Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Quản lý giáo dục đạo đức học sinh của hiệu trưởng các trường Tiểu học Quận Lê Chân thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.09 KB, 122 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tác giả bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban
giám đốc Học viện Quản lý giáo dục, các thầy cô giáo và tập thể cán bộ công
nhân viên chức Học viện Quản lý giáo dục đã trang bị những kiến thức cần
thiết để tác giả có thể tập dược nghiên cứu khoa học và hoàn thành được luận
văn này.
Đặc biệt, tác giả bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Phó Giáo sư - Tiến sĩ
Phan Thị Hồng Vinh - trường Đại học Sư phạm Hà Nội, người thầy đã hướng
dẫn tận tình và trách nhiệm với tác giả trong suốt quá trình lập đề cương, tổ
chức nghiên cứu và viết luận văn.
Mặc dù đã rất nỗ lực và cố gắng nhưng chắc chắn luận văn sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót. Tác giả mong được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo, sự góp
ý chân thành của bạn bè đồng nghiệp để luận văn được bổ sung và hoàn thiện
hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả

Chu Thị Hường


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GDĐĐ

: Giáo dục đạo đức

QLGD

: Quản lý giáo dục

CB


: Cán bộ

GV

: Giáo viên

GVCN

: Giáo viên chủ nhiệm

NV

: Nhân viên

HS

: Học sinh

PHHS

: Phụ huynh học sinh

Nxb

: Nhà xuất bản

GD&ĐT

: Giáo dục và Đào tạo



MỤC LỤC


SƠ ĐỒ HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ của chức năng quản lý
Biểu đồ 2.1. Tỷ kệ hạnh kiểm tốt, khá, trung bình, yếu của HS Tiểu học Quận
Lê Chân
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê tổng hợp về đội ngũ CBQL, GV ....................................
Bảng 2.2. Kết quả xếp loại hạnh kiểm của HS Tiểu học Quận Lê Chân .......
Bảng 2.3. Vai trò của công tác GDĐĐ HS......................................................
Bảng 2.4. Nội dung GDĐĐ cho HS................................................................
Bảng 2.5. Hình thức GDĐĐ cho HS...............................................................
Bảng 2.6. Biện pháp GDĐĐ cho HS...............................................................
Bảng 2.7. Mức độ thực hiện việc lập kế hoạch GDĐĐ cho HS......................
Bảng 2.8. Nội dung kế hoạch quản lý GDĐĐ cho HS....................................
Bảng 2.9. Tổ chức hoạt động GDĐĐ cho HS.................................................
Bảng 2.10. Chỉ đạo hoạt động GDĐĐ cho HS................................................
Bảng 2.11. Kiểm tra, đánh giá hoạt động GDĐĐ HS.....................................
Bảng 2.12. Tần suất phối hợp giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà
trường...............................................................................................................
Bảng 2.13. Nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả GDĐĐ cho HS................
Bảng 3.1.Kết quả khảo nghiệm về tính cần thiết của các biện pháp...............
Bảng 3.2. Kết quả khảo nghiệm về tính khả thi của các biện pháp.................
Bảng 3.3. Điểm trung bình kết quả khảo nghiệm về tính cần thiết và khả thi
của các biện pháp............................................................................................


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, trước xu thế toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế, sự
phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường đã làm ảnh hưởng không nhỏ
đến chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống đối với mỗi con người Việt Nam,
nhất là đối với thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch nhân cơ hội đó để
tăng cường chống phá đất nước ta trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Một trong những mục tiêu chống phá đó là làm cho tầng lớp thanh niên Việt
Nam suy giảm về đạo đức và văn hoá truyền thống dân tộc.
Để giữ vững và phát triển các thế hệ con người Việt Nam có đủ phẩm
chất, năng lực đáp ứng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
trong quá trình phát triển đất nước, nhất là thích ứng với những tác động đa
chiều của thế giới hiện nay, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục giữ vững và phát triển
quan điểm giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ. Bên cạnh trình độ kiến thức
chuyên môn, thế hệ trẻ còn được quan tâm giáo dục về chính trị tư tưởng, đạo
đức, lối sống để vững vàng trước những tác động tiêu cực của mặt trái xã hội,
thực sự là người chủ tương lai của đất nước.
Trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, dưới sự lãnh đạo, định hướng của Đảng, nền giáo dục nước nhà luôn
hướng tới mục tiêu là đào tạo ra các thế hệ con người Việt Nam có đức, có tài,
hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Ngay từ cải cách giáo dục lần
thứ 3 năm 1979, đã xác định rõ về nhiệm vụ tăng cường giáo dục đạo đức
cách mạng trong trường học, ghi rõ: “Nội dung đạo đức cần được giáo dục
cho học sinh từ mẫu giáo đến đại học, nội dung chủ yếu dựa vào năm điều
Bác Hồ dạy”. Hội nghị lần thứ II của BCH TW Đảng khóa XI [11, tr41] đã
đưa phương hướng lãnh đạo đúng đắn về nhiệm vụ giáo dục toàn diện của
ngành giáo dục nhằm đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công



