Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Hình ảnh nho học trong sáng tác của ngô tất tố (lều chõng) và chu thiên (bút nghiên, nhà nho)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.36 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

BÙI THỊ HẢI SÂM

HÌNH ẢNH NHO HỌC TRONG SÁNG TÁC CỦA
NGÔ TẤT TỐ (LỀU CHÕNG) VÀ
CHU THIÊN (BÚT NGHIÊN, NHÀ NHO)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên – 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

BÙI THỊ HẢI SÂM

HÌNH ẢNH NHO HỌC TRONG SÁNG TÁC CỦA
NGÔ TẤT TỐ (LỀU CHÕNG) VÀ
CHU THIÊN (BÚT NGHIÊN, NHÀ NHO)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Hải Yến

Thái Nguyên – 2018




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Bùi Thị Hải Sâm


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn
Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học,
Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực
tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn TS. Trần Thị Hải Yến đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời
gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Bùi Thị Hải Sâm



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG ............................................................ 10
1.1. Nho học trong văn hóa Việt Nam thời trung đại.............................................. 10
1.2. Những cải cách giáo dục của thực dân Pháp ở Việt Nam đầu thế ky XX ....... 12
1.3. Cấu trúc tầng lớp trí thức Việt Nam đầu thế ky XX ........................................ 16
1.4. Học vấn và những tác phẩm của Ngô Tất Tố, Chu Thiên về Nho giáo ........... 19
CHƯƠNG 2. NHO HỌC TRONG CÁCH NHÌN CỦA NGÔ TẤT TỐ VÀ CHU
THIÊN ..................................................................................................................... 26
2.1. Nội dung học của môn sinh Việt Nam thời trung đại ...................................... 26
2.1.1. Chương trình khai tâm .................................................................................. 26
2.1.2. Chương trình tiểu tập .................................................................................... 27
2.1.3. Chương trình đại tập...................................................................................... 27
2.2. Lối học Nho giáo trong tác phẩm của Ngô Tất Tố và Chu Thiên ................... 29
2.3. Trường thi Nho học qua phục dựng của Ngô Tất Tố và Chu Thiên ................ 42
2.3.1. Các vòng thi và nội dung thi ......................................................................... 42
2.3.2. Quy tắc thi cử ................................................................................................ 47
2.3.3. Nhận xét về lối thi Nho học từ các tác phẩm của Ngô Tất Tố và Chu Thiên55
CHƯƠNG 3. NẾP SỐNG CỦA NHÀ NHO QUA NGÒI BÚT CỦA NGÔ TẤT
TỐ VÀ CHU THIÊN .............................................................................................. 59
3.1. Nhà nho với đạo học ........................................................................................ 59
3.2. Nhà nho trong quan hệ với thầy học, bạn hữu ................................................. 66
3.3. Nhà nho trong cuộc sống gia đình (cha mẹ, vợ con) ....................................... 73
3.4. Nhà nho trong sinh hoạt văn hóa làng xã......................................................... 78
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................... 86


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đê tài
1.1. Là một hệ tư tưởng ngoại lai nhưng Nho giáo có lịch sử du nhập và tồn tại
lâu dài ở Việt Nam, khoảng từ thế kỉ III đến thế kỉ XX (năm 1945). Đặc biệt, trong
quãng thời gian từ thế kỉ XV đến thế kỉ XX - khi Nho giáo được lựa chọn là một học
thuyết chính trị - thì ảnh hưởng của nó thật sự liên tục, sâu rộng. Từ một học thuyết
đạo đức, Nho giáo trở thành nguyên tắc tổ chức bộ máy chính trị quốc gia, quy định
thiết chế văn hóa xã hội và đời sống của dân chúng. Tham gia vào việc tổ chức bộ máy
chính trị, vào thiết chế văn hóa Nho giáo có một hệ công cụ chắc chắn đó là kinh điển
và chế độ khoa cử để đào luyện ra một đội ngu những trí thức (ke sĩ), còn gọi là nhà
nho. Hệ “công cụ” Nho giáo đó là Nho học. Nho học, vì vậy có một vai trò hết sức to
lớn đối với sự phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Nó là thước đo, là biểu
tượng cho sự thịnh trị - suy tàn của thiết chế xã hội, của đời sống tư tưởng, văn hóa.
Và cung chính vì thế, ở giai đoạn chuyển giao lịch sử, từ phong kiến phương Đông
sang thực dân hóa phương Tây, Nho học cũng sẽ là nơi có thể quan sát, chứng kiến
những đổi thay trong hệ giá trị tinh thần của xã hội. Quá trình đổi thay này diễn ra từ
những năm cuối thế kỉ XIX, kéo dài vài chục năm đầu thế kỉ XX, và trong nhiều lĩnh
vực: biên khảo, chuyên khảo, tranh luận trên báo chí, và sáng tác văn học nghệ thuật.
1.2. Ngô Tất Tố (1894-1954) là cây bút có vị trí quan trọng trong nền văn học
Việt Nam những năm 1930, 1940. Ông đã để lại một di sản văn học phong phú, bao
gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, phóng sự, truyện kí lịch sử, khảo cứu, dịch thuật, tiểu
phẩm báo chí, viết truyện dài. Với những sáng tác này, Ngô Tất Tố bộc lộ được cả sở
trường và sở đoản của cá nhân mình cung như thế hệ nhà nho đi vào hiện đại hóa –
một hiện tượng đặc sắc của không khí văn hoá Việt Nam đầu thế ky XX. Trong di sản
của mình, Ngô Tất Tố đã thể hiện một sự quan tâm đặc biệt với chủ đề Nho giáo.
Thậm chí, Ngô Tất Tố đã có những sáng tác mang nhiều chất liệu của trải nghiệm cá
nhân về con đường học theo Nho giáo mà Lều chõng là tác phẩm tiêu biểu.
Bên cạnh Ngô Tất Tố, Chu Thiên (1913-1992) cung là một tác giả có hứng thú
sâu đậm với các đề tài của quá khứ, như truyện ky lịch sử. Riêng chủ đề Nho học, Chu
Thiên có Bút nghiên, Nha nho đều viết vào những năm 30, 40 của thế ky XX.
1



Với thực tiễn trải nghiệm cuộc sống và thực tế sáng tác đó của hai tác giả, việc
tìm hiểu Nho học trong sáng tác văn chương của những cây bút có xuất thân Nho giáo
hứa hẹn đem lại một cái nhìn từ bên trong cung như những biểu hiện cụ thể của con
đường chuyển giao cũ-mới tại Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Trên đây là những ly do giải thích việc chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Hình
ảnh Nho học trong sáng tác của Ngô Tất Tố (Lều chõng) và Chu Thiên (Bút
nghiên, Nhà nho).”
2. Lịch sử vấn đê
2.1. Lịch sử nghiên cứu về sự nghiệp của Ngô Tất Tố và chủ đề Nho giáo trong di
sản của ông
Ngô Tất Tố được coi là một trong những cây bút xuất sắc nhất của dòng văn
học hiện thực Việt Nam. Tài năng của ông được bộc lộ trên nhiều phương diện. Với
thể loại nào, ông cungđể lại những dấu ấn sâu sắc trong lòng bao thế hệ độc giả. Chính
vì thế suốt nhiều thập kỉ qua, thân thế và sự nghiệp sáng tác của ông đã thu hút sự chú
y của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình.
Thuộc thế hệ cầm bút có căn rễ Nho giáo sâu đậm (truyền thống gia đình, và
quá trình tu dưỡng cá nhân), sáng tác của Ngô Tất Tố chịu nhiều ảnh hưởng của cội rễ
tri thức đó. Hầu hết các nghiên cứu về Ngô Tất Tố đã chỉ ra đặc điểm này. Ngoài Vu
Trọng Phụng với nhận xét “Ngô Tất Tố la một nha báo vê phái Nho học, va la một

