Tải bản đầy đủ (.doc) (410 trang)

Quản lí môi trường con đường kinh tế để dẫn đến nền kinh tế sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.04 MB, 410 trang )

‘. . . . . . . o0o . . . . . . . .

QUẢN LÝ MÔI trường
Con đường kinh tế để dẫn đến nền kinh tế
sinh thái

Giáo sư MANFRED SCHREINER
Trường Ðại học Fulda, CHLB Ðức

Nhà xuất bản GABLER


QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG

Quyển sách giáo khoa này giới thiệu cơ sở cho sự chỉ đạo doanh nghiệp định
hướng theo môi trường.
Nội dung được cô đọng trong 22 chương, mỗi chương là một bài khố hồn chỉnh dùng cho
giảng dạy và học tập. Từng vấn đề trong mỗi Chương đều có nêu lên những gợi ý và được giải thích
bằng các hình ảnh, ví dụ cụ thể; mỗi bài khố đều có câu hỏi, bài tập và tài liệu tham khảo.
Trong lần xuất bản thứ 4 này đặc biệt có đưa thêm vào nội dung mới của Luật Kinh tế chu trình. Ðề tài
“Nghiệp vụ quản lý mơi trường - Hệ thống kiểm toán - Kiểm toán sinh thái“ đã thay cho Chương “Ngun lý
chính sách mơi trường xí nghiệp“ mà nó đã tồn tại trước đây. Trong lần tái bản này có nhấn mạnh đến sự phát
triển mới trong lĩnh vực “Kinh tế Vật tư, Kinh tế Gia công, Ngạch kế tốn định hướng theo mơi trường và Cân
đối sinh thái“ .
Tác giả, Giáo sư Tiến sĩ Schreiner, giảng dạy các mơn: Kế tốn, Quản lý mơi trường, Chính sách môi
trường và Cơ sở kỹ thuật môi trường tại Trường Ðại học Fulda, Cộng hoà Liên bang Ðức
Nhà xuất bản


Chương I
Kinh tế và sinh thái



Những đặc điểm của hệ thống kinh tế
Những đặc điểm của kinh tế sinh thái
Kinh tế

Sinh thái
Sự tương quan của các hệ thống
Kinh tế hoá sinh thái
Sinh thái hố kinh tế

Mâu thuẫn
Hồ hợp

1.1. Kinh tế trong sự mâu thuẫn với Sinh
thái
Vấn đề cư xử với tài ngun thiên nhiên là: khơng khí, nước, đất, ngun liệu, phong cảnh, cây và súc
vật ngày càng trở nên cấp bách hơn. Khơng có ngày nào trơi qua mà khơng có tin tức về sự ơ nhiễm mơi trường
và hậu quả của nó. Một trong những nguyên nhân của nó mà chúng ta đã biết và đồng thời nó cịn là một vấn đề
mơi trường, đó là cách thức của sự hoạt động kinh tế, của dân số thế giới ngày càng tăng trưởng nhanh chóng. Sự
chuyển hố về mặt kinh tế các trí thức khoa học tự nhiên và sư phát triển kỹ thuật trong thời gian gần đây của
nhân loại đã dẫn đến một trạng thái mà các nước cơng nghiệp Phương tây tìm cách miêu tả và định lượng dưới
khái niệm “Tiêu chuẩn đời sống cao“. Ðại lượng đo của nó là tổng sản phẩm xã hội và sự tăng tiến của nó là
châm ngơn của hành động trong một xã hội với sự tăng trưởng liên tục. Trong q khứ thì điều đó được phép và
là chính đáng và nó đáp ứng quan điểm giá trị của phần lớn dân chúng. Sự phê phán từ lâu của khoa học đối với
đại lượng đó ngày càng có thêm ý nghĩa trong đời sống chính trị và xã hội.
Nguyên nhân của sự phê phán đó là sự dần dần nhìn nhận thấy giới hạn của sự tăng trưởng, đó là: sự
khan hiếm về nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng rõ nét hơn, sự đe dọa đến sự tồn sinh qua sự ô nhiễm thiên
nhiên ngày càng cố ý hơn. Cuộc đấu tranh của con người chống lại sự đe dọa của thiên nhiên trước đây thì bây
giờ ngược lại, đó là sự đe dọa thiên nhiên từ con người. Do việc không tôn trọng các mối liên quan về sinh thái
trong việc ứng dụng các điều kiện khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật để làm kinh tế cho nên nó đang có

nguy cơ bị mất nền móng mà bản thân nó đang được xây dựng trên đó.
Song song với điều đó là sự thay đổi trong quan điểm giá trị. Quan điểm cơ bản này thay đổi nhanh
chóng và hình ảnh chung của nó mang tính đa ngun hơn. Thêm vào đó là quan niệm mới về mục tiêu mà
chúng không tuân thủ theo quan điểm xã hội mà nó đã được ngự trị trong nhiều thập niên mà người ta thường
gọi là „Hữu“ và „Tả“. Quan điểm cơ bản này mới thoát ra khỏi sự xếp đặt giữa các vị trí „Tự do, Cá nhân“ và „
XHCN, Tập thể“.


Song quan điểm cơ bản này còn thiếu những đề suất cụ thể và khả dĩ để nó có thể trở thành “Một xã hội
được lựa trọn để thay thế“. Có nhiều cái hiện tại mà nó được đánh giá cao ở góc độ vật chất, sẽ được đánh dấu
hỏi. Những cái đó, mà trong trường hợp cụ thể của một xã hội được lựa chọn thay thế, cũng không thể bỏ qua
được. Ðại lượng tổng sản phẩm xã hội, là thước đo cho tiêu chuẩn cuộc sống, sẽ được thay thế bằng đại lượng
„Chất lượng cuộc sống“. Trong trường hợp đó thì thành quả của cơng nghệ hiện đại và của kinh tế dành cho
phần lớn dân chúng vẫn giữ được giá trị của nó, mặc dù phải tương đối hóa nó và đưa nó vào các chỉ số trong
lĩnh vực tự nhiên và môi trường xã hội, cái mà cho đến nay nó vẫn bị bỏ qua.
Ðứng trước vấn đề này đã có sự sẵn sàng ngày càng cao cho một sự thay đổi. Giữa việc nhận biết của sự
định hướng mới cần thiết trong tổng thể nền kinh tế và hành động của từng ngành kinh tế, cịn có sự trái ngược
nhau đáng kể. Ðặc biệt là hiện tượng “Hiệu ứng bên ngoài“ và “Vấn đề tài sản tập thể“ đang ngăn cản một sự
chuyển biến nhanh những nhận thức về sinh thái trong hoạt động kinh tế, khi mà một nền kinh tế hài hịa với
mơi trường chủ yếu vẫn làm thiệt hại đến mục tiêu lợi nhuận.
Hệ thống sinh thái và hệ thống kinh tế khơng mang tính trung hịa với nhau mà trong thời gian qua đã
trở thành sự mâu thuẫn mang tính tồn sinh của cả hai hệ thống và nó đã trở thành đối tượng bàn luận của cả xã
hội. Sự giảm mâu thuẫn về mục tiêu và kể cả việc tìm kiếm những mục tiêu hài hòa giữa hai hệ thống đó đang là
đối tượng và sự nhận thức của nhiều cố gắng trong chính giới, trong nghiên cứu, trong kinh tế và trong giảng
dạy.
Hệ thống
Kinh tế