2

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta đó chỉ rõ: “Mục tiêu chủ yếu là
giáo dục toàn diện, đức dục, trí dục, mỹ dục ở tất cả các bậc học, hết sức coi
trọng giáo dục chính trị tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và
năng lực thực hành” và “coi trọng nhân cách, lý tưởng và đạo đức, trí lực và
thể lực, gắn học với hành”. Đảng ta khẳng định:“Tập trung nâng cao chất
lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng GDĐĐ, lối sống, năng lực sáng tạo”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh [19, tr60] - một trong những lãnh tụ thiên tài đã
nhận ra rất sớm vai trò của giáo dục, vì vậy lúc sinh thời Người coi việc bồi
dưỡng thê ́hê ̣cách mạng cho đời sau là công việc trọng đại của đất nước, của
dân tộc. Người rất chú trọng đến công tác GDĐĐ. Bác Hồ kính yêu đã dạy “
Người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, người có tài mà
không có đức thì vô dụng”.
HS Tiểu học là lứa tuổi mà nhân cách đang được định hình và phát
triển. Những tác động từ môi trường bên ngoài dễ dàng thâm nhập vào nhận
thức của trẻ, vì vậy cần giáo dục thói quen trong hành vi để trở thành phẩm
chất đạo đức trong nhân cách của trẻ.
Quận Lê Chân là một trong ba quận trung tâm của thành phố Hải
Phòng, trong những năm gần đây có sự phát triển nhanh về kinh tế - xã hội;
các em HS Tiểu học nhanh chóng tiếp thu ảnh hưởng những mặt tích cực
cũng như tiêu cực đang xảy ra trong cơ chế thị trường và quá trình hội nhập
quốc tế.
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài “Quản lý giáo dục đạo đức học
sinh của hiệu trưởng các trường Tiểu học Quận Lê Chân thành phố Hải
Phòng” được tác giả lựa chọn và nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu


3


Đề xuất biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý GDĐĐ HS cho
hiệu trưởng các trường Tiểu học Quận Lê Chân thành phố Hải Phòng, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý GDĐĐ cho HS Tiểu học.
3.2. Phân tích thực trạng việc quản lý GDĐĐ cho HS của hiệu trưởng
các trường Tiểu học Quận Lê Chân thành phố Hải Phòng.
3.3. Đề xuất biện pháp quản lý GDĐĐ HS của hiệu trưởng các
trường Tiểu học Quận Lê Chân thành phố Hải Phòng.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý GDĐĐ HS của hiệu trưởng các trường Tiểu học Quận
Lê Chân thành phố Hải Phòng.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý GDĐĐ HS của hiệu trưởng các trường Tiểu học Quận Lê Chân
thành phố Hải Phòng.
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
5.1. Giới hạn nghiên cứu
Đề tài phân tích thực trạng quản lý GDĐĐ cho HS Tiểu học tại 8
trường Tiểu học Quận Lê Chân thành phố Hải Phòng và đề xuất các biện pháp
quản lý GDĐĐ HS cho hiệu trưởng các trường Tiểu học trên địa bàn quận.
5.2. Địa bàn nghiên cứu
8 trường Tiểu học Quận Lê Chân thành phố Hải Phòng gồm: Minh
Khai, Lê Văn Tám, Nguyễn Đức Cảnh, Võ Thị Sáu, Tân Trào, Vĩnh Niệm,
Trần Nguyên Hãn, Trưng Vương.
5.3. Phạm vi thời gian: 3 năm học từ 2010-2013.
6. Giả thuyết khoa học



4

Việc quản lý GDĐĐ HS Tiểu học Quận Lê Chân thành phố Hải Phòng
trong thời gian qua đã đạt được kết quả nhất định song còn nhiều hạn chế, bất
cập, hiệu quả thấp, ảnh hưởng đến công tác giáo dục toàn diện trong nhà
trường. Nếu áp dụng đồng bộ hệ thống những biện pháp quản lý GDĐĐ đề
xuất, sẽ góp phần nâng cao hiệu quả GDĐĐ cho HS.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu văn kiện.
- Nghiên cứu tài liệu lý luận.
- Nghiên cứu sách, báo, tạp chí và các công trình khoa học có liên quan.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát, điều tra bằng phiếu:
+ Quan sát hoạt động GDĐĐ tại các nhà trường thông qua tiết dạy trên
lớp và giáo dục ngoài giờ lên lớp …
+ Xây dựng phiếu hỏi ý kiến đối với hiệu trưởng, GV, lực lượng tham
gia giáo dục khác theo các nội dung về mức độ sử dụng có hiệu quả hình
thức, phương pháp, xây dựng kế hoạch, công tác tổ chức chỉ đạo, kiểm tra
đánh giá … các hoạt động GDĐĐ trong nhà trường.
- Phương pháp thu thập số liệu, phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết kinh nghiệm việc quản
lý GDĐĐ tại các nhà trường.
- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến chuyên gia về việc quản lý
GDĐĐ tại các nhà trường sao cho hiệu quả và thực tế với hình thức: hội thảo,
xin ý kiến trực tiếp từng cá nhân chuyên gia.
7.3. Phương pháp thống kê toán học và dùng phần mềm tin học: Để xử
lý các số liệu thu thập được từ các phương pháp nghiên cứu khác.
8. Cấu trúc luận văn



5

Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, nội dung luận văn được
trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý GDĐĐ HS bậc Tiểu học
Chương 2: Thực trạng quản lý GDĐĐ HS của hiệu trưởng các trường
Tiểu học Quận Lê Chân thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Biện pháp quản lý GDĐĐ HS của hiệu trưởng các trường
Tiểu học Quận Lê Chân thành phố Hải Phòng