tay ngôn luận xuất sắc trong đám nha nho” [45, tr.409], có thể kể thêm: “Phê bình
Lêu chõng” (báo Tri tân, số 33, ngày 23.1.1942, của Kiều Thanh Quế), mục viết về
Ngô Tất Tố trong Nha văn hiện đại (1942-1945, của Vu Ngọc Phan), “Ngô Tất Tố một chân dung lớn, một sự nghiệp lớn” (Tạp chí văn học, số 1, năm 1994 của nhà
nghiên cứu Phong Lê), “Nhà nho thức thời – ngòi bút tình cảm Ngô Tất Tố” (Tạp chí
văn học, số 1, năm 1994 của tác giả Vương Trí Nhàn), “Cây bút sắt sắc bén của một
nhà nho” (báo Văn nghệ, số 1, ra ngày 1.1.1994, do nhà văn Vu Tú Nam viết), “Ngô
Tất Tố sống mãi trong lòng cách mạng” (trong Ngô Tất Tố toan tập, tập 1, Nhà xuất
bản Giáo dục, năm 1996 của Phan Cự Đệ), “Ngô Tất Tố - cây bút cựu học giữa thời

tân văn” (Nghiên cứu Văn học, số 3, năm 2006 của nhà nghiên cứu Vu Tuấn Anh)…

2


Ngô Tất Tố là một trong bảy mươi chín nhà văn Việt Nam thời hiện đại được
Vu Ngọc Phan chọn lọc giới thiệu. Ông được gọi là “một tay kì cựu trong làng văn,
làng báo Việt Nam”, “có phê bình, có tư tưởng mới”. Vu Ngọc Phan còn nhấn mạnh:
“... vê đường văn nghệ ông đã theo kịp cả những nha văn thuộc phái tân học xuất sắc
nhất. Ngô Tất Tố la một nha nho ma viết được những thiên phóng sự va những thiên
tiểu thuyết theo nghệ thuật Tây phương va ông đã viết bằng ngòi bút đanh thép, lam
cho phái tân học khen ngợi” [42, tr.132]. Nhận xét của Vu Ngọc Phan đã nhấn mạnh
tư tưởng mới me, tiến bộ và tài năng nghệ thuật của Ngô Tất Tố - người có điểm xuất
phát là Nho học.
Trong bài viết “Cây bút sắt sắc bén của một nhà nho”, nhà văn Vu Tú Nam cho
rằng: “ông trước sau vẫn giữ phong cách của một nhà nho - nhưng là một nhà nho với
bản lĩnh và cá tính đặc biệt, vừa nghiêm túc vui tươi, sâu sắc mà hoạt bát, trí tuệ và
tâm tư luôn năng động, chân thành gắn bó với những con người và sự vật xung quanh,
cung có nghĩa với vận mệnh đất nước” [27, tr.185]. Ở đây, tác giả bài viết đã khẳng
định tính tích cực của Nho giáo trong lối sống, tư tưởng của Ngô Tất Tố.
Đặt Ngô Tất Tố vào bối cảnh văn hoá thời đại, nhà nghiên cứu Vu Tuấn Anh đã
chỉ ra dấu vết “cựu học” còn được bảo lưu trong tư tưởng cung như lối viết của Ngô
Tất Tố cung như những biểu hiện của “tân văn” về thể loại mà Ngô Tất Tố lựa chọn
sáng tác. Đánh giá tiểu thuyết Lều chõng, nhà nghiên cứu cho rằng đó là: “cuộc chia
tay không ít lưu luyến của nhà văn với quá khứ của chính ông, và ở tầm vĩ mô, của văn
hóa mới với văn hóa Nho giáo”, và “Vốn hiểu biết phong phú về Khổng giáo, về sinh
hoạt trường ốc thi cử của một người thông hiểu Tư thư, Ngũ kinh và đã từng nghiệm
sinh một thời lều chõng đã tạo nên những trang viết giàu tính tư liệu của một nhà khảo
cứu và giàu tính sinh động của một cây bút phóng sự”1.
Bên cạnh những quan tâm đến vấn đề Nho giáo trong sáng tác của Ngô Tất Tố

của các học giả Việt Nam còn có nhà nghiên cứu người Trung Quốc là Hoàng Khải
1

Vu Tuấn Anh (2006), “Ngô Tất Tố - cây bút cựu học giữa thời tân văn”, Nghiên cưu Văn học, số 3,
tr.13-20.

3


Hưng. Ông cho rằng: “Trong lịch sử văn học Việt Nam những năm 30, 40 của thế kỉ
XX, ngoài Ngô Tất Tố cung còn có rất nhiều tác giả lấy đề tài từ văn hóa Nho giáo
như Chu Thiên với cuốn Bút nghiên (1942), cuốn Nho giáo (in năm 1943), Nguyễn
Công Hoan với cuốn Thanh đạm... Nhưng trong các tác phẩm có đề tài Nho giáo, Ngô
Tất Tố không những có số lượng sáng tác nhiều nhất, đề tài phong phú nhất mà tư
tưởng cung sâu sắc hơn. Các tác phẩm của ông (...) đều thể hiện không gian đậm đà
văn hóa Nho giáo của xã hội Việt Nam từ nhiều góc độ khác nhau”. Sau đó, Hoàng
Khải Hưng đi đến kết luận: “Ngô Tất Tố dành nhiều tâm huyết trong nghiên cứu văn
hóa Nho giáo, và trong những tác phẩm của ông, bất kể là tiểu thuyết hiện thực, tiểu
thuyết lịch sử hay ky sự đều mang đậm dấu ấn văn hóa Nho giáo, thể hiện tình cảm
đặc biệt đối với văn hóa Nho giáo của tác giả” [23].
Như vậy, nhiều nhà nghiên cứu bằng những góc độ tiếp cận khác nhau đều chỉ
ra hình bóng Nho học trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, trong đó Phan Cự Đệ là nhà
nghiên cứu sớm nhất đã đi sâu vào vấn đề này (phần viết “Ngô Tất Tố và Nho giáo”
trong Văn học Việt Nam 1930-19451. Các nghiên cứu đã chỉ ra sự hiện diện của Nho
giáo trong vốn tri thức, con đường đi, và những dấu vết của nó trong lối viết của nhà
văn. Một số nghiên cứu đã chỉ ra sự tỉnh táo (hay có thể gọi là tính “đa thanh”) trong
ứng xử của Ngô Tất Tố với Nho giáo, ông vừa trân trọng vừa phê phán.

