Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
BẢNG KÊ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. KKĐTTN = Khuyến khích đầu tư trong nước
2. TSCĐ = Tài sản cố định .
3. DA' = Dự án .
4. KCX = Khu chế xuất .
5. KCN = Khu công nghiệp .
6 . TƯ = Trung ương .
7. XHCN = Xã hội chủ nghĩa .
8. NĐ = Nghị định .
1
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
LỜI NÓI ĐẦU
Đổi mới cơ chế và nâng cao hiệu quả đầu tư nói
chung, đầu tư trong nước nói riêng, là một nội dung quan
trọng của quá trình đổi mới kinh tế theo hướng kinh tế thị
trường ở nước ta. Ngay sau khi kết thúc các cuộc chiến
tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam, năm 1979, với Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (Khoá IV), Đảng ta
đã khởi xướng những quan điểm đầu tiên về giải phóng
tiềm năng trong nước, bước đầu gỡ bỏ những trì hãm của
cơ chế cũ, tạo tiền đề cho nhân tố mới và cơ chế mới ra đời
và phát triển. Tư tưởng chỉ đạo của các chính sách của
Đảng và nhà nước ta từ đó đến nay, đặc biệt là Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 4 (khoá VIII), đề cao việc khai thác
và phát huy tốt những tiềm năng nội lực, coi đó như là một
yếu tố cốt lõi bảo đảm cho sự phát triển đất nước diễn ra
một cách bền vững lâu dài và đúng hướng.
Để thực hiện tư tưởng chính sách đó, chúng ta đã thực thi nhiều biện
pháp, một mặt nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài; mặt khác
khơi dậy các nguồn vốn, các nguồn nhân tài, vật lực trong nước, thu hút
2
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
chúng vào các dòng đầu tư thông qua nhiều con đường, nhiều cách thức
khác nhau.
Trong khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp, đề tài: "Một số giải pháp
nhằm tiếp tục khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước", hướng
trọng tâm vào các nội dung sau:
Một; đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư
trong nước trong thời gian qua, nhất là từ khi Quốc hội ban hành Luật
Khuyến khích đầu tư trong nước (có hiệu lực pháp lý từ 22 tháng 6 năm
1994).
Hai, chỉ rõ những kết quả bước đầu cũng như các vướng mắc cần tháo
gỡ trong việc thi hành chính sách khuyến khích đầu tư trong nước.
Ba, kiến nghị các giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục khuyến khích các
hoạt động đầu tư trong nước để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn
vốn, tài nguyên, lao động và các tiềm năng khác của đất nước góp phần phát
triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Luận văn tốt nghiệp này sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu
như: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tư duy logic, thống kê, phân tích
hoạt động kinh tế.
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, tài liệu tham khảo,
luận văn kết cấu gồm ba phần:
3
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Phần I: Một số vấn đề chung về đầu tư và khuyến khích đầu tư trong
nước.
Phần II: Thực trạng hoạt động khuyến khích đầu tư trong nước những
năm qua.
Phần III: Những giải pháp chủ yếu tiếp tục khuyến khích các hoạt
động đầu tư trong nước.
Qua đây em xin gửi lời cảm ơn đến GS. TS .Đỗ Hoàng Toàn, TS.
Nguyễn Lê Trung , các thầy cô giáo trong Khoa và các cô chú trong Vụ
doanh nghiệp - Bộ kế hoạch Đầu tư đã giúp em hoàn thành luận văn tốt
nghiệp của mình. Vì thời gian có hạn và sự hiểu biết còn hạn chế nên luận
văn tốt nghiệp của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự góp ý của các thầy cô giáo trong khoa Khoa học quản lý và các cô
chú công tác ở Vụ doanh nghiệp để luận văn của em được hoàn thiện hơn.
Em xin cam đoan nội dung báo cáo đã viết là do bản thân thực hiện,
không sao chép, cắt ghép các báo cáo hoặc luận văn của người khác. Nếu sai
phạm em xin chịu kỷ luật với nhà trường.
Hà Nội 01/06/2001
Sinh viên: Trần Công Khanh
PHẦN I
4
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ
KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC
1. Đầu tư và các hình thức đầu tư
Trong nền kinh tế thị trường, để tiến hành hoạt động kinh doanh thì
điều kiện không thể thiếu là phải có tiền. Đối với các cơ sở sản xuất kinh
doanh , dịch vụ mới hình thành, tiền được dùng để xây dựng nhà xưởng,
mua sắm trang thiết bị... nhằm tạo ra các cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu,
mua sắm nguyên vật liệu, trả lương cho người lao động, tiền được dùng để
mua sắm thêm các máy móc thiết bị, xây dựng thêm nhà xưởng, tăng thêm
vốn lưu động nhằm mở rộng quy mô hoạt động hiện có, sửa chữa hoặc mua
sắm các tài sản cố định (TSCĐ) mới thay thế các TSCĐ đã bị hư hỏng, bị
hao mòn hữu hình (do quá trình sử dụng và do các tác động của khí hậu, thời
tiết) và hao mòn vô hình (do tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho nhiều
TSCĐ nhanh chóng trở nên lạc hậu, không còn thích hợp với điều kiện mới,
tiếp tục sử dụng sẽ không có hiệu quả).
Số tiền cần thiết để tiến hành các hoạt động như trên gọi là tiền đầu tư.
Và hành vi của các chủ thể trong việc bỏ tiền ra, tổ chức sử dụng chúng theo
những chuẩn mực nhất định nhằm mưu cầu những lợi ích cụ thể được gọi là
hoạt động đầu tư. Cũng có thể nói, hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng các
nguồn lực nhằm duy trì tiềm lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và sinh hoạt đời sống , các nguồn lực phục vụ cho
hoạt động đầu tư đối với các trường hợp cá biệt có thể nhiều ít khác nhau,
5
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
nhưng nhìn tổng thể, quy mô của các nguồn lực, trong đó có nguồn lực bằng
tiền, là rất lớn. Do đó để đảm bảo cho các hoạt động đầu tư diễn ra bình
thường thì không thể dùng nguồn tiền trích ra cùng một lúc từ các khoản chi
tiêu thường xuyên của các chủ thể kinh doanh của xã hội, của Chính phủ vì
điều này sẽ làm xáo động các hoạt động kinh tế bình thường và sinh hoạt xã
hội. Nguồn tiền sử dụng cho các hoạt động đầu tư đòi hỏi phải được tích luỹ
từ nhiều nguồn khác nhau và chỉ có thể là tiền tích luỹ của xã hội, của các
chủ thể kinh doanh, của phần chi cho đầu tư phát triển thuộc ngân sách
Chính phủ, là tiền tiết kiệm của dân và tiền huy động từ nước ngoài.
Quá trình sử dụng tiền đầu tư, xét về mặt bản chất, là quá trình thực
hiện sự chuyển hoá vốn bằng tiền (vốn đầu tư) thành vốn hiện vật để tạo nên
những yếu tố cơ bản của quá trình tái sản xuất. Đó cũng chính là quá trình
hoạt động đầu tư hay quá trình đầu tư vốn.
Đầu tư trong nước, theo cách diễn đạt của Luật Khuyến khích đầu tư
trong nước năm 1994 là việc bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam
của các tổ chức, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam (Điều 2 - Luật Khuyến khích
đầu tư trong nước năm 1994). Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa
đổi) số 03/1998/QH10 cũng có quan niệm về đầu tư trong nước tương tự.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm
1996, diễn đạt như sau: "là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam
vốn bằng tiền hoặc bằng bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư
theo quy định của luật này". Đối tượng của luật đầu tư nước ngoài là tổ chức
6
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Đối tượng của Luật
Khuyến khích đầu tư trong nước gồm: tổ chức, công dân Việt Nam, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài (hay còn
gọi là thường trú) tại Việt Nam. Các đối tượng tham gia hoạt động đầu tư có
yếu tố nước ngoài thì có thể lựa chọn một trong hai Luật.
Tuỳ theo góc độ đề cập, hoạt động đầu tư trong nước có thể được phân
theo các tiêu thức sau:
- Theo tính chất của các đối tượng đầu tư, hoạt động đầu tư gồm:
+ Đầu tư cho đối tượng vật chất: nhà xưởng, máy móc thiết bị, công
trình hạ tầng... là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh
tế.
+ Đầu tư cho đối tượng tài chính: mua cổ phần, cổ phiếu... là điều kiện
quan trọng để thu hút mọi nguồn vốn từ mọi tầng lớp dân cư cho đầu tư vào
các đối tượng vật chất.
+ Đầu tư cho đối tượng phi vật chất: tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực,. ..
là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành
thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao.
- Theo cơ cấu tái sản xuất: hoạt động đầu tư gồm:
+ Đầu tư theo chiều rộng: là quá trình tăng quy mô đầu tư của các chủ
thể kinh doanh. Quá trình được xem xét ở hai góc độ: trên phạm vi nền kinh
tế, đó là việc thành lập doanh nghiệp mới; ở góc độ doanh nghiệp, đó là việc
triển khai dự án đầu tư mới hoặc mở rộng quy mô của các dự án hiện có. Xét
7
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
trên tổng thể, cách thứ nhất đòi hỏi vốn lớn, thời gian thực hiện đầu tư dài,
vốn khê đọng lâu, thời gian cần hoạt động để thu hồi đủ vốn phải lớn, tính
chất kỹ thuật phức tạp và độ thoả hiệp cao.
+ Đầu tư theo chiều sâu: là hoạt động làm tăng nguồn lực đầu tư gắn
với việc làm tăng khả năng sinh lợi của các dự án đầu tư, của các doanh
nghiệp. So với cách thứ nhất, cách thức này thường thu hút khối lượng vốn
đầu tư ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư nhanh hơn, độ mạo hiểm thấp và
khả năng thu hồi vốn nhanh chóng.
- Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư: hoạt động đầu tư có thể phân
thành:
+ Đầu tư gián tiếp: trong đó người bỏ vốn không nhất thiết tham gia
trực tiếp điều hành, quản lý quá trình thực hiện và vận hành các yếu tố đầu
tư. Một loại chủ thể thực hiện hình thức này có thể là các Chính phủ, thông
qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp
của mình, cung ứng tiền hoặc nguồn lực khác cho Chính phủ của các nước
khác để các nước đó phát triển kinh tế xã hội, điều chỉnh cơ cấu. Một loại
chủ thể khác, giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có khi là then chốt, là các cá
nhân, tổ chức mua các loại chứng chỉ có giá trị như cổ phiếu, trái phiếu để
hưởng lợi tức (còn gọi là đầu tư tài chính).
+ Đầu tư trực tiếp: ở đây người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý hoặc
điều hành quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư trực
tiếp lại được phân thành: đầu tư chuyển dịch và đầu tư phát triển.
8
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
++ Đầu tư chuyển dịch là loại đầu tư trong đó, người có tiền mua lại
một số cổ phiếu đủ lớn để nắm quyền chi phối hoạt động của doanh nghiệp.
Trong trường hợp này, việc đầu tư không làm gia tăng tài sản của doanh
nghiệp, mà chỉ làm thay đổi quyền sở hữu các cổ phần của doanh nghiệp.
++ Đầu tư phát triển là loại bỏ vốn đầu tư để tạo nên những năng lực
sản xuất phục vụ mới (cả về chất và lượng). Đây là loại đầu tư để tái sản
xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để tạo việc làm cho người lao động, là
tiền đề để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch.
- Căn cứ vào thời gian thực hiện và thời gian phát huy tác dụng, hoạt
động đầu tư có thể phân chia thành:
+ Đầu tư thương mại: là hoạt động đầu tư là thời gian thực hiện đầu tư
và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn đầu tư ngắn hạn, vốn
vận động nhanh, mức độ mạo hiểm thấp do trong một thời gian ngắn, tính
bất động không cao, lại dễ dự đoán và độ chính xác của dự đoán khá cao.
+ Đầu tư sản xuất: Là loại đầu tư dài hạn, vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm,
thời gian thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, vì tính chất kỹ thuật của
hoạt động đầu tư phức tạp, phải chịu tác động của nhiều yếu tố bất định
trong tương lai không dự đoán trước được hoặc chất lượng dự đoán khó
chính xác (về nhu cầu, giá cả đầu vào, cơ chế, chính sách, tốc độ phát triển
khoa học kỹ thuật, thiên tai, sự ổn định về chính trị...). Loại đầu tư này phải
được chuẩn bị kỹ, phải cố gắng dự đoán những gì có liên quan đến kết quả
và hiệu quả của hoạt động đầu tư trong tương lai xa, xem xét các biện pháp
xử lý khi các yếu tố bất định xảy ra để đảm bảo thu hồi đủ vốn và có lãi suất
9
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
khi hoạt động đầu tư kết thúc, khi các kết quả đầu tư đã hoạt động đến hết
vòng đời của mình.
- Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: các hoạt động đầu tư
được phân thành:
+ Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định
+ Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản
xuất kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các
cơ sở hiện có, duy trì hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật không thuộc
các doanh nghiệp.
Trong hai loại đầu tư đó thì đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành.
Đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy
tác dụng. Không có đầu tư vận hành thì các kết quả của đầu tư cơ bản không
hoạt động được, ngược lại, không có đầu tư cơ bản thì đầu tư vận hành
chẳng để làm gì. Đầu tư cơ bản có đặc điểm kỹ thuật phức tạp, đòi hỏi vốn
lớn, thời hạn thu hồi dài. Còn đầu tư vận hành chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong
tổng vốn đầu tư, đặc điểm kỹ thuật của quá trình thực hiện đầu tư không đến
nỗi phức tạp so với đầu tư cơ bản và thời gian thu hồi vốn tương đối nhanh.
Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế ở mức cần thiết, Việt
Nam cần một lượng vốn đầu tư khá lớn (thời kỳ kế hoạch 5 năm 1996-2000
vào khoảng từ 40-42 tỷ USD), trong đó hơn một nửa là đầu tư trong nước.
Nguồn vốn bên ngoài là không thể thiếu và có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là
trong thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, khi nhu
cầu đầu tư rất lớn mà nguồn tích luỹ nội địa chưa đủ đáp ứng. Trước năm
10
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
1987, trong tổng vốn huy động cho đầu tư, nguồn vốn huy động từ ngân
sách Nhà nước chiếm vị trí chủ yếu. Từ 1988 đến nay, với chính sách mở
cửa, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nền kinh tế nước ta đang
từng bước hoà nhập với khu vực và trên thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi
để chúng ta mở rộng dần diện huy động vốn trong nước, đồng thời thu hút
thêm các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Cho đến nay, nguồn vốn cho đầu tư
ở nước ta khá phong phú hơn trước và chủ yếu được huy động từ các nguồn
chính:
* Vốn huy động trong nước:
- Vốn ngân sách tập trung: đây là nguồn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đối với các hoạt động đầu tư trong nước. Nguồn này hiện nay chủ yếu được
tập trung cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, đầu tư phát
triển một số công trình công nghiệp then chốt, bảo đảm giữ các cao điểm
trong nền kinh tế quốc dân, các công trình liên quan đến An ninh - Quốc
phòng.