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
HỌC SINH TIỂU HỌC
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Sự tồn tại và phát triển của giáo dục luôn chịu sự chi phối của kinh tế xã hội và ngược lại giáo dục có vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế xã
hội; giáo dục là công cụ, là phương tiện để cải tiến xã hội. Khi xã hội phát
triển, giáo dục được coi là động lực, là mục tiêu cho sự phát triển xã hội. Đức
và tài là hai mặt cơ bản hợp thành trong một cá nhân; trong đó đạo đức là gốc
của nhân cách. GDĐĐ là một phần quan trọng không thể thiếu trong hoạt
động giáo dục.
Ở phương Đông từ thời cổ đại, Khổng Tử (551-479-TCN) – nhà tư
tưởng, nhà giáo dục lớn Trung Hoa cổ đại đã nêu lên quan điểm của mình về
GDĐĐ thông qua các tác phẩm bất hủ của mình, trong đó có tác phẩm "Dịch,
Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Xuân Thu" rất xem trọng việc GDĐĐ. Trong luận ngữ
của mình, Khổng Tử khẳng định"Ngọc bất trắc bất thành khí, nhân bất học bất
trí đạo" (nghĩa là: Viên ngọc không mài dũa thì không thành đồ dùng được,

con người không học thì không biết đạo).
Ở phương Tây, nhà triết học Socrat (470-399-TCN) đã cho rằng đạo
đức và sự hiểu biết quy định nhau. Có được đạo đức là nhờ ở sự hiểu biết, con
người chỉ sau khi có hiểu biết mới trở thành đạo đức. Aristoste (384-322TCN) cho rằng không phải hy vọng vào Thượng đế áp đặt để có người công
dân hoàn thiện về đạo đức, mà việc phát hiện nhu cầu trên trái đất mới tạo nên
được con người hoàn thiện trong quan hệ đạo đức.
Ở Việt Nam, ông cha ta từ xưa cũng luôn đề cao việc GDĐĐ con
người. Chủ tịch Hồ Chí Minh [19, tr 32] đã dạy "Có tài mà không có đức là
người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó", Theo


7

Người giữa đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất và năng lực có mối quan
hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau. Có đức là để tài năng phát triển đúng
hướng, có tài thì đức mới phát huy được tác dụng. Người rất quan tâm đến
việc giáo dục thế hệ trẻ ở cả hai mặt: đạo đức và nhân cách.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng [11, tr 45]. đã viết nhiều tác phẩm nghiên
cứu về Hồ Chí Minh và giáo dục, trong đó thể hiện tâm huyết đối với GDĐĐ
cho thế hệ trẻ mà ông xem là chức năng quan trọng của nhà trường. Cố Thủ
tướng đã viết: "Nhà trường, từ mẫu giáo đến đại học là nơi rèn luyện, nơi đào
tạo con người trở thành những người được trang bị tốt về phẩm chất, đạo đức,
nghề nghiệp, phong cách và cống hiến, trở thành những người chiến sĩ của
một sự nghiệp vĩ đại xây dựng Tổ quốc ta, dân tộc Việt nam ta, sự nghiệp
nước ta theo định hướng XHCN và tiến cao hơn nữa...".
Trong những năm 60, 70 nhiều công trình nghiên cứu về GDĐĐ của
các tác giả trong nước đã được công bố từ góc độ tâm lý học, giáo dục học.
Để đi đến các quan niệm và giải pháp về GDĐĐ, các tác giả đã lựa chọn cho
mình những cách tiếp cận khác nhau, tạo ra một sự đa dạng, phong phú về nội
dung và phương pháp nghiên cứu.

Tác giả Phạm Khắc Chương [24, tr12] đã nghiên cứu và trình bày cơ sở
tâm lý - giáo dục học của GDĐĐ cho HS.
Tác giả Hà Thế Ngữ [22, tr 42] chú trọng đến vấn đề tổ chức quá trình
GDĐĐ thông qua giảng dạy các bộ môn khoa học, nhất là các bộ môn khoa
học xã hội và nhân văn, rèn luyện phương pháp tư duy khoa học để trên cơ sở
đó giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng ý thức đạo đức, hướng
dẫn thực hiện các hành vi đạo đức cho HS.
Tác giả Đặng Vũ Hoạt [21, tr 53] đã đi sâu nghiên cứu vai trò của GV
chủ nhiệm trong quá trình GDĐĐ cho HS. Ông đã đưa ra một số định hướng


8

cho GV chủ nhiệm trong việc đổi mới nội dung, cải tiến phương pháp GDĐĐ
cho HS trong nhà trường phổ thông.
Tác giả Phạm Minh Hạc [27, tr 79] xuất phát từ đặc trưng tâm lý học để
khảo sát hành vi và hoạt động, nghiên cứu đạo đức trong cấu trúc của nhân
cách, thực hiện GDĐĐ trong quá trình phát triển nhân cách. Trên cơ sở đó
nghiên cứu các đề tài về con người với tư cách là mục tiêu và động lực của sự
phát triển. Tác giả cũng đã nêu các định hướng giá trị đạo đức con người Việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ thực trạng đạo đức của
HS, sinh viên hiện nay, ông đã nêu ra một số giải pháp ở tầm vĩ mô về giáo
dục - đào tạo con người Việt Nam theo định hướng "Tiếp tục đổi mới nội
dung, hình thức GDĐĐ trong các trường học; củng cố ý tưởng giáo dục ở gia
đình và cộng đồng, kết hợp chặt chẽ với giáo dục nhà trường trong việc
GDĐĐ cho mọi người; kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện nghiêm chỉnh
pháp luật của các cơ quan thi hành pháp luật; tổ chức thống nhất các phong
trào thi đua yêu nước và các phong trào rèn luyện đạo đức lối sống cho toàn
dân, trước hết là cho cán bộ Đảng viên, cho thầy trò các trường học; xây dựng
một cơ chế tổ chức và chỉ đạo thống nhất toàn xã hội về GDĐĐ; nâng cao