Hệ thống
Văn hoá-Xã hội


Hệ thống chính trị
Hệ thống
Kỹ thuật
Hệ thống
Sinh thái

Luật pháp

Sự chuyển hố giá trị
Sự làm ơ nhiễm
làm ơ nhiễm
Sự chuyển hố kỹ thuật


Hình 1.1: Các mối liên quan hệ thống

1.2. Khái niệm cơ bản mang tính lý thuyết hệ thống
1.2.1. Ðặc điểm của hệ thống kinh tế
Một hệ thống được cấu thành bởi các cấu tử và các mối quan hệ giữa chúng với nhau. Các cấu tử trong
hệ thống kinh tế là: yếu tố sản xuất, cán bộ công nhân viên, phương tiện sản xuất (nhà xưởng, máy móc, v.v.) và
vật liệu. Trong hệ thống đó cịn có các mối quan hệ: mối quan hệ làm việc, mối quan hệ dòng chảy vật tư, mối
quan hệ thông tin, mối quan hệ lãnh đạo, các mối quan hệ khác v.v. Ngoài ra cịn có mối quan hệ giữa các hệ
thống với nhau và mối quan hệ với hệ thống bên ngoài.
Hệ thống kinh tế có mối quan hệ ra bên ngồi (là hệ thống ngỏ), ví dụ như: có quan hệ với thị trường
mua sắm, với thị trường cung tiêu. Giới hạn của hệ thống là tại đó, nơi mà mối quan hệ của nó ít nhất. Từ tầm
nhìn mang tính định hướng theo hệ thống thì doanh nghiệp là „Một hệ thống mang tính: ngỏ, động, xã hội và kỹ
thuật“. Hệ thống xung quanh của kinh tế doanh nghiệp là khối lượng tất cả các hệ thống khác. Song, chỉ tính các
đối tượng quan trọng mà từ đó để „Nhận Ðầu vào và đẩy Ðầu ra“ cho nó.
Một hệ thống xung quanh (bao quanh) quan trọng là môi trường tự nhiên. Từ hệ thống này, tài

nguyên dưới dạng là nguyên liệu và năng lượng được tiếp nhận và môi trường cũng là nơi để tiếp nhận
lại Ðầu ra không được mong muốn có.
Một vài đặc tính của hệ thống là:
- Năng động: là mức độ cho sự thay đổi,
- Ðịnh thức: là sự thể hiện số lượng các phản ứng có thể có được.
- Ðịnh hướng mục tiêu: là các hành động trong hệ thống được hướng về mục tiêu,
- Phức hợp: là mức độ chỉ mối quan hệ và sự phụ thuộc của hệ thống,
- Sự cân bằng: là mối tương quan của sự ổn định và của sự không ổn định. Ðó là khả năng để trở lại sự
cân bằng sau khi có sự cố.
- Sự thích ứng: là khả năng phản ứng đến sự thay đổi các thông số.

Hệ thống xung quanh


Hệ thống xung quanh

E11

E12

E32

E31

E13

E41
E22
E21


E23

Hình 1.2.1: Thành phần và mối quan hệ trong hệ thống
Hệ thống kinh tế lớn lên, co lại, phân ly, biến mất, đều chịu sự bài trí của con người (hệ thống nhân
tạo), nhưng nó cũng có sự ảnh hưởng mang tính độc lập. Hệ thống kinh tế là:


- Ðộng: Các quá trình hoạt động trong hệ thống được gọi là động năng nội tại . Nó tác động đến một sự
thay đổi liên tục của cấu trúc hệ thống. Cũng tương tự như vậy, có sự tồn tại động năng ngoại vi với hệ thống
môi trường. Sự thay đổi được tạo nên từ nội tại quá trình thích ứng của hệ thống kinh tế cũng như ngược lại, từ
sự thay đổi của hệ thống kinh tế đến hệ thống xung quanh.
Ví dụ:
* Sự thay đổi trong hệ thống doanh nghiệp:
Các sự thay đổi độc lập trong hệ thống mục tiêu như: đầu tư, nâng cao sản xuất, sự thay đổi trong nhân
sự, sự thay đổi về phương pháp mới, sự thay đổi về bài trí sản phẩm và về công nghệ phù hợp với môi trường.
* Sự thay đổi trong hệ thống do bên ngồi gây nên:
Thích ứng sản xuất theo sự thay đổi về nhu cầu đầu tư trên cơ sở tiến bộ kỹ thuật, sự thay đổi về sản
phẩm và phương pháp trên cơ sở yêu cầu của luật pháp.
* Sự thay đổi trong môi trường xung quanh xuất phát từ doanh nghiệp:
Quảng cáo về sự thay đổi nhu cầu như: sự phát xạ đã dẫn đến làm ô nhiễm môi trường và dẫn đến sự sa
sút khả năng tái tạo của thiên nhiên.
- Hướng mục tiêu:
Hệ thống có mục đích của hệ thống mà từ đó xác định mục tiêu của hệ thống. Mục tiêu được dẫn dắt từ
mục đích của hệ thống kinh tế (ví dụ: đáp ứng nhu cầu, sinh lợi), ví dụ như: mục tiêu sinh lợi, tỷ lệ thị trường,
mục tiêu doanh thu, giữ được khả năng cạnh tranh. Hệ thống kinh tế được định nghĩa bởi hướng mục tiêu. Sự
quyết định về mục tiêu chịu sự chi phối của tính động năng nội tại và ngoại vi.
- Tính bó buộc
Ðặc điểm của hệ thống kinh tế là nó có ít điều kiện và cơ hội để phản ứng. Nói một cách khác là: sự
phản ứng của hệ thống đến sự thay đổi có thể phong phú, đa dạng nhưng bị giới hạn bởi độ chính xác của sự dự
báo.