- Vốn của các doanh nghiệp Nhà nước: nguồn vốn này luôn có vai trò
quan trọng rất lớn và có tác dụng trực tiếp nhất đối với tốc độ tăng trưởng
hàng năm tổng sản phẩm trong nước. Đây chính là nguồn vốn mà các chính
sách kinh tế vĩ mô xem là một đối tượng hàng đầu tác động vào nền kinh tế,
có vai trò rất lớn trực tiếp tác động tới tốc độ tăng trưởng bình quân trong
các năm sắp tới.
- Vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: nguồn này chủ yếu
dùng vào các định hướng đầu tư phát triển chiều sâu, đổi mới công nghệ, đa
11
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
dạng hoá sản phẩm và mở rộng quy mô doanh nghiệp hiện đang hoạt động
cũng như mở rộng thêm doanh nghiệp mới do thị trường trong và ngoài
nước mở rộng thêm và do xuất hiện nhu cầu mới hoặc do yêu cầu phân tán
rủi ro, tăng thêm khả năng cạnh tranh.
- Vốn tiết kiệm trong dân cư: có thể nói đây là nguồn vốn khá lớn, có
khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động đầu tư trong tương lai
nhưng chưa được tổ chức khai thác huy động tốt. Nhiều kết quả tính toán
cho thấy, nếu khoảng 40-45% số vốn trong dân cư đầu tư vào sản xuất và
dịch vụ thì cũng là một yếu tố đáng kể làm lên tốc độ phát triển GDP hàng
năm đáng kể của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vu. Nếu
chúng ta có chính sách huy động thoả đáng số vốn tiết kiệm trong dân thì sẽ
có khả năng tăng nhanh cả về số tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng số các
nguồn đầu tư trong nước. Nguồn vốn tiết kiệm trong dân cư có thể coi là nền
tảng của các hoạt động đầu tư xét về lâu dài, là cơ sở của việc hình thành ba
tầng hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế nước ta: tầng hoạt động kinh
doanh không phải đăng ký kinh doanh; tầng hộ kinh doanh cá thể; tầng kinh
doanh của các doanh nghiệp.
* Vốn huy động từ nước ngoài:
- Vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA): đây là nguồn vốn do các
nước và các tổ chức quốc tế viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay ưu đãi (lãi
suất, thời hạn vay...). Nguồn vốn này được tập trung vào ngân sách và có thể
sử dụng trực tiếp để Nhà nước đầu tư hoặc cho vay lại (nhưng phải bảo đảm
nguyên tắc hoàn trả).
12
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
- Vốn của các tổ chức phi chính phủ (NGO). Nguồn vốn này chủ yếu
dùng vào mục đích nhân đạo, nhưng cần có cơ chế thu hút thích hợp và sử
dụng, có hiệu quả hơn, đặc biệt trong việc cải thiện và phát triển các vấn đề
xã hội.
- Vốn đầu tư trực tiếp (FDI) của tư nhân nước ngoài: đây là nguồn vốn
khá lớn và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một mặt, nó tạo điều kiện thuận
lợi cho quá trình chuyển giao công nghệ, đào tạo kỹ thuật nghiệp vụ và tìm
thị trường tiêu thụ hàng hoá ổn định trong điều kiện Việt Nam còn thiếu
kinh nghiệm kinh doanh trên trường quốc tế. Mặt khác vốn FDI gắn với
trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn của bên nước ngoài đỡ được gánh
nặng nợ nần của Chính phủ.
- Vốn của Kiều dân Việt Nam làm ăn, sinh sống ở nước ngoài: Người
Việt Nam định cư ở nước ngoài nói chung không có nhiều vốn như Kiều dân
của một số nước khác như Trung Quốc, ... nhưng không phải là không có.
Do đó một mặt phải xây dựng được chính sách thích hợp để thu hút đầu tư
của họ; mặt khác cần phát huy tiềm năng của Việt kiều làm cầu nối để thu
hút vốn của các quốc gia nơi họ sinh sống đầu tư vào Việt Nam.
Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng, nếu không huy động tốt và đủ các
nguồn vốn đầu tư trong nước thì rất khó có thể khai thác và sử dụng có hiệu
quả những nguồn đầu tư lớn từ bên ngoài nhằm phục vụ định hướng phát
triển đất nước. Chính vì vậy trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế
theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, chiến lược lâu
dài của nước ta là tăng nhanh tiết kiệm nội địa, huy động tối đa nguồn vốn
13
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
trong nước, nâng dần tỷ trọng vốn trong nước trong tổng nguồn vốn đầu tư
toàn xã hội.
2 - Khuyến khích đầu tư trong nước
2.1. Nhận thức
Khuyến khích đầu tư trong nước là việc sử dụng các cơ chế, chính sách,
biện pháp, nhằm kích thích quá trình đầu tư các nguồn lực vào các ngành,
lĩnh vực, địa bàn trên cơ sở chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội trong từng thời kỳ của đất nước.
Để khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước, Nhà nước phải xây
dựng, hoàn thiện một hệ thống các công cụ pháp lý và các biện pháp kinh tế,
xã hội nhằm bảo hộ, bảo đảm đối xử bình đẳng với tất cả các chủ thể tham
gia hoạt động đầu tư, khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động
đầu tư, quy định thủ tục hành chính, đơn giản tiện lợi cho các tổ chức, cá
nhân đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội trên lãnh thổ theo
những khung pháp lý cụ thể và theo các lĩnh vực, kế hoạch xác định cụ thể.
Mục đích sự khuyến khích của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư là tạo cơ
hội cho các chủ thể tham gia đầu tư có thể huy động và sử dụng có hiệu quả
nhất các nguồn vốn, tài nguyên, lao động... tạo thêm việc làm cho xã hội,
nhằm thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
đồng thời bảo hộ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, của người góp vốn đầu tư,
tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với các hoạt động đầu tư, cải
thiện ngày một tốt hơn môi trường kinh doanh, định hướng và tụ hội các ý
đồ đầu tư của các chủ thể tập trung vào các ngành, vùng, lĩnh vực cần
14
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
khuyến khích phát triển, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ
cấu vùng theo hướng tiến bộ. Tuy các ý đồ cụ thể có khác nhau, song trên
bình diện chung hầu hết các quốc gia đều hướng tới các mục đích đó.
Để tạo khung pháp lý khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước
trong điều kiện thực thi nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý và định hướng của
Nhà nước, ngày 22/6/1994 Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 5 đã thông qua
Luật khuyến khích đầu tư trong nước (KKĐTTN). Luật này có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/1/1995. Để hướng dẫn thực hiện Luật này, ngày 12 tháng 5
năm 1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/CP quy định chi tiết thi
hành Luật KKĐTTN. Đây là những văn bản pháp luật đầu tiên ở cấp Luật và
cấp Nghị định nhằm điều chỉnh các quan hệ chủ yếu về KKĐTTN ở nước ta.
Tuy mới được triển khai thực hiện từ 1/1/1995, Luật KKĐTTN đã có những
đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế đất nước đem lại những luận
điểm, kết quả đáng mừng, góp phần thúc đẩy đáng kể hoạt động đầu tư trong
nước.
Muốn khuyến khích một hoạt động nào đó, trước hết phải hình thành
được ý tưởng khuyến khích. Khâu tiếp theo là phải thiết kế được cơ chế vận
hành cụ thể rồi tiến hành pháp lý hoá chung. Nói đến chính sách khuyến
khích là nói trên tổng thể, trên những nét khái quát nhất thuộc lĩnh vực ý
tưởng khuyến khích. ý tưởng đó có vào được cuộc sống hay không và mức
độ chấp nhận, thái độ của đông đảo quần chúng trong việc đón nhận ý tưởng
đó như thế nào phần nhiều phụ thuộc vào khâu thiết kế cơ chế vận hành và
tính chính xác, tính khách quan của khâu pháp lý hoá. Trong việc khuyến
15
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
khích đầu tư trong nước cũng vậy, muốn đạt được mục tiêu phát triển nào
đó, trong những điều kiện lịch sử cụ thể thái độ khuyến khích cần được xác
định rõ ràng. Đây cũng là điều kiện đầu tiên để đảm bảo yêu cầu về tính nhất
quán của chính sách. Khâu tiếp đến hết sức cơ bản là việc thiết kế cơ chế
vận hành của chính sách. Công việc này thường do các nhà chuyên môn kịp
ra chính sách thực hiện dưới sự chỉ đạo của các nhà chính trị. Khâu này phải
bảo đảm thoả mãn 3 yêu cầu cùng một lúc: thể hiện được thái độ chính trị
của nhà nước trong việc khuyến khích, quy phạm hoá các quan hệ khuyến
khích cần điều chỉnh bằng luật pháp và cuối cùng là bảo đảm khả năng chấp
nhận của quần chúng số đông (khía cạnh tâm lý xã hội).
Thông thường khi ý tưởng chính sách khuyến khích phù hợp với lợi ích
của đại đa số quần chúng nhân dân thì có thể khâu thể chế hoá chưa thực sự
tốt thì khả năng đi vào cuộc sống của chính sách vẫn có thể bảo đảm. Đó là
trường hợp đã từng diễn ra trong đổi mới nông nghiệp Việt Nam thời kỳ
"Khoán 100", và "Khoán 10", chỉ cần Đảng có chỉ thị cho phép, chưa đợi
đến sự pháp lý hoá đầy đủ của nhà nước thì khoán nông nghiệp đã diễn ra
trên diện rộng, như một trào lưu xã hội - kinh tế không thể đảo ngược. Tất
nhiên, khi các quan hệ lợi ích ngày càng phức tạp thêm, đa dạng hơn, muốn
tư tưởng khuyến khích ngày càng tiếp tục đi vào cuộc sống mà không bị
khúc xạ, thì tất yếu phải làm tốt khâu thể chế hoá. Và nói chung trong xã hội
công nhân, Nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường thì không thể làm
thiếu, làm yếu khâu thể chế hoá. Sự thiếu nhạy cảm với những vấn đề có
tính nguyên tắc như vậy trong quy trình quản lý nói chung, quản lý bằng
pháp luật nói riêng đều làm hạn chế tác dụng tích cực của chính sách khuyến
16
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
khích. Hơn nữa trong trường hợp do chỗ những đối tượng mà Nhà nước cần
khuyến khích trong từng thời kỳ không phải bao giờ cũng trùng hợp với
nguyện vọng của mọi người dân (sự lệch pha nhất định giữa lợi ích nhà
nước, lợi ích xã hội và lợi ích của cá nhân công dân) nên nếu không có sự
thể chế tốt, sát hợp thì khó có thể sử lý hài hoà các xung đột về lợi ích có thể
có khi thực hiện chính sách khuyến khích, chính sách ưu đãi của Nhà nước.
