Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Ủ PHÂN COMPOST TỪ BÃ ĐẬU TƯƠNG VÀ LÁ CÂY Ở HỒNG KONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.73 KB, 10 trang )

Ủ PHÂN COMPOST TỪ BÃ ĐẬU TƯƠNG VÀ LÁ CÂY Ở HỒNG KONG
Tóm tắt
Mục tiêu của dự án này là đánh giá tính khả thi của việc ủ phân compost của lá cây và bã đậu tương và
những ảnh hưởng của tần suất xoay (trộn) trên chất lượng phân compost,bã đậu sẽ được trộn với lá cây và
mùn cưa theo tỷ lệ 1:1:3(w/w khối lượng ẩm ướt) đạt được một tỉ lệ C/N là 30.3 đống khoảng 4m3 hồn
hợp phân compost được thu nhận chuẩn bị tần suất xoay trộn (cột A) hàng ngày (cột B) 3 ngày 1 lần và
(cột C) hàng tuần.khó khan của tần suất khuấy trộn không phải ảnh hưởng của sự thay đổi pH và chất rắn
bay hơi xuyên suốt quá trình ủ phân.tần suất khuấy trộn cao làm cho tính dẫn điện giảm và hàm lượng
NH4-N giai đoạn ưa nhiệt tồn tại ngắn.vì một sự mất mát nhiện độ cao do sự bốc và bay hơi ammoniac
trong đống.sự phân hủy của C cao nhất xảy ra trong đống mà khoảng thời gian xoay trộn là 3 ngày,cái mà
trùng hợp với hàm lượng nito trong cái xử lý này.tất cả xử lý với tần suất khuấy trộn khác nhau đều đạy
được sự trưởng thành sau 63 ngày vì được chỉ thị bằng cacbon hữu cơ hòa tan,NH4-N hòa tan,tỉ lệ C/N và
chỉ số hạt nảy mầm của hạt cải xoong.tuy nhiên việc tang sự thoáng khí trong thời gian ủ là có lợi trong
việc đẩy nhanh quá trình trưởng thành.có tính đến xem xét nhân công ít và chi phí hoạt động thấp hơn so
với khuấy trộn hàng ngày.nó có thể được gợi ý rằng tần suất quay 3 ngày sẽ là thích hợp hơn để đạt được
chấp nhận về chất lượng của phân hữu cơ và dễ dàng trong hoạt động.
I.

Giới thiệu
Số lượng chất thải rắn của thành phố phát sinh ở hong kong đạt khoảng 15,700 tấn /ngày vào năm 1997
và dự kiến sé tang với mức ổn định của dân số.để giảm thiểu chất thải rắn,chính phủ HONG KONG đã
xây dựng và thực hiện một kế hoạch giảm thiểu chất thải mới.ủ phân là một thay thế được kiến nghị cho
xử lý chất thải rắn hữu cơ và những sản phẩm cuối cùng có thể được tái sử dụng ứng dụng cho đất(HK
EPD,1998).hầu hết các nghiên cứu cho thấy rằng phân compost dung cho đất nông học làm gia tang năng
suất cây trồng dựa trên hàm lượng dinh dưỡng thực vật và đặc tính duy trì độ ẩm.nó cũng duy trì tính chất
vật lý của đất bởi vì các vật liệu hữu cơ chẳng hạn như chất thải nông nghiệp và mùn lắng cặn nước thải
bị suy thoái thành phân tương đối ổn định có thể phục vụ như là một loại đất –conditioner(mc Connell và
các cộng sự 1993.wong và các cộng sự 1996)(bảng 1).
Trong nghiên cứu này,hai chất thải rắn( tức là bã đậu nành và lá cây) được ủ như là 1 phương pháp thay
thế xử lý chất thải ở HONG KONG.bã đậu tương gồm có hàm lượng chất dinh dưỡng cân bằng ( đặc biệt
là nitơ),là sản phẩm từ đồ uống đậu nành và nhà máy đậu phụ ở HONG KONG.do đó thành phần của