Ví dụ:
Ðứng ở góc độ chuyển động thì tàu hỏa là một hệ thống rất bó buộc. Nó có thể chuyển động về phía
trước hay chạy dật lùi. Chuyển động ngang thì bị chặn bởi đường ray. Xe ơtơ có độ bó buộc thấp, bởi lẽ ngồi
việc chuyển động được về phía trước, phía sau, nó cịn chuyển động sang trái, sang phải được. Máy bay thì lại có
thêm độ tự do, đó là nó có thể thay đổi độ bay cao ( ở đây khơng nói đến khả năng bay dật lùi).
- Phức hợp
Hệ thống kinh tế rất phức hợp bởi lẽ một số lượng các thành phần khác nhau trong hệ thống liên kết với
nhau rất phong phú, nhưng lại có mối quan hệ đối chọi và ảnh hưởng lẫn nhau.
- Có sự linh hoạt nhiều hay ít
Với khái niệm linh hoạt là để chỉ khả năng của doanh nghiệp thích ứng với sự thay đổi về các điều kiện
của hệ thống xung quanh mà không phải thay đổi cấu trúc bên trong của doanh nghiệp. Sự linh hoạt của hệ thống
kinh tế điều chỉnh và cho thấy sự phụ thuộc tức thời vào nhiều yếu tố bài trí khác nhau; ví dụ như: sản xuất thiết
bị hay tăng cường sản xuất; cơ cấu tổ chức (nhất là sự bài trí lãnh đạo), chất lượng của hệ thống thơng tin. Mục
tiêu của việc bài trí tổ chức là đảm bảo cho doanh nghiệp có độ linh hoạt cao.
- Có sự ổn định nhiều hay ít (khơng ổn định)
Với khái niệm ổn định là để chỉ đặc tính của hệ thống, mặc dù có sự cố nhưng vẫn có khả năng trở lại
trạng thái cân bằng mới cho các mối quan hệ của hệ thống và như vậy, nó đảm bảo được sự sống còn của hệ
thống.
1.2.2. Ðặc điểm của hệ thống sinh thái
Hệ thống sinh thái có những đặc tính giống như hệ thống kinh tế, đó là có sự phong phú về các yếu tố
sống động và không sống động của tự nhiên trong một mối quan hệ cực kỳ phức hợp. Một mặt thì chỉ cần có một
sự cố nhỏ trong mối quan hệ là có thể phá vỡ tiểu hệ thống sinh thái (rất mất ổn định).
Nhưng mặt khác, tùy thuộc vào điều kiện bên ngoài, nó lại lập lại sự cân bằng mới với thời gian thích
nghi khác nhau. Liệu rằng điều đó có đáp ứng được quan điểm mục tiêu của con người hay khơng thì đó là
chuyện khác. Hệ thống sinh thái cũng có khả năng xử lý các yếu tố gây ảnh hưởng và thiết lập lại sự cân bằng
trước đây (khả năng tái tạo tự nhiên).


Hình 1.2.2. Chu trình sinh học
Các định luật quan trọng là: định luật tiến hóa (sự phát triển tự nhiên đến hình thái sống cao hơn), định

luật lựa chọn (sự đào thải tự nhiên), định luật về sự sống, định lý về Entropie. Theo định lý số 2 của lý thuyết
nhiệt động học thì: từ năng lượng hữu ích để trở về Entropie thì theo đó, năng lượng hướng về một trạng thái là
sự phân tán đều trong không gian với một sự tập trung thấp. Từ đó dẫn đến luận điểm về sự xụp đổ, về cái chết,
và về sự hủy diệt hệ thống. Ðiều đó đối chọi với quan điểm của sự sống là: tất cả các sinh vật sống cho thấy là
„Hình thái và chức năng của nó được bảo tồn thơng qua sự trao đổi năng lượng và trao đổi vật chất với mơi
trường của nó“.
Sự tiến hóa và sự phong phú của các hình thái sống của vùng sinh thái là một bằng chứng để nói rằng:
định lý Entropie khơng đúng đối với hệ thống sống. Theo đó thì dưới tác động của ánh sáng mặt trời, các chu
trình tự nhiên liên tục đạt được trạng thái cân bằng mới và tuân thủ theo định luật tiến hóa và định luật đào thải
tự nhiên để đạt được hình thái sống cao hơn. Hình 1.2.2. thể hiện các yếu tố và mối quan hệ quan trọng đó của
chu trình tự nhiên.
Câu hỏi quyết định ở đây là: xã hội con người giao phó chức năng gì cho mơi trường tự nhiên? Từ đó sẽ
dẫn dắt các mục tiêu được đặt ra đối với môi trường và các mục tiêu đó chắc chắn là mâu thuẫn với mục tiêu
kinh tế. Ðó là điều mà ngày nay chúng ta đang nói: sự ơ nhiễm mơi trường, sự hủy diệt môi trường.
1.2.3. Về mối tương quan giữa hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái
Về đặc tính thì kinh tế và sinh thái là hai hệ thống họ hàng gần gũi nhau. Cả hai đều là các hệ thống vĩ
đại, rất phức hợp và trong đó nó có sự phụ thuộc mà rất khó có thể nhìn thấu suốt được. Cả hai hệ thống đều có
định luật riêng và cả hai đều khó có thể điều hành trực tiếp được. Sự cân bằng kinh tế cũng rất tế nhị và dễ đổ vỡ
và nó cũng khơng khác gì hơn sự cân bằng sinh thái. Hệ thống đó có xu thế tự dao động và có khả năng bùng nổ
(siêu lạm phát) hay gục đổ (suy thối, đói kém). Nói tóm lại: kinh tế trong thực chất thì nó khơng có gì khác là
một hệ thống sinh thái riêng của nó. Hệ thống đó có hàng triệu, hàng triệu con người và những con người đó
được chun mơn hóa cao và những hoạt động của họ phụ thuộc vào nhau bởi nhiều cách (Bonus, Holger, Tự
nhiên, quyển 12/81).
Mỗi một doanh nghiệp có chân trong ba hệ thống mơi trường của nó, đó là: hệ thống xã hội, hệ thống kỹ
thuật, hệ thống kinh tế. Ðã đến lúc mà doanh nghiệp phải lưu ý đến hệ thống sinh thái và đưa doanh nghiệp vào
tổng hệ thống tự nhiên như đã đưa nó vào siêu hệ thống xã hội và kinh tế (Rohn, W. Vượt qua sự đe dọa môi
trường, T. 96f).
Mối quan hệ trao đổi của vật chất/ năng lượng và thơng tin giữa hệ thống kinh tế xí nghiệp và hệ thống
xung quanh khơng chỉ có tác động đến việc đạt được chủ đích của hệ thống . Chủ đích của hệ thống sẽ khơng
được khuyến khích bởi hiệu ứng ngoại vi bất lợi (ví dụ như sự phát xạ). Chính trong sự giải thích về hành động

có hiệu nghiệm đối với môi trường của doanh nghiệp cho thấy là qua bản thân đầu vào và đầu ra của nó đã tự
làm thay đổi bản thân hệ thống doanh nghiệp và hệ thống xung quanh của nó như nhau.
Khả năng khai thác và khả năng tiếp nhận của môi trường tự nhiện là có hạn. Hiện nay, song song với
điều nêu ở trên là sự địi hỏi đến mơi trường cho hai chủ đích trên để có sự tận dụng cạnh tranh. Ví dụ cho nó
được nêu ở đây là: khai thác sử dụng nước để làm nước uống và làm nước tiêu dùng cũng như để nuôi cá và mặt
khác để làm phương tiện vận tải và làm môi trường để tiếp nhận nước thải; sử dụng phong cảnh để nghỉ ngơi, để
làm kinh tế nông nghiệp và trồng rừng và làm nơi chôn lấp phế thải, làm kho chứa chất lỏng và chất khơng phát
xạ; khơng khí để thở và là môi trường để tiếp nhận sự phát xạ.
Doanh nghiệp lấy đầu vào của mình từ mơi trường tự nhiên xung quanh, chuyển hóa bằng sự liên kết
các yếu tố sản xuất để có đầu ra hợp ý (sản phẩm theo chủ đích của doanh nghiệp) và đầu ra không hợp ý (phế
liệu, sự phát xạ). Qua đó, cả một loạt các q trình chuyển hóa vật tư và năng lượng đã được thực hiện. Cuối
cùng là sau khi sử dụng thì từ một đầu ra hợp lý đã trở thành sự dư thừa của tiêu dùng.


Ơ một giới hạn mức độ nhất định, có thể giảm đi lượng dư thừa sản xuất và hàng tiêu dùng hay là lại
đưa nó trở lại dịng chảy vật tư và năng lượng.

Hệ thống

Sinh thái

nguyên
Môi trường tiếp nhận các loại
dư thừa của sản xuất và tiêu dùng

Nguồn
thiên nhiên

tài


Hệ thống Xã hội và Kinh tế

Thiên nhiên
là đầu vào

Ðầu ra không mong muốn có

Các
khác

yếu

tố

Ðầu ra mong muốn có

Hình 1.2.3/1 Mối quan hệ giữa hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái.

đầu

vào


Mục tiêu sinh thái có thể mâu thuẫn hay khơng mâu thuẫn với mục tiêu kinh tế. Ðiều có thể có được là
mục tiêu trung lập. Ví dụ về sự mâu thuẫn về mục tiêu là tất cả các mục tiêu của các q trình mà người ta cho là
nó làm „Ơ nhiễm mơi trường“. Mục tiêu hài hịa (khơng mâu thuẫn) ngày càng được biết đến. Ví dụ về sự hài
hịa của mục tiêu kinh tế như „Giảm phí tổn bằng cách giảm chi phí“. Như vậy nó hài hịa với mục tiêu sinh thái
ở là chỗ „Giữ gìn tài nguyên thiên nhiên“. Giảm phí tổn bằng cách tránh được phế thải và tái tận dụng, tăng tối
đa doanh thu thơng qua các sản phẩm khơng có tác hại cho môi trường.
Nhiệm vụ chủ yếu của nền kinh tế định hướng theo sinh thái bao hàm hai hướng công việc chính là:




thừa
Dư thừa

Dư thừa

Than,
Dầu mỏ
Khí đốt
than
dầu lửa

Năng lượng

CO2
SO2
Năng
lượng
Xỉ, tro

CO

xỉ, phế thải
hữu cơ

Hoá chất
phế liệu


NO


Tia xạ

Năng lượng

Nhiệt năng

Tái sinh
lương thực
vải, sợi
sản phẩm kim
loại, giấy v.v

Phế thải gia đình

Nhiệt năng

Nước thải, phế thải
Các sản phẩm quang hợp

Khoáng vật

Tàng trữ phế thải
ủ phân bùn,v.v
Các sản phẩm Nơng nghiệp

Nhiên liệu hố thạch




Xử lý nhiệt

Xử lý phế thải

Các sản phẩm Nông nghiệp
Chế biến vật liêu
Chuyển hoá năng lượng
Người sử dụng cuối cùng


