Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Giaó dục đại học là hàng hóa công cộng hay tư nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.62 KB, 40 trang )

KINH TẾ CÔNG CỘNG
Chủ đề: Giáo dục đại học Việt Nam hiện nay? Làm thế nào nâng
cao chất lượng đào tạo đại học về mặt quản lý nhà nước.


MỤC LỤC
Phần I: Giới thiệu
Trang
1.
2.
3.
4.
5.

Lý do chọn đề tài:
Mục tiêu nghiên cứu:
Nội dung nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu:

1
2
2
2
3

Phần II: Cơ sở lý thuyết
1.

2.


Hàng hóa Công cộng
1.1 Khái niệm:
1.2 Phân loại hàng hóa Công cộng:
1.3 Cung cấp Hàng hóa công:

3
3
4

Hàng hóa Giáo dục
2.1 Khái niệm
5
2.2 Hàng hóa giáo dục Đại học
6
2.3 Vai trò của nhà nước trong cung cấp hàng hóa
12
*Một số tiêu chí đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước*15

Phần III:Thực trạng giáo dục đại học VN hiện nay
1. Chất lượng các trường Đại học
2. Thực trạng việc xây và ban hành văn bản quy
phạm pháp luật về giáo dục đại học
3. Thực trạng việc xây dựng và kiện toàn bộ máy
quản lý nhà nước về giáo dục đại học
4. Thực trạng việc tổ chức thực hiện pháp luật
quản lý nhà nước về giáo dục đại học.
5. Thực trạng công tác giám sát, kiểm tra, xử lý

16
25

25
26


vi phạm pháp luật
6. Kết quả đạt được và hạn chế bất cập:
6.1
Kết quả đạt được
6.2
Hạn chế bất cập
6.3
Nguyên nhân của hạn chế, bất cập

26
27
27
27

Phần IV: Đề xuất giải pháp
1. Hệ thống GDĐH của Việt Nam cần xây dựng
những cơ chế cụ thể
2. Đổi mới về chất công tác quản lý GDĐH
3. Xây dựng qui trình đào tạo mềm dẻo và liên thông,
đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp giảng dạy
đại học.
4. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ giảng viên
đại học có phẩm chất đạo đức, đủ về số lượng,
có trình độ chuyên môn cao, phong cách giảng dạy
tiên tiến và hiện đại
5. Đổi mới quản lý GDĐH theo hướng tăng quyền

tự chủ, nâng cao trách nhiệm xã hội và thúc đẩy
năng lực cạnh tranh của các trường đại học.
6. Xây dựng một số trường đại học đẳng cấp quốc tế.
Nâng cao sức cạnh tranh của hệ thống GDĐH
trong quá trình hội nhập quốc tế.
Phần V: Kết luận

29
30
31

32
33
34
35

Phần I: Giới thiệu
1. Lý do chọn đề tài:
“ Giáo dục là Quốc sách hàng đầu” Không chỉ ở Việt Nam mà ở
hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Vì vậy mà trong suốt những năm qua Đảng và nhà
nước đã luôn quan tâm và tập trung đầu tư rất nhiều cho nền giáo dục Việt


Nam. Mục tiêu phát triển của Việt Nam đến năm 2020 là, về cơ bản, trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu này,
cần huy động và sử dụng một cách có hiệu quả mọi nguồn lực trong và
ngoài nước. Theo đó, một trong những yếu tố có ý nghĩa then chốt là chất
lượng giáo dục đại học. Bởi trong bất kỳ điều kiện lịch sử nào, trường đại
học luôn là môi trường bồi dưỡng, sáng tạo và chuyển giao những thành