2.2. Lịch sử nghiên cứu về sự nghiệp của Chu Thiên và đề tài Nho giáo trong di sản
của ông

So với Ngô Tất Tố, những nghiên cứu về Chu Thiên có số lượng khiêm tốn hơn
rất nhiều. Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được một số công trình và bài viết nghiên
cứu về Chu Thiên và các tác phẩm viết về đề tài Nho học của ông như sau:

1

Năm 1993, Nhà xuất bản Văn học cho in “Tuyển tập Ngô Tất Tố” (2 tập) do Phan Cư Đệ sưu tầm
tuyển chọn, Trương Chính viết lời giới thiệu. Trong lời giới thiệu về Ngô Tất Tố, Trương Chính cung
đồng tình với quan điểm của Phan Cư Đệ cho rằng Ngô Tất Tố đã vượt qua mọi sự ràng buộc của tư
tưởng Nho giáo, là một người có tư tưởng độc lập, không chịu nhắm mắt theo những thành kiến của cổ
nhân.

4


Bút nghiên của Chu Thiên lúc đầu xuất hiện dưới dạng từng truyện ngắn trên
Tri tân. Sau khi in thành sách, trên Tri tân lại đăng bài phê bình của Tiên Đàm Nguyễn
Tường Phượng, trong đó có đoạn: "Có người bàn rằng lúc này là lúc vận hội khai
thông, sao còn đem những chuyện cổ hủ ấy, những chuyện cu rích ấy ra làm gì! Nhưng
thiên kiến tôi chính lúc này lại cần có một quyển sách nói rõ về "nhà nho" để phân biệt
thế nào là "chân nho" và "ngụy nho". Ý kiến của một người xuất thân từ Khổng sân
Trình như Tiên Đàm rất xác đáng bởi vấn đề "chân nho" và "ngụy nho" mà Chu Thiên
đặt ra rất có y nghĩa đối với đương thời. [dẫn theo 2]
Cho đến nay, người có những nhận xét chi tiết nhất về Chu Thiên là Vu Ngọc
Phan trong trong Nha văn hiện đại. Về Bút nghiên, Vu Ngọc Phan cho rằng “Chu
Thiên không chú trọng vào cách lựa chọn nhân tài như “Lều chõng”; “Bút nghiên”
cung lại không cho ta biết rõ tính tình cùng tư tưởng những“nhân tài” nước ta thuở
xưa: Bút nghiên - như tên của nó - chỉ chú trọng riêng vào việc học. Ngày xưa ông cha
chúng ta phải học như thế nào để thi đỗ? Thơ phú phải làm theo những lề lối thế nào?”
[42, tr.375]. Ông cung nhận xét: “Về đường nghệ thuật - nếu xét về phương diện tiểu

thuyết –“Bút nghiên” không bằng được quyển “Lều chõng” của Ngô Tất Tố, nhưng về
mặt khảo cứu về những cách học hành của ông cha chúng ta thuở xưa thì “Bút nghiên”
cung khá đầy đủ” [42, tr.382]. Đồng thời, theo Vu Ngọc Phan, “Bút nghiên” của ông
tuy là đề tài về tiểu thuyết trơn, nhưng có thể coi như là một tập kí sự về cái lối đi học
đi thi của ông cha chúng ta thuở xưa, hay đặt nó vào loại tiểu thuyết phóng sự cung
được….” [42, tr.944].
Ngoài ra, chúng tôi cũng tìm hiểu được một số bài viết khác có tính chất giới
thiệu về tác giả về Chu Thiên, chẳng hạn: Tác giả Hoài Anh trong bài viết: Chu Thiên,
gương sáng nha nho chân chính đã bày tỏ lòng ngưỡng phục của mình với tài năng
cung như sự nghiệp của tác giả Chu Thiên: “Đáng phục làm sao khối vốn sống đồ sộ
của nhà văn về sinh hoạt Nho học thời xưa cũng như kiến thức lịch sử uyên thâm của
ông. Tác phẩm có nhiều chi tiết phong phú đến nỗi thành ra dàn trải, lê thê…nhưng
đối với tôi thì không hề chi vì ngoài hứng thú đọc tiểu thuyết tôi còn muốn tìm hiểu về
lối sống Việt Nam qua những tư liệu dân tộc học, xã hội học la liệt trong sách” [2].
Hoài Anh cung chỉ ra giá trị tư tưởng của những tiểu thuyết phóng sự ấy là ở chỗ: Nhà

5


văn thông qua những tấm gương tôn sư trọng đạo, tiết tháo liêm khiết của người xưa
để truyền cho người đọc những tinh hoa trong tư tưởng, tình cảm, tâm ly của con
người Việt Nam, đánh thức hồn dân tộc đã ngủ thiếp trong lòng một số đông người
đang sống dưới ách thống trị của thực dân Pháp, cam tâm làm nô lệ cho chúng đồng
thời giới thiệu lại những tinh hoa của ông cha giúp cho con cháu sau này không đến
nỗi mất gốc. Cung trong bài viết này, Hoài Anh còn cung cấp thêm những thông tin có
tính chất lịch sử để ly giải về màu sắc Nho giáo đậm đặc trong tác phẩm của Chu
Thiên đó là do nhà văn đã tắm mình trong không khí cửa Khổng sân Trình từ nhỏ, môi
trường Nho học đã tạo nên tư tưởng nhân cách và cả tài năng văn học của ông.
Có thể thấy, với Bút nghiên và Nha nho, Chu Thiên đã quay về với những
chuyện xưa, làm sống lại nét đẹp của đời sống khoa cử một thời. Như vậy, cùng viết

về một đề tài là Nho học ở thời điểm Nho học đã là quá vãng, cùng với những trải
nghiệm Nho học, song Ngô Tất Tố và Chu Thiên lại không đồng nhất về phong cách
viết, về điểm nhìn; nói cách khác, mỗi nhà văn có khuynh hướng riêng.
Việc điểm lại các nghiên cứu về vấn đề Nho học trong sáng tác của Ngô Tất Tố
và Chu Thiên cũng cho thấy đã có những nghiên cứu, bình luận mang tính so sánh về
cách viết của hai nhà văn này khi đề cập đến Nho học, song đặt vấn đề một cách trực
diện và tìm hiểu chuyên sâu thì chưa có công trình nào. Luận văn của chúng tôi, vì thế
là một sự kế thừa và cố gắng bổ khuyết cho hướng nhìn này về sáng tác của hai nhà
văn.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nho học là một phương diện của Nho giáo, chỉ phương thức đào luyện tri thức
của người đi học (ke sĩ) theo quy định của Nho giáo. Trong luận văn này, Nho học sẽ
được xem xét từ 3 vấn đề: việc học và thi; lối học Nho giáo và kiểu thi cử Nho giáo;
bên cạnh đó, người theo đuổi việc học theo Nho giáo đó – tức nho sinh/nhà nho cũng
được tìm hiểu trong phạm vi những ứng xử của họ với tư cách những quy ước sống
theo lễ nghi Nho giáo. Đây là những quan tâm của cả Ngô Tất Tố và Chu Thiên khi
cầm bút sáng tác văn chương, đặc biệt là trong 3 tiểu thuyết: Lều chõng, Bút nghiên va
Nha nho.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát sinh hoạt học hành, thi cử của Nho giáo và nếp sống của các môn đồ
6


Nho giáo thời trung đại để tìm hiểu y nghĩa của việc các trí thức cựu học phục dựng