nhận thức cho mọi người".
Tác giả Phạm Tất Dong [26] đã làm chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa
học: "Cải tiến công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống cho
HS, sinh viên trong hệ thống giáo dục quốc dân"; đề tài này đi sâu nghiên cứu
cơ sở tâm lý học của hoạt động giáo dục lao động, giáo dục hướng nghiệp,
gắn kết các hoạt động này với GDĐĐ nhằm đạt được mục tiêu GDĐĐ nghề
nghiệp và lý tưởng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ; đã mang lại nhiều nội dung
mới về GDĐĐ, chính trị và tư tưởng trong các trường từ Tiểu học đến Đại học
những năm đầu của thập kỷ 90.


9

Có nhiều tác giả khác, trong các công trình nghiên cứu, bài viết của
mình cũng đã đưa ra các luận điểm, quan điểm về GDĐĐ cho HS; như tác giả
Trần Hậu Kiếm và Đoàn Đức Hiếu [30, tr 61] trong cuốn "Hệ thống phạm trù
đạo đức HS và GDĐĐ cho sinh viên" đã khái quát những phạm trù đạo đức
cơ bản đó là: lẽ sống, hạnh phúc, danh dự, nghĩa vụ và lương tâm, thiện và
ác...Những phạm trù này phản ánh nội dung khách quan của đời sống xã hội,
nó liên hệ hữu cơ với tình cảm con người trong mối quan hệ giữa con người
và đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, nhiều nhà nghiên cứu vẫn thường xuyên quan tâm đến
vấn đề GDĐĐ cho HS phổ thông, vấn đề về đạo đức con người Việt nam qua
từng thời kỳ Cách mạng. Những nghiên cứu đó đã góp một phần quan trọng
trong công cuộc đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo nói chung cũng như
công tác GDĐĐ và quản lý việc GDĐĐ nói riêng.
Tóm lại, đạo đức đóng vai trò rất quan trọng trong xã hội. Việc quan
tâm tới công tác GDĐĐ trong nhà trường là một việc làm cần thiết. GDĐĐ
cho HS trong trường Tiểu học gắn liền với mục tiêu của cấp học là dạy chữ,
dạy người nhằm phát triển nền tảng nhân cách cho các em nhằm cung cấp cho

HS những tri thức cơ bản về các phẩm chất đạo đức và chuẩn mực đạo đức,
hoàn thiện nhân cách con người.
Ở mỗi địa phương, mỗi nhà trường đều có tính đặc thù riêng, trong
mỗi thời điểm đều có những biến đổi, do đó việc nghiên cứu thực trạng việc
GDĐĐ và quản lý GDĐĐ cho HS Tiểu học của Quận Lê Chân, thành phố Hải
Phòng trong giai đoạn hiện nay có thể góp phần vào việc nâng cao chất lượng
quản lý giáo dục cho HS nói chung và HS Tiểu học nói riêng.
1.2. Một số khái niệm có liên quan đến đề tài:
1.2.1. Quản lý


10

Quản lý là hoạt động nảy sinh từ nhu cầu của cuộc sống con người từ
khi có sự hợp tác và phân công lao động. Hoạt động của con người càng
phong phú, đa dạng, trình độ của người lao động càng ngày một nâng cao đồi
hỏi cần có trình độ quản lý, điều hành. Theo Các Mác [10, tr 124]: "Bất cứ lao
động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào mà tiến hành trên quy mô khá
lớn, đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân.
Sự chỉ đạo đó phải là chức năng chung của cơ sở sản xuất với những vận
động cá nhân của những khí quan độc lập hợp thành cơ thể sản xuất đó. Một
nhạc sỹ độc tấu thì tự điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải
có nhạc trưởng". Như vậy, theo C/Mác thì quản lý là một hoạt động tất yếu
trong bất cứ một hình thức lao động tập thể nào nhằm điều hành, phối hợp
những hoạt động của cá nhân nhằm đạt được những mục tiêu chung của tập
thể, của tổ chức. Ông ví hoạt động của tổ chức, tập thể cần phải có hoạt
động quản lý như dàn nhạc cần có người chỉ huy.
Do tính chất phong phú, đa dạng và phức tạp trong hoạt động của con
người nên có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý. Tùy theo cách tiếp
cận của các tác giả khác nhau mà có những quan niệm khác nhau về quản lý.

Cho đến nay, thuật ngữ "quản lý" được dùng rất phổ biến nhưng chưa
có định nghĩa thống nhất. Có rất nhiều quan điểm khác nhau, có người cho
rằng quản lý là hoạt động nhằm đảm bảo hoàn thành công việc do những
người khác thực hiện. Cũng có ý kiến cho rằng quản lý là phương thức tốt
nhất để đạt mục tiêu chung của một nhóm người, một tổ chức, một cơ quan
hay nói rộng ra là một nhà nước.
Theo GS. Nguyễn Hoàng Toàn [15, tr27]: "Quản lý là sự tác động có tổ
chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý để đạt mục tiêu
chung".