tựu khoa học – công nghệ mới nhất, là đầu tàu trong việc tạo ra nguồn lao
động chất lượng cao phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
Ngày nay cùng với sự phát triển của Kinh tế thì xu hướng phát triển
Giáo dục Đại học và sự thay đổi quan điểm về lợi ích của Giáo dục Đại
học xem sản phẩm của Giáo dục Đại học là một loại hàng hóa. Khác với
các loại hàng hóa thông thường khác, điểm khác biệt của Giáo dục Đại
học là một hàng hóa công cộng, mọi người đều có thể dùng chung một
chương trình Giáo dục được coi là tri thức chung của nhân loại và nhu cầu
hưởng thụ ngày càng cao. Giáo dục cũng có tính chất của phương tiện sản
xuất, có nhiều bất đối xứng thông tin, ngoại tác tích cực và có thuộc tính
Xã hội nhưng lại không bị tác động bởi năng suất lao động. Quan trọng
hơn giáo dục là công cụ hữu ích để thực hiện phân phối lại thu nhập, và
đây là chức năng bao trùm, đảm bảo sự tồn tại và phát triển, hiện thực hóa
quyền bình đẳng về cơ hội vào đời và tạo dựng cuộc sống của mỗi cá
nhân trong xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước là người tham
gia lớn nhất và đóng vai trò quan trọng nhất, vừa là nhà quản lý toàn bộ
nền kinh tế và vừa làm nhiệm vụ trực tiếp cung cấp hàng hóa cho xã hội.
Trong vai trò sản xuất, Nhà nước luôn chịu trách nhiệm thực hiện những
dự án lớn, trong những lĩnh vực đầu tư mạo hiểm và khả năng đầu tư vốn
ban đầu lớn nhưng thu hồi chậm. Sụp đổ của thị trường trong lĩnh vực
giáo dục, có thể dẫn đến phá sản cả một hệ thống kinh tế xã hội, vì vậy rất
cần một hệ thống đại học công lập mạnh tồn tại song song cùng với các
1
trường tư thục.. Một chính sách đúng đắn dành cho giáo dục thì lợi ích
nhận được của cả xã hội sẽ tăng lên trong tương lai, ngược lại, bất kỳ sự
sai lầm nào trong giáo dục thì kết quả không chỉ đem đến những hậu họa
vô cùng nguy hại cho hệ thống giáo dục quốc dân, mà còn ảnh hưởng đến
sự phát triển kinh tế, giữ gìn bản sắc văn hóa, cũng như tinh thần độc lập
tự chủ của cả một dân tộc. Hiểm nguy ấy không nhìn thấy được trước
mắt, mà cái giá vô cùng đắt của nó, có thể nhiều thế hệ mai sau mới trả



được. Dù nền kinh tế có tăng trưởng đến đâu thì cũng không thể dùng tiền
để “mua” được một hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa mang tính nhân
văn, dân tộc, khoa học và hiện đại mà toàn xã hội mong đợi.
2.

Mục tiêu nghiên cứu:
Nhằm mục đích tìm kiếm những giải pháp nâng cao hiệu quả quản
lý,khắc phục các yếu kém về mặt quản lý nhà nước trong các trường đại
học ,rút ra bài học kinh nghiệm để ứng dụng và sử dụng biện pháp quản lý
hiệu quả hơn, tạo đà để nền giáo dục phát triển, mang lại công bằng cho
xã hội, phân phối lại thu nhập, bình đẳng về cơ hội học tập, tạo dựng một
xã hội văn minh…

3. Nội dung nghiên cứu:
Giáo dục Đai học là HH công hay HH tư nhân, Nhà nước sẽ cung
cấp hay tư nhân cung cấp? Hiệu quả? Các chính sách quản lý của Nhà
nước đối với Giáo dục Đại học như thế nào?trường hợp nào thì tư nhân
cung cấp?trường hợp nào nhà nước cung cấp? Phân tích thực trạng GD
ĐH Việt Nam.Đề xuất và những biện pháp quản lý.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Phân tích các tài liệu có liên quan đến đề tài
Phương pháp thống kê, mô tả, báo cáo và vẽ đồ thị

2

5. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài giới hạn trong phạm vi cả nước

Tài liệu tham khảo được lấy từ số liệu của Tổng cục thống kê về Giáo dục
và Bộ Giáo dục- đào tạo Việt Nam đến 2015.

Phần II: Cơ sở lý thuyết


1

Hàng hóa công cộng
1.1

Khái niệm:

Hàng hóa công cộng là những hàng hóa mà việc một cá nhân này
đang hưởng thụ lợi ích do hàng hóa đó tạo ra không ngăn cản những
người khác cùng đồng thời hưởng lợi ích của nó.
Hàng hóa công cộng có hai thuộc tính: Không có tính loại trừ trong tiêu
dùng: hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp thì không thể loại trừ hoặc
rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho việc sử
dụng hàng hóa của mình
Không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng: việc một cá nhân này
đang sử dụng hàng hóa công cộng đó sẽ không ngăn cản những người
khác đồng thời cũng sử dụng nó.

