Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

MỘT số NHẬN xét về VIỆC CHÍNH PHỦ KHÔNG KHUYẾN KHÍCH các DOANH NGHIỆP đầu tư RA nước NGOÀI vì CHO RẰNG VIỆT NAM ĐANG cần vốn để THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH CÔNG NGHIỆP hóa và HIỆN đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.02 KB, 25 trang )

MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ VIỆC CHÍNH PHỦ
KHÔNG

KHUYẾN

KHÍCH

CÁC

DOANH

NGHIỆP ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI VÌ CHO
RẰNG VIỆT NAM ĐANG CẦN VỐN ĐỂ THỰC
HIỆN CHƯƠNG TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA
VÀ HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

Chủ đề: Hiện nay nhiều doanh nghiệp Việt Nam tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng Chính phủ không nên khuyến khích điều này vì
bản thân Việt Nam đang rất cần vốn để thực hiện chương trình công nghiệp hoá và
hiện đại hoá đất nước. Bạn có nhận xét gì về ý kiến này?

LỜI MỞ ĐẦU


Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn
thế giới, các hoạt động đầu tư ngày càng phát triển sôi động ở phạm vi cả trong và
ngoài nước. Trong đó, hoạt động đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN) nổi lên như một xu
thế chung của các quốc gia, nhằm mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh, tận dụng nguồn tài nguyên và nhân lực ở nước tiếp nhận, tránh hàng rào bảo hộ
và tận dụng các chính sách ưu đãi của nước sở tại,….Vì vậy muốn hội nhập và phát
triển kinh tế thì Việt nam không thể không quan tâm đến việc ĐTRNN.



I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1. Mở rộng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng với
thị trường trong nước và quốc tế
Vươn ra thị trường nước ngoài để tìm kiếm lợi nhuận, khai thác lợi thế so sánh và
nâng cao vị thế trên trường quốc tế đang là mục tiêu chung của các quốc gia trên thế
giới. Và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chính là cách thức hiệu quả để đạt được các
mục tiêu trên, bởi những lợi ích to lớn nó đem lại cho cả nước đầu tư và nước tiếp
nhận. Có thể nói đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đang là xu thế tất yếu khách quan và
ngày càng phát triển trên phạm vi toàn thế giới, và Việt Nam cũng không nằm ngoài
xu thế đó.
Đối với Việt Nam nói riêng, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đóng vai trò cực kì quan
trọng. Trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước và hội
nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài góp phần giúp Việt Nam
mở rộng thị trường, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu
vực và trên thế giới, nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
2. Mở rộng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp Việt Nam thúc đẩy quá trình phát
triển kinh tế - xã hội
Trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ và
xu thế mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một trong
những biện pháp nhanh nhất và ít tốn kém nhất mà Việt Nam có thể áp dụng để tiếp
cận với khoa học công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới.


Đây cũng là một cách thức đi tắt đón đầu rất hiệu quả, đáng được quan tâm khuyến
khích phát triển. Đặc biệt trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, với xuất phát điểm
của nền kinh tế thấp, lại chịu sự tàn phá nặng nề của chiến tranh, thì đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài là một cách thức hiệu quả để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, mở rộng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tận dụng được lợi thế của các

nước tiếp nhận về lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, từ đó giải quyết được những
khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội và thực hiện công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước.
3. Mở rộng đầu tư ra nước ngoài góp phần tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh
cho các doanh nghiệp trong nước
Bằng cách triển khai các dự án đầu tư ở nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước tận
dụng được các lợi thế về chi phí sản xuất thấp của nước tiếp nhận (do giá lao động rẻ,
chi phí khai thác nguyên vật liệu tại chỗ thấp,…), từ đó tạo điều kiện hạ giá thành sản
phẩm, giảm chi phí vận chuyển, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
Đồng thời, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm, tránh được các hàng rào bảo hộ mậu dịch và tận dụng được
các ưu đãi của nước tiếp nhận đầu tư, từ đó nâng cao vị thế của các doanh nghiệp
trong nước trên thị trường quốc tế.
Đặc biệt, với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, khi tiềm lực tài chính và công nghệ
còn nhiều hạn chế, kinh nghiệm đầu tư ra nước ngoài chưa nhiều, một số doanh nghiệp
còn khá e dè trong việc triển khai hợp tác đầu tư ở nước ngoài, thì đẩy mạnh đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài là hết sức cần thiết nhằm giúp các doanh nghiệp cọ xát tích lũy
kinh nghiệm và nâng cao năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế.
Bên cạnh đó, mở rộng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn giúp các doanh nghiệp san sẻ
rủi ro trong đầu tư và trong kinh doanh. Rủi ro trong kinh doanh là không thể tránh
khỏi, và một trong những giải pháp hiệu quả nhằm san sẻ, phòng tránh những rủi ro
này là đầu tư ra nước ngoài, đa dạng hóa danh mục đầu tư nhằm thu lợi nhuận và củng
cố sự bền vững của hoạt động sản xuất kinh doanh.


Như vậy, thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là thật sự cần thiết trong điều kiện
nước ta hiện nay, khi mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế nói chung và
của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng còn khá hạn chế.

II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐTRNN CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM.

1. Hệ thống pháp luật ĐTRNN của Việt nam
Ngày 14/4/1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/1999/NĐ - CP quy định
ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam để hướng dẫn và quản lý hoạt động ĐTRNN và
ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể hoạt động ĐTRNN của doanh nghiệp Việt
Nam (Thông tư số 05/2001/TT-BKH ngày 30/8/2001 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Thông tư số 01/2001/TT-NHNN ngày
19/01/2001 hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với ĐTRNN của doanh nghiệp Việt
Nam). Những văn bản nêu trên cùng với các văn bản pháp luật khác đã tạo nên một
khung pháp lý cần thiết cho hoạt động ĐTRNN.
Tuy nhiên, qua thực tế cho thấy hoạt động ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam còn
lúng túng, gặp nhiều khó khăn khi triển khai thực hiện, bộc lộ một số hạn chế đòi hỏi
cần được hoàn thiện. Các quy định còn thiếu cụ thể, đồng bộ, nhất quán, thủ tục hành
chính còn phức tạp, rườm rà, không ít quy định của cơ quan quản lý can thiệp quá sâu
vào quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Quy trình đăng ký và
thẩm định cấp Giấy chứng nhận ĐTRNN còn phức tạp, thủ tục điều chỉnh Giấy chứng
nhận đầu tư chưa được rõ ràng. Ngoài ra, văn bản pháp lý về ĐTRNN mới dừng lại ở
cấp Nghị định của Chính phủ nên hiệu lực pháp lý chưa cao.
Từ thực tế nêu trên, năm 2005 Chính phủ đã trình Quốc hội luật hóa hoạt động
ĐTRNN và được Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư năm 2005 (có hiệu lực vào tháng
7/2006), trong đó có các quy định về ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam. Sau một
thời gian ngắn, Nghị định 78/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định về ĐTRNN của
doanh nghiệp Việt Nam được ban hành ngày 09/9/2006 nhằm hướng dẫn thi hành Luật
Đầu tư năm 2005 với 4 mục tiêu chủ đạo là (i) phù hợp với thực tiễn hoạt động; (ii)
quy định rõ ràng, cụ thể hơn; (iii) tăng cường hiệu quả của quản lý nhà nước và (iv)
đơn giản hóa thủ tục hành chính. Đồng thời, kế thừa và phát huy có chọn lọc những