11

Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ [21, tr41] trong tác phẩm "Những
vấn đề cốt yếu của quản lý" đã nêu: "Quản lý là một quá trình được định
hướng, có mục tiêu. Quản lý một hể thống là quá trình tác động đến hệ thống
nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho
trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn".
Theo tác giả Trần Kiểm [29, tr38]: "Quản lí là những tác động của chủ
thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều
phối các nguồn lực trong và ngoài tổ chức một cách tối ưu nhằm đạt được
mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất”.
Theo tác giả Nguyễn Văn Lê [17, tr35] trong tác phẩm "Khoa học Quản
lý nhà trường" đã định nghĩa "Quản lý một hệ thống xã hội là khoa học và
nghệ thuật tác động vào hệ thống đó, mà chủ yếu là vào những con người
nhằm đạt được hiệu quả tối ưu theo mục tiêu đã đề ra".
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang [18, tr24] thì "Quản lý là tác động có
mục đích có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động
nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến".
Theo nghĩa rộng: Quản lý là hoạt động có mục đích, hành động của

những người khác nhằm thu được kết quả mong muốn. Từ những ý chung của
các định nghĩa và xét quản lý với tư cách là một hành động có tổ chức, có
hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Tóm lại: Quản lý là một quá trình tác động có chủ đích của chủ thể
quản lý đến đối tượng quản lý nhằm khai thác, lựa chọn, tổ chức và thực hiện
có hiệu quả những nguồn lực và cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu của
tổ chức đã đề ra trong một môi trường có sự biến đổi và phụ thuộc vào nhiều
yếu tố: chủ thể, đối tượng, mục tiêu, phương pháp và công cụ quản lý.
Khi tiến hành quản lý cần đảm bảo các nguyên tắc sau: Nguyên tắc
mục tiêu; thu hút sự tham gia của tập thể; kết hợp hài hòa gữia các lợi ích; tiết


12

kiệm và hiệu quả cao; thích ứng linh hoạt; khoa học hợp lý; phối hợp hoạt
động các bên có liên quan.
1.2.1.1 Chức năng quản lý
Chức năng quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của
chủ thể quản lý nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn hóa trong hoạt động
quản lý nhằm thực hiện mục tiêu chung của quản lý. Quản lý gồm 4 chức
năng sau:
* Chức năng lập kế hoạch: Đây là chức năng cơ bản nhất trong các
chức năng quản lý, bao gồm xác định mục tiêu, xây dựng chương trình hành
động và bước đi cụ thể nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong thời gian nhất
định của hệ thống quản lý.
- Xác định mục tiêu là khâu đầu tiên cả kế hoạch. Mục tiêu là cái đích
mà mọi hoạt động của hệ thống hướng tới. Các mục tiêu tạo thành một hệ
thống phân cấp từ mục tiêu chung của hệ thống đến mục tiêu các bộ phạn,
mục tiêu của cá nhân và tọa thành cả một hệ thống mạng lưới các mục tiêu
được phản ánh trong các chương trình phối hợp chặt chẽ với nhau. Các nhà

quản lý có thể xác định một cách tốt nhất số lượng các mục tiêu xuất phát từ
bản chất công việc của hệ thống. Như vậy, mục đích của kế hoạch là hướng
tới mọi hoạt động của hệ thống vào các mục tiêu tạo khả năng đạt mục tiêu
một cách hiệu quả và cho phép người quản lý có thể kiểm soát được quá trình
tiến hành nhiệm vụ.
- Xây dựng chương trình hành động và bước đi cụ thể nhằm đạt các
mục tiêu, thực chất là lập kế hoạch trong quá trình thực hiện chức năng kế
hoạch. Tiền đề của kế hoạch là các dự thảo. Lập kế hoạch là quá trình lưa
chọn cơ hội, phân tích thực trạng của hệ thống, xây dựng phương án hành
động và tổ chức các phương tiện để đạt tới mục tiêu đã xác định, toàn bộ quá
trình trên đây là tổ hợp các bước tiến hành, các nguồn cần sử dụng, các


13

phương tiện cần phải có để thực hiện, được xây dựng qua cho các thời kỳ dài,
ngắn khác nhau gọi là kế hoạch ngắn hạn, kế hoạch trung hạn và dài hạn.
Việc thực hiện chức năng kế hoạch tạo ra tầm nhìn chiến lược cho nhà
quản lý, giúp việc cho sự phát hiện và lựa chọn chính xác các chương trình
hành động phù hợp với các nguồn của hệ thống, làm giảm bất trắc, làm hạn
chế lãng phí do được tính toán sắp đặt từ trước. Đồng thời, chức năng kế
hoạch là căn cứ để hình thành và thực hiện các chức năng khác.
* Chức năng tổ chức
Tổ chức là xác định một cơ cấu chủ định về vai trò, nhiệm vụ hay chức
vụ được hợp thức hóa.
Chức năng tổ chức gồm có hai nội dung:
- Một là sắp xếp bộ máy đáp ứng được yêu cầu của mục tiêu và nhiệm
vụ đảm nhận. Tổ chức bộ máy phải phù hợp về cấu trúc, cơ chế hoạt động,
phù hợp với khả năng để đạt được mục tiêu. Công việc tổ chức bộ máy là
phân chia tổ chức thành các bộ phạn thực hiện chức năng cụ thể và xây dựng

cơ chế phối hợp, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa các bộ phận nhằm đạt
được sự đồng bộ trong hoạt động.
- Hai là sắp xếp công việc hợp lý, phân công nhiệm vụ rõ ràng để mọi
người hướng vào mục tiêu chung.
* Chức năng chỉ đạo
Tác động đến con người bằng mệnh lệnh, giao nhiệm vụ khuyến khích
động viên làm cho người được quản lý tự giác, tích cực làm việc đúng kế
hoạch và nhiệm vụ được phân công, tạo động lực để con người tích cực hoạt
động bằng các biện pháp động viên khen thưởng và trách phạt.
* Chức năng kiểm tra, đánh giá
Đây chính là công việc thu thập thông tin ngược để kiểm soát hoạt
động của bộ máy nhằm điều chỉnh kịp thời những sai sót, lệch lạc đưa tổ chức