2.2. Một số nội dung hỗ trợ và ưu đãi chủ yếu của Luật Khuyến khích
đầu tư trong nước năm 1994
Xét về mặt thời hiệu pháp lý, quá trình thực hiện các quy định pháp lý
về khuyến khích đầu tư trong nước ở Việt Nam bao gồm hai giai đoạn chủ
yếu: Một là từ 22/6/1994, ngày Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 5 thông qua
Luật KKĐTTN cho đến ngày 01/01/1999 ngày có hiệu lực của Luật
KKĐTTN (sửa đổi) số 03/QH10; Hai là từ ngày 01/01/1999 đến nay. Trong
thời kỳ thứ nhất cũng có thể chia thành hai giai đoạn nhỏ: giai đoạn thực
hiện Nghị định số 29/CP ngày 12/5/1995 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Luật KKĐTTN cho đến ngày 30/01/1998 ngày mà Nghị định số
07/1998/NĐ-CP thay thế Nghị định số 29/CP chính phủ; giai đoạn từ Nghị
định 07 có hiệu lực đến ngày 01/01/1999 tức là ngày Luật KKĐTTN (sửa
đổi) số 03/QH10 có hiệu lực - thực hiện Nghị định số 51/1999/NĐ-CP- cho
đến nay. Xét về mặt kỹ thuật của vấn đề pháp lý có thể có một số điểm
không giống nhau quy định tại các văn bản quy phạm, song xét về tư tưởng
chính sách thì những nội dung về khuyến khích, hỗ trợ, ưu đãi không cách
nhau quá xa. Nhiều nội dung quy định tại Luật KKĐTTN năm 1994 đã được
17
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
các văn bản quy phạm pháp luật sau đó hoàn thiện và bổ sung dần. Dưới đây
là một số nội dung về hỗ trợ và ưu đãi mà Luật KKĐTTN đề cập.
Mục đích của Luật KKĐTTN được xác định rõ ràng ở căn cứ ban hành
Luật. Đó là, để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn, tài nguyên
lao động và các tiềm năng khác của đất nước nhằm góp phần phát triển kinh
tế xã hội, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Cả
Luật 1994 và Luật 1998 đều quy định như vậy. Đồng thời cả hai Luật đều
khẳng định sự bảo hộ, sự khuyến khích của Nhà nước đối với mọi tổ chức,
công dân đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên Luật 1998 còn nói rõ và
khẳng định một sự "đối xử bình đẳng", "sự tạo điều kiện thuận lợi" của Nhà
nước đối với các chủ thể tham gia đầu tư.
2.2.1. Luật quy định ba loại hình đầu tư được áp dụng theo Luật Khuyến
khích đầu tư trong nước bao gồm:
a - Dự án đầu tư thành lập và phát triển cơ sở sản xuất kinh doanh mới
thuộc mọi thành phần kinh tế.
b - Đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh ,
nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ của các cơ sở sản xuất kinh
doanh hiện có.
c - Mua cổ phần của các doanh nghiệp, góp phần vốn vào các doanh
nghiệp, kể cả doanh nghiệp Nhà nước được phép đa dạng hoá hình thức sở
hữu.
2.2.2.Đối tượng khuyến khích đầu tư trong nước
18
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Trên cơ sở đó, Nghị định 29/3 CP, Nghị định số 07/1998/NĐ-CP cụ thể
hoá các đối tượng khuyến khích đầu tư của Luật KKĐTTN gồm:
a - Các doanh nghiệp được thành lập theo Luật Công ty, Luật Doanh
nghiệp tư nhân, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Doanh
nghiệp của các tổ chức chính trị - xã hội, hội nghề nghiệp và cá nhân, nhóm
kinh doanh hoạt động theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 2 tháng 3 năm 1992
của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
b - Tổ chức, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam mua cổ phần hoặc góp
vốn vào các doanh nghiệp trong nước kể cả các doanh nghiệp Nhà nước
được đa dạng hoá sở hữu hoặc các quỹ đầu tư tự chủ tài chính.
c - Doanh nghiệp do người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư trực
tiếp tại Việt Nam.
d - Doanh nghiệp do người nước ngoài cư trú lâu dài tài Việt Nam đầu
tư trực tiếp tại Việt Nam.
e - Doanh nghiệp do công dân Việt Nam cùng thành lập với người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, với người nước ngoài cư trú lâu dài tại Việt
Nam.
2.2.3 - Các biện pháp hỗ trợ đầu tư: gồm 7 biện pháp:
a - Giao đất hoặc cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
b - Xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp (KCN) để cho thuê
làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh.