mặt tích cực, cũng như khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành về
ĐTRNN nhằm mở rộng và phát triển quyền tự chủ, tự do kinh doanh của doanh
nghiệp. Nghị định 78/2006/NĐ-CP còn quy định các nhà đầu tư và doanh nghiệp

thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có doanh nghiệp có vốn ĐTNN, đều có quyền
ĐTRNN, có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh, được lựa
chọn hay thay đổi hình thức tổ chức quản lý nội bộ, hình thức đầu tư thích ứng với yêu
cầu kinh doanh và được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Bên cạnh đó, Nghị định
78/2006/NĐ-CP còn quy định rõ về trách nhiệm, các quan hệ giữa cơ quan nhà nước
đối với nhà đầu tư và doanh nghiệp, về việc thực hiện các mối quan hệ đó cũng như
chế tài khi có những vi phạm từ hai phía (nhà đầu tư và cơ quan, công chức nhà nước)
nếu không thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Như vậy, khuôn khổ pháp lý
của hoạt động ĐTRNN đã dần dần được hoàn thiện hơn thông việc ban hành Luật Đầu
tư năm 2005, đồng thời, Nghị định số 78/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 quy định về
ĐTRNN đã thay thế Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14/4/1999 và thủ tục ĐTRNN
đã được hướng dẫn cụ thể, rõ ràng, đơn giản tại Quyết định số 1175/2007/QĐ-BKH
ngày 10/10/2007 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2. Đầu tư ra nước ngoài giai đoạn 1989-2007
Tính đến hết năm 2007, Việt Nam còn 249 dự án ĐTRNN còn hiệu lực với tổng vốn
đầu tư 1,39 tỷ USD, vốn thực hiện đạt khoảng 927 triệu USD, chiếm 66,8% tổng vốn
đầu tư ra nước ngoài. Quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 5,58 triệu USD/dự án. Qua
từng giai đoạn quy mô vốn đầu tư đã thay đổi theo chiều hướng tăng dần, điều này cho
thấy tác động tích cực của khuôn khổ pháp lý đối với hoạt động ĐTRNN của các
doanh nghiệp Việt Nam cũng như sự tích cực tham gia vào hoạt động ĐTRNN của các
doanh nghiệp có quy mô vốn lớn, trong đó phải nói tới Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.
Trong giai đoạn 1989-1998, trước khi ban hành Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày
14/4/1999 của Chính phủ quy định ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam, có 18 dự án
ĐTRNN với tổng vốn đăng ký đạt trên 13,6 triệu USD; quy mô vốn đầu tư bình quân
đạt 0,76 triệu USD/dự án.
Trong thời kỳ 1999-2005 sau khi ban hành Nghị định số 22/1999/NĐ-CP, có 131 dự
án ĐTRNN với tổng vốn đăng ký đạt trên 559,89 triệu USD, tăng gấp 7 lần về số dự


án và gấp 40 lần về tổng vốn đầu tư đăng ký so với thời kỳ 1989-1998; quy mô vốn

đầu tư bình quân đạt 4,27 triệu USD/dự án, cao hơn giai đoạn 1989-1998.
Từ năm 2006 khi ban hành Nghị định 78/2006/NĐ-CP ngày 09/9/2006 của Chính phủ
quy định về ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam tới hết năm 2007 có 100 dự án
ĐTRNN với tổng vốn đăng ký đạt trên 816,49 triệu USD; tuy chỉ bằng 76% về số dự
án, nhưng tăng 45% về tổng vốn đăng ký giai đoạn 1999 - 2005 và gấp 60 lần tổng
vốn đầu tư đăng ký so với giai đoạn 1989-1998; quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 8,16
triệu USD/dự án, cao gần gấp đôi thời kỳ 1999-2005 và gần gấp 11 lần thới kỳ 1989 1998.
a) ĐTRNN phân theo ngành :
Các dự án đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam tập trung chủ yếu trong
lĩnh vực công nghiệp với 100 dự án, tổng vốn đầu tư là 893,6 triệu USD, chiếm
40,16% về số dự án và 64,3% tổng vốn đăng ký ĐTRNN. Trong đó, đáng chú ý có
một số dự án quy mô vốn trên 100 triệu USD, như: dự án Thủy điện Xekaman 3 của
Công ty cổ phần đầu tư và phát triển điện Việt – Lào với tổng vốn đầu tư là 273 triệu
USD, dự án thăm dò khai thác dầu khí tại Angiêri của Tập đoàn dầu khí Việt Nam với
tổng vốn đầu tư là 243 triệu USD, 2 dự án thăm dò khai thác dầu khí của Công ty đầu
tư phát triển dầu khí tại Madagascar với tổng vốn đầu tư là 117,36 triệu USD, tại I Rắc
tổng vốn đầu tư là 100 triệu USD.
Tiếp theo là ĐTRNN trong lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp với 53 dự án, tổng vốn đăng
ký ĐTRNN là 286 triệu USD, chiếm 21,3% về số dự án và 20,57% tổng vốn đăng ký
ĐTRNN. Trong đó, phần lớn là dự án trong lĩnh vực trồng cao su, cây công nghiệp tại
Lào với một số dự án quy mô lớn như: (i) Công ty cổ phần cao su Dầu Tiếng Việt –
Lào, tổng vốn đầu tư 81,9 triệu USD, (ii) Công ty cao su Đắc Lắc, tổng vốn đầu tư
32,3 triệu USD, (iii) Công ty cổ phần cao su Việt – Lào, tổng vốn đầu tư 25,5 triệu
USD.
ĐTRNN trong lĩnh vực dịch vụ có 96 dự án với tổng vốn đăng ký là 210,4 triệu USD,
chiếm 38,5% về số dự án và 15,14% tổng vốn đăng ký ĐTRNN. Trong đó, có 1 số dự
án lớn như: Dự án đầu tư sang Campuchia khai thác mạng viễn thông di động của
Công ty viễn thông Viettel với tổng vốn đầu tư 27 triệu USD, dự án đầu tư sang Liên



bang Nga để xây dựng trung tâm thương mại, văn phòng cho thuê của Công ty cổ
phần đầu tư Việt Xô với tổng vốn đầu tư 35 triệu USD, dự án đầu tư sang Singapore
để đóng mới tàu chở dầu của Công ty dịch vụ kỹ thuật dầu khí với tổng vốn đầu tư 21
triệu USD, .... Còn lại là các dự án có quy mô vừa và nhỏ đầu tư vào các địa bàn như
Hoa Kỳ, Singapore, , Nhật Bản, Trung Quốc....
b) ĐTRNN phân theo đối tác: Các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư sang 35 quốc
gia và vùng lãnh thổ, nhưng chủ yếu tại:
Châu Á có 167 dự án, tổng vốn đầu tư là 751,03 triệu USD, chiếm 67% về số



dự án và 54% tổng vốn đầu tư đăng ký. Trong đó tập trung nhiều nhất tại Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào với 86 dự án, tổng vốn đầu tư là 583,8 triệu USD, đã thực hiện
328 triệu USD, chiếm 35% về số dự án và 42% tổng vốn đầu tư đăng ký. Phần lớn các
dự án đầu tư sang Lào trong lĩnh vực công nghiệp nhiệt điện, trồng cao su, khai thác
khoáng sản. Tại I Rắc, tập đoàn Dầu khí Việt Nam cũng ký kết đầu tư vào dự án thăm
dò, khai thác dầu khí có vốn đầu tư cam kết là 100 triệu USD hiện chưa triển khai
được do tình hình an ninh bất ổn tại khu vực này.