chúng tốt cho việc ủ phân.hiện nay,họ đang xử lý bỏi bãi chon lấp.lá biểu hiện là một loại phân hủy tương
đối chậm do hàm lượng cao các hợp chất khó phân hủy như cellulose và lignin.do đó,bã đậu nành với
hàm lượng ni tơ tương đối cao sẽ bổ sung tương đối hàm lượng carbon cho lá cho đồng phân hủy.
Phân hữu cơ trưởng thành và ổn định là yếu tố then chốt trong quá trình ủ.phân chưa trưởng thành,khi mà
dung cho đất,hoạt động phân hủy duy trì cao cái này có thể làm chậm quá trình tang trưởng của thực vật
do thiếu ni tơ,điều kiện kị khí và độc tố NH3 một số axit hữu cơ( mathur và các cộng sự 1993).
Bảng 1”
Các thông số hóa lý của vật liệu được lựa chọn(ví dụ bã đậu tương,lá cây và mùn cửa)

Thông số

Bã đậu tương

Lá cây

Mùn cưa


pH
EC(dS m-1)
Độ ẩm(%)
Tổng ni tơ (mg kg-1)
Tổng các bon hữu cơ(%)
Tỷ lệ C:N

7.4(0.08)a
5.22(0.15)
78.3(0.17)
54819(6650)
18.8(0.65)

3.4(0.77)

6.68(0.15)
0.83(0.07)
72.4(1.10)
19197(1100)
20.2(0.86)
10.6(0.93)

7.02(0.03)
0.02(0.001)
0.35(0.02)
68.9(7.9)
45.4(2.00)
6.59(14.6)

*nguồn gốc tiêu chuẩn phương tiên của một trong ba bản sao
Đây mạnh thúc đẩy sản xuất phân hữu cơ trưởng thành,yếu tố môi trường như nhiệt độ,sục khí,độ ẩm và
chất dinh dưỡng nên được kiểm soát thích hợp ( Epstein,1997).tần suất quay trộn thì thường được cho là
một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng của phân bón.tuy nhiên,sự thông thoáng tối
ưu tỷ lệ khác nhau đối với từng loại vật liệu và những sự chuẩn bị của những phương pháp,ảnh hưởng
của tần suất khuấy trộn tới 1 loạt thông số của phân bón hữu cơ chưa được hiểu rõ.Mục tiêu của dự án này
là để đánh giá tính khả thi đồng phân hủy của bã đậu tương và lá cây đồng phân hủy để tạo ra các sản
phẩm phân bón chất lượng cho canh tác hữu cơ cũng như là nghiên cứu tần suất khuấy trộn tối ưu cần
thiết cho đồng phân huy của bã đậu tương và lá cây để cung cấp sự thông khí phù hợp tối ưu cho phân
hủy hữu cơ.
II.
Phương pháp
1. Thiết lập đống ủ phân
Bã đậu tương và lá cây được thu thập từ nhà máy đậu phụ và nông trại Kadoorie ở Taipo,HONG KONG