7


những trải nghiệm của chính họ; cùng với đó là giá trị văn học, như phương thức biểu

tả, hình ảnh nghệ thuật của các tác phẩm văn chương hiện đại khi viết về Nho học.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát, phân tích và làm rõ các biểu hiện của hình ảnh Nho học trong
ba tác phẩm.
- Phân tích, đánh giá các biểu hiện của hình ảnh Nho học trong ba tác phẩm
(Lều chõng, Bút nghiên và Nha nho) ở phương diện giá trị văn hoá và nghệ thuật viết
văn.
- Đánh giá và phân tích y nghĩa của việc viết về Nho học trong bối cảnh Việt
Nam đầu thế kỉ XX.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp văn học sử: Theo chúng tôi, muốn chiếm lĩnh được những kiến
thức nội dung cơ bản, phải đặt đối tượng trong bối cảnh lịch sử, trong mối quan hệ với
cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Vì vậy đây là phương pháp được chúng
tôi sử dụng trong suốt luận văn.
Phương pháp so sánh: Phương pháp so sánh sẽ giúp chúng tôi có cơ sở nhận
diện những nét tương đồng, nét khác biệt trên tất cả các phương diện về nội dung,
nghệ thuật của Ngô Tất Tố và Chu Thiên.
Phương pháp nghiên cưu liên nganh: Vấn đề về hình ảnh Nho học liên quan
nhiều đến lĩnh vực khoa học khác như: Lịch sử, Tư tưởng, Xã hội... Do đó, chúng tôi
vận dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành để các vấn đề cần nghiên cứu được làm
sáng tỏ và có sức thuyết phục.
Ba phương pháp trên sẽ được chúng tôi kết hợp hoặc cụ thể hoá cùng các thao
tác, như: phân tích, tổng hợp.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi tư liệu:
Luận văn khảo sát 3 tác phẩm chính: Lều chõng (1939) của Ngô Tất Tố, Bút
nghiên (1942) và Nha nho (1943) của Chu Thiên. Những tác phẩm khác của hai nhà
8



văn này và các nhà văn viết về cùng chủ đề sẽ được chúng tôi sử dụng so sánh khi cần
thiết.

9


Phạm vi vấn đề:
Về khái niệm “Nho học”: Đã có nhiều diễn giải khác nhau về khái niệm này.
Các y kiến căn bản thống nhất với nội hàm đại thể của Nho học là dạy và học theo
Nho giáo, và trước thuật của nho gia. Tuy nhiên, ở luận văn này, chúng tôi chỉ tập
trung vào việc dạy-học theo Nho giáo mà không đề cập đến vấn đề trước thuật, bởi
mối quan tâm của Ngô Tất Tố và Chu Thiên trong ba tác phẩm chỉ tập trung vào vấn
đề dạy - học theo Nho giáo và người học. Bên cạnh đó, luận văn tự đặt thêm nhiệm vụ
tìm hiểu hình ảnh “nếp sống nhà nho” (Chương 3), vì nhà nho là “chủ thể” của Nho
học và nhân vật cung là một khái niệm quan trọng của tác phẩm văn chương. Nói cách
khác, theo chúng tôi, tìm hiểu về nhà nho là cách “đọc” gián tiếp về Nho học nhưng
phù hợp với đặc thù tài liệu là tác phẩm văn chương.
Chọn đề tài là tìm hiểu hình ảnh Nho học trong các tác phẩm của hai tác giả
Chu Thiên và Ngô Tất Tố, nên luận văn, thông qua việc mô tả và tái hiện lại chế độ
khoa cử Việt Nam thời phong kiến trong ba tác phẩm được lựa chọn để làm rõ hình
ảnh Nho học trong nghệ thuật của các sáng tác văn chương ở hai tác giả này.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tai liệu tham khảo, Phần Nội dung của luận
văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung
Chương 2: Nho học trong cách nhìn của Ngô Tất Tố và Chu Thiên
Chương 3: Nếp sống của nhà nho qua ngòi bút của Ngô Tất Tố và Chu Thiên
7. Đóng góp của luận văn

Với đề tài này người viết muốn làm rõ hình ảnh Nho học trong các tác phẩm
của Chu Thiên và Ngô Tất Tố, đồng thời góp phần làm sáng tỏ thêm văn hóa khoa cử,
văn hoá Nho giáo thời trung đại từ cách chiếm lĩnh về nội dung và nghệ thuật của các
nhà văn những năm 1930, 1940.
Kết quả nghiên cứu của luận văn cung sẽ giúp người đọc có thêm hiểu biết về
các nhà văn đã quen thuộc và có thêm căn cứ để khẳng định mối quan hệ mật thiết
giữa văn hóa và văn học.

10


Mặt khác, chúng tôi cung muốn tìm hiểu thêm khả năng và bản chất nỗ lực
canh tân tư tưởng, đổi mới văn chương của Việt Nam những năm 30, 40 của thế ky
XX mà Ngô Tất Tố và Chu Thiên là hai trường hợp điển hình cho sự canh tân của thế
hệ cựu học.

11


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Nho học trong văn hóa Việt Nam thời trung đại
Như đã giới thuyết ở phần MỞ ĐẦU, Nho học là phương thức đào luyện tri
thức của người đi học (ke sĩ) theo quy định của Nho giáo. Hệ tư tưởng có tuổi đời vào
hàng sớm nhất và có sức sống bền bỉ trong lịch sử tri thức nhân loại này đã xây dựng
một thiết chế giáo dục quy củ, bao gồm phương thức đào tạo, khoa cử. Ra đời ở Trung
Hoa, Nho giáo và Nho học du nhập vào Việt Nam khá sớm. Sử Trung Hoa, Hậu hán
thư đã ghi lại việc vào đầu công nguyên, hai viên thái thú quận Giao Chỉ và Cửu Chân
là Tích Quang và Nhâm Diên đã tích cực “dựng học hiệu” để dạy lễ nghĩa. Và đây
được coi là một dấu mốc quan trọng đánh dấu sự hình thành chính thức của Nho giáo

và Nho học ở Việt Nam. Sử gia Việt Nam, trong Đại Việt sử ky nhắc đến thái thú Sĩ
Nhiếp là người thông hiểu kinh sách và tích cực truyền bá Nho giáo và Đạo giáo vào
Việt Nam nên được phong “Nam Giao học tổ”. Là học giả hiện đại Việt Nam đầu tiên
khảo cứu sâu về Nho giáo, Lệ Thần Trần Trọng Kim cho rằng, Nho học ở Việt Nam
khoảng cuối đời Đông Hán, tức là ngay trong thời kỳ Bắc thuộc, đã thịnh trị, chứng cứ
là đã có những người như Ly Tiến, Ly Cầm, Trương Trọng đậu đạt và được bổ quan ở
Trung Hoa [29, tr.723]. Sau ngày giành độc lập, trải qua ba triều đại Ngô, Đinh và
Tiền Lê do vẫn còn phải bình định các vùng nên không lưu tâm đến việc học; nhưng từ
nhà Ly thì việc học có nền tảng vững chắc, và "Nho học từ đó mỗi ngày một
thịnh" [29, tr.723]. Thi cử được tổ chức theo lối "dùng văn chương mà lấy ke sĩ, vậy
nên văn học ở nước ta từ đó về sau rất thịnh" [29, tr.724]. Nhưng Trần Trọng Kim
cung cho rằng "Từ đời nhà Lê về sau, trải qua nhà Mạc, nhà Hậu Lê trung hưng và nhà
Nguyễn, sự Nho học ở Việt Nam tuy thật là thịnh, nhưng học giả trong nước thường có
cái sở đoản rất lớn, là phần nhiều chỉ học lối khoa cử, vụ lấy văn chương đề cầu sự đỗ
đạt, chứ không có mấy người học đến chỗ uyên thâm của Nho giáo, để tìm thấy cái
đạo ly cao xa, hoặc là đề xướng lên cái học thuyết nào thật có giá trị... Đó thật là chỗ
kém của học giả nước ta" [29, tr.724-25], còn "trong đời nhà Ly và nhà Trần, thì sự
học của ta theo lối huấn hỗ của Hán nho và Đường nho, rồi từ đời Lê về sau, thì theo
12