Châu Phi có 2 dự án thăm dò, khai thác dầu khí của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam

với tổng vốn đầu tư 360,36 triệu USD, chiếm 23,5% tổng vốn đầu tư đăng ký gồm (i)
có 1 dự án tại địa bàn Angiêri vốn đầu tư là 243 triệu USD, sau giai đoạn thăm dò,
thẩm lượng dự án đã phát hiện có dầu và khí ga ; (ii) 1 dự án tại Madagasca vốn đầu tư
là 117,36 triệu USD hiện có kết quả khả quan.


Châu Âu có 37 dự án, tổng vốn đầu tư 463,84 triệu USD, chiếm 14,6% về số dự


án và khoảng 10% tổng vốn đầu tư đăng ký, trong đó, Liên bang Nga có 12 dự án,
tổng vốn đầu tư là 78 triệu USD.
c) Tình hình thực hiện dự án :
Tính đến hết năm 2007, các dự án ĐTRNN đã giải ngân vốn khoảng 927 triệu USD,
chiếm 66,6% tổng vốn ĐTRNN. Trong số các dự án đã triển khai, lĩnh vực công
nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất, bằng 58,6% tổng vốn thực hiện và đạt khoảng 60%
tổng vốn đăng ký trong lĩnh vực công nghiệp, trong đó có một số dự án lớn đã triển
khai thực hiện. Cụ thể là:


(i) Dự án thăm dò dầu khí lô 433a & 416b tại Angiêria và lô SK305 ở Malaysia của
Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam với vốn đầu tư thực hiện khoảng 150 triệu USD.
Hiện nay, đã phát hiện dầu khí mới tại lô 433a-416b ở Angiêri (giếng MOM-2 có phát
hiện dầu khí, giếng MOM-6 bis cho dòng dầu 5.100 thùng/ngày) và lô hợp đồng
SK305 ở Malaysia (giếng DANA-1X cho dòng dầu 3.100 thùng/ngày).
(ii) Dự án đầu tư sang Singapore của Công ty dịch vụ kỹ thuật dầu khí (PTSC) đã góp
vốn thực hiện 22,7 triệu USD,
(iii) Dự án xây dựng thủy điện Xekaman 3 tại Lào, hiện đang xây dựng các hạng mục
công trình theo tiến độ với vốn đầu tư thực hiện khoảng 100 triệu USD.
Ngoài ra còn có dự án đầu tư trong công nghiệp sản xuất hàng may mặc tại Lào của
Công ty Scavi Việt Nam (DN 100% vốn của Việt Kiều Pháp thành lập theo Luật
ĐTNN tại Việt Nam) đang hoạt động rất hiệu quả.
Các dự án trồng cây công nghiệp, cao su tại 4 tỉnh Nam Lào đang tích cực triển khai
thực hiện theo kế hoạch, cụ thể: Công ty Cao su Đắc Lắc với vốn đầu tư thực hiện
khoảng 15 triệu USD, dự án trồng, sản xuất và chế biến cao su của Tổng Công ty cao
su Việt Nam với vốn đầu tư khoảng 20 triệu USD đã triển khai thực hiện theo tiến độ.
Một số dự án trong lĩnh vực dịch vụ cũng đã triển khai thực hiện như: (i) Dự án đầu tư
sang Singapore của Công ty TNHH cà phê Trung Nguyên hoạt động hiệu qua, đã đưa
hương vị cà phê Việt Nam giới thiệu với bạn bè quốc tế; (ii) Dự án đầu tư sang Nhật
Bản của Công ty cổ phần phần mềm FPT bước đầu đã hợp tác đào tạo được một ngũ

lập trình viên phần mềm có trình độ quốc tế; (iii) Dự án xây dựng trung tâm cộng đồng
đa năng TP HCM tại Liên bang Nga của Công ty cổ phần đầu tư Việt Xô đã góp vốn
khoảng 2,5 triệu USD. Dự án được chính quyền thành phố Moscow chấp thuận đầu tư
(quyết định 2288-RP ngày 15/11/2005) và giao đất (biên bản giao đất 1739 ngày
19/12/2007), đã chọn được nhà thầu thi công và thuê công ty tư vấn. Đồng thời, đã
được phê chuẩn giải pháp kiến trúc của kiến trúc sư trưởng thành phố. Dự kiến cuối
năm 2008 khởi công xây dựng sau khi được cơ quan chức năng LB Nga phê duyệt,
thẩm định xong thiết kế kỹ thuật và một số khác (phòng cháy chữa cháy, bảo vệ môi
trường.v.v.); (iv) Dự án đầu tư sang Campuchia của Công ty viễn thông Quân đội
(Viettel) đang triển khai theo tiến độ đề ra v.v…


3. ĐTRNN trong từ 2007 đến nay
Hoạt động ĐTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam từ năm 2007 đến nay tiếp tục
khởi sắc. Trong năm 2007 có 64 dự án ĐTRNN với tổng vốn đầu tư đăng ký là 391,2
triệu USD, tăng 77% về số dự án bằng 92% tổng vốn đăng ký so với năm 2006. Trong
đó, lĩnh vực nông-lâm- ngư nghiệp có số vốn đầu tư lớn nhất (17 dự án ĐTRNN với
tổng vốn 156,8 triệu USD), chiếm 40% tổng vốn ĐTRNN và 27% về số dự án, tăng
5,4% về vốn đăng ký so với năm 2006 (chiếm 30,3% số dự án và 34,6% vốn
ĐTRNN). Các dự án đầu tư vào lĩnh vực này chủ yếu là dự án trồng cây công nghiệp,
cao su, điều ... tại Lào, lớn nhất là dự án trồng cao su trên diện tích 20.000 ha có tổng
vốn đầu tư đăng ký 81,99 triệu USD do Công ty cổ phần cao su Dầu Tiếng Việt-Lào
đầu tư, được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy chứng nhận đầu tư vào tháng 6/2007.
Tiếp theo là lĩnh vực công nghiệp (23 dự án ĐTRNN với tổng vốn 147,1 triệu USD),
chiếm 38% tổng vốn ĐTRNN và 36% về số dự án. Trong lĩnh vực này, chủ yếu các dự
án đầu tư vào công nghiệp nặng, bao gồm cả dầu khí. Trong đó lớn nhất là dự án thăm
dò, khai thác dầu khí tại Madagasca, tổng vốn đầu tư 117,3 triệu USD do Tổng Công
ty đầu tư phát triển dầu khí thực hiện được cấp giấy chứng nhận ĐTRNN vào tháng
10/2007.
Số còn lại đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ (24 dự án ĐTRNN với tổng vốn 87,2 triệu

USD), chiếm 22% tổng vốn ĐTRNN và 38% về số dự án, giảm so với năm 2006
(chiếm 39,3% số dự án và 61% tổng vốn đầu tư). Có 2 dự án lớn nhất trong lĩnh vực
này là: (i) Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng và khai thác công trình giao thông 584
đầu tư 30 triệu USD vào xây dựng Trung tâm thương mại tại Hoa Kỳ và (ii) Tổng
công ty Viễn thông Quân Đội (Viettel) đầu tư sang Campuchia để thiết lập và khai thác
mạng viễn thông sử dụng công nghệ VOIP cung cấp dịch vụ điện thoại và mạng thông
tin di động tại Campuchia, tổng vốn đầu tư của dự án là 27 triệu USD. Quy mô vốn
đầu tư bình quân của các dự án ĐTRNN trong năm 2007 đạt trên 6 triệu USD/dự án.
Tính đến hết tháng 02/2011, Việt Nam có 575 dự án của các doanh nghiệp Việt Nam
đầu tư ra 55 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng vốn đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam
đạt trên 10 tỷ Đô la Mỹ.


III. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM
1. Thuận lợi:
a) Đối với Việt Nam:
* Về luật pháp, chính sách:
- Hệ thống luật pháp chính sách Việt Nam về hoạt động ĐTRNN dần hoàn thiện tạo
khuôn khổ pháp lý cho hoạt động và quản lý hoạt động ĐTRNN.
* Về quản lý nhà nước:
- Cải thiện đáng kể quy trình theo dõi, quản lý, thẩm tra và cấp giấy chứng nhận, giấy
phép cho các dự án ĐTRNN. Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành như Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính, cũng như với cơ quan đại diện
ngoại giao trong việc quản lý và nắm bắt thông tin về các dự án ĐTRNN đã hình thành
thông qua việc trao đổi thông tin và hợp tác xử lý các vướng mắc của dự án bằng
nhiều hình thức phong phú.
- Mối liên hệ giữa cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài với các doanh nghiệp
ĐTRNN ngày càng thắt chặt hơn.
- Xu hướng hoạt động ĐTRNN tiếp tục sôi động, ngày càng có thêm các doanh
nghiệp Việt Nam có khả năng tài chính và quan tâm mở rộng địa bàn hoạt động sản

xuất kinh doanh bằng việc ĐTRNN nhằm phát huy hiệu quả của hội nhập sâu rộng
vào đời sống kinh tế quốc tế (mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tiết kiệm chi phí
sản xuất, chi phí vận tải .v.v..). Đặc biệt, ĐTRNN đã chuyển từ những dự án quy mô
nhỏ đầu tư vào các ngành nghề đơn giản (mở nhà hàng ăn uống, kinh doanh sản phẩm
chè, cà phê Việt Nam) sang các dự án quy mô lớn đầu tư vào các ngành nghề đòi hỏi
kỹ thuật, công nghệ cao, vốn lớn (thăm dò khai táhc dầu khí, sản xuất điện năng.v.v.).
Từ năm 2006, tổng vốn ĐTRNN đăng ký của các doanh nghiệp Việt Nam đã vượt
ngưỡng 1 tỷ USD. Tuy số lượng dự án và quy mô vốn đầu tư của các doanh nghiệp
Việt Nam ĐTRNN còn nhỏ so với con số vốn thu hút ĐTNN vào Việt Nam (trên 83 tỷ
USD), nhưng đã chứng minh sự trưởng thành từng bước của các doanh nghiệp Việt
Nam về năng lực tài chính, trình độ công nghệ-kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý, đầu


tư. Nhìn chung, các dự án ĐTRNN đã bước đầu triển khai có hiệu quả, nhiều dự án
hoạt động có hiệu quả đã tăng vốn đầu tư, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
b) Đối với nước tiếp nhận đầu tư:
- Về chủ trương, chính phủ các nước đều ban hành chính sách nhằm thu hút ĐTNN.
Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tại một số nền kinh tế rất đơn giản (LB Nga).
- Tùy điều kiện tự nhiên và thực tế của mỗi nước tiếp nhận đầu tư có tiềm năng về
những nội dung mà Việt Nam còn thiếu hụt. Ví dụ: Lào có nhiều tiềm năng để các
doanh nghiệp Việt Nam có thể hợp tác đầu tư vào các lĩnh vực như: thủy điện, thăm
dò- khai thác- chế biến khoáng sản, trồng cây công nghiệp, chế biến nông- lâm sản...
- Quan hệ giữa Việt Nam với một số nền kinh tế (Lào, LB Nga, Campuchia.v.v) là
những quan hệ kinh tế và chính trị đặc biệt nên nhận được sự ủng hộ của Chính phủ
hai bên đối với quan hệ hợp tác đầu tư giữa doanh nghiệp hai phía.
2. Khó khăn:
a) Đối với Việt Nam:
* Về luật pháp, chính sách:
- Chính phủ chưa có chính sách hay cơ chế đặc thù để hỗ trợ và khuyến khích các
doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang các nước, đặc biệt tại Lào, Campuchia, LB Nga.

- Khuôn khổ pháp lý về ĐTRNN theo hình thức gián tiếp còn chưa rõ ràng, gây hạn
chế cho việc đầu tư theo hình thức này. Điều này chưa phù hợp bối cảnh hiện nay, đòi
hỏi phải có văn bản hướng dẫn cụ thể.
* Về quản lý nhà nước:
- Công tác quản lý các dự án ĐTRNN còn gặp nhiều khó khăn do việc thực hiện chế
độ báo cáo của các dự án ĐTRNN chưa đầy đủ, nghiêm túc, và chế tài chưa quy định
rõ ràng.
- Thiếu thông tin về chính sách đầu tư của một số địa bàn nên khó khăn cho công tác
xúc tiến đầu tư, thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam ĐTRNN.


- Chưa thường xuyên tổng kết, đánh giá hiệu quả hoạt động ĐTRNN để rút bài học
kinh nghiệm trong công tác quản lý và đề xuất những biện pháp thúc đẩy hiệu quả hơn
nữa hoạt động ĐTRNN.
- Mối liên hệ giữa cơ quan đại diện ngoại giao và thương vụ ta ở nước ngoài với các
doanh nghiệp ĐTRNN còn lỏng lẻo nên khi có vụ việc tranh chấp xảy ra sẽ không
tranh thủ được tối đa sự hỗ trợ của Nhà nước.
- Một số dự án ĐTRNN thời gian thẩm tra cấp Giấy chứng nhận ĐTRNN vẫn còn kéo
dài so với thời hạn theo luật định, ảnh hưởng tới tiến độ triển khai dự án ở nước ngoài.
* Về doanh nghiệp Việt Nam:
- Tiềm lực của doanh nghiệp Việt Nam về vốn, công nghệ chưa phải là mạnh; kinh
nghiệm quản lý còn hạn chế nên khả năng cạnh tranh thua kém một số nước khác
(Trung Quốc, Thái Lan) tại nước tiếp nhận đầu tư.
- Số lượng dự án và quy mô vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam ĐTRNN còn
nhỏ, do năng lực tài chính và kinh nghiệm đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam bị
hạn chế.
- Các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động riêng lẻ, manh mún, thậm chí còn cạnh tranh
với nhau, không có cơ chế liên kết để tăng tiếng nói đối với các cơ quan có thẩm
quyền của nước sở tại. 1 số thì vi phạm pháp luật ở nước sở tại, làm mất uy tín của các
nhà đầu tư Việt Nam.