Hình 1.2.3 2: Dịng chảy vật liệu và năng lượng


- Giảm thiểu hay giới hạn mâu thuẫn mục tiêu hiện đang cịn tồn tại thơng qua việc thích ứng mục tiêu
kinh tế và cách thức hoạt động của nó vào nhu cầu sinh thái, đồng thời gây ảnh hưởng và tác động vào lĩnh vực
sinh thái; ví dụ như: sử dụng các biện pháp nhằm tăng khả năng tái tạo tự nhiên.
- Phát hiện và khuyến khích mục tiêu hịa hợp bằng cơng nghệ mới, bằng thực hiện việc đầu tư phù hợp
với môi trường và bằng việc làm tốt hơn nữa sự chuyển giao cơng nghệ và trí thức, bằng sự tăng cường hệ thống
chỉ đạo nền kinh tế thị trường (giá cả là chỉ số cho sự khan hiếm, kể cả cho sản phẩm là môi trường).
1.3. Sinh thái hóa kinh tế
Tất cả tiền đề lý thuyết và thực tiễn về sự bài trí q trình kinh tế một cách phù hợp với môi trường đều
được thâu tóm dưới tiêu đề sinh thái hố kinh tế. Dưới đó là tất cả mọi sự cố gắng về mặt tổng thể nền kinh tế, về
các tiền đề kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô. Hiện nay các tiêu đề thực tiễn chủ yếu đi vào lĩnh vực kỹ thuật của đối
tượng kinh tế. Cùng với nó là vấn đề công nghệ phù hợp với môi trường, chuyển giao trí thức và chuyển giao
cơng nghệ, cơng nghệ tối thiểu, v.v.
Sinh thái hoá kinh tế
Nhà nước là người ban hành Luật
Nhà nước là thể chế chính trị

Nhà nước là chủ thể king tế
-Thăm dị, khuyến khích nghiên cứu

-Cơ quan môi trường
-Chuyển giao kiến thức công nghệ

-Trao nghĩa vụ

-Bảo chứng

-Giao nộp
Ðiều kiện khung
Mẫu mực
Giác ngộ


Kinh tế tư nhân
Hộ tiêuthụ
tư nhân
Sự ảnh hưởng của hành vi mua
Tín hiệu thị trường
Hành vi mua thay đổi

Hình 1.3: Xuất phát của sự sinh thái hóa kinh tế
Ðể thực hiện được chiến lược cải thiện mơi trường thì cần có chính sách về các chỉ tiêu mơi trường
thơng qua văn bản pháp qui và các hướng dẫn kỹ thuật.Chính sách môi trường và luật pháp môi trường là những
biện pháp nằm trong nội dung „Sinh thái hóa kinh tế“. Sự chuyển biến trong ý thức giác ngộ về môi trường của
tất cả những người tham gia vào quá trình kinh tế cũng như sự phát triển và đưa vào ứng dụng công nghệ và
phương pháp sản xuất mới là điều kiện tiên quyết để thực hiện chiến lược về môi trường. Cuối cùng là bên cạnh
các tầng lớp xã hội cịn có sự quan tâm đến mơi trường của Nhà nước. Trong chức năng hoạt động chính trị của

mình, Nhà nước có tác động đến các doanh nghiệp để họ có chính sách tiếp thị nhằm khai thác tiềm năng nhu
cầu khách hàng định hướng theo môi trường.
1.4. Kinh tế hóa sinh thái
Dưới khái niệm „Hệ thống sinh thái“, người ta hiểu đó là cả một hệ thống các quan hệ đan xen với nhau
của các cấu tử trong hệ thống tự nhiên.
Như vậy người ta cũng có thể tổng hợp được các nội dung của nó lại và cho nó một khái niệm khác, đó
là „Làm kinh tế môi trường“ hay „Học thuyết kinh tế môi trường“. (Alfred Endres: Kinh tế môi trường và kinh tế
tài nguyên thiên nhiên).

Kinh tế sinh thái
Làm kinh tế môi trường thông qua
Kinh tế hố chính sách mơi trường
Bài trí mơi trường thơng qua
Kinh tế nguyên liệu
Kinh tế Nông lâm
Kinh tế hàng không
Kinh tế thuỷ
Kinh tế phong cảnh
Phân tích Phí tổn


Hữu ích
Cân đối năng lượng
Ðánh giá hiệu suất
Cơng cụ kinh tế thị trường
Tăng cường các quá trình tự nhiên
Tao nên thêm những quá trình tự nhiên
Tạo nên qua trình tự nhiên hồn tồn mới

Hình 1.4. Xuất phát điểm của kinh tế hóa sinh thái


Cũng có cách giải quyết vấn đề này một cách khác, song vấn đề ở đây là có sự trợ lực của các cơng cụ
và biện pháp để có sự quan tâm nhiều hơn nữa đến quan điểm mục tiêu sinh thái, cái mà để nó hướng theo các tri
thức kinh tế. Giá trị của các nguyên tắc kinh tế đối với chính sách mơi trường , đối với sự khan hiếm về phương
tiện, sự lưu ý đến mối tương quan phí tổn và lợi ích cũng như đến tình huống sinh thái. Ðiều đó nó có giá trị ở
góc độ của sự lựa chọn các cơng cụ khác nhau và của sự tương quan hóa các u cầu của chính sách mơi trường
cũng như của quan điểm mục tiêu. Sự giới thiệu này có thể được gọi dưới tiêu đề „Kinh tế hóa chính sách mơi
trường“.
Cịn có cách giới thiệu nữa là „Kinh tế hóa sinh thái“. Ta hiểu đó là một số chức năng của hệ thống sinh
thái được tăng cường một cách nhân tạo. Ðiều này có thể xẩy ra với ý đồ kinh tế hay khơng có ý đồ kinh tế. Như
vậy thì mục tiêu của các biện pháp đó có thể là tạo ra được những „Không gian tự do“ cho các hoạt động kinh tế
mà có sự ảnh hưởng đến mơi trường. Dưới đó ta có thể hiểu là tất cả các biện pháp nhằm tăng cường khả năng
hấp thụ và tái tạo của thiên nhiên, (ví dụ như để tiếp nhận sự phát xạ hay để khai thác nguồn nước) và qua đó có
thể giữ nguyên được hiện trạng hay nâng cao khả năng của nó. Tổng quan lại dưới góc độ kinh tế là việc sử dụng
có mục tiêu hệ thống thiên nhiên mà vẫn giữ được hay có sự cải thiện được hệ thống sinh thái.
Ví dụ:
* Tất cả sự tác động vào hệ thống thiên nhiên là nhằm để cải thiện nguồn nước. Việc đó khơng phải chỉ
là việc tu bổ, sửa chữa cho việc xâm thực của con người, mà nó cịn là một sự „Trợ giúp“ đối với thiên nhiên.
* Các biện pháp làm giầu dưỡng khí cho nước mặt ( ví dụ như làm thác nhân tạo, tăng nhanh dòng chảy,
v.v.).
* Bản thân việc nuôi hay cấy gien cũng tạo ra được những đặc tính mới và nó cũng được hiểu là „Kinh
tế hóa sinh thái“.
Ơ góc độ lý thuyết khoa học và lịch sử thì cũng cần phải nêu lên lý thuyết sản xuất và lý thuyết giá trị
của ngành nông học là: chỉ duy có sức mạnh (năng lượng) bên ngồi của thiên nhiên mới là nền tảng của quá
trình tạo nên giá trị.
„ Chìa khóa của lý thuyết sản xuất nằm ở trong tư duy, đó là: các phương tiện kinh tế phải được vận
dụng sao cho thiên nhiên sẵn lòng sản sinh và cung cấp kết quả của nó. Kinh tế hóa tự nhiên sẽ trở thành một q
trình tổ chức của sản xuất“ (Immler, Tự nhiên, T. 318).
1.5. Trên con đường hòa giải giữa kinh tế và sinh thái