học của Tống nho, lấy Trình Chu làm tiêu chuẩn, ta chỉ quanh quẩn ở trong cái phạm
vi hai lối học ấy" [29, tr.735]. Tổng kết về chế độ khoa cử của Nho giáo, nhà nghiên
cứu Trần Đình Hượu nhận xét: “Từ năm 1374 đến năm 1442, thể chế khoa cử được
xác định dần theo hướng thi tiến sĩ. Thể chế đó ổn định cho đến đầu thế ky XX, với
những thay đổi không quan trọng.” [26, tr.124].
Thực ra, trong lịch sử Nho học Việt Nam không phải không có những cố gắng
canh tân. Tư liệu lịch sử từng nhắc đến Hồ Quy Ly, tiếc là cứ liệu cho sự canh cải của
ông hầu như không còn. Đến giữa thế ky XIX có một nỗ lực theo hướng đó được ghi
lại. Lời tựa do chính tác giả sách Khải đồng thuyết ước là Phạm Vọng cho biết từ 1853

đã có sự thay đổi trong cách giáo dục ở Việt Nam: "Tôi lúc còn bé, được cha tôi theo
thói thường: trước hết cho đọc sách Tam tự kinh, cùng các sử đời Tam hoàng, rồi đọc
các sách kinh, truyện. Tập làm lối văn thi cử thời đó, mong sao cho đúng cách thức đi
thi, chiếm được mu xanh áo đẹp thì thôi. Còn đến như, trên thì thiên văn, dưới thì địa
ly, giữa thì nhân sự, cùng là các đời trước sau trong sử nước ta thì chưa hề giảng đến
bao giờ cả. May nhờ cha tôi dạy bảo, nhờ phúc đức tổ tiên, năm Thiệu Trị thứ nhất...
tôi được trúng thi hương... Sau được lạm làm tri huyện Nam Chân, may được chuyển
huyện nhỏ dân thưa, công đường ít việc, tôi sưu tập nhiều sách, xem được ít nhiều, bèn
trích lấy những điều đại lược về thiên văn, địa ly, thế thứ các đời, biên thành một
tập,.... đặt tên gọi là Khải đồng thuyết ước khiến cho con cháu trong nhà học tập" [17,
tr.271]. Tuy nhiên, cuốn sách học này của chỉ lưu hành trong gia tộc mà thôi.
Tóm lại, sử liệu và các công trình nghiên cứu về Nho giáo đã cho thấy Nho học
có mặt ở Việt Nam rất sớm, và có một lịch sử phát triển lâu dài. Trải qua nhiều hoàn
cảnh lịch sử khác nhau, Nho học Việt Nam không có những thay đổi lớn. Đó là mô
hình giáo dục duy nhất đào tạo trí thức, đào tạo đội ngu quan lại. Tính tích cực và hạn
chế của Nho học Việt Nam cung từ đây mà nảy sinh: “gây ra trong xã hội phong khí
hiếu học. Nhưng mặt khác, nó cũng làm người đi học chạy theo công danh, học để làm
quan, không chủ y mục tiêu tu dưỡng và tìm kiếm tri thức. Thi tiến sĩ đòi hỏi thí sinh
trình bày đạo ly kinh điển bằng hình thức thơ, phú, biền văn,… hướng người đọc vào
nhớ kinh điển và trau dồi từ chương mà ít quan tâm đến tìm tòi chân ly” [26, tr.124].

13


1.2. Những cải cách giáo dục của thực dân Pháp ơ Việt Nam đầu thế ky XX
Những năm cuối thế ky XIX biến cố lịch sử thực dân Pháp xâm chiếm, Việt
Nam từng bước thành thuộc địa dưới sự cai trị của Pháp đã trở thành một cuộc thử
thách không cân sức cho Nho giáo với tư cách hệ tư tưởng nền tảng của thiết chế xã
hội. Bất lực trong cuộc chiến bảo vệ “vương thổ”, cả thế hệ nhà nho đau xót, phẫn uất.
Và đã có những người cất tiếng phê phán sự vô dụng của sách vở, của lối học, chế giễu

sự vô dụng của nhà nho mà Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương là hai tác giả tiêu biểu.
Nhưng cho đến trước khi kỳ thi Nho học cuối cùng diễn ra vào năm 1915, học vấn và
thi cử Nho giáo chiếm vị trí độc tôn trong xã hội Bắc Kỳ.
Tình hình này đã dần thay đổi, theo những chủ trương về giáo dục của chính
quyền thực dân. Theo nghiên cứu của một chuyên gia về giáo dục Việt Nam thời Pháp
thuộc, Trần Thị Phương Hoa, thì “Paul Bert, tổng trú sứ đầu tiên của Bắc Kỳ và Trung
kỳ đã quan tâm đến việc phát triển giáo dục từ trước khi bộ máy hành chính Liên bang
Đông Dương chính thức được thiết lập. Năm 1886, Dumoutier đã được cử làm nhà tổ
chức và thanh tra về giáo dục Pháp-An Nam. Vốn là một chuyên gia về văn hóa
phương Đông, là một nhà Trung Quốc học, Dumoutier đã rút kinh nghiệm từ việc xóa
bỏ các trường dạy chữ Nho ở Nam Kỳ và chủ trương tiếp tục duy trì những trường bản
xứ dạy chữ Nho ở Bắc Kỳ, đồng thời tiến hành cải cách các trường Nho giáo để
chuyển dần sang giáo dục Pháp-An Nam, nhằm hoàn thiện một nền giáo dục mà ông ta
coi là có tầm quan trọng đặc biệt…. Tuy nhiên, quyết định này đã không được thực
hiện ngay mà phải 11 năm sau mới được đưa vào thực tiễn” [21]. Có hai ly do dẫn đến
sự trì hoãn này, đó là chiến tranh và vì bản thân giới cầm quyền thực dân đã nhận ra sự
níu kéo của tâm ly trong nền học vấn cu vẫn còn nặng nề, đặc biệt là tại Bắc Kỳ.
Mặt khác, truyền thống hiếu học, coi trọng khoa cử của người Việt cung được
các nhà cai trị tận dụng theo cách “điều hòa”, mềm mỏng hoá” các chủ trương giáo
dục. Dẫn chứng là việc Paul Doumer, sau khi tới dự lễ xướng danh kỳ thi Hương năm
1897 ở Nam Định, chứng kiến tinh thần hiếu học và lòng quyết tâm của các sĩ tử Bắc
Kỳ, năm 1898 đã ra quyết định đưa chữ quốc ngữ, chữ Pháp vào kỳ thi Hương vì “Ở
kỳ thi Hương Nam Định có khoảng 10 ngàn người tham dự. Nếu cứ 1 người có mặt tại