- Nhiều doanh nghiệp Việt Nam không cập nhật thường xuyên các chính sách ĐTRNN
của Việt Nam, không thực hiện chế độ báo cáo định kỳ cũng như đăng ký thay đổi nội
dung, hình thức, quy mô hoạt động đầu tư ở nước ngoài.
b) Đối với nước tiếp nhận đầu tư:
- Hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư của 1 số nền kinh tế đang trong quá trình
sửa đổi, hoàn thiện nên có nhiều thay đổi, không thống nhất, thiếu minh bạch và khó
tiếp cận.
- Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp cũng như các thủ tục triển khai thực hiện dự
án đầu tư (đất đai, phê duyệt thiết kế.v.v.), thủ tục thông quan tại một số nền kinh tế


khá phức tạp, thời gian kéo dài, tốn kém về chi phí cho doanh nghiệp(ví dụ tại LB
Nga, Lào).
- Lực lượng lao động tại chỗ rất hạn chế, trình độ chuyên môn thấp, tính kỷ luật và
tính chuyên cần không cao, rất khó đáp ứng được nhu cầu về lao động của nhà đầu tư
cả về số lượng lẫn chất lượng (ví dụ tại Lào).
- Sự khác biệt về ngôn ngữ cũng là một trong những cản trở hoạt động ĐTRNN của
doanh nghiệp Việt Nam.

IV. TẠI SAO TRONG THỜI GIAN TỚI VIỆT NAM TIẾP TỤC ĐTRNN?
1. Bối cảnh
Hiện nay, hoạt động ĐTRNN đang đứng trước những yếu tố thuận lợi mới:
(i)

Luật Đầu tư năm 2005 có hiệu lực từ 01/7/2006 và Nghị định 78 hướng dẫn

được ban hành đã tạo điều kiện thông thoáng cho ĐTRNN,
(ii)

Cùng với việc phát triển nhanh của nền kinh tế, tiềm lực tài chính của doanh


nghiệp Việt Nam sẽ không ngừng gia tăng;
(iii)

Vị thế quốc tế của Việt Nam được nâng cao hơn, quá trình hội nhập quốc tế

đang được đẩy nhanh với việc ký kết và thực hiện các Hiệp định song phương và đa
phương sẽ tạo thêm thuận lợi cho hoạt động ĐTRNN;
(iv)

Nhu cầu tất yếu phải mở rộng ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam sẽ gia tăng

mạnh do đòi hỏi phải mở rộng thị trường xuất khẩu, mở rộng hợp tác kinh tế và kỹ
thuật, tiết kiệm chi phí đầu tư, chi phí vận tải, phát huy lợi thế của hội nhập nhằm nâng
cao hiệu quả đầu tư.
2. Dự báo ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới
Dự báo trong những năm tới ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam sẽ gia tăng, trung
bình mỗi năm khoảng 500 triệu – 1tỷ USD, vì những lý do sau đây:


Chính phủ tiếp tục ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích ĐTRNN đáp ứng

xu thế các doanh nghiệp Việt Nam ĐTRNN để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm,


tiết kiệm chi phí sản xuất, chi phí vận tải và khai thác lợi thế của quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế sẽ gia tăng.


Cùng với sự phát triển kinh tế của Việt Nam ngày càng có nhiều doanh nghiệp


có tiềm lực về tài chính công nghệ để thực hiện ĐTRNN.


Việt Nam ngày càng hội nhập sâu với quốc tế, nhất là sau khi trở thành thành

viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cơ hội ĐTRNN của các
doanh nghiệp ngày càng lớn, đặc biệt vào các quốc gia thành viên WTO.

V. CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY ĐTRNN
Để thúc đẩy ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam cần có các cơ chế khuyến khích, ưu
đãi của nhà nước Việt Nam đối với nhà ĐTRNN nói chung và đặc thù đối với một số
nền kinh tế (Lào, Campuchia, LB Nga), nhưng chính sách khuyến khích, ưu đãi của
phía Việt Nam phải được sự ủng hộ và tạo thuận lợi từ phía bạn thông qua thỏa thuận
hợp tác song phương giữa các Chính phủ liên quan đến thúc đẩy đầu tư lẫn nhau; hợp
tác trao đổi thông tin thường xuyên, có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý đầu
tư của các nước…). Do vậy, để thúc đẩy ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam cần
triển khai các giải pháp sau:
1. Các giải pháp từ phía Nhà nước
1.1. Hoàn thiện các văn bản dưới Luật hướng dẫn hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài, đồng thời ban hành chính sách ưu đãi nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Việt Nam hiện chưa có hành lang pháp lý đồng bộ, nhất quán, minh bạch nhằm điều
chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài theo các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
Còn nhiều tổ chức và định chế pháp lý kinh doanh quốc tế mà Việt Nam vẫn chưa phải
là thành viên. Như vậy, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu bức bách phải nhanh
chóng lấp đầy các khoảng trống pháp lý để tạo môi trường đầu tư ngày càng “đồng
chất” hơn theo theo yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế.



 Hoàn thiện các văn bản dưới Luật hướng dẫn hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài
Hiện tại, sau khi ban hành Nghị định 78/2006/NĐ-CP, các văn bản hướng dẫn cụ thể
liên quan đến việc cấp phép đầu tư, cơ chế chuyển tiền ra nước ngoài, cơ chế đảm bảo
vốn, cơ chế quản lý giám sát cũng như các chính sách về thuế,... vẫn chưa được ban
hành đầy đủ, minh bạch. Do đó, Chính phủ cần yêu cầu các Bộ ngành có liên quan
sớm ban hành các văn bản còn thiếu, nhằm tạo hành lang pháp lý cần thiết cho hoạt
động triển khai dự án ở nước ngoài của các doanh nghiệp.
 Ban hành chính sách ưu đãi cho các DN tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

+ Chính sách hỗ trợ về vốn.
+ Chính sách ưu đãi thuế.
+ Chính sách quản lý ngoại hối.
1.2. Tăng cường công tác xúc tiến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài dưới nhiều hình
thức và tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
 Tăng cường công tác xúc tiến ĐTRNN theo từng khu vực thị trường