Khơng phải chỉ có trên cơ sở các hoạt động mang tính pháp lý và đường lối của Nhà nước, mà hiện nay
ta đã nhìn thấy sự chuyển biến cơ bản về quan điểm của lãnh đạo doanh nghiệp về vấn đề bảo vệ môi trường.
Sau giai đoạn ra các luật lệ thì bây giờ đến lúc tăng cường việc thực hiện luật pháp. Ðiều đó đã mang lại cho
doanh nghiệp những yêu cầu mới trong quá trình ra quyết định. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải lưu ý
nhiều hơn đến mục tiêu môi trường từ những motip nội tại: Bảo vệ môi trường là một cấu thành của hệ thống
mục tiêu, là cơ hội về thị trường cho sản phẩm phù hợp với môi trường, là sự giảm phí tổn bằng phương pháp
phù hợp với mơi trường, là giảm trách nhiệm bồi thường, là các lý do về danh tiếng v.v.
Thực chất thì ý kiến của cơng luận rõ ràng là có khác nhau về mức độ của sự lưu ý đến lợi ích mơi
trường.
Một điều hiện nay có thể nhận định được là: chủ yếu các doanh nghiệp đang ở trạng thái thụ động; nó
mang tính chất đối phó trong chính sách mơi trường của mình (là việc phải thực hiện các qui định), chủ yếu là
trong chính sách cơng nghệ. Cho đến nay vẫn cịn thiếu một phương án quản lý khép kín cho lãnh đạo doanh
nghiệp phù hợp với môi trường để làm cơ sở lâu dài cho chiến lược doanh nghiệp và chiến lược tiếp thị. Qui chế
Liên minh Châu Âu về Hệ thống quản lý môi trường đã cho một phương án quản lý theo tiêu chuẩn cho sự quản
lý doanh nghiệp phù hợp với mơi trường. Với việc chuyển hóa Qui chế của Liên minh Châu Âu thành Luật của
Quốc gia trong năm 1995 thì trong tương lai sẽ có sự chuyển biến mạnh mẽ và tích cực của các doanh nghiệp
theo hướng môi trường.
Ðối với luận điểm „Giới hạn của sự tăng trưởng“ thì có luận điểm „Tăng trưởng của giới hạn“. Một điều
cơ bản là: một sự tăng trưởng sản xuất hàng hóa với một sự địi hỏi đến mơi trường khơng tăng lên hay có sự
giảm đi là một điều có thể nghĩ đến được. Khai phá tài nguyên mới, thay thế các yếu tố môi trường khan hiếm,
giảm việc sử dụng vật liệu và năng lượng, tối đa hóa chu trình vật liệu và năng lượng và tránh được sự ơ nhiễm
mơi trường. Ðó là những vấn đề kỹ thuật và kinh tế. Ðể giải đáp các vấn đề đó thì có thể chấp nhận được luận
điểm „Tăng trưởng của giới hạn“. Nhiệm vụ của chính sách mơi trường trong tương lai phải là sự hiện đại hóa
mang tính sinh thái nền kinh tế quốc dân, là sự hòa giải giữa kinh tế và sinh thái; bởi lẽ, có giải pháp thay thế
cho xã hội cơng nghiệp, song khơng có giải pháp thay thế cho mơi trường“ (Huber, Josef, Kẻ vô tội của sinh thái,
T.10).


Câu hỏi ôn tập Chương I

1. Nêu những yếu tố tiêu biểu, đặc trưng của hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái.
2. Nêu những mối quan hệ tiêu biểu giữa các yếu tố trong hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái.
3. Hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái cho thấy những đặc tính gì?
4. Nêu ví dụ về q trình sụp đổ và q trình bung ra trong hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái.
5. Nêu ví dụ về q trình động trong hệ thống „Xí nghiệp“ và từ đó hình thành sự thay đổi ( thích ứng) trong hệ
thống xung quanh, đặc biệt là trong hệ thống xung quanh tự nhiên.
6. Nêu ví dụ về q trình động trong „Hệ thống tự nhiên“ và từ đó hình thành sự thay đổi (thích ứng) trong hệ
thống kinh tế.
7. Về cơ bản thì hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái có thể xử sự với nhau như thế nào? Nêu một vài ví dụ.
8. Nêu một số ví dụ về „Kinh tế hóa sinh thái“ và bạn thấy có những khả năng gì?
9. Hãy nêu ví dụ về“ Sinh thái hóa kinh tế“ và bạn thấy có những khả năng gì?
10. Hãy bình luận quan điểm chính trị chung về „Sự hòa giải giữa sinh thái và kinh tế“.
..................................................


Tài liệu tham khảo
1. Endres, Alfred „Kinh tế môi trường và kinh tế nguồn tài nguyên“. Darmstadt, 1985
2.de Haas, Jan- Pelgrom. Quản lý- Triết học trong sự căng thẳng giữa sinh thái và kinh tế. Bergisch Gladbach/
Kửln 1989
3. Hempfling, Reinhold. Phân tích mạo hiểm là cơng cụ để đánh giá sự nguy hại đến môi trường và đến con
người qua hóa chất mơi trường. 1992
4. Hopfenbeck, Waldemar.Quản lý và tiếp thị định hướng theo môi trường.
Landsberg/ Lech1990
5. Immler, Hans. Thiên nhiên trong lý thuyết kinh tế. Opladen 1985
6. Immler, Hans. Từ giá trị của thiên nhiên. Opladen 1989
7. Kichgeorg, Manfred. Hành vi doanh nghiệp định hướng theo sinh thái. Wiesbaden 1990
8. Leipert, Christian.Hậu quả phí tổn về sinh thái của nền kinh tế... Mỹnchen 1992
9. Oberholz, Andreas. Lãnh đạo doanh nghiệp định hướng theo môi trường. Frankfurt/Main 1990
10. Pfriem, Reinhard. Chính sách doanh nghiệp trong triển vọng xã hội và sinh thái. Marburg 1995
11. Simonis, Ernst Udo. Sự chuyển biến cơ cấu của nền kinh tế và sự giải phóng cho môi trường. Trong Steger

Ulrich:sổ tay BVMT, Mỹnchen1992
12. Strebel, Heinz. Mơi trường và kinh tế xí nghiệp, Mơi trường tự nhiên là đối tượng... Mỹnchen 1992
13. Tiebler, Petra. Xu hướng môi trường trong hành vi tiêu dùng. Mỹnchen 1992
10. Ulrich, Hans Bern, Doanh nghiệp là một hệ thống xã hội và sản xuất. Bern, Stuttgart 1970
15. Wagner, Gert Rainer.Doanh nghiệp và môi trường sinh thái. Mỹnchen 1990
Chương II
Môi trường là yếu tố sản xuất


Hệ thống kinh tế
Hệ thống sinh thái
Tự trang trải phí tổn về mơi trường
Có xuất hiên hiệu ứng ngoại vi
Mơi trường là tài sản tự do
Sự khan hiếm định xuất
Môi trường là tài sản tập thể

Sự khan hiếm tích tụ
Ðầu vào thiên nhiên
Ðầu ra khơng mong muốn có
Hay là
Hay là
Là môi trường lấy đi
Là môi trường trở lại



2.1. Môi trường trong thuyết kinh điển về sản xuất và phí tổn
Lý thuyết sản xuất và phí tổn nghiên cứu sự phối hợp các yếu tố sản xuất. Trong thuyết kinh điển của hệ
thống Gutenberg thì chỉ phân biệt các yếu tố cơ bản là: lao động, phương tiện sản xuất và vật liệu. Những suy

nghĩ cận đại có đưa thêm các yếu tố khác nữa vào, như: yếu tố công tác tư nhân và yếu tố công tác công cộng,
yếu tố thông tin, v.v. Môi trường tự nhiên trong hệ thống yếu tố của Gutenberg chỉ được lưu ý trong chức năng
là người cung cấp tài nguyên thiên nhiên, ví dụ như trong vai trị của yếu tố „Vật liệu“.
Trong định nghĩa về đặc điểm của một yếu tố sản xuất thì Gutenberg đã nêu là „Khơng thể thiếu được
trong việc tạo nên thành tựu“. Ðiều đó đúng với môi trường ở nội dung là nơi khai thác nguyên liệu và năng
lượng và đúng cả ở nội dung môi trường là nơi tiếp nhận lại các loại phế thải ở các dạng cứng, lỏng, khí và tia
phóng xạ cũng như tiếng ồn.
Nguyên nhân của sự không lưu ý đến “Môi trường là một yếu tố sản xuất“ chủ yếu là ở chỗ, đã coi môi
trường tự nhiên là một sản phẩm tự do. Với quan điểm là: không phải lưu ý đến yếu tố sản xuất, nếu như nó
khơng phải là khan hiếm- có nghĩa là nó khơng có giá trị kinh tế và việc khai thác và việc sử dụng nó khơng gây
nên phí tổn cho nền kinh tế xí nghiệp.Vì lẽ đó nên mơi trường đã không được đưa vào lý thuyết sản xuất và lý
thuyết phí tổn.
Bây giờ thì sự địi hỏi đến mơi trường ngày càng tăng và môi trường đã trở thành một ngành kinh tế với
sự phí tổn đáng kể. Sự khiếm khuyết trong lý thuyết kinh điển ngày càng được bộc lộ rõ nét. Tuy vậy, vấn đề này
có thể xử lý được từng phần mà chưa cần đến sự thay đổi về lý thuyết, bởi vì sự địi hỏi đến môi trường được thể
hiện bằng việc gia tăng giá cả của các yếu tố sản xuất là „Phương tiện sản xuất“ và là „Vật liệu“. Ngay bản thân
giá cả của yếu tố sản xuất „Lao động“ cũng có thể chứng minh một cách gián tiếp là hiệu ứng „Môi trường“. Ví
dụ như: vì lý do ơ nhiễm khơng khí cho nên số người ốm đau tăng và sự đòi hỏi của mơi trường được thể hiện
bằng việc tăng phí tổn trong quĩ lương.
Ơ đây cịn có hiệu ứng ngoại vi được phát sinh. Ðó là việc: người khơng gây ra sự ơ nhiễm khơng khí
cũng phải gánh chịu sự tăng phí tổn trong lương. Hiệu ứng này cũng có giá trị đối với các yếu tố sản xuất khác,
bởi lẽ ở đó cũng có hiệu ứng ngoại vi tác động đến. Giá cả tăng là do các điều kiện môi trường đã đụng chạm
đến tất cả những người có nhu cầu về“ Ðầu vào“ và nó khơng phụ thuộc vào mức độ và thể thức của sự địi hỏi
đến mơi trường mà do các yếu tố Ðầu vào mang lại.
Hiệu ứng ngoại vi càng lớn thì u cầu địi hỏi của môi trường là một yếu tố sản xuất quyết tốn được
càng tăng, hay nó đi vào sự thay đổi về yếu tố giá cả trong từng ngành kinh tế một lại ít đi. Ðiều này có giá trị ở
mức độ tối thiểu là: phí tổn ngoại vi của sự địi hỏi mơi trường sẽ được thực hiện theo ngun tắc „Cùng gánh
chịu chung“ và nó được phân bổ cho các đối tượng có liên quan. Có một điều khơng làm được, đó là phí tổn
ngoại vi của chủ thể kinh tế gây tác động môi trường được phân bổ cho chủ thể kinh tế khác mà từ đó nó dẫn
đến sự thay đổi về kết cấu phí tổn.

