Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VI MÔ VỚI CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.13 KB, 6 trang )

VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VI MÔ VỚI CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO
BỀN VỮNG HIỆN NAY
Sau gần 30 năm mở của và hội nhập, giảm nghèo vẫn là một chủ trương lớn và quan
trọng phát triển kinh tế - xã hội ở từng khu vực nói riêng và ở bình diện quốc gia nói chung.
Trong đó, bên cạnh việc xóa đói giảm nghèo cùng cực, thì việc giảm nghèo bền vững cũng
là một yêu cầu trọng tâm then chốt.
Không có khái niệm cụ thể về giảm nghèo bền vững, nhưng ta có thể hiểu giảm
nghèo bền vững là việc Nhà nước và các cơ quan chức năng cung cấp cho người nghèo cũng
phương thức phát triển mới mà tự họ không thể tự tiếp cận và duy trì, bên cạnh đó là hỗ trợ
trong việc ngăn ngừa và loại trừ các yếu tố gây rủi ro, chứ không chỉ khắc phục hậu quả sau
rủi ro. Để họ có thể tự lập trong tăng thu nhập và tăng mức độ hưởng thụ trong các dịch vụ
xã hội khác, mà không phải dựa vào các biện pháp thoát nghèo nhanh như tặng nhà, tặng
phương tiện sống… Và đặc biệt, sự hỗ trợ giảm nghèo này phải được xác lập trên nguyên
tắc ưu tiên các vùng có khả năng, điều kiện thoát nghèo nhanh và có thể lan tỏa ra các vùng
lân cận.
Công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam đã trả qua 4 giai đoạn : 1998-2000; 20012005; 2006-2010; 2011-2015, và đang hướng đến công cuộc mới 2016-2020, trong những
năm đó Đảng và Nhà nước ta đã đạt được nhưng thành tựu đáng kể về phát triển kinh tế - xã
hội và giảm nghèo bền vững, góp phần quan trọng trong các thành tựu đó thì không thể
không kể đến công tác của hệ thống tài chính vi mô.
Hệ thống tài chính vi mô là gì?
Khái niệm về tài chính vi mô được rất nhiều nhà kinh tế và các tổ chức đưa ra, nhưng
tổng hợp lại ta có thể hiểu tài chính vi mô là một cách thức phát triển kinh tế thông qua việc
cung cấp các dịch vụ tài chính như tín dụng, gửi tiết kiệm, lương hưu, bảo hiểm, và các dịch
vụ khác cho những đối tượng có thu nhập thấp trong xã hội để phục vụ nhu cầu chi tiêu và
đầu tư.
Hệ thống tổ chức tài chính vi mô giữ vai trò quan trọng quá trình phát triển kinh tế xã hội. Về bản chất, tổ chức tài chính vi mô có vai trò song song về cả tài chính và xã hội.
Về khía cạnh tài chính, các tổ chức tài chính vi mô là các trung gian điều hòa giữa
người dư thừa tiền mặt (là người gửi tiết kiệm) với người cần tiền mặt (là người đi vay), họ
thông qua các tổ chức này để thỏa mãn nhu cầu của mình mà vẫn đảm bảo chi phí thấp nhất.
Thông qua quá trình cung cấp các dịch vụ tài chính, các tổ chức tài chính vi mô thực hiện
chức năng huy động tiết kiệm; tái tiết kiệm phân bổ cho đầu tư; và tạo điều kiện thuận lợi


cho trao đổi thương mại hàng hóa và dịch vụ, trở thành một công cụ đắc lực để giảm nghèo
đói và tăng thu nhập.


Về khía cạnh xã hội, các tổ chức tài chính vi mô tạo ra cơ hội cho người nghèo người có thu nhập thấp tiếp cận được với dịch vụ tài chính, tăng cường năng lực xã hội, hỗ
trợ và cũng là động lực khuyến khích sự tham gia của họ vào việc nâng cao sản xuất, tự lập
tài chính và nỗ lực vươn lên, loại bỏ sự ỷ lại, trông chờ vào các chính sách ưu đãi “cho
không” của Nhà nước.
Thực trạng hoạt động của hệ thống tài chính vi mô trong công tác xóa đói giảm
nghèo bền vững ở Việt Nam
Tổ chức tài chính vi mô ngày càng phổ biến và rộng rãi trên khắp cả nước, tính đến
nay Việt Nam có trên 100 tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô thuộc 3 khu vực: Khu
vực chính thức (gồm, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng chính sách xã hộiNHCXH và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn); khu vực bán chính thức
(gồm, các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước và chương trình của các tổ chức xã
hội) và khu vực phi chính thức. Tài chính vi mô cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng (cho
vay, tiết kiệm, bảo hiểm, giáo dục tài chính cho khách hàng lập ngân sách và tiết kiệm, hỗ
trợ tài chính kịp thời cho khách hàng gặp khó khăn), giúp người nghèo hoạt động sản xuất
kinh doanh. Đồng thời, góp phần giúp người nghèo tránh, giảm rủi ro về kinh tế và cuộc
sống, từ đó, tăng thu nhập hộ gia đình.
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng về giảm
nghèo, cải thiện chất lượng cuộc sống người dân thông qua việc thực hiện đồng loạt các
chương trình trọng điểm, duy trì mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo…
Cụ thể trong giai đoạn 2005-2010: tỷ lệ hộ nghèo giảm dần từ 22% vào năm 2005,
xuống còn 9,45% vào năm 2010 với chuẩn nghèo tương ứng. Trong giai đoạn 2011- 2015:
áp dụng chuẩn nghèo mới thì tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 14,2 % (năm 2010) xuống còn 4,5%
(năm 2015).


16.00%
Tỷ lệ hộ nghèo cả nước


14.20%
14.00%
11.76%

12.00%

9.60%

10.00%

7.80%

8.00%

5.97%

6.00%

4.50%
4.00%
2.00%
0.00%

2010

2011

2012


2013

2014

2015

Biểu

đồ 1: Tỷ lệ hộ nghèo của quốc gia giai đoạn 2010 -2015
Nguồn: Trang thông tin quốc gia về giảm nghèo bền vững . Ghi chú: Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo
được quy định tại Quyết định 09/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ v/v ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ
cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015 (400.000đ/người/tháng ở khu vực nông thôn;
500.000đ/người/tháng khu vực thành thị)

Biều đồ trên đã cho ta thấy những con số đáng được ghi nhận trong công cuộc giảm
nghèo quốc gia cũng như tốc độ và hiệu quả của quá trình giảm nghèo bền vững, bên cạnh
đó công tác tài chính vi mô cũng là yếu tố quang trọng góp phần không nhỏ để tạo nên
những thành tựu trên.
Bảng 1: Số liệu về công tác hoạt động giảm nghèo của NHCXH
Đơn vị: triệu người
Chỉ tiêu
Lượt khách hàng được vay vốn

2011

2012

2013

2014


11,4

21,4

23,4

25,6

Tạo việc làm

2,5

2,6

10

11

Sinh viên vay vốn

2,4

3

3

3,7

Số hộ vượt ngưỡng nghèo


2,5

2,9

3,2

3,8

Nguồn : Báo cáo thường niên NHCXH


160,000
136,450

140,000
122,260
120,000
107,087

129,456

129,210
121,699
113,921

103,731

100,000
80,000

60,000
40,000
20,000
-

Tổng nguồn vốn hoạt động của NHCSXH
2011
2012

Tổng dư nợ cho vay các chương trình tín dụng
2013
2014

Biều đồ 2: Tổng nguồn vốn và dư nợ cho vay tín dụng hộ nghèo của NHCXH
Đvt: tỷ đồng
Nguồn: Báo cáo thường niên NHCXH

Như trên Bảng 1, và Biểu đồ 2 ta có thấy được, tổng dư nợ và tổng nguồn vốn của
Ngân hàng chính sách xã hội ngày càng lớn, và tăng đều đặn với tốc độ ổn định trong nhiều
năm. Năm 2014, tổng dư nợ cho vay đạt 129.456 tỷ đồng, gấp trên 18 lần so với thời điểm
thành lập (năm 2003), tốc độ tăng trưởng bình quân năm đạt trên 20%.
Đồng thời vốn tín dụng chính sách trong 13 năm qua đã góp phần giúp trên 25,6 triệu
lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn và tiếp cận với
hệ thống tài chính vi mô. Giúp đỡ hơn 3,8 triệu lượt học sinh, sinh viên nghèo vượt khó
được vay vốn học tập; thu hút, tạo việc làm cho trên 11 triệu lao động. Và đáng kể là việc
góp phần giúp 3,8 triệu hộ nghèo vượt ngưỡng nghèo.
Mặc dù, có những thành tựu đóng góp đáng kể nhưng hệ thống tài chính vi mô ở
nước ta vẫn còn chậm phát triển, chưa thực sự thu hút được nhiều sự quan tâm của các cơ
quan quản lý Nhà nước chính quyền địa phương, các nhà tài trợ và các tổ chức liên quan.
Hành lang pháp lý vẫn còn nhiều khoảng trống, một số quy định vẫn chưa thực sự phù hợp

(như về quản trị điều hành, lãi suất, tỉ lệ đảm bảo an toàn, bảo hiểm vi mô…) cũng phần nào
cản trở khả năng hoạt động của hệ thống tài chính vi mô. Ngoài ra, cũng do những nhân tố
nội tại trong hệ thống, như việc thực hiện các đề án còn chậm trễ, tính liên kết nội bộ giữa
các tổ chức tài chính vi mô còn lỏng lẻo, thiếu cơ chế phối hợp hiệu quả.