từng thứ một.Một cái máy đập được sử dụng để phá vỡ lá cây thành những đoạn có kích thước nhỏ hơn.3
đống phân hỗn hợp phân đồng phân hủy của bã đậu nành và lá cây được chuẩn bị cấu thành gồm bã đậu
nành lá cây và mùn cưa theo 1 tỷ lệ là 1:1:3(w/w khối lượng ẩm ướt) đạt được một tỉ lệ C/N là 30.mục
đích sử dụng mùn cưa là điều chỉnh tỷ lệ C/N bởi vì hàm lượng C tương đối cao.
Vun thành đống phân ủ ước lượng khoảng 4m3 mỗi đống,được ủ trong thời gina 63 ngày.các đống được
quay trộn sử dụng một băng tải ở một tần suất quay trộn hàng ngày( cột A),3 ngày ( cột B) và hàng tuần
( cột C),tương ứng.độ ẩm đã được điều chỉnh khoảng 60±70% khi bắt đầu ủ phân và sau đó thì một cách
tuần hoàn trong giai đoạn ủ.trong quá trình ủ,nhiệt độ trên mỗi đống ở 60±70 cm bên trong mỗi đống
được đo trước mỗi lần khuấy trộn.Hai mẫu phân sẽ được lấy từ hai điểm đối xứng của các đống và sẽ
được kết hợp lại tạo thành một mẫu phân hữu cơ.lấy 3 mẫu phân ủ một cách định kì ở các ngày
0,7,14,21,28,35,49 và 63 và được bảo quản ngay ở 4 0C trước khi phân tích.
2. Tính chất hóa lý của phân hữu cơ
Các chiết xuất phân ngậm nước thu được bởi sự khuấy động mẫu bằng cơ học với chưng cất nước hai lần
(DDW) trên một chất rắn:DDW mất 1:10(w/v trọng lượng khô cơ bản) trong vòng 1 giờ.chất huyền phù
sẽ được ly tâm ở 10,000 rpm và lọc qua màng lọc 0.45µm.sự phân tích ở dưới để thực hiện chiết
suất nước:pH được xác định bằng cách sử dụng 1 máy đo pH Orion 920,độ dẫn điện (EC) đo
bằng máy đo độ dẫn điện Orion 160.phân tích tổng hữu cơ,các bon hữu cơ hòa tan bằng SHI
MADZU TOC-500A:NH4-N bởi phương pháp indophenol xanh và NO3-N bởi phương pháp
giảm thiểu cadminum .tổng nit (micro –phương pháp kjeldahl) các xác định khác(1982).các
mẫu tươi được sấy ở 105 0C trong 24h để xác định hàm lượng độ ẩm cảu thành phần phân
hữu cơ.chất rắn bay hơi sau đó được đo sự thất thoát về khối lượng trên lò sấy khô đốt cháy
mẫu ở 550 0C trong 16 h.E4/E6 được xác định bởi dung chiết xuất Na4P2O7H2O chiết tách
và sau đó xác định đo phổ ở 460 và 660 nm,lần lượt(1982)
3. Thử nghiệm sự nảy mầm của cải xoong
Sự nảy mầm của hạt giống và kiểm tra sự dài ra của rễ được tiến hành trên chiết tách nước
bởi máy lắc cơ học mẫu tươi trong 1 giờ trên chất rắn: DDW là 1:10(w/v khối lượng khô cơ
sở).5ml chiết tác cho từ pipet vào một đĩa nhựa petri đã tiệt trùng lót bởi giấy lọc Whatman


# 1.mười hạt cải xoong(Lepidium sativum L.) được phân bố đều trên giấy lọc và ủ ở 20±25°C

trong bống tối 48 giờ.ba bản sao được phân tích cho mỗi đống mẫu.xử lýđược đáng giá bằng
cách đếm số số lượng hạt nảy mầm và đo chiều dài căn bản của rễ.sự trả lời được tính bằng
chỉ số nảy mầm đã được xác định theo công thức sau đây(zucconiet,1981.)
Chỉ số nảy mầm (%)

4. Phân tích thống kê

Tất cả các dữ liệu được phân tích bởi phần mềm thống kê SAS sử dụng máy tính cá nhân IBM
(little và hills 1978).sự khác nhau quan trọng kiểm tra ở P = 0.05 được tiến hành để so sánh
các phương tiện của một trong ba mẫu sao và mối tương quan pearson trong số các thông
số được xác định là tốt.
III.
Kết quả và thảo luận
1. Thay đổi các thông số hóa lý trong quá trình ủ phân
a) Nhiệt độ
Nhiệt độ của tất cả các nhóm xử lý đạt được trong gia đoạn ưa nhiệt(> 50 0C) sau 3±4 ngày
ủ phân hữu cơ.nó phản ánh hoạt động phân hủy của vi sinh vật trong các đống phân ủ ( hình
1).vi sinh vật tiêu thụ chất hữu cơ hòa tan và cac chất dinh dưỡng môi trường xung
quanh,mà sau đó chúng trải qua suy giảm hiếu khí tạo ra nhiệt,sinh khối và khí CO2.tuy
nhiên khuấy trộn hàng ngày với đống A đòi hỏi cần một thời gian tương đối dài đạt tới nhiệt
độ lớn hơn 50°C.không có sự chênh lệch đáng kể nhiệt độ tối đa giữa ba đống,nó khoảng
70±73°C trong giai đoạn ưu nhiệt.hầu hết các dữ liệu trong trong tài liệu cho thấy rằng
phạm vi nhiệt độ tối ưu cho việc phân hủy có hiệu quả là 50±60°C,trong khi những báo cáo
khác cho thấy rằng sự phân hủy tối đa của chất rắn đô thị xảy ra ở nhiệt độ ở khoảng giữa
65±70°C (Bach et al., 1984; Epstein, 1997).Nhiệt độ của đống A với sự khuấy trộn hàng
ngày đã giảm nhanh chóng sau giai đoạn ưu nhiệt và bước vào giai đoạn làm mát ở ngày
48,trong khi đó nhiệt độ ở hai đống khác với sự xử lý khuấy trộn hàng ngày và hàng tuần thì
chỉ giảm ít tới 62 °C.ở giai đoạn sau cũng như sự phát triển chậm của nhiệt độ ở lúc bắt đầu
ủ của việc ủ phân nhiệt độ của đống A thấp có thể giải thích bằng nhiệt độ cao và sự mất