Chính phủ và các cơ quan ban ngành cần tăng cường công tác xúc tiến đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài theo khu vực thị trường dưới nhiều hình thức, nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho các nhà đầu tư Việt Nam khi triển khai dự án ở nước ngoài. Chính phủ nên đưa
ra những loại dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp như: tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc định
kì hoặc không định kỳ giữa Chính phủ với các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài
nhằm báo cáo tình hình triển khai dự án ở nước ngoài, trao đổi kinh nghiệm và chia sẻ
thông tin,.... Việc xúc tiến đầu tư ra nước ngoài không nên quá tập trung vào những
lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh, mà nên mở rộng phạm vi ra nhiều lĩnh vực;
đồng thời không nên chỉ chú trọng vào những dự án lớn, những doanh nghiệp lớn, mà
nên dành ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện đang chiếm số đông và tương
lai sẽ là các nhà đầu tư lớn.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng đề án về cơ chế hỗ trợ, khuyến

khích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vừa mang tính bao trùm, vừa quy hoạch cụ thể


theo từng lĩnh vực, từng địa bàn. Công tác xúc tiến đầu tư nên chú trọng vào các đối
tác chiến lược quan trọng như Lào, Liên bang Nga, Hoa Kỳ, Campuchia....
Chính phủ cần tiến hành ngay các chương trình xúc tiến đầu tư và nghiên cứu thị
trường, luật pháp, chính sách, tìm hiểu môi trường và cơ hội đầu tư tại các khu vực thị
trường để hướng các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư có hiệu quả tại những thị trường
này. Cùng với việc tổ chức các cuộc hội thảo trực tiếp giới thiệu môi trường đầu tư và
thông tin về các đối tác, các cổng thông tin điện tử về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
cũng cần được nâng cấp, bởi một website chính thức với chức năng chuyên tư vấn và
cung cấp thông tin chính xác, nhanh chóng, kịp thời sẽ giúp ích rất nhiều cho các
doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
 Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ, cung cấp thông tin và tư vấn

Một trong những khó khăn lớn các doanh nghiệp trong nước phải đối mặt khi tiến
hành đầu tư ra nước ngoài là vấn đề thiếu thông tin. Chính vì vậy, công tác hỗ trợ cung
cấp thông tin đóng vai trò hết sức quan trọng.
Để nâng cao hiệu quả cung cấp thông tin, các đại sứ quán, tham tán của Việt Nam tại
nước ngoài cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tìm kiếm, trao đổi, cung cấp thông tin về
môi trường đầu tư cho các doanh nghiệp; khuyến khích thành lập các Hiệp hội doanh
nghiệp Việt Nam ở từng nước.
Bên cạnh đó, Chính phủ nên tổ chức các đường dây nóng, các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc
định kỳ và không định kỳ giữa Chính phủ với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp Việt
Nam với các đại sứ quán, lãnh sự quán, thương vụ nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam
và của Việt Nam trên lãnh thổ nước ngoài. Hoạt động này sẽ giúp các doanh nghiệp
đưa ra những khuyến nghị, đồng thời dễ dàng nắm bắt và xử lý nhanh chóng, kịp thời
và hiệu quả các vấn đề đặt ra trong quá trình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Bên cạnh hỗ trợ thông tin, công tác hỗ trợ về pháp lý cũng cần được đẩy mạnh, đặc
biệt là về đăng ký kinh doanh và xử lý tranh chấp thương hiệu; tư vấn về luật pháp

chính sách, thủ tục chuyển vốn ra nước ngoài, các quy định về thanh toán, chuyển
tiền,...
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan chuyên trách về xúc tiến đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài


Việc hỗ trợ các doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không thể
thực hiện tự phát, nhất thời và khoán trắng cho một vài đơn vị, tổ chức hay cá nhân,
mà ngược lại, cần được tiến hành tập trung, thống nhất, liên tục trong sự phối hợp nhịp
nhàng, ăn ý giữa các cấp Bộ, ngành, đơn vị và cá nhân hữu quan.
 Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
Bên cạnh công tác xúc tiến đầu tư, Chính phủ cần tích cực mở rộng hơn nữa các hoạt
động hợp tác quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi
đầu tư ra nước ngoài, thông qua việc mở rộng quan hệ hợp tác với các nước đối tác
trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế,.... Hiện tại, là thành viên chính
thức của Tổ chức Thương mại thế giới, Việt Nam nên tận dụng tối đa lợi thế thành
viên, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước thành viên khác. Chính phủ cần tăng
cường đàm phán và ký kết các hiệp định hợp tác thương mại và đầu tư song phương
và đa phương, hiệp định tránh đánh thuế hai lần với các quốc gia, nhằm tạo khuôn khổ
pháp lý thuận lợi, đồng thời giúp các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài tận dụng ưu
đãi của nước tiếp nhận.
1.3. Tăng cường công tác quản lý tình hình thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài
Ngoài việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách và đẩy mạnh xúc
tiến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, tăng cường công tác quản lý tình hình thực hiện
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Hiện nay, do công
tác quản lý còn lỏng lẻo dẫn đến tình trạng các cơ quan quản lý hầu như không nắm
rõ tình hình triển khai các dự án đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp trong
nước. Mặc dù Luật Đầu tư cũng như Nghị định 78/ 2006/NĐ-CP đã quy định rõ các
doanh nghiệp phải tuân thủ chế độ báo cáo định kỳ và các cơ quan quản lý phải tăng

cường giám sát, kiểm tra và đánh giá về hiệu quả các dự án đầu tư, nhưng trên thực tế,
số lượng các doanh nghiệp thực hiện đúng các quy định trên là không đáng kể.
Để khắc phục tình trạng này, cần thành lập các bộ phận chuyên trách đảm nhận việc
quản lý triển khai thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp. Bộ phận
này có nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất đưa ra những văn bản, quy định pháp lý có liên
quan đến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài; giám sát hoạt động đầu tư của các doanh


nghiệp và là đầu mối giải quyết những vướng mắc các doanh nghiệp gặp phải khi triển
khai dự án đầu tư.
Các Bộ, ngành và cơ quan cần phối hợp xây dựng chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài theo từng thời kỳ; tiến hành kiểm tra, giám sát sát sao việc tuân thủ các quy định
pháp luật trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, giải quyết các khiếu nại tranh chấp và
xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm.
Đồng thời, cần có sự phối hợp chặt chẽ các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài
với các cơ quan quản lý Nhà nước để hỗ trợ các nhà đầu tư trong việc chấp hành các
quy định về quản lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Ngoài các giải pháp trên, Nhà nước cũng cần quan tâm học hỏi kinh nghiệm của các
quốc gia trên thế giới trong việc thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, khuyến khích
hình thành các tập đoàn kinh tế lớn để tận dụng lợi thế trong đầu tư ra nước ngoài, chú
trọng xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng và tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các
doanh nghiệp trong và ngoài nước,....
2. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp
2.1. Tăng cường công tác đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý dự án
đầu tư ra nước ngoài
Nhìn chung, hiệu quả triển khai của các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt
Nam còn yếu. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới thực trạng trên là do
thiếu đội ngũ cán bộ quản lý dự án đầu tư có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tốt và
ngoại ngữ thành thạo. Để nâng cao hiệu quả của các dự án đầu tư, các doanh nghiệp
cần chú trọng công tác đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, bằng các biện pháp

như:


Cử cán bộ đi học các lớp tập huấn, đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ và kỹ
năng quản lý ở nước ngoài, đặc biệt là tại nước tiếp nhận đầu tư

 Nâng cao trình độ ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ thực hiện dự án ở nước ngoài
 Tổ chức những đợt kiểm tra định kỳ về nghiệp vụ và kỹ năng quản lý cho đội
ngũ cán bộ