Giải pháp trong việc tổ chức, hoạt động cho hệ thống tài chính vi mô ở Việt
Nam
- Về nâng cao nhận thức:
Tài chính vi mô có rất nhiều hoạt động, không chỉ cung cấp dịch vụ tín dụng mà còn
các dịch vụ thanh toán, bảo hiểm, các dịch vụ xã hội… vậy nhưng đến nay, rất nhiều người
vẫn còn nhầm lẫn tài chính vi mô với tín dụng vi mô. Mặt khác, việc cung cấp các dịch vụ
tài chính và dịch vụ xã hội không phải là một hoạt động từ thiện. Đặc trưng của tài chính vi
mô là thực hiện hai chức năng: Chức năng xã hội là giúp đỡ những người nghèo; chức năng
kinh tế là phải thu đủ bù chi, tự nuôi sống mình để tồn tại và phát triển. Từ đó, đẩy mạnh
tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tài chính vi mô cũng như tăng cường phổ biến kinh
nghiệm và các mô hình hoạt động tài chính vi mô hiệu quả.
- Về hệ thống chính sách:
Xây dựng môi trường pháp lý đồng bộ, phù hợp với đặc thù của hoạt động tài chính
vi mô như: Hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật; ban hành các chính sách hỗ trợ phù
hợp; chính sách thuế, phí phù hợp; phát triển hoạt động bảo hiểm vi mô theo hướng chuyên
nghiệp;
Xây dựng các chính sách kinh tế vĩ mô thuận lợi cho tài chính vi mô phát triển, trọng
tâm là chính sách lãi suất, lãi suất phải đủ bù đắp được chi phí hoạt động, tình trạng mất
vốn, lạm phát của tài chính vi mô trong quá trình mới thành lập. Còn trong quá trình hoạt
động, khi các tổ chức tài chính vi mô theo đuổi các mục tiêu xã hội, Chính phủ xem xét
miễn thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp. Thêm vào đó, cần phải bổ sung
điều chỉnh những chính sách tài chính vi mô cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn sao cho
phù hợp thiết thực hiệu quả và khả thi;
Kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tài chính vi mô, chính sách giảm nghèo với phát

triển kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh. Thực hiện chính sách hỗ trợ có điều kiện gắn
với đối tượng, địa bàn và thời hạn thụ hưởng nhằm tăng cơ hội tiếp cận chính sách và
khuyến khích sự tích cực, chủ động tham gia của người nghèo. Tăng nguồn vốn tín dụng ưu
đãi cho hộ nghèo, hộ cận nghèo; điều chỉnh đối tượng, mức vay, lãi suất, thời hạn cho vay
phù hợp gắn với chính sách khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư, chuyển
giao khoa học kỹ thuật, xây dựng, nhân rộng mô hình thoát nghèo gắn kết với cộng đồng
dân cư trên địa bàn;
- Về phương thức hoạt động:
Lồng ghép các hoạt động tài chính vi mô vào các chương trình khuyến nông, khuyến
lâm, khuyến ngư và các hoạt động của các hội, đoàn thể;


Các tổ chức tài chính vi mô cần có sự trợ giúp ban đầu của Chính phủ và các nhà tài
trợ, khi mà các tổ chức tài chính vi mô chưa có khả năng huy động tiết kiệm;
Cần phải minh bạch, công khai về tài chính: Một trong những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng người nghèo bị tính lãi suất quá cao khi vay vốn, là do các tổ chức tài chính vi mô
đưa ra các khoản phí được tính thêm làm cho lãi suất các khoản vay tăng cao.
- Về tổ chức thực hiện
Chính phủ và các cơ quan ban ngành chức năng cần thúc đẩy hơn nữa cơ chế hoạt
động của các tổ chức tài chính vi mô; đồng thời, tạo ra một thị trường cạnh tranh công bằng
và minh bạch hoạt động cho các tổ chức này như: Sớm hoàn thiện khung pháp lý và tổ chức
hoạt động của hệ thống tài chính vi mô; áp dụng mức lệ phí cấp giấy phép hợp lý trong mối
tương quan với Quỹ tín dụng nhân dân. Xem xét áp dụng chính sách ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp ở cấp độ cao nhất đối với tài chính vi mô; đẩy mạnh hoạt động của hệ thống
tín dụng vi mô tài chính vi mô là nơi nào các ngân hàng thương mại không với tới thì các tổ
chức tài chính vi mô sẽ tiếp cận và giúp đỡ người dân.
Xây dựng hệ thống giám sát kiểm tra cho hoạt động tài chính vi mô. Cần có một tổ
chức như hiệp hội tiến hành thống kê toàn diện về các chương trình tài chính vi mô ở Việt
Nam nhằm cải thiện thông tin về Tài chính vi mô. Đồng thời, giám sát hoạt động và đưa ra
các chuẩn mực so sánh. Thông tin thu nhập được sẽ góp phần hỗ trợ Ngân hàng Nhà nước

và Bộ Tài chính trong việc soạn thảo các thông tư hướng dẫn.
Các tổ chức tài chính vi mô cần tăng cường đầu tư các hoạt động nghiên cứu và phát
triển; Đào tạo nhân lực có chuyên môn về tài chính ngân hàng, quản lý tài chính, chuyên
nghiệp hóa cán bộ; Nâng cao khả năng quản lý vốn và điều hành tổ chức; Tối ưu hóa việc sử
dụng thông tin và hệ thống thông tin quản lý, quản lý rủi ro; Mở rộng các hoạt động quảng
bá sản phẩm tín dụng...
Tài liệu tham khảo

/>


×