Ðứng trên bình diện tổng thể của nền kinh tế thì các sản phẩm quan trọng của môi trường đối với sản
xuất đã từ lâu khơng cịn là sản phẩm tự do nữa. Xong, để nó là một ngành kinh tế thì điều đó cịn thiếu đặc tính
về phí tổn. Chỉ một khi phí tổn cho u sách của mơi trường được phân bổ theo nguyên tắc „Ai gây nên, người
đó chịu“ một cách cơng bằng thì nó mới đem lại sự thay đổi về tư duy trong lý thuyết sản xuất và phí tổn. Ðiều
đó sẽ được thực hiện một phần bằng sự thay đổi yếu tố giá cả cho các yếu tố cơ bản kinh điển. Ngoài ra, cần
phải coi môi trường là một yếu tố sản xuất và đưa nó vào lý thuyết sản xuất và phí tổn.
Khác với tất cả các mơ hình về lý thuyết sản xuất và giá trị, thiên nhiên đã được coi là một yếu tố sản
xuất trong ngành nông nghiệp ở thế kỷ 18. Hans Immler đã dẫn dắt trong sách của mình như sau: “ Ðó là một
phát minh về lý thuyết kinh tế và kinh tế chính trị của nhà canh nông mà đặc biệt là của Quesnays. Trong
phương án của họ về kinh tế, họ đã nhìn nhận thấy thiên nhiên là một sức sản xuất. Họ đã khẳng định rằng:
* Thứ nhất là sức sản xuất của thiên nhiên chính là sức mạnh vật lý và vật chất.
* Thứ hai là một sự tận dụng có hệ thống và kinh tế sức sản xuất của thiên nhiên đã cho tiền đề để hình
thành về lý thuyết sản xuất.
* Thứ ba là sự suy nghĩ về sự bảo tồn và chăm sóc các điều kiện sản xuất thiên nhiên.
Tất cả các điều đó đã chứng minh cho lý thuyết cơ bản về tái sản xuất vật chất. Nói một cách chặt chẽ
theo quan điểm của nhà nơng thì chỉ có ngoại cảnh tự nhiên mới có thể „Sản sinh ra giá trị mới“; ngắn gọn mà
nói là: „Thiên nhiên sản xuất và con người hỗ trợ vào“. Chìa khóa cho lý thuyết sản xuất nằm trong sự suy nghĩ
là: phải sử dụng tất cả các phương tiện kinh tế, sao cho thiên nhiên sẵn sàng sản xuất và cung ứng sản phẩm.
Kinh tế hóa thiên nhiên sẽ trở thành quá trình tổ chức của sản phẩm“ (Immler, Tự nhiên trong lý thuyết kinh tế,
trang 318).


2.2. Môi trường là Ðầu vào
Việc tiếp nhận các sản phẩm quang hợp và khống vật của mơi trường thiên nhiên với chủ đích cho sự
chuyển hóa trong q trình kinh tế được giới thiệu trong hệ đầu vào kinh điển là vật liệu và phương tiện sản xuất.
Thế nhưng sự địi hỏi của mơi trường đến yếu tố giá cả được lưu ý đến mức độ nào thì cuối cùng cũng đành bỏ
ngỏ. Song, có thể mạn phép cho rằng: xu hướng là tuỳ thuộc vào phí tổn trong khai thác và nó được coi là mốc
thang để tính giá cả chứ khơng phải là sự dự tốn về sự khan hiếm hay thực chất nó là sự địi hỏi của môi trường.
Việc sử dụng môi trường cho đến nay chủ yếu vẫn khơng mất tiền (khơng phí tổn). Chỉ có điều là phí
tổn cho việc khai thác ngày càng tăng do đã mất sự dồi dào về nguồn dự trữ; phí tổn cao lên do sự điều chỉnh đền

bù và phần nhiều do các yêu cầu trách nhiệm của các biện pháp phòng ngừa nhằm ngăn chặn hay giảm thiệt hại.
Ngồi ra, phí tổn cho địi hỏi của mơi trường là đất, là phong cảnh, là khơng khí, là nước để tiếp nhận phế thải
của sản xuất và tiêu dùng. Tất cả các cái đó đã đội yêu cầu lên và với nó là phí tổn. Ví dụ cho nó như:
* Tăng yêu cầu xử lý phế thải rắn (phế thải đặc biệt, kỹ thuật chôn lấp),
* Tăng yêu cầu về xử lý nước thải (thêm mốc lọc, khử, lệ phí nước)
* Tăng yêu cầu trong việc lọc khí thốt và chống ồn.
Tuy vậy, trong khai thác yếu tố đầu vào và trong việc tận dụng môi trường là nơi chốn tiếp nhận các
loại phế thải vẫn chưa đưa vào sổ sách kế tốn được bởi lẽ cịn có sự vênh giữa từng vùng lãnh thổ và thậm chí
giữa các quốc gia.
2.3. Mơi trường là nơi tiếp nhận Ðầu ra
Trong mục 2.2 đã nêu lên chức năng của môi trường là „Người cung cấp yếu tố đầu vào“, là các phương
tiện sản xuất và vật liệu, thì đồng thời môi trường cũng làm nhiệm vụ là nơi tiếp nhận đầu ra. Trong bảng cân đối
về nguyên liệu và năng lượng của q trình sản xuất trong xí nghiệp thì phế liệu và chất phát xạ độc hại là đầu
ra. Theo nhận thức về đối tượng của học thuyết kinh tế xí nghiệp thì sự quan sát này trước tiên đi thẳng vào danh
mục đầu ra không mong muốn có. Ðó là: phế thải ở thể cứng, thể lỏng và thể khí; là tia phóng xạ, là tiếng ồn, là
sự tỏa nhiệt và sự chấn động. Những cái đó đi liền với việc tạo ra sản phẩm cũng như với sự tái tạo giá trị. Trong
khi những đầu ra được mong muốn có có thị trường và nó cho doanh thu thì những đầu ra khơng mong muốn có
lại phải trả lại cho môi trường tự nhiên.
Môi trường là nơi tiếp nhận cho đầu ra không mong muốn

Liên kết

Biến đổi
Thị trường là nơi tiếp nhận cho đầu ra mong muốn có

-Hiệu suất tư nhân
-Hiệu suất Nhà nước
-Thơng tin

Các yếu tố cơ bản:



×