫn nhau là tiêu diệt nhau, còn mâu thuẫn
hai vơ chồng không thể giải quyết như vậy. Hai bên chỉ có thể giải quyết bằng cách tìm
ra điểm chung của nhau, củng cố điểm chung đó và khắc phục những khác biệt đưa
đến ly tán. Cường điệu hóa sự đấu tranh chỉ là biểu hiện của chủ nghĩa cực đoan. Về
phương diện xã hội, tư tưởng này chỉ đưa đến sự hỗn loạn, vì như thế đấu tranh chỉ đi
tìm đấu tranh, chưa hết đấu tranh này đến đấu tranh khác. Một số trường hợp nhất định
ta có thể lựa chọn các hình thức như đấu tranh nghị trường, hợp pháp kết hợp đấu
tranh vũ trang.
14


7. Về tính chất của mâu thuẫn, không chấp thuận tính điều hòa mâu thuẫn: “cùng có
vua, cùng có thượng viện, cùng có nghị viện “coi đây là quan điểm giáo điều ?! Thực ra
khi các mặt mâu thuẫn có sự đối lập phát triển chưa đến đỉnh cao thì cường điệu đấu
tranh sự tiêu diệt nhau chính là thủ tiêu sự tồn tại của chính sự vật. Mâu thuẫn giải
quyết trong quá trình chuyển hóa dần dần, kéo dài và tạo điều kiện tiền đề để giải quyết
mâu thuẫn.
8. Các quan điểm về mâu thuẫn đối kháng:
- Đối lập về lợi ích cơ bản, sống còn hay lợi ích không thể điều hòa được giữa các lực
lường xã hội. Còn không đối kháng mà còn có thể nhất trí được với nhau, ví dụ công
nhân – tiểu tư sản, công nhân – nông dân.... Với mâu thuẫnđối kháng thì dùng bạo lực

tức là thủ tiêu sự thống nhất còn mâu thuẫn không đối kháng thì dùng biện pháp tổ
chức, giáo dục, thuyết phục, phê bình để khác phục dần mâu thuẫn tức củng cố sự
thống nhất.
- Mẫu thuẫn đối kháng là địa vị của các mặt đối lập nhau có tính chất bùng nổ thành
xung đột bên ngoài; vì vậy cách giải quyết loại mâu thuẫn chủ yếu là thông qua hình
thức xung đột bên ngoài. Mâu thuẫn không đối kháng thì không bao hàm nhân tố phải
bùng nổ thành xung đột bên ngoài.
- Nếu cứ có mâu thuẫn đối kháng là dùng đến bạo lực cách mạng để giải quyết còn tình
quy luật của sự vận động của mâu thuẫn đối kháng thì không được vạch ra (có tất yếu
xảy ra xung đột bạo lực không, hay chỉ là có khả năng, những điều kiện gì làm cho khả
năng đó trở thành hiện thực, duy nhất...)
- Ở trong một chỉnh thể và môi trường xác định, mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn
giữa những khuynh hướng, những lực lượng mà sự đấu tranh của chúng tất yếu dẫn
đến chỗ phá vỡ sự thống nhất, làm cho chỉnh thể thay đổi về chất, chuyển sang một
trạng thái khác; còn ở mâu thuẫn không đối kháng thù sự đấu tranh đó lại củng cố, tăng
cường sự thống nhất, làm cho chỉnh thể càng ổn định và chỉ có những sự thay đổi về
lượng; hai mặt của mâu thuẫn vẫn tồn tại và ở trong một sự tương quan phù hợp với
hệ thống các mâu thuẫn của chỉnh thể.
Sự vận động của mâu thuẫn đối kháng có thể dẫn đến tự giải quyết bằng hình thức hòa
bình hay bạo lực, tùy thuộc vào tính chất của mâu thuẫn và sự tác động của cả hệ
thống các mâu thuẫn của chỉnh thể cùng môi trường của nó. Mâu thuẫn không đối
kháng thì bao giờ cũng diễn ra dưới hình thức hòa bình, nếu xảy ra đấu tranh dưới hình
thức bạo lực, thì do đã có sự tác động của những yếu tố thuộc chỉnh thể hay môi
trường, mà mâu thuẫn trở thành đối kháng, đồng thời xuất hiện những điều kiện làm
cho mâu thuẫn đối kháng phát triển dẫn đến bạo lực.
Kết luận:
Sự phát triển của mâu thuẫn đối kháng không phải lúc nào và ở đâu cũng dẫn đến xung
đột bằng bạo lực. Nó còn tùy thuộc vào những điều kiện khác, ví dụ xung đột tôn giáo.

15



TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Chưa rõ, Kilopad.com, />05/11/2018

16



×