nước do bốc hơi và sự đối lưu nhiệt,lien tục,gây ra bởi tần suất khuấy trộn cao.

Sự thay đổi nhiệt độ xảy ra trong quá trình đồng phân hủy bã đậu tương và lá cây


b) pH và EC
Những thay đổi trong pH cho các đống khác nhau cùng theo xu hướng với sự sụt giảm nhẹ từ những
khoảng 6.1± 6.8 tới 5.3±6.1 trong 7 ngày đầu tiên (hình 2(a)).điều này là do sự phân hủy của các chất hữu
cơ và sản phẩm axit hữu cơ và vô cơ do hoạt động của vi sinh vật trong bã đậu nành và lá (Mathur,
1991).pH sau đó tang đáng kể lên khoảng 8.2 ở ngày 14 khi nhiệt độ tang lên.sự trả lời này có thể được
giải thích bơi sự ammon hóa và khoáng hóa của ni tơ hữu cở thông qua các hoạt động của vi sinh vật
(Bishop and Godfrey, 1983).sau 35 ngày,một sự giảm dần pH thì được quan sát cho tất cả các đống ngoại
trừ đống C với tần suất khuấy trộn hàng tuần.các giá trị pH ở kết thúc quá trình ủ phân hữu cơ cho đống
A,B và C lần lượt là 7.9,8.1 và 8.5.sự giảm nhẹ này có thể là do sự bay hơi của amoni và sự phát thải của
ion hydro từ quá trình nitrat hóa sau giai đoạn ủ phân bởi vi khuẩn nitrat.pH tương đối cao ở đống C được
giait thích bởi hàm lượng amoni trong đống do là tần suất khuấy trộn tương đối thấp.
Tất cả các đống với tần suất khuấy trộn khác nhau cho thấy một mô hình tương tự của sự thay đổi
EC,phản ánh mức độ nhiễm mặn của bã đậu nành- lá cây khi đồng phân hủy ( hình 2(b)).EC tang lên từ
giá trị ban đầu là 1.5 dS m-1 tới một giá trị cao khác khoảng 2.0 dS m-1 trong thời gian 7 ngày đầu tiên.sự
tang thêm này khả năng là so sự mất mát khối lương và phát thải của muối khoáng khác như là ion
phosphate andammonium thồng qua quá trình phân hủy các chất hữu cơ.EC sau đó giảm đáng kể với thời
gian tới mức độ thấp hơn giữa 1.11 và 1.34 dS m-1 lúc kết thúc ủ phân hữu cơ,mà có thể là do sự bay hơi
của ammoniac và sự kết tủa của muối khoáng (Wong et al., 1995).EC của đống A vơi khuấy trộn hàng
ngày thấp đáng kể so với những xử lý xoay trộn ở 3 ngày và hàng tuần từ ngày 28 trở đi.
c) Những thay đổi trong chất rắn bay hơi
Hàm lượng của chất rắn dễ bay hơi giảm với thời gian ủ phân cho tất cả các phương pháp xử lý do là vật
chất thông qua sự suy giảm của vi sinh vật ( hình 3).đống A với quay trộn hàng ngày có sự mất mát chất
rắn bay hơi cao hơn (6%) so vơi hai đống khác có tần suất khuấy trộn ít hơn(3%).sự mất mát của các vật
chất hữu cơ cao hơn cho thấy rằng sự thông khí tạo ra bởi quay trộn sẽ có lợi cho sự phân hủy chất hữu cơ
trong đồng phân hủy ủ phân của bã đậu nành và lá cây.tuy nhiên hàm lượng cao của các chất khó phân