14


cuộc thi, có ít nhất 3 người khác theo học thì tổng số người học là 40 ngàn. Nếu ta đưa
tiếng Pháp và Quốc ngữ vào trường thi thì nghiễm nhiên ta có 40 ngàn người phải học
tiếng Pháp và Quốc ngữ, mà ngân sách lại không phải chịu gánh nặng. Hiệu quả đối

với nền hành chính và chính trị sẽ là vô giá” [dẫn theo 21].
Ngày 27 tháng 4 năm 1904, Chính phủ Bảo hộ ra Nghị định 1331 về tổ chức lại
giáo dục công ở Bắc Kỳ, gồm năm phần do Paul Beau ky. Theo Nghị định này, các
trường học công gồm hai loại: trường dành cho người Âu và trường dành cho người
bản xứ. … Mục tiêu của người Pháp là xây dựng một nền giáo dục có sự hòa trộn giữa
các yếu tố Pháp với các yếu tố Việt Nam, thông qua các nhà trường Pháp-Việt. Trong
bối cảnh các trường Nho giáo vẫn đóng vai trò chủ đạo, nhiệm vụ đầu tiên mà thực
dân Pháp đặt ra là phải cải cách các trường này và dần chuyển sang nhà trường kiểu
mới. Năm 1906, Paul Beau cho thành lập Hội đồng Hoàn thiện Giáo dục Bản xứ nhằm
bàn bạc về việc tiến hành cải cách các trường bản xứ và đưa các trường bản xứ vào hệ
thống giáo dục công lập dưới quyền của Nha Học chính. Hội đồng nhóm họp lần đầu
tiên vào tháng 4 năm 1906 với sự có mặt của Vua Thành Thái và Toàn quyền Paul
Beau. Ngày 16 tháng 5 năm 1906, Toàn quyền Paul Beau ra Nghị định quy định chức
năng của Hội đồng, trong đó có việc bàn các biện pháp tuyển dụng và đào tạo giáo
viên cho các trường bản xứ mới, nghiên cứu các tác phẩm văn học, triết học, lịch sử
bằng tiếng bản xứ, hiệu đính lại để lấy làm tài liệu nhà trường. Sau một tháng bàn bạc
thảo luận, Hội đồng đã soạn ra bản quy chế giáo dục. … Khác biệt quan trọng nhất của
trường bản xứ cải cách là ngoài học chữ Hán phải học thêm chữ Quốc ngữ, chữ Pháp
(không bắt buộc), toán và một số môn khoa học. [21]
Ngày 16 tháng 3 năm 1916, Sở Học chính Bắc Kỳ đã trình một báo cáo dài 15
trang lên Toàn quyền Đông Dương về việc tổ chức giáo dục bản xứ ở Bắc Kỳ sau khi
hủy bỏ các kỳ thi Nho giáo. Hội đồng nhận định rằng trong hai kỳ thi Hương 1909 và
1912, các thí sinh đã thi thêm một số môn cần thiết như tiếng Pháp, quốc ngữ để chuẩn
bị tinh thần cho một nền giáo dục kiểu mới. Sau kỳ thi Hương cuối cùng năm 1915,
nền giáo dục bản xứ gồm hai cấp học, đặt dưới sự quản ly của Sở Học chính Bắc Kỳ là
bậc Ấu học và Tiểu học. Tiếp đó, với việc ban hành bộ Học chính tổng quy vào ngày

15



21 tháng 12 năm 1917 và được hiện thực hóa từ năm 1918, tất cả các trường Tổng
trong hệ thống bản xứ đều chuyển thành các trường Sơ học nhà nước trong hệ giáo dục
Pháp-Việt1. Đây chính là thời điểm mà cuối cùng người Pháp đã thực hiện được áp đặt
lên thuộc địa quyền lực của họ vốn được khẳng định từ những năm cuối thế ky XIX
“Điều cần phải được phát biểu một cách công khai là, trong thực tế, các chủng tộc ưu
việt có quyền hạn trên các chủng tộc hạ đẳng” [12, trích diễn văn của Jules Ferry
(1832-1893) đọc vào những tháng khởi đầu của nhiệm kỳ thủ tướng lần thứ nhì của
ông ta]. Bản chất thực sự của việc “gánh vác sự mệnh khai hoá cho các dân tộc dã
man” này lại tiếp tục được Pierre Pasquier - Toàn Quyền Đông Dương thuộc Pháp –
1

Nhiều nghiên cứu khác về chính sáhc giáo dục của Pháp tại Việt nam những năm đầu thế ky XX
cung khẳng định: toàn quyền Paul Beau (1902-1906) đã tiến hành một chính sách giáo dục mới. Nền
giáo dục của Việt Nam trong thời gian này đã có một bước tiến bộ đáng kể. Chính sách giáo dục của
Paul Beau tập trung vào 6 nhiệm vụ sau: 1) tăng lương cho giáo viên, 2) tạo điều kiện cho các giáo
viên trường tư có cơ hội được giảng dạy trong các trường công lập, 3) mở các trường sư phạm và mở 1
khoa sư phạm trong trường Đại học Hà Nội, 4) xuất bản các sách giáo khoa viết bằng tiếng Pháp, chữ
quốc ngữ và chữ Hán, 5) thành lập Ủy ban Hoàn thiện nền Giáo dục bản địa, 6) tổ chức tốt hơn các kỳ
thi. Chính sách giáo dục này trước tiên được áp dụng ở Bắc kỳ và Trung kỳ, rồi sau mới phổ biến ở
Nam kỳ kể từ năm 1909 trở đi. Cung trong năm này, Paul Beau đã mở trường Đại học đầu tiên ở Hà
nội, đó là trường Đại học Đông Dương, có nhiệm vụ giúp giai cấp thượng lưu bản xứ làm quen với tư
tưởng Pháp.
Chính sách giáo dục do Paul Beau khởi xướng đã tác động vào những đối tượng chính sau
đây: (1) Hệ thống trường Việt truyền thống (học chữ Hán của giáo dục Nho giáo), (2) Hệ thống trường
Pháp – Việt, (3) Hệ thống các trường chuyên nghiệp, (4) Hệ thống trường Việt. Hệ thống trường Việt
bao gồm 3 cấp. Cấp I là trường Ấu học, cấp II là trường Tiểu học và cấp III là Trung học.
Chuyển sang thời Toàn quyền Klobukowsky (nhiệm kỳ 1908-1910), chế độ quản ly của người
Pháp chú trọng đến chính sách giáo dục theo chiều rộng, tức là hạn chế giáo dục Cao đẳng và Đại học,
và chỉ chú trọng phát triển giáo dục tiểu học và đào tạo ky thuật. Dưới thời Albert Sarraut (1911 –
1919) nền học vấn ở Việt Nam được tổ chức lại như sau: Sarraut đã cho bãi bỏ kỳ thi hương ở Bắc kỳ

vào năm 1915 và ở Trung kỳ vào năm 1918, thay vào đó bằng một sự phổ biến chương trình học bằng
tiếng Pháp. Trường trung học ở Hà Nội được mở cho học sinh người Việt, và Đại học Hà Nội hoạt
động lại kể từ năm 1917. Chính sách giáo dục của Albert Sarraut đánh dấu bằng sự ra đời của bộ Học
chính tổng quy áp dụng cho cả nước.
Dưới thời Toàn quyền Alexandre Varenne (nhiệm kỳ 1925-1928), chính quyền thuộc địa lại
cố gắng phục hồi các trường học ở các xã và điều chỉnh chương trình học cho phù hợp với từng dân
tộc và ngôn ngữ. Varenne cung tập trung vào việc nâng cao khả năng giảng dạy của giáo viên, đồng
thời cố gắng thu hút các giáo viên giỏi hơn đến từ Pháp và tăng lương cho giáo viên. Varenne dành
nhiều chỗ hơn cho việc dạy và học chữ Hán.