Tổ chức những buổi giao lưu, trao đổi với đối tác hoặc các doanh nghiệp khác
để đội ngũ cán bộ cớ cơ hội cọ xát, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau



Xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển về số lượng, chất lượng
đội ngũ cán bộ công nhân viên, nghiên cứu, quản lý từng bước tiếp cận trình độ
quốc tế về năng lực chuyên môn, ngoại ngữ và tin học

 Có chính sách thu hút đội ngũ lao động giỏi chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng
quản lý
2.2. Tăng cường hoạt động chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp để tận dụng
cơ hội và nâng cao hiệu quả kinh doanh
Tuy đã đạt được một số thành tích đáng kể, nhưng hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam còn khá non trẻ bởi các doanh nghiệp còn thiếu
hiểu biết về luật pháp và tập quán kinh doanh tại nước tiếp nhận đầu tư. Để khắc phục
tình trạng này, giữa các doanh nghiệp đầu tư vào cùng lĩnh vực, hay sang cùng thị

trường cần có mối liên kết chặt chẽ, tăng cường trao đổi, chia sẻ thông tin về thị
trường nước tiếp nhận, đối tác đầu tư, cũng như về hệ thống luật pháp chính sách, văn
hóa kinh doanh và phong tục tập quán của nước sở tại. Đặc biệt, những doanh nghiệp
có quy mô vừa và nhỏ đầu tư vào cùng lĩnh vực ở nước tiếp nhận có thể kết hợp với
nhau để mở rộng quy mô dự án và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Các doanh nghiệp nên tích cực tham gia Hiệp hội các nhà đầu tư ở nước ngoài để có
cơ hội gặp gỡ, tiếp xúc và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Ở từng nước tiếp nhân, có
thể liên kết thành lập Câu lạc bộ dành cho các nhà đầu tư Việt Nam để phối hợp, giúp
đỡ lẫn nhau trong quá trình triển khai dự án đầu tư ở nước ngoài.
2.3. Tìm hiểu kĩ về đối tác trước khi tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Ngoài việc lựa chọn thị trường đầu tư, lựa chọn đối tác cũng là một vấn đề hết sức
quan trọng khi đầu tư ra nước ngoài. Các doanh nghiệp trong nước có thể thông qua
các cơ quan xúc tiến đầu tư, các thương vụ, phòng lãnh sự ở nước ngoài, hoặc tham
gia các buổi hội thảo đầu tư để lựa chọn đối tác phù hợp. Ngoài ra, có thể khai thác
thông tin về đối tác thông qua các doanh nghiệp khác, qua các cổng thông tin về đầu
tư, hoặc qua đội ngũ Việt kiều đông đảo định cư ở nước ngoài. Đặc biệt, thông qua đội
ngũ Việt kiều sinh sống và làm việc ở nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước có thể


dễ dàng tìm hiểu các thông tin xác thực về đối tác đầu tư ở nước tiếp nhận. Đồng thời,
tận dụng mối quan hệ kinh doanh của các kiều bào cũng là những đầu mối quan trọng
giúp các doanh nghiệp trong nước tìm kiếm đối tác một cách có hiệu quả.
Bên cạnh đó, trong quá trình chọn lựa đối tác đầu tư, cần chú ý các yếu tố như: khả
năng tài chính của đối tác, quá trình hình thành và phát triển, tình hình hoạt động trong
những năm gần đây, uy tín trên thị trường, lợi nhuận, phong cách kinh doanh... để
tránh gặp phải các đối tác kinh doanh không hiệu quả hoặc phong cách làm việc không
phù hợp.
2.4. Nghiên cứu kĩ lưỡng môi trường của nước tiếp nhận đầu tư
Môi trường đầu tư phù hợp giúp các doanh nghiệp khai thác tối đa lợi thế của mình, do
đó, tìm hiểu kỹ lưỡng môi trường đầu tư là yếu tố hết sức cần thiết. Trước khi đầu tư

ra nước ngoài, các doanh nghiệp cần nghiên cứu cẩn trọng các vấn đề như tình hình
kinh tế, chính trị của nước tiếp nhận đầu tư; hệ thống luật pháp chính sách, đặc biệt là
các ưu đãi dành cho nhà đầu tư nước ngoài; môi trường cạnh tranh; thị hiếu tiêu dùng;
các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật cho hàng hóa lưu thông trên thị trường; phong tục
tập quán và văn hóa của nước tiếp nhận,.... Càng hiểu rõ về môi trường đầu tư bao
nhiêu, các doanh nghiệp càng dễ dàng trong thâm nhập thị trường và xúc tiến dự án.
Để thực hiện tốt khâu nghiên cứu thị trường, cần tiếp cận nhiều nguồn thông tin khác
nhau như sách báo, Internet, cử cán bộ đi khảo sát tìm hiểu thực tế,.... Các doanh
nghiệp nên thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường, có nhiệm vụ liên tục cập nhật
thông tin về những thay đổi trong hệ thống luật pháp, diễn biến thị trường tài chính và
thị trường lao động,... Thực hiện tốt công tác khảo sát thị trường tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp đưa ra những chiến lược đầu tư hiệu quả, đồng thời ứng phó kịp thời với
những biến động bất thường xảy ra làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh
ở nước sở tại.
2.5. Đa dạng hóa hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Hiện các doanh nghiệp Việt Nam khi tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chủ yếu
lựa chọn hình thức thành lập công ty 100% vốn, chưa có nhiều dự án thực hiện dưới
các hình thức như mua lại và sát nhập, lập liên minh chiến lược. Đối với các nước
đang phát triển như Việt Nam, để đi tắt đón đầu, các doanh nghiệp trong nước khi đầu


tư ra nước ngoài nên lựa chọn hình thức mua lại và sát nhập để tiếp cận công nghệ và
thị trường, nhanh chóng tiến hành sản xuất kinh doanh mà không phải mất thời gian
xây dựng nhà xưởng, mua máy móc thiết bị.
Dù các doanh nghiệp lựa chọn hình thức đầu tư nào, cũng phải cân nhắc sự phù hợp
của nó với khả năng của chính doanh nghiệp, với đặc điểm thị trường và lĩnh vực đầu
tư. Chẳng hạn như, các doanh nghiệp nhỏ và vừa với tiềm lực tài chính hạn hẹp và
trình độ quản lý dự án yếu nên chọn hình thức thành lập công ty liên doanh với đối tác
nước ngoài, qua đó học hỏi kinh nghiệm quản lý và tác phong làm việc hiệu quả. Chọn
được hình thức đầu tư phù hợp, cùng với chiến lược kinh doanh có hiệu quả, chắc

chắn các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tạo dựng được chỗ đứng vững chắc trên thị trường
của nước tiếp nhận đầu tư.

KẾT LUẬN
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là xu hướng cơ bản của nền kinh tế thế giới hiện nay.
Sự vận động của nó có ảnh hưởng to lớn và trực tiếp đến quá trình phát triển và tính
bền vững của nền kinh tế toàn cầu. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không chỉ tạo ra
động lực phát triển cho nền kinh tế, mà còn giúp các doanh nghiệp trong nước nâng
cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường, học hỏi kinh nghiệm và tiếp cận công
nghệ tiên tiến. Vì vậy, ĐTRNN đang là xu thế tất yếu khách quan và ngày càng phát
triển trên phạm vi toàn thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.


PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: TỔNG HỢP ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI THEO NGÀNH
(Các dự án còn hiệu lực lũy kế đến 28/2/2010)
TT

Ngành

Số dự
án

Vốn ĐT của
dự án ở nước
ngoài (USD)

Vốn ĐT của
nhà đầu tư
VN (USD)


Vốn điều lệ
của nhà ĐT
VN (USD)

88

16,912,881,4
82

4,309,8
45,565

3,725,8
45,565

1,870,3
69,133

1,677,7
22,938

1

Khai khoáng

2

Nông,lâm nghiệp;thủy
sản


7

2,112,875,6
78

3

Nghệ thuật và giải trí

59

1,266,458,7
57

1,183,1
69,314

1,183,1
69,314

4

SX,pp
điện,khí,nước,đ.hòa

3

1,034,550,0
00


1,034,5
50,000

1,034,5
50,000

5

Thông tin và truyền
thông

28

741,322,1
16

507,45
6,061

507,45
6,061

110

558,973,4
00

437,95
0,246


437,95
0,246

216,45
1,000

216,45
1,000

6

CN chế biến,chế tạo
Tài chính, ngân.hàng,

7

bảo hiểm

17

225,128,0
00

8

KD bat động sản

28


394,974,6
34

159,04
2,634

159,04
2,634

9

Bán buôn,bán lẻ, sửa
chữa

98

205,201,8
42

150,78
6,875

150,28
6,875

10

HĐ chuyên môn,
KHCN


59

42,748,5
56

36,61
1,656

36,61
1,656

3

31,579,6
15

31,57
9,615

31,57
9,615

19

81,045,2
06

31,46
6,873


31,46
6,873

23

49,243,4
22

29,69
4,567

29,69
4,567

12

19,185,7
71

17,14
8,211

17,14
8,211

9,68
0,000

9,68
0,000


7,92

7,92

11
12
13

Y tế và trợ giúp XH
DV lưu trú và ăn uống
Xây dựng

14

Vận tải kho bãi

15

Hành chính và dv hỗ
trợ

9

37,890,0
00

16

Cap nước;xử lý chat


2

8,900,0


thải

00

0,000

0,000

17

Dịch vụ khác

7

4,447,5
00

3,05
2,500

3,05
2,500

18


Giáo dục và đào tạo

3

8,315,7
00

2,08
5,000

2,08
5,000

23,735,721,6
79

10,038,8
59,250

9,261,7
13,055

Tổng số

575

(Nguồn: Cục xúc tiến đầu tư – Bộ Kế hoach đầu tư)

PHỤ LỤC 2: TỔNG HỢP ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI THEO ĐỊA BÀN

\

TT

Quốc gia/vùng lãnh thổ

Số dự
án

Vốn ĐTcủa dự
án ở nước ngoài
(USD)
3,949,395,766

Vốn ĐT của nhà
đầu tư VN (USD)

Vốn điều lệ của
nhà ĐT VN
(USD)

3,313,110,760

3,120,464,565

1

Lào

195


2

Campuchia

87

1,938,274,420

1,864,332,
156

1,864,332,
156

3

Venezuela

2

12,434,400,000

1,825,120,
000

1,241,120,
000

4


Liên bang Nga

16

1,594,947,407

776,873,
090

776,873,
090

5

Malaysia

6

811,522,740

411,823,
844

411,823,
844

6

Mozambique


1

493,790,000

345,653,
000

345,653,
000

7

Hoa Kỳ

73

308,323,570

251,391,
570

250,891,
570

8

Angiêri

1


562,400,000

224,960,
000

224,960,
000

9

Cuba

2

125,460,000

125,460,
000

125,460,
000

10

Madagascar

1

117,360,000


117,360,
000

117,360,
000

11

Irắc

1

100,000,000

100,000,
000

100,000,
000

12

Australia

11

108,181,200

97,600,

500

97,600,
500

13

Peru

2

87,910,000

87,910,
000

87,910,
000

14

Iran

1

82,070,000

82,070,
000


82,070,
000

15

Singapore

35

458,185,796

60,321,
655

60,321,
655


16

Haiti

1

99,890,000

59,890,
000

59,890,

000

17

Uzbekistan

3

49,550,000

49,020,
000

49,020,
000

18

Indonesia

6

66,880,000

37,477,
000

37,477,
000


19

Tuynidi

1

33,270,
000

33,270,
000

20

BritishVirginIslands

4

31,750,000

31,750,
000

31,750,
000

15,310,000

15,310,
000


15,310,
000

15,748,875

14,819,
757

14,819,
757
14,725,
086

21
22

Công gô
Hồng Kông

1
13

33,270,000

23

CHLB Đức

10


24,234,398

14,725,
086

24

New Zealand

1

87,040,000

12,500,
000

12,500,
000

25

Myanmar

2

12,350,000

12,000,
000


12,000,
000

26

Trung Quốc

10

13,751,900

11,755,
500

11,755,
500

27

Thái Lan

7

11,785,200

11,587,
700

11,587,

700

28

Cameroon

2

42,785,714

10,913,
800

10,913,
800

29

Hà Lan

1

5,600,000

5,600,
000

5,600,
000


30

Angola

6

5,332,387

4,532,
387

4,532,
387

31

Hàn Quốc

13

3,683,500

3,178,
500

3,178,
500

32


Nhật Bản

14

3,892,604

2,607,
735

2,607,
735

33

Cayman Islands

2

4,050,000

2,425,
000

2,425,
000

34

Ukraina


4

2,605,095

2,205,
095

2,205,
095

35

Ba Lan

3

8,187,688

2,097,
688

2,097,
688

36

Tajikistan

2


3,465,272

2,079,
163

2,079,
163

37

Vương quốc Anh

6

2,102,100

2,029,
470

2,029,
470

38

ả Rập

2

1,930,000


1,606,
000

1,606,
000

39

Cộng hòa Séc

4

5,311,900

1,430,

1,430,


40
41
42

Đài Loan
Bỉ
Cô Oét

4
2
1


647

647

1,534,667

1,416,
667

1,416,
667

1,052,000

1,052,
000

1,052,
000

999,700

999,
700

999,
700
950,
000


43

Nam Phi

1

950,000

950,
000

44

TVQ ả rập thống nhất

2

2,200,000

900,
000

900,
000

45

Belarus


1

1,600,000

816,
000

816,
000

46

Hy Lạp

1

743,000

743,
000

743,
000

47

Thụy Điển

1


687,500

687,
500

687,
500

48

ấn Độ

1

650,000

650,
000

650,
000

49

Pháp

3

600,000


600,000

600,000

500,000

500,000

500,
000

800,000

400,
000

400,
000

152,280

152,
280

152,
280
120,
000

50

51
52

Samoa
Braxin
Bungari

1
1
1

53

Ấn độ

1

150,000

120,
000

54

Italia

1

350,000


50,0
00

50,0
00

55

Ma Cao

1

25,000

25,0
00

25,0
00

Tổng số

575

23,735,721,679

10,038,859,250

9,261,713,055


(Nguồn: Cục xúc tiến đầu tư – Bộ Kế hoach đầu tư)


×