hủy chảng hạn như cellulose và lignin trong lá và mùn cưa có thể giải thích cho mức độ bay hơi tương đối
thấp của chất rắn bay hơi sau 63 ngày kể từ ngày ủ phân hữu cơ.


Hình 3 : những thay đổi của chất rắn bay hơi xảy ra trong giai đoạn đồng ủ phân hữu cơ của bã đậu nành
và lá cây

Hình 2:những thay đổi của pH và độ dẫn điện trong thời gian đồng ủ phân hữu cơ của bã đậu nành và lá
cây

2. phân tích chất dinh dưỡng
a) những thay đổi tổng các bon hữu cơ hòa tan
hàm lượng của tổng cascbon giảm đáng kể cho tất cả các xử lý,từ mức ban đầu 45±42% vào cuối gia
đoạn ủ phân hữu cơ(hình 4(a)).sự giảm của tổng hàm lượng cacbon hữu cơ tương đối thấp trong những
phương pháp xử lý khác nhau khi so sánh với kết quả tìm thấy trong các tài liệu (Benedict et al.,
1988).không có sự khác nhau đáng kể trong số những phương pháp xử lý tổng hàm lượng cacbon hữu
cơ,nhưng mà ở đống B với giai đoạn quay trộn là 3 ngày cho thấy một sự mất mát cao hơn không đáng kể
tổng hàm lượng cacbon hữu cơ.
Lượng các bon hữu cơ hòa tan của các đống khác nhau cho thấy cùng một kiểu thay đổi với mức tang
đỉnh điểm vào ngày thứ 7 ( hình 4(b)).sau đó hàm lượng của các bon hữu cơ giảm nhanh chóng và giảm
dần từ ngày 21 tới hết thời gian ủ phân hữu cơ,chứng minh hoạt động phân hủy các chất hữu cơ nền từ bã
đậu nành và lá cây.phần cascbon hữu cơ hòa tan của đống a(xoay trộn hàng ngày) và đống B(xoay trộn 3
ngày) thì thấp hơn so với đống C(xoay trộn hàng tuần).đề xuất này cho thấy hoạt đông trao đổi của vi sinh
vật trong đống A và B so với đống C trong suốt toàn bộ thời gian quá trình phân hủy phân hữu cơ.hàm
lượng cascbon hữu cơ hòa tna của đống A và B dưới 5000 mg kg -1 ở cuối quá trình ủ phân hữu cơ.sự
trưởng thành của phân hữu cở ở cả hai đống theo kết quả của Garcia và các cộng sự (1991).
b) Chu kì nito
Ba phương pháp có tổng hàm lượng nitơ tương tự nhau 1,50 ± 1,66% vào lúc bắt đầu quá trình phân huỷ,
sau đó tăng lên đến 2,00 ± 2,25% trong thời gian ủ (Fig.(5a)). Điều này có thể xảy ra do sự mất mát khối
lượng khô thực như sự mất mát của cacbon hữu cơ trong giai đoạn ủ phân, cho thấy tỉ lệ sự amoni hóa cao