16


công khai một lần nữa trong bài phát biểu ngày 15 tháng Mười năm 1930: “Chúng ta
phải làm việc để đạt các mục đích … nước Pháp sẽ nhìn thấy trên mảnh đất Á Châu
này sự đâm chồi nảy lộc của một trong những cành cây xinh đẹp nhất mọc ra từ tinh
thần của nó [tức nước Pháp, chú của người dịch] và những mục đích mà trong sự hòa
hợp và thống nhất mọi con dân của nó sẽ chứng thực cho tính chất bền bỉ của sự hiện
diện của nó…” [31].
Như vậy, kể từ năm 1906, cùng với việc thành lập Hội đồng hoàn thiện giáo
dục bản xứ, hệ thống các trường công bản xứ đã được đổi mới nhằm mục tiêu cuối
cùng là cung cấp nguồn nhân lực chuẩn bị cho sự phát triển của các trường Pháp-Việt.
Ngoài các trường tư Nho giáo là các trường thầy đồ ở làng xã, các trường công bản xứ
bao gồm trường Ấu học, Tiểu học và Trung học. Chương trình của các trường đều có
thêm phần chữ quốc ngữ, một số môn khoa học như toán, sử, địa, đặc biệt còn có thêm
phần tiếng Pháp tự chọn. Ngoài việc lập các trường bản xứ công lập (nằm dưới sự
giám sát của Nha Học chính), hệ thống thi cử bản xứ cung có nhiều thay đổi. Để tốt
nghiệp các trường bản xứ, học sinh phải thi qua các kỳ tuyển, khảo khóa, hạch (tương
ứng với ba bậc Ấu học, Tiểu học, Trung học). Đặc biệt, kể từ kỳ thi Hương năm 1909,
ngoài kỳ thi văn sách và luận chữ Hán còn có thêm các kỳ thi luận quốc ngữ, toán,

khoa học, và tiếng Pháp (tự chọn). Trong kỳ thi Hương cuối cùng năm 1915, thí sinh
bắt buộc phải thi tiếng Pháp. Năm 1918, các trường bản xứ chuyển thành trường PhápViệt, giáo dục bản xứ không còn thuộc hệ thống trường công và không trực thuộc sự
quản ly của Sở Học chính Bắc Kỳ [21].
Nhìn chung, tình hình giáo dục của Việt Nam từ những ngày đầu thực dân Pháp
xâm lược cho đến những năm 1930, 1940 là một chuỗi những điều chỉnh, tương
nhượng để cuối cùng có một chuyển đổi từ nền giáo dục truyền thống sang nền giáo
dục của phương Tây. Chính quyền thực dân đương nhiên thực thi chủ trương phát triển
giáo dục này không ngoài mục đích cai trị và khai thác nguồn lợi ở thuộc địa. Tuy
nhiên, với việc hủy bỏ hoàn toàn nền giáo dục truyền thống, một nền giáo dục được
xem là văn minh, hiện đại của phương Tây đã có không gian để cắm rễ; và việc

17


chuyển giao (từ phía thực dân), tiếp biến (từ phía trí thức dân tộc) nền giáo dục mới đã
góp phần tạo dựng, phát triển một nền giáo dục Việt Nam hiện đại.
1.3. Cấu trúc tầng lớp trí thức Việt Nam đầu thế ky XX
Sơ lược bối cảnh giáo dục – một phân nhỏ của bối cảnh lịch sử, văn hoá – trình
bày ở trên cho thấy, vào những năm đầu thế ky XX tại Việt Nam đã diễn ra những
bước chuyển đổi dần dần nhưng căn bản nền giáo dục Việt Nam. Bối cảnh cụ thể đó
đã tác động trực tiếp đến cấu trúc trí thức Việt Nam giai đoạn này.
Không khó để nhận ra rằng tương ứng với hai mô hình giáo dục là hai nhóm trí
thức mà tự họ khi ấy đã định danh cho mình là cựu học, tân học. Và ở giữa hai định
danh có thể coi là đối lập ấy lại có những trạng thái giao thoa hết sức phong phú: trí
thức cựu học cố gắng chuyển mình theo tư tưởng mới, họ được gọi là thế hệ nhà nho
duy tân mà đại diện là Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và phong trào Đông kinh
nghĩa thục tại Bắc Kỳ năm 1907, hoặc được đào tạo cả cựu học và tân học với đại diện
Phạm Quỳnh; còn bên phía kia là trí thức Âu học, nhưng lại muốn quay về truyền
thống. Sự phân chia cựu-tân như vậy rõ ràng chỉ mang tính chất tương đối, và do tình
trạng nhượng bộ của quá trình chuyển đổi mô hình giáo dục như đã nói ở trên, cấu trúc

trí thức Việt Nam những năm đầu thế ky XX càng trở nên phức tạp.
Có thể kiểm chứng tính phức tạp này qua thái độ của các thế hệ trí thức những
năm đầu thế ky XX đối với Nho giáo, Nho học. Như đã nói ở trên, đây là thời kỳ của
sự đụng độ của hai luồng tư tưởng, hệ văn hóa đối lập: đông - tây, kim - cổ. Sau gần
1000 năm thống trị ở Việt Nam với tư cách hệ tư tưởng chính thống, Nho giáo nói
chung, Nho học nói riêng bước vào giai đoạn suy tàn. Chưa bao giờ vấn đề “công tội”
của Nho giáo, cái “ao sách ruộng nghiên” của những anh khóa lại bị đem ra cân đong,
phán xét nhiều như thế. Tìm trong tư liệu lịch sử, không khó để những phê bình gay
gắt của giới học giả duy tân bấy giờ dành cho cổ học. Phan Bội Châu (1867-1940) viết
trong Việt Nam quốc sử khảo: "Trung quốc bỏ Khoa cử từ năm Canh Ty (1900), Triều
Tiên bỏ từ năm Giáp Ngọ (1894), đó là một việc nhơ nhớp, duy chỉ nước ta còn có mà
thôi " và " người ta mửa ra, mình lại nuốt vào" [36]. Phan Kế Bính (1875-1921) cung
thở than: “Than ôi, học là để mở trí khôn cho loài người mà chỗ hương thôn lại là gốc
18


của xã hội. Cứ như lối học của ta thuở trước thì chẳng những làm chậm đường tiến hóa
cho dân mà còn làm hại cho tính thông minh của người ta nữa” [4, tr.162]. Đây là cách
nhìn được Ngô Tất Tố ít nhiều chia se. Nhưng bên cạnh đó, lại cung có không ít những
nỗi luyến nhớ nền giáo dục được bảo lưu các triều đại phong kiến, gắn với những tinh
hoa dân tộc, hoặc đoái nhìn lại nó với những ngậm ngùi về vàng son một thuở, như
cách Chu Thiên thể hiện trong sáng tác của mình.
Trong công trình chuyên sâu về trí thức Việt Nam, Ba thế hệ trí thưc người Việt
(1862-1954), từ góc độ liên ngành xã hội học lịch sử, tác giả Trịnh Văn Thảo đã cho
rằng trong khoảng thời gian đó có ba thế hệ1: thế hệ năm 1962: Trí thức cổ điển; thế hệ
1907: Trí thức của hai thế giới; thế hệ 1925: Trí thức Âu hoá [45, tr.27-31]. Dù chỉ đặc
định cho thế hệ 1907 là thế hệ trải qua những thoả hiệp cu-mới2, truyền thống và hiện
1