14

tiến đến mục tiêu. Do đó, chức năng kiểm tra, đánh giá diễn ra ở giai đoạn
cuối cùng của chu trình quản lý, nó bao gồm những nhiệm vụ chính sau đây:
+ Đánh giá thực trạng, xác định xem mục tiêu dự kiến ban đầu và toàn
bộ kế hoạch đã được ở mức độ nào, kết quả phù hợp đến đâu so với dự kiến.
+ Phát hiện những lệch lạc, sai sót, những gì trong kế hoạch đã đạt
được.
+ Điều chỉnh kế hoạch, tìm biện pháp uốn nắn những lệch lạc.
Muốn tìm ra những sai sót và lệch lạc trong quản lý cần phải tiến hành
kiểm tra thường xuyên hoạt động kiểm tra và kết hợp nhiều hình thức kiểm tra
khác nhau như kiểm tra trọng điểm, kiểm tra trực tiếp, kiểm tra gián tiếp,
kiểm tra đột xuất...từ đó có những đánh giá và đưa ra những điều chỉnh phù
hợp.
Tóm lại, bốn chức năng trên, chức năng nào cũng quan trọng. Nhưng ở
mỗi chức năng đảm nhận vị trí, vai trò nhất định, trong đó chức năng kiểm tra

đánh giá cũng là một khâu rất quan trọng. Các chức năng này có mối quan hệ
qua lại mật thiết với nhau, đòi hỏi các nhà quản lý trường học phải thường
xuyên kiểm tra, đánh giá tập thể GV, HS thật chính xác, đồng thời hướng họ
thành chủ thể của quá trình quản lý. Từ đó chủ thể quản lý tự quản lý quá
trình dạy học - giáo dục của mình. Do đó, các chức năng quản lý phải tạo
thành hệ thống thống nhất với một trình tự nhất định, trong đó từng chức năng
vừa có tính độc lập tương đối, vừa có mối quan hệ phụ thuộc với các chức
năng khác. Quá trình ra quyết định quản lý là quá trình thực hiện các chức
năng quản lý theo một trình tự nhất định. Việc bỏ hoặc coi nhẹ bất kỳ một
chức năng nào trong chuỗi các chức năng đều ảnh hưởng xấu đến kết quả
quản lý. Các chức năng tạo thành một chu trình quản lý của một hệ thống.
Căn cứ vào chức năng và vai trò thông tin trong quản lý, có thể biểu
diễn một chu trình quản lý như sau:


15

KẾ HOẠCH

CHỈ ĐẠO

THÔNG TIN

TỔ CHỨC

KIỂM TRA

Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ của chức năng quản lý
1.2.1.2. Nguyên tắc quản lý
Nguyên tắc quản lý là các quy định, các chuẩn mực có tính chỉ đạo mà

những người quản lý tuân thủ trong quá trình quản lý. Trong quản lý nói
chung, có một số nguyên tắc cơ bản sau:
* Nguyên tắc tập trung dân chủ
Là nguyên tắc tổ chức cơ bản của quản lý, đảm bảo mối quan hệ chặt
chẽ và tối ưu giữa tập trung thống nhất cao, khắc phục tình trạng tự do và vô
chính phủ cũng như tập trung quá mức dẫn đến tập trung quan liêu. Tập trung
phải dựa trên dân chủ, dân chủ phải được thực hiện trong khuôn khổ tập
trung. Đây là nguyên tắc rất quan trọng của quản lý, nó phụ thuộc vào bản
lĩnh, phẩm chất đạo đức và phong cách của người quản lý.
* Nguyên tắc hài hòa các lợi ích
Quản lý suy cho cùng là nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của
người lao động. Song động lực của quản lý là lợi ích, do dó một nguyên tắc
quan trọng của quản lý là phải chú ý đến lợi ích. Kết hợp hài hòa các lợi ích
phải được xem xét và đề ra ngay từ khi đề ra chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
kinh tế - xã hội, quá trình hoạt động quản lý, đến khâu phân phối và tiêu dùng.


16

Giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích sẽ đảm bảo cho hệ thống quản lý vận hành
thuận lơi và có hiệu quả.
* Sử dụng toàn diện các phương pháp quản lý, kết hợp phương pháp
hành chính, tâm lý giáo dục và kinh tế, coi trọng phương pháp kinh tế.
Đây là nguyên tắc thể hiện sự tác động của chủ thể quản lý tới đối
tượng quản lý thông qua việc vận dụng các quy luật tổ chức - hành chính, quy
luật tâm lý và quy luật kinh tế. Đối tượng quản lý là con người chịu sự tác
động của nhiều mối quan hệ, có nhiều mục tiêu, nhiều nhu cầu khác nhau và
luôn luôn thay đổi theo không gian và thời gian. Do đó phải tùy theo đối
tượng mà sử dụng tổng hợp và toàn diện các phương pháp quản lý một cách
linh hoạt.

1.2.2. Khái niệm Quản lý giáo dục
Cũng như quản lý xã hội nói chung, quản lý giáo dục là hoạt động có ý
thức của con người nhằm đạt được những mục đích của mình. Chỉ có con
người mới có khả năng khách thể hóa mục đích, nghĩa là biến hình mẫu ý
tưởng của đối tượng trong tương lai mà ta gọi là mục đích thành trạng thái
hiện thực. Mục đích giáo dục nằm trong mục đích quản lý giáo dục, có nhiều
quan điểm về quản lý giáo dục, nhưng có thể khái quát ở hai cấp độ:
Ở cấp độ vĩ mô (quản lý hệ thống giáo dục): Quản lý giáo dục được
hiểu là những tác động tự giác, có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ
thống và hợp quy luật…của chủ thể quản lý giáo dục các cấp đến tất cả các
mắt xích của hệ thống giáo dục nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả
việc tổ chức, huy động, điều phối, giám sát và điều chỉnh các nguồn lực giáo
dục (nhân lực, vật lực, tài lực và thông tin) để hệ thống giáo dục vận hành đạt
được mục tiêu phát triển giáo dục.
Ở cấp độ vi mô (quản lý một cơ sở giáo dục): Quản lý giáo dục được
hiểu là những tác động tự giác, có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ


17

thống, hợp quy luật…của chủ thể quản lý một cơ sở giáo dục đến tập thể GV,
công nhân viên, tập thể người học và các lực lượng tham gia giáo dục khác
trong và ngoài cơ sở giáo dục đó, nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả
hoạt động giáo dục và dạy học nhằm làm cho cơ sở giáo dục đó vận hành luôn
luôn ổn định và phát triển để đạt tới mục tiêu đào tạo của cơ sở giáo dục.
Xét theo quan điểm của lý thuyết hệ thống thì quản lý giáo dục là sự tác
động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên hệ thống; sử
dụng một cách tối ưu các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống nhằm đưa hệ
thống tới mục tiêu một cách tốt nhất trong điều kiện đảm bảo sự cân bằng với
môi trường bên ngoài luôn biến động.

Tóm lại, trên cơ sở định nghĩa quản lý nói chung và phân tích các định
nghĩa trên: Quản lý giáo dục là những tác động có mục đích, có kế hoạch, phù
hợp với quy luật khách quan của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm
khai thác tối ưu các nguồn lực và phối hợp những nỗ lực của cán bộ, GV và
HS để phát triển sự nghiệp giáo dục theo mục tiêu, quan điểm của Đảng. Đồng
thời, Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách
thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt hiệu quả
cao nhất.
1.2.3. Quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng và Nhà
nước trong phạm vi trách nhiệm của mình tức là đưa nhà trường vận hành
theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối
với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng HS.
Quản lý giáo dục có thể chia làm hai cấp độ là cấp độ vĩ mô và cấp độ
vi mô. Quản lý giáo dục vĩ mô là quản lý cả hệ thống giáo dục bao gồm các
thành tố của hệ thống trong đó quản lý nhà trường là trọng tâm. Quản lý nhà
trường là quản lý giáo dục cấp vi mô.


18

Theo tác giả Phạm Minh Hạc [27, tr35] thì: "Quản lý nhà trường (Việt
Nam) thực hiện quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng (trong phạm vi trách
nhiệm) trong việc thực hiện các hoạt động khai thác, sử dụng, tổ chức thực
hiện các nguồn lực và những tác động của chủ thể quản lý đến các thành tố
của quá trình giáo dục diễn ra trong nhà trường, đưa nhà trường vận hành theo
nguyên lý giáo dục để đạt tới mục tiêu giáo dục - mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ".
Khái niệm trên cho thấy mục tiêu của quản lý nhà trường là vận hành
quá trình giáo dục trong nhà trường theo quan điểm đường lối giáo dục của
Đảng để đáp ứng tốt nhất nhu cầu học tập của nhân dân, phát triển nhân cách

toàn diện cho người học đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
Chủ thể quản lý nhà trường bao gồm các nhà quản lý giáo dục bên
ngoài nhà trường và chủ thể quản lý bên trong nhà trường bao gồm đội ngũ
CBQL, công nhân viên chức, HS. Đối tượng quản lý nhà trường là các thành
tố cấu tạo nên quá trình giáo dục trong nhà trường.
Nhiệm vụ quan trọng của nhà trường là đào tạo nguồn nhân lực đáp
ứng nhu cầu của sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, phù hợp
với xu thế toàn cầu hóa lực lượng sản xuất. Trong quản lý trường học, quản lý
con người là trung tâm số một. Nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường là dạy học
và giáo dục HS.
Quản lý trường học là quản lý hoạt động dạy của GV và hoạt động học
của HS. Các hoạt động của nhân viên nhà trường phục vụ việc dạy và học,
đảm bảo kết hợp với các lực lượng trong nhà trường nhằm thực hiện có chất
lượng và hiệu quả mục đích giáo dục.
Như vậy, quản lý nhà trường là quản lý giáo dục được thực hiện trong
phạm vi xác định của một đơn vị giáo dục nhà trường, nhằm thực hiện nhiệm
vụ giáo dục thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội.
1.2.4. Đạo đức


19

1.2.4.1. Khái niệm đạo đức
Có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm này, tùy theo từng quan
niệm mà có những cách hiểu khác nhau này.
Theo quan điểm của học thuyết Mác-Lênin [10, tr102]: "Đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội có nguồn gốc từ lao động, sản xuất và đời sống cộng
đồng xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh và chịu sự chi
phối của tồn tại xã hội. Vì vậy tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội cũng
thay đổi theo. Và như vậy đạo đức xã hội luôn mang tính lịch sử, tính giai cấp

và tính dân tộc".
Theo chủ nghĩa Mác [10, tr79], đạo đức là cái có thật trong ý thức xã
hội, trong đời sống tinh thần của con người, nghĩa là về lý luận nó là bộ phận
của kiến trúc thượng tầng xã hội. Đạo đức tồn tại trong mọi ý thức, hoạt động
giao lưu trong toàn bộ hoạt động sống của con người.
- Xét dưới góc độ xã hội: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc
biệt được phản ánh dưới dạng những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực điều
chỉnh (hoặc chi phối) hành vi của con người trong các mối quan hệ giữa con
người với con người, với tự nhiên xã hội và với chính bản thân mình.
- Xét dưới góc độ cá nhân: Đạo đức chính là những phẩm chất, nhân
cách cả con người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và
cách ứng xử của họ trong các mối quan hệ giữa con người với con người, với
tự nhiên xã hội và với chính bản thân mình.
Trong cuốn "Bàn về giáo dục" [10, tr96] đã viết: "Đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội hiện thực trên cơ sở kinh
tế. Sự phát triển của đạo đức xã hội từ thấp đến cao như những nấc thang giái
trị về sự văn minh của con người trên cơ sở phát triển của sức sản xuất vật
chất thông qua việc đấu tranh gạn lọc, kế thừa mà nội dung đạo đức ngày
càng tiến bộ, phong phú và hoàn thiện hơn".


20

Tác giả Phạm Khắc Chương [24, tr29] đã viết: "Đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội đặc biệt, được phản ánh dưới dạng nguyên tắc, yêu cầu,
chuẩn mực, điều chỉnh hành vi của con người trong các mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, con người với xã hội, giữa con người với nhau và con
người với chính bản thân mình".
Theo tác giả Phạm Minh Hạc [27, tr21]: "Đạo đức theo nghĩa hẹp là
luân lý, là những quy định, những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con

người. Nhưng trong điều kiện hiện nay, chính quan hệ của con người cũng đã
mở rộng và đạo đức bao gồm những quy định, những chuẩn mực ứng xử của
con người với con người, với công việc và với bản thân, kể cả với thiên nhiêm
và môi trường sống".
Như vậy, đạo đức là luân lý, là chuẩn mực ứng xử tức là khái niệm đạo
đức đã gắn với giá trị đạo đức, chuẩn mực đạo đức xã hội. Theo tác giả Hà
Nhật Thăng [23, tr37]: "Khi những giá trị đạo đức biến thành nhận thức chung
của mọi thành viên thì nó trở thành truyền thống, có sức mạnh vật chất điều
chỉnh nhận thức và hành động chung của toàn xã hội". Vì vậy đạo đức có vai
trò, có ý nghĩa rất lớn trong công việc xây dựng một xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh". Do đó, Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý
của con người, nó thuộc về vấn đề tốt - xấu, hơn nữa xem như là đúng - sai,
được sử dụng trong ba phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo
đức và trừng phạt đôi lúc còn được gọi là giá trị đạo đức; nó gắn liền với nền
văn hóa, tôn giáo, chủ nghĩa nhân văn, triết học và những luật lệ của một xã
hội về cách đối xử từ hệ thống này.
Để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta phải hiểu đạo đức là hình thái ý thức xã
hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách
ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên trong


21

hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai. Chúng được thực hiện bởi niềm tin
cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận.
Đạo đức được xem là hiện tượng lịch sử, nó là sự phản ánh của các
quan hệ xã hội. Mỗi chế độ mang một đặc điểm khác nhau. Lợi ích của giai
cấp thống trị là duy trì và củng cố những quan hệ xã hội đang có và nó gắn
liền với chế độ xã hội mà giai cấp tồn tại. Trái lại, giai cấp bóc lột tùy theo
nhận thức về tính bất công của những quan hệ ấy mà đứng lên đấu tranh

chông lại và đề ra quan niệm đạo đức riêng của mình. Trong xã hội có giai
cấp, đạo đức có tính giai cấp. Đồng thời, có tính kế thừa nhất định. Theo
Enghen [10, tr123] "Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau nhưng xã hội
vẫn gi lại những điều kiện sinh hoạt, những hình thức cộng đồng chung. Tính
kế thừa đạo đức phản ánh những luật lệ đơn giản và cơ bản của bất kì cộng
đồng người nào". Đó là những yêu cầu đạo đức liên quan đến những hình
thức liên hệ đơn giản nhất giữa người với người. Mọi thời đại đều lên án cái
ác, cái tàn bạo, tham lam, hèn nhát, phản bội... và biểu dương cái thiện, sự
dũng cảm, chính trực, độ lượng, khiêm tốn..."không ai nghi ngờ được rằng nói
chung đã có sự tiến bộ về mặt đạo đức cũng như về tất cả các ngành tri thức
khác của nhân loại"
Đạo đức của con người hình thành, phát triển cần có một quá trình đó
chính là quá trình tác động qua lại giữa xã hội với cá nhân để chuyển hóa
những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực, giá trị đạo đức - xã hội thành những
phẩm chất đạo đức cá nhân, làm cho cá nhân đó trưởng thành về mặt đạo đức
công dân và đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Bản chất của đạo đức mang tính lịch sử-xã hội; tính giai cấp, tính dân
tộc và thời đại; tính đặc thù của cá thể (cá nhân). Do đó, ở mỗi giai đoạn đạo
đức lại được hiểu theo những cách khác nhau.


×