ban đầu, cũng như sự khoáng hóa của hợp chất nito hữu cơ. Sau đó, NH4-N giảm khi quá trình phân huỷ
diễn ra và đạt đến mức độ thấp vào \cuối thời gian ủ. Lượng NH4-N của các cột với 3 ngày đổi một lần và
đổi hàng tuần cao hơn đáng kể so với đổi hàng ngày cột A ở giai đoạn nhiệt. Do đó, tăng tần số thay đổi
gây ra sự mất mát bay hơi của NH4-N. Lưu ý rằng sự vắng mặt hoặc giảm của NH4-N là một dấu hiệu
cho thấy cả hai quá trình ủ và trưởng thành đều tốt. Lượng NH4-N cuối cùng của tất cả các phương pháp
ít hơn 200 mg / kg, thấp hơn giới hạn tối đa 400 mg / kg được đề nghị cho một quá trình ủ hoàn thành.
Sau lượng cao ban đầu của NO3-N, giá trị đã giảm dần trước khi tăng vào ngày thứ 49 do quá trình nitrat
hóa, ngoại trừ cột A với sự thay đổi hàng ngày. Kết quả này trùng hợp với sự sụt giảm đáng kể của NH4N sau ngày 49, bởi vì quá trình nitrat hóa ít xảy ra dưới điều kiện ưa nhiệt, khi nhiệt độ cao và lượng
amoniac quá nhiều đã ức chế sự hoạt động và phát triển của vi khuẩn nitrat. Tuy nhiên, lượng nitrat tối đa
của tất cả các cột đều dưới 5 mg/kg, do vậy, quá trình nitrat hóa được dự kiến sẽ tăng lên cùng với sự gia
tăng trong thời gian ủ.


Hình 4: sự thay đổi trong tổng cac bon hữu cơ (a) và các bon hữu cơ hòa tan trong thời gian đồng ủ phân
của bã đậu nành và lá cây(b)
3. Đánh giá sự trưởng thành
a) Kiểm tra sự nảy mầm của cải xoong
Chỉ số nảy mầm (GI) , kết hợp các biện pháp nảy mầm hạt giống tương đối và kéo dài rễ tương đối của
các hạt giống cải xoong ( Lepidium sativum L. ) , là tham số nhạy cảm nhất được sử dụng để đánh giá
mức độ độc hại và mức độ trưởng thành của phân hữu cơ ( Zucconi và cộng sự . , 1981). Giá trị của chỉ số
nảy mầm giảm từ mức ban đầu là 36% cho tất cả các phương pháp đến các giá trị thấp nhất 26 ± 33 %
vào ngày thứ 7 . Điều này có thể là do việc phát thải các nồng độ
cao của ammonia và trọng lượng phân tử axit hữu cơ thấp ( Wong , 1985; Fang và Wong, 1999). Khi quá
trình phân huỷ xảy ra , các chỉ số nảy mầm của ba phương pháp tăng đáng kể và đạt 80 ± 91 % vào cuối
thời gian ủ , với cột A có giá trị cao hơn đáng kể . Một chỉ số nảy mầm 50% đã được sử dụng như một dấu
hiệu của độc tố thực vật ( Zucconi et al. , 1981). Quá trình phân hủy trong cột A và cột B (với tần số thay



đổi cao hơn) được ổn định đủ vào ngày thứ 49 , trong khi cột C cần một thời gian lâu hơn để đạt mức ổn
định theo tiêu chuẩn về chỉ số nảy mầm. Lynch (1977 ) nhận thấy rằng điều kiện yếm khí trong quá trình
phân hủy rơm lúa mì mang lại các sản phẩm ức chế sự tăng trưởng của lúa mạch . Độc tố gây ra bởi các
hợp chất hữu cơ được tạo ra trong quá trình ủ phân có thể được khắc phục bằng cách tăng thời gian hiếu
khí của carbon dioxide cũng như sự mất nước do bay hơi trong quá trình khoáng hóa các chất hữu cơ
( Viet et al. , 1987). Hơn nữa, tổng nitơ cũng có thể được tăng lên bởi các hoạt động của vi khuẩn cố định
đạm vào cuối của quá trình phân huỷ ( Bishop and Godfrey ,1983). Cột B với phương pháp 3 ngày đổi
một lần cho thấy không có tổng số hàm lượng nitơ cao không đáng kể so với hai cột khác từ ngày 35 trở
về trước , trùng hợp với sự sụt giảm đáng kể trong tổng hàm lượng cacbon hữu cơ trong cột B.
Những thay đổi trong nồng độ NH4-N và NO3-N theo các hướng tiêu biểu cho hai dạng của nitơ trong
quá trình ủ hiếu khí (Hình 5 (b) và (c)). Hàm lượng NH4-N cao đã được ghi nhận ở sự phân hủy nhiệt.
Kết quả của chúng tôi cũng cho thấy tần số đổi là có lợi để hạn chế hoặc loại bỏ độc tố từ phân hủy bã
đậu tương và lá.



Hình 6 : sự thay đổi trong chỉ số nảy mầm của hạt cải xoong(a) tỷ lệ C/N(b) và tỷ lệ E4/E6(c) xảy ra trong
đồng ủ phân của bã đậu và lá cây
b) Tỷ lệ C/N
Tỷ lệ ban đầu của C/N trong thành phần phân bón đã được điều chỉnh khoảng 30, trong đó giảm xuống
đến một tỷ lệ C/N cuối cùng trong khoảng 18 ± 22 (Hình 6 (b)). Không có sự khác nhau đáng kể trong tỷ
lệ C / N giữa các nhóm phương pháp khác nhau vào cuối thời gian ủ. Mặc dù tỷ lệ C / N trong chất rắn
không thể được sử dụng như một chỉ số tuyệt đối của quá trình phân hủy trưởng thành do sự thay đổi lớn
điều đó phụ thuộc vào nguyên liệu ban đầu, giá trị xung quanh hoặc dưới 20 có thể được xem xét thỏa
đáng. Vì vậy, tất cả các phương pháp với các tần số thay đổi khác nhau đạt đến trưởng thành sau 63 ngày
phân hủy.
c) Tỷ lệ E4/E6
Tỷ lệ mật độ quang học của axit humic và axit fulvic ở 460 và 660 nm, tương ứng E4/E6, từ lâu được
dùng để phản ánh mức độ ngưng tụ nhân thơm của mùn, cho thấy sự trưởng thành của nó (Schnitzer và
cộng sự, 1993.). Tuy nhiên, tỷ lệ E4/E6 không phải là một chỉ số phổ biến vì nó khác với các nguyên liệu

được sử dụng để ủ phân. Tỷ lệ E4/E6 của ba cột theo một khuôn mẫu gần tương tự nhau, nhưng cột A và
B duy trì mức E4/E6 tương đối cao hơn so với cột C trong suốt thời gian ủ (Hình 6 (c)). Tỷ lệ E4/E6 giảm
chậm trong thời gian ủ, điều đó cho thấy phân hủy sản xuất axit humic polycondensed cao hơn (Garcia et
al., 1991b). Do đó, quá trình phân huỷ cải thiện chất lượng của sự phân hủy bã đậu nành và lá qua quá
trình humic hóa trong thời gian ủ.
4. Kết luận
Sự phân huỷ bã đậu tương với lá đã được chứng minh là khả thi dưới điều kiện phân hủy thử nghiệm, với
hướng dẫn chuyển phân hữu cơ ổn định cho năng suất có thể được sử dụng cho canh tác hữu cơ hoặc bổ
sung cho đất. Tần số xoay trộn ảnh hưởng đến hoạt động của một số thông số quan trọng trong quá trình
đồng phân huỷ lượng bã đậu tương với lá . Tần số thay đổi thấp hàng tuần dẫn đến một hoạt động phân
hủy thấp và ổn định chậm khi được chỉ ra bởi sự mất trọng lượng nhỏ hơn, carbon hữu cơ hòa tan thấp
hơn, và giảm chỉ số nảy mầm. Tăng tần số thay đổi hàng ngày hoặc 3 ngày một lần hiệu quả hơn trong
việc đạt được sự giới hạn của quá trình phân hủy và hạn chế hoặc loại trừ phát thải của các hợp chất độc
hại trong quá trình phân hủy bởi vi khuẩn trong giai đoạn nhiệt. Tuy nhiên, sự xoay trộn hàng ngày dẫn
đến chậm trễ trong việc gia tăng nhiệt độ tiếp theo là sự suy giảm nhanh chóng của nhiệt độ do mất nhiệt
nhanh hơn. Cột B ( thời gian xoay trộn 3 ngày một lần) có mức độ phân hủy cao nhất khi được chỉ ra bởi
sự gia tăng C và N. Những kết quả này cho thấy rằng một tần số thay đổi 3 ngày một lần của sự phân hủy
bã đậu nành và lá có thể là thực tế hơn.



×