Khái niệm “thế hệ” được Trịnh Văn Thảo mượn từ định nghĩa của G. Noiriel: “chỉ một tập hợp các

cá nhân có chung những trải nghiệm sáng lập và hiểu biết về cùng những hình thái ban đầu của việc xã
hội hoá” [dẫn theo 45, tr.27]
2
Trong một hướng quan tâm khác, Lê Phương Duy đã có những khảo sát cụ thể về sự tự phân hoá
trong tầng lớp nhà nho những năm đầu thế ky XX như sau:
* Theo Trúc Hà trong bài Nha Nho có le chịu sầu? (Nam Phong tạp chí, số 130, năm 1928),
lớp nhà nho đương thời tách thành “ba bè bảy đảng” với hai nhóm chính: “có đảng chứa chan những
hy vọng cao xa, đương hăng hái trên con đường tân học” và “có đảng còn đang yên vị trong nho
trường mà than dài, mà thở vắn”. Đối với lớp trước thì ông khen ngợi “có cái tâm chí cao thượng ấy,
thật đáng kính phục thay”. Còn đối với lớp sau, ông bày tỏ “nghĩ cung ái ngại xót xa thay”.
* Theo Nguyễn Đôn Phục, trong bài Phái nha Nho khoảng ba mươi năm nay đối với sự học cũ
(Nam Phong tạp chí, số 195, năm 1934): Giai đoạn này, đội ngu nhà Nho thành 3 phái: phái duy tân,
phái lười biếng, bạc nhược và phái a dua. Phái duy tân: “Phái này thì nhờ về cái tinh hoa của Khổng
giáo, biết đạo minh đức, biết nghĩa tùy thời. Kịp khi gặp có phong trào duy tân của Trung Quốc, tỉnh
ngộ ra rằng lối khoa cử là hủ bại, không đủ ứng tiếp với thời đại đua chen, cực lực hô hào công kích
lối cu, hoan nghênh lối mới, để làm tai làm mắt, hướng đạo cho quốc dân”. Ông ca ngợi phái
này “thực cung có can đảm đứng giữa trần ai, không bị sóng gió của thời thế cuốn đi”. Tuy nhiên,
nhược điểm của phái duy tân này là bởi sự cực đoan: “Nhất thiết lối học cu đều cho là hủ bại hay là
nhi hí. Thậm chí có danh từ là thủ cựu quỉ để chê những ke nhà nho không biết duy tân. Trong khi hô
hào đó không khỏi có lời thiên lệch quá đáng”. Phái lười biếng, bạc nhược: “Tuy là danh hiệu nhà
nho, nhưng kỳ thực cung không phải là chí khí nhà nho. Cái thân phận các ông ấy chỉ theo phong trào
của thời đại mà lên xuống. Thời đại dùng chữ Nho thì các ông ấy túa lên như mây, thời đại không
dùng chữ Nho thì các ông ấy cái tinh thần chết hẳn. Hoặc là đủng đỉnh trong ngõ cúc tùng, hoặc là tiêu
dao trong làng túy hương, hoặc là nằm co trong miền sơn dã, hoặc là khốn quẫn về đường y
19


đại [45, tr.28-30], nhưng thực tế đây là trạng thái còn kéo dài sang cả thế hệ sau. Như
nhận định của Trịnh Văn Thảo, thế hệ “Trí thức Âu hoá” 1925 đã gạt đội ngu trí thức
cu “sang nghiệp viết lách và hoạt động chính trị, cách mạng” [45, tr.30], và ở phạm vi

văn hoá, cung “có hai quy đạo riêng rẽ: một nhóm Âu hoá, gồm những người viết văn
(như nhóm các nhà văn nổi tiếng của Tự lực văn đoàn từ năm 1930 đến năm 1940) và
các nhà nghiên cứu khoa học xã hội (dân tộc học, sử học, khảo cổ học)… và một nhóm
trí thức chủ yếu là những “người kế thừa” gắn bó với truyền thống gia đình…” [45,
tr.31]. Đặc biệt, Trịnh Văn Thảo cung khẳng định: Giữ a hai thá i cự c nà y luôn tồ n
tạ i mộ t mé p lề trung gian, linh hoạ t và sống độ ng, thu nhậ n lầ n lư ợt cá c lự a
chọn và khẩ u hiệ u đối nghịch, là nạ n nhân và đ ồng thời là tòng phạ m của sự
thay đ ổi xã hộ i” [45, tr.31; học viên nhấn mạnh]. Mặc dù đây là nhận định rút ra từ
một nghiên cứu thế hệ từ góc nhìn xã hội học lịch sử nhưng chúng tôi vẫn thấy nhiều
điểm gợi dẫn thú vị cho việc tìm hiểu thế hệ các nhà nho (tức trí thức cựu học) buộc
phải xuôi theo thời đại canh tân trong phạm vi nghề viết những năm 1930, 1940 tại
Việt Nam mà Ngô Tất Tố
và Chu Thiên là hai trường hợp cụ thể.
thực”. Phái a dua: “Chỉ biết theo đời mà không biết vãn cứu cho đời. Phái ấy thường có cái ky dạng
nghênh hợp phong trào, và cái tâm ly sách ẩn hành quái. Nên chi ở thời đại nào cung cung mở mang
miệng lưỡi, vẽ vời văn chương”. Phái này trong buổi đầu“đương lúc dân trí còn chửa khai, vạn sự còn
ê trệ, phái ấy hô hào duy tân, công kích thủ cựu”. Tuy nhiên, “kịp khi hai chữ duy tân đã thành hủ
sáo”, thì phái này chỉ biết “hô hào với cổ động suông”. Cái tội của phái này được quy kết là “a dua
thời thế”, không biết tìm cách “giàng buộc tiếp nối cái dây cựu học sắp đứt” mà lại còn “toan cầm dao
cắt đứt đi”.
* Phạm Quỳnh (trong bài Nha Nho, Nam Phong tạp chí, số 172, năm 1927) đồng quan điểm
với với Nguyễn Đôn Phục khi chia lớp trí thức cu thành hai phái duy tân và a dua. Ông thể hiện cái
nhìn khá bi quan về hiện trạng của Nho sĩ đương thời với sự “tiến thoái lưỡng nan”, không thể duy tân
song cung khó lòng “duy cựu”: “Nay nhà Nho ta, từ khi thấy thời thế thay đổi, tự xét mình không đắc
dụng với đời nữa, sinh ra chán nản, trước sau chỉ biết giữ một cái thái độ tiêu cực. Thảng hoặc cung có
ke hăng hái, không muốn cam tâm chịu tiêu cực nữa, thì lớp trước kia hô hào cải cách, rủ nhau xuất
dương rồi mà sở chí sở sự không thành, kết cục đến ke bôn ba nơi hải ngoại, người ủ dột chốn lao
lung, còn ai sống sót thì cũng là đem cái thân tàn mà ngậm ngùi với nước non bạc bẽo, nghĩ càng thêm
cảm lại thêm thương”.
[Lược khảo nội dung ban về Nha Nho Việt Nam đầu thế kỷ XX trong một số bai viết trên tạp chí Nam

Phong,
truy cập tại />20


×