19
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
c - Lập và khuyến khích các quỹ hỗ trợ đầu tư để cho vay đầu tư trung
hạn và dài hạn. Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của các quỹ hỗ
trợ đầu tư.
d - Góp vốn thông qua các quỹ hỗ trợ đầu tư, Ngân hàng Thương mại,
Công ty Tài chính, vào các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần
kinh tế trên cơ sở cùng có lợi.
e - Quy định việc bảo lãnh tín dụng đầu tư của các Ngân hàng, Tổ chức
tín dụng và Công ty tài chính.
g - Phổ biến và chuyển giao công nghệ; tạo điều kiện cho các chủ đầu
tư được sử dụng với mức phí ưu đãi các công nghệ mới, tạo ra từ vốn ngân
sách Nhà nước.
h - Hỗ trợ việc tổ chức thực hiện các chương trình, dịch vụ khuyến
khích đầu tư gồm: Tư vấn quản lý kinh doanh, tư vấn pháp lý, tổ chức dạy
nghề và đào tạo cán bộ kỹ thuật, đào tạo và nâng cao kiến thức quản lý cung
cấp thông tin kinh tế.
2.2.4 - Các dự án đầu tư được hưởng ưu đãi:
Luật KKĐTTN dành một chương quy định về các nội dung ưu đãi đầu
tư bắt đầu bằng việc xác định rõ các loại dự án được hưởng ưu đãi. Luật
KKĐTTN còn quy định các dự án đầu tư được hưởng ưu đãi như:
2.2.4.1 - Các dự án đầu tư Đầu tư vào các lĩnh vực:
a) Trồng rừng, trồng cây trên đất chưa sử dụng, tận dụng, khai thác đất
trống, đồi núi trọc vào mục đích kinh doanh; nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng
20
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
nước chưa được khai thác, đánh bắt hải sản ở vùng biển xa bờ, chăn nuôi đại
gia súc tập trung.
b) Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, phát triển vận tải công cộng đô
thị; phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá dân tộc; nghiên cứu
khoa học, công nghệ.
c) Chế biến nông sản, lâm sản, thuỷ sản, các dịch vụ kỹ thuật trực tiếp
phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.
d) Sản xuất hàng xuất khẩu, thay thế nhập khẩu.
e) Các ngành công nghiệp được ưu tiên phát triển (trong thời kỳ
1995-2000), ngoài các ngành nghề đã nêu ở trên.
g) Đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao.
2.2.4.2 - Các dự án đầu tư ở các vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải
đảo,quy định tại danh mục B (danh mục B ban hành kèm theo các Nghị
định hướng dẫn của Chính phủ).
2.2.4.3 - Đầu tư vào các vùng khó khăn theo quy định tại danh mục C.
2.2.4.4 - Đầu tư thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng công
nghệ hiện đại, ít nhất có một trong các tiêu chuẩn quy định dưới đây:
a) Công nghệ tạo ra sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm thay thế hàng nhập
khẩu.
b) Công nghệ áp dụng có khả năng tạo ra sự đổi mới công nghệ, thiết bị
của các ngành khác.
21
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
c) Công nghệ sử dụng nguyên vật liệu trong nước để làm ra sản phẩm
đạt các chỉ tiêu chất lượng cao hơn so với các sản phẩm đã có cùng loại.
d) Công nghệ sạch, công nghệ sử dụng các chất phế thải rắn, lỏng, khí.
2.2.4.5 - Đầu tư vào các dự án sản xuất, kinh doanh sử dụng số lao động
bình quân trong năm ít nhất là:
a) ở đô thị loại 1 và loại 2: 100 người.
b) ở các vùng, huyện thuộc vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và
các vùng khó khăn khác (được quy định tại danh mục B và C Nghị định
07/1998/ND-CP): 20 người.
c) Các vùng khác: 50 người.
2.2.5 - Các nội dung ưu đãi chủ yếu theo Luật Khuyến khích đầu tư trong
nước:
Từ 2 và 1 xác định các loại dự án được hưởng ưu đãi, Luật KKĐTTN
và các văn bản Nghị định của Chính phủ quy định và cụ thể hoá các nội
dung ưu đãi chủ yếu theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, đó là:
2.2.5.1 - Ưu đãi về thuế:
Luật KKĐTTN quy định việc miễn, giảm đối với các loại thuế như:
thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế tài nguyên (Nghị định số 07 quy định thêm
trên cơ sở quy định của Luật thuế tài nguyên), thuế thu nhập cá nhân, kể cả
thuế thu nhập bổ sung đối với người có thu nhập cao, thuế chuyển lợi nhuận
ra nước ngoài, và thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị.
2.2.5.2 - Ưu đãi về đất đai:
22
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
Một số dự án được Nhà nước giao đất thì không phải trả tiền sử dụng
đất, còn những dự án phải thuê đất thì có các chế độ miễn giảm tiền thuê đất
theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước.
2.2.5.3 - Ưu đãi về vay vốn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia, bảo lãnh tín
dụng và vay tín dụng xuất khẩu.
Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia thực hiện chức năng hỗ trợ thông qua việc
cho vay vốn trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi cho các dự án đầu tư thuộc
danh mục B và danh mục C. Chủ đầu tư có thể dùng tài sản mua bằng vốn
vay để thế chấp cho các dự án đầu tư thuộc danh mục A, danh mục B và
danh mục C được bảo lãnh tín dụng đầu tư.
Luật cũng quy định cho Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia nhiệm vụ trợ cấp
một phần lãi suất cho các khoản vay từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển và
các Ngân hàng Thương mại Quốc doanh đối với các dự án đầu tư vào các
ngành nghề thuộc danh mục A.
2.2.5.4 - Ưu đãi đối với riêng những doanh nghiệp sản xuất hàng xuất
khẩu được xác định thêm các ưu đãi:
Những doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được quyền trực tiếp
xuất khẩu hàng hoá do mình sản xuất; tuỳ lĩnh vực hoạt động có thể được
giảm mức vốn lưu động và được bảo lãnh cho vay hoặc cho vay tín dụng
xuất khẩu.
Như vậy những nội dung hỗ trợ và ưu đãi đầu tư quy định tại Luật
KKĐTTN và các văn bản dưới Luật hướng dẫn thi hành là khá phong phú.
Vấn đề còn lại là việc tổ chức triển khai những nội dung trong thực tế như
23
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
thế nào để mọi chủ đầu tư có dự án thuộc diện khuyến khích, hỗ trợ có thể
nhận được sự ưu đãi một cách nhanh nhất, đúng đắn nhất theo quy định và
tinh thần khuyến khích của Luật.
3 - Kinh nghiệm một số nước về khuyến khích đầu tư trong nước
Chính sách đổi mới kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua đã bước
đầu khơi dậy được những tiềm năng, động lực to lớn trong nhân dân, phát
huy nghị lực, kinh nghiệm, trí sáng tạo của người dân để kinh doanh thúc
đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chính sách đó đã được sự ủng
hộ và đồng tình của đông đảo quần chúng nhân dân.
Tuy nhiên, kết quả quan trọng đó vẫn còn nhiều mặt hạn chế, còn thấp
xa so với tiềm năng có thể và cần khai thác, cũng như chưa tương xứng với
yêu cầu của công cuộc phát triển. Đất nước ta đang chuyển sang một giai
đoạn phát triển mới, theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng đòi hỏi
sự phát triển phải có tính ổn định vững chắc hơn và nhịp độ tăng trưởng phải
duy trì được ở mức cần thiết. Điều đó đòi hỏi bên cạnh việc tìm mọi biện
pháp thu hút tốt hơn các nguồn vốn từ bên ngoài phải hết sức coi trọng việc
khơi thông các nguồn vốn đầu tư trong nước bảo đảm cho các nguồn vốn
này ngày càng có vị trí quan trọng trong hoạt động đầu tư, thể hiện rõ dần
vai trò quyết định trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Kinh nghiệm thành công của nhiều nước trên Thế giới cho thấy, không
một nước nào đã phát triển kinh tế thành công mà chỉ duy nhất dựa vào
nguồn vốn từ nước ngoài. Nếu như trong giai đoạn đầu, khi đất nước còn
nghèo và chưa phát triển, tỷ lệ vốn nước ngoài có thể cao, song trong toàn
24
Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí
bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cùng với quá trình phát triển, tỷ
lệ vốn nước ngoài thường thấp hơn so với tỷ lệ vốn trong nước và theo thời
gian, các nguồn vốn trong nước ngày càng chiếm vị trí quyết định. Đó là
thực tế và là yêu cầu khách quan của sự phát triển nhanh, bền vững và bảo
đảm được sự độc lập của nền kinh tế trong quá trình phát triển và hội nhập.
Đó cũng còn là điều kiện khách quan cho sự độc lập về thể chế chính trị của
một đất nước.
Xuất phát từ luận điểm trên và đáp ứng ý nguyện của nhân dân trong
nước và Việt kiều ở nước ngoài, nhất là của giới kinh doanh, Nhà nước Việt
Nam đã và đang cho xúc tiến mạnh mẽ quá trình chuẩn bị khung pháp lý cần
thiết để tạo môi trường thu hút mọi nguồn vốn tiềm tàng trong dân đầu tư
vào sản xuất kinh doanh. Nhằm phục vụ mục tiêu đó, bên cạnh việc điều tra
nghiên cứu hiện trạng trong nước, việc nghiên cứu những kinh nghiệm quốc
tế, đặc biệt là kinh nghiệm về xây dựng pháp luật về khuyến khích đầu tư
của các nước là hết sức quan trọng và cần thiết.
Đầu tư là một trong những yêu cầu quan trọng và cần thiết nhất của
tăng trưởng và phát triển kinh tế nên chính phủ của nhiều nước đặc biệt là
các nước đang phát triển luôn quan tâm đến việc huy động vốn và chuyển
nguồn vốn huy động được vào đầu tư phát triển. Những công cụ hay biện
pháp huy động vốn vào đầu tư mà các nước thường sử dụng là ban hành và
thực thi Luật về thúc đẩy hay khuyến khích đầu tư. Nhìn chung các đạo luật
này đều nhằm mục đích thúc đẩy hoạt động đầu tư trong phạm vi toàn bộ
nền kinh tế, đồng thời nó cũng hướng đầu tư vào một số lĩnh vực ưu tiên
phát triển nhất định của đất nước.
25