1.2

Phân loại hàng hóa công cộng:

Hàng hóa công cộng có hai loại: Hàng hóa công cộng thuần túy: là
hàng hóa công cộng mang đầy đủ hai tính chất “không có tính cạnh tranh

trong tiêu dùng, không có tính loại trừ trong tiêu dùng”. Hàng hóa công
cộng không thuần túy: là hàng hóa không mang đủ hai tính chất trên.
Trong thực tế, có một số hàng hóa công cộng có đầy đủ hai tính chất
nêu trên như quốc phòng, đèn đường, đài phát thanh.... Các hàng hóa đó
có chi phí biên để phục vụ thêm một người sử dụng bằng 0, ví dụ đài phát
thanh một khi đã xây dựng xong thì nó ngay lập tức có thể phục vụ tất cả
mọi người, kể cả dân số luôn tăng. Tuy nhiên có nhiều hàng hóa công
cộng không đáp ứng một cách chặt chẽ hai tính chất đó ví dụ đường giao
thông, nếu có quá đông người sử dụng thì đường sẽ bị tắc nghẽn và do đó
những người tiêu dùng trước đã làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng
của những người tiêu dùng sau. Đó là những hàng hóa công cộng có thể
3
tắc nghẽn. Một số hàng hóa công cộng mà lợi ích của nó có thể định giá
thì gọi là hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá. Ví dụ đường cao
tốc, cầu... có thể đặt các trạm thu phí để hạn chế bớt số lượng người sử


dụng nhằm tránh tắc nghẽn. Tuy nhiên đó cũng là điều không được mong

muốn.
(ví dụ:cây cầu – hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá nhưng
không được mong muốn) động thấp, nhu cầu lao động qua đào tạo đã và
đang ngày càng tăng lên cả về lượng và chất

1.3

Cung cấp hàng hóa công:

Có 2 hình thức : Cung cấp tư nhân và cung cấp công cộng
Cung cấp công cộng được cung cấp với những hàng hóa công cộng

thuần túy còn gọi là “kẻ ăn không” Có những hàng hóa công cộng mà chi
phí để duy trì hệ thống quản lý nhằm loại trừ bằng giá (gọi là chi phí giao
dịch) rất tốn kém, ví dụ chi phí để duy trì hệ thống các trạm thu phí trên
đường cao tốc,... thì có thể sẽ hiệu quả hơn nếu cung cấp nó miễn phí và
tài trợ bằng thuế.

4


Tuy vậy, để cân nhắc việc này cần so sánh tổn thất phúc lợi xã hội trong
hai trường hợp. Ví dụ đồ thị dưới đây:

Giả sử hàng hóa công cộng có chi phí biên để sản xuất là c và do
phát sinh thêm chi phí giao dịch nên giá của nó bị đẩy lên tới P. Mức cung
cấp hàng hóa cộng cộng hiệu quả nhất là khi chi phí biên bằng lợi ích biên
nghĩa là Qo. Tuy nhiên do giá bị đẩy lên p bởi chi phí giao dịch nên chỉ
còn Qe người sử dụng hàng hóa, xã hội bị tổn thất một lượng phúc lợi
bằng diện tích tam giác ABE. Thế nhưng nếu hàng hóa được cung cấp
miễn phí thì sẽ có Qm người sử dụng chứ không phải Qo. Trong trường
hợp này lợi ích biên (chính là đường cầu) nhỏ hơn chi phí biên c nên xã
hội cũng bị tổn thất một lượng phúc lợi bằng diện tích hình tam giác
EFQm do tiêu dùng quá mức. Trong trường hợp này chính phủ muốn
quyết định xem nên cung cấp hàng hóa công cộng miễn phí hay thu phí
cần phải so sánh tổn thất phúc lợi xã hội, nếu tổn thất do tiêu dùng quá
mức nhỏ hơn tổn thất trong trường hợp tiêu dùng dưới mức hiệu quả thì
cung cấp miễn phí và ngược lại. Tuy nhiên việc cung cấp hàng hóa cộng
cộng miễn phí hay thu phí hoàn toàn không liên quan đến khu vực công
cộng hay khu vực tư nhân sẽ sản xuất nó. Nếu chính phủ thấy rằng một
hàng hóa công cộng nào đó cần được cung cấp miễn phí thì chính phủ
hoàn toàn có thể đặt hàng khu vực tư nhan sản xuất rồi cung cấp nó.


1.

Giáo dục đại học
2.1 Khái niệm:

Giáo dục đại học nói chung thường được hiểu là bao gồm giảng dạy,
nghiên cứu và chuyển giao ứng dụng. Thực ra, khi phân tích kỹ những
quan điểm khác nhau về giáo dục đại học, chúng ta có thể kể ra nhiều vai
trò khác nhau của giáo dục đại học trong xã hội. Giáo dục đại học đóng
5


vai trò là “hệ thống nuôi dưỡng” (feeder system) của mọi lĩnh vực trong
đời sống, là nguồn cung cấp nhân lực tối cần thiết để phục vụ các công tác
quản lý, quy hoạch, thiết kế, giảng dạy và nghiên cứu. Một quốc gia muốn
phát triển về khoa học công nghệ và tăng trưởng về kinh tế thì nhất thiết
phải có cả hai yếu tố: một hệ thống giáo dục đại học và một lực lượng lao
động. Việc phát triển những ngành công nghệ bản địa cũng như năng lực
trong lĩnh vực nông nghiệp, an toàn thực phẩm và các ngành công nghiệp
khác của chúng ta chính là nhờ có một hạ tầng giáo dục đại học đẳng cấp
quốc tế. Giáo dục đại học còn tạo ra các cơ hội cho học tập suốt đời, cho
phép con người cập nhật các kiến thức và kỹ năng thường xuyên theo nhu
cầu của xã hội.

2.2

Hàng hóa Giáo dục đại học:

Trong nền KTTT, dưới góc độ phân công lao động xã hội thì lao

động giảng dạy của giảng viên đại học không trực tiếp sản xuất ra hàng
hóa. Nếu dựa trên quan điểm của K. Marx khi cho rằng “Trong trường
hợp tiền trực tiếp được trao đổi lấy loại lao động sản xuất không sản xuất
ra tư bản, do đó là lao động phi sản xuất thì lao động ấy được mua như
một dịch vụ. Biểu hiện ấy chung chẳng qua là giá trị sử dụng đặc biệt mà
lao động ấy cung cấp, giống như mọi hàng hóa khác” thì giáo dục đại học
là loại lao động phi vật chất và được trao đổi, mua bán như dịch vụ, hàng
hóa khác. Như vậy, sản phẩm của giáo dục đại học là một loại dịch vụ và
nó có đầy đủ tính chất như một loại sản phẩm, dịch vụ hàng hóa thông
thường.Trong kinh tế học, người ta phân nhóm các loại hàng hóa theo hai
đặc trưng. Đặc trưng thứ nhất là tính “loại trừ” (excludability); đặc trưng
thứ hai là tính “ganh đua” (rivalry). Hàng hóa dịch vụ giáo dục đại học
vừa có tính “loại trừ” vừa có tính “ganh đua” (một sinh viên dành được
một chỗ học trong trường đại học đương nhiên sẽ loại trừ sinh viên khác
không được theo học hoặc ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ của sinh
viên khác)...Tuy nhiên, sản phẩm của giáo dục đại học là một loại hàng
hóa đặc biệt khi so sánh với các loại sản phẩm dịch vụ khác. …
Thứ nhất, giáo dục là một loại hàng hóa công, sự hưởng thụ của tập
hợp những người dùng trước không hề bị giảm đi hay bị tác động bởi
những người dùng sau. Việc có thêm nhiều người trong xã hội cùng thụ
hưởng hàng hóa không làm cho lợi ích của các cá nhân đang tiêu dùng bị
6


ảnh hưởng mà trái lại, còn làm cho tổng lợi ích của xã hội tăng lên. Thêm
vào đó, trong giáo dục đại học, lợi ích của nó không thể chia nhỏ cho mỗi
người sử dụng, mà mọi người đều cùng dùng chung một chương trình
giáo dục, đó là tri thức của nhân loại và cùng nhau khám phá ra những tri
thức mới.
Thứ hai, nhu cầu hưởng thụ giáo dục ngày càng tăng. Một vấn đề quan

trọng của giáo dục đại học hiện nay là xu hướng của số đông thanh niên
học sinh muốn vào đại học, bởi vì, thứ nhất là ở thời đại toàn cầu hóa
ngày nay, thị trường luôn luôn biến đổi, kỹ thuật luôn luôn thay đổi, các
đòi hỏi về sản xuất hàng hóa ngày càng cao hơn buộc người lao động,
càng ở cấp bậc cao, càng phải biết cập nhật, mà sự cập nhật này đòi hỏi
một kiến thức cơ bản vững chắc. Thứ hai là, thị trường việc làm trong thế
giới ngày nay có đặc điểm là biến đổi liên tục, một con người trong suốt
đời mình thường thay đổi việc làm nhiều lần. Vì vậy, người lao động
muốn thích ứng với nền kinh tế tri thức, xã hội muốn đi tắt đón đầu thì
thông qua giáo dục đại học là con đường ngắn nhất, cho nên hầu hết các
cá nhân đều mong muốn được tiếp cận giáo dục đại học, còn Chính phủ
thì không thể không quan tâm đến vấn đề này.
Thứ ba, giáo dục đại học có tính chất của phương tiện sản xuất. Khác
với hàng hóa cá nhân, giáo dục là dịch vụ tác động thẳng từ nhà cung cấp
(người dạy) đến người tiêu dùng (người học), và người học có thể lưu giữ
kiến thức, coi đó là hình thức tích lũy, là phương tiện có khả năng tạo ra
sức lao động có tri thức và hiệu quả cao hơn so với trường hợp không có
nó. Khả năng cao hơn này thể hiện qua thu nhập cao hơn. Như vậy giáo
dục đại học là phương tiện nâng cao năng suất của người lao động trong
tương lai. Tuy nhiên, quá trình tích lũy kiên thức, phát triển kĩ năng thêm
của bản thân là lâu dài, không thể có tiền mà mua ngay được, và không
phải ai cũng mua được, bởi vậy, nên các nhà kinh tế còn cho giáo dục đại
học là phương tiện để sàng lọc. Nói một cách đầy đủ, đầu tư cho giáo dục
là đầu tư vào tương lai và giáo dục là sản phẩm có giá trị tích lũy.
Thứ tư, giáo dục có thuộc tính xã hội. Điều này được thể hiện rất rõ ở
chỗ, có nhiều yếu tố cùng cấu thành giá thành của sản phẩm (chi phí đơn
vị), cho nên giá bán (học phí) không phải là tín hiệu đầy đủ của thị trường
mà thường thường nhỏ hơn giá thành sản phẩm. Bởi lẽ, trong giá thành
sản phẩm luôn luôn có tài trợ của Chính phủ và cộng đồng. Do vậy, khi
7



nói đến chi phí cho giáo dục mà chỉ nói đến học phí của người học là
không đầy đủ, mà bắt buộc phải tính đến “chi phí đơn vị” cho một người
học.
Thứ năm, giáo dục là sản phẩm không bị tác động bởi năng suất lao
động,trong giáo dục đại học, khó có thể tăng năng suất lao động của
người thầy giáo nhanh như tăng năng suất của một cái máy và càng không
thể mở rộng thị trường theo nghĩa tăng số sinh viên trên đầu một thầy giáo
nếu không muốn giảm chất lượng giáo dục. Thậm chí phải nói ngược lại,
muốn tăng chất lượng giảng dạy mà sự phát triển kinh tế và khoa học
ngày càng đòi hỏi ở mức cao hơn thì phải giảm số học sinh trên một thầy
giáo, tăng số lượng thầy giáo với chuyên ngành khác nhau vì không thể có
được một thầy giáo uyên bác có khả năng nắm bắt được kiến thức trong
mọi lĩnh vực, ngành nghề. Do vậy, để đáp ứng được chất lượng giảng dạy,
người thầy giáo đã phải tăng đầu tư về thời gian, tiền bạc, vật chất, cũng
như trí lực cho đào tạo và tự đào tạo vì tính phức tạp của khoa học hiện
nay đòi hỏi. Không thể tăng nhanh năng suất của thầy giáo, nhưng lương
của người thầy giáo lại phải tăng theo với mức tăng mặt bằng năng suất
lao động của cả nền kinh tế nếu muốn giữ thầy giáo trong ngành giáo dục.
Thêm vào đó, các loại thiết bị, phương tiện, công cụ, sách vở cho việc dạy
và học ngày càng tinh vi hơn, nhiều hơn và do đó giáo dục sẽ tốn kém hơn
trước. Ngày nay, tài liệu học mở ngày càng nhiều sinh viên cần phải biết,
và phải có phương tiện để truy cập mạng internet để đáp ứng nhu cầu học
tập cao hơn, thầy giáo cũng cần phải biết sử dụng công cụ như máy chiếu
trong giảng dạy thì mới đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng tăng. Từ
đó, sẽ dẫn đến chi phí đơn vị cho một sinh viên ngày càng tăng. Như vậy,
nếu để cá nhân tự chi trả cho giáo dục thì sẽ có rất ít người sẵn sàng mua
và có đủ thu nhập để mua dịch vụ giáo dục. Tất cả những điều này đưa
đến một kết quả quan trọng là đầu tư vào giáo dục đại học cho một con

người ngày càng lớn, tức là chi phí bình quân cho một đơn vị sản phẩm
trong giáo dục ngày càng tăng, chứ không phải ngược lại như đối với
hàng hóa thông thường, và do vậy không thể không có sự tài trợ của Nhà
nước.
Thứ sáu, trong giáo dục có nhiều bất đối xứng thông tin. Giáo dục đại
học là một loại hàng hóa có bất đối xứng thông tin và được thể hiện cả từ
phía nhà cung cấp và người tiêu dùng. Lựa chọn nghịch và tâm lý ỷ lại
8


xảy ra trong giáo dục đại học được thể hiện, ngay từ khâu chọn
trường,người học đã không có những cơ sở thông tin đầy đủ và chính xác
về chất lượng đào tạo, đội ngũ giáo viên giảng dạy, cũng như cơ sở vật
chất của trường có tương xứng với học phí mà họ phải trả hay không? Do
vậy, các trường đại học công lập luôn là sự lựa chọn hàng đầu của phần
lớn học sinh, không chỉ vì học phí thấp mà còn có lý do an toàn do thiếu
thông tin hoặc thông tin không đầy đủ. Thứ hai, bất đối xứng thông tin
trong lựa chọn ngành nghề đào tạo sẽ ảnh hưởng đến cơ hội tìm kiếm việc
làm của người tiêu dùng sau khi ra trường như: xác suất tìm kiếm được
việc làm theo ngành nghề, khả năng làm việc có hiệu quả, có năng suất,
mức thu nhập có thể đảm bảo bù đắp được những chi phí đầu tư cho học
tập trong thời gian bao nhiêu lâu? Thứ ba, ngay chính người tiêu dùng
cũng không hiểu được khả năng của mình có thể nội hóa được những tri
thức ở bậc học, cấp học cao hơn như thế nào. Cuối cùng, đầu tư vào hàng
hóa này có tính rủi ro cao vì không ai biết được mình sẽ sống được bao
lâu, sức khoẻ tốt xấu như thế nào và thu nhập sau này ra sao để đánh giá
rõ được thu nhập trong tương lai có đủ trang trải cho chi phí mà mình đã
đầu tư vào giáo dục hiện tại hay không. Tất cả những điều này, dẫn đến
việc mua hàng có thể theo số đông, theo xu thế của trào lưu, theo sở thích
cá nhân khiến cho nhu cầu ảo tăng lên và phí tổn xã hội rất lớn vì cùng

xuất hiện cả lựa chọn nghịch và tâm lý ỷ lại. Do vậy, các nhà kinh tế cho
rằng, thị trường giáo dục là thị trường của niềm tin.
Tâm lý ỷ lại trong giáo dục đại học còn thể hiện ở chỗ, khi người học
đã vào được đại học, nếu cơ chế sàng lọc của cơ sở đào tạo không hiệu
quả, nếu những tiêu cực và bất cập về quản lý khiến nhiều người nghĩ
rằng vận may hoặc tiền bạc có thể thay cho khả năng học tập và giúp họ
vượt qua được các kỳ sát hạch trong tích lũy tri thức thì nhu cầu ảo, chất
lượng ảo trong giáo dục đại học lại càng tăng lên. Nếu hệ thống giáo dục
chỉ coi trọng thi cử, quan tâm đến đầu vào mà không áp dụng các biện
pháp nghiêm ngặt trong kiểm soát học tập thì tâm lý ỷ lại trong giáo dục
đại học lại càng thể hiện rõ, đây cũng là nguyên nhân có ảnh hưởng quyết
định tới chất lượng của hàng hóa. Trong trường hợp này, chỉ có sự can
thiệp tích cực của Nhà nước mới là công cụ hiệu quả nhất khắc phục được
những khiếm khuyết của thị trường.
9


Thứ bảy, hàng hóa giáo dục có ngoại tác tích cực. Khi cá nhân tham gia
vào học đại học như công cụ đem lại lợi ích cho cá nhân thì vô tình anh ta
cũng đồng thời đáp ứng cho lợi ích xã hội. Nghĩa là lợi ích xã hội do giáo
dục tạo ra luôn luôn lớn hơn lợi ích cá nhân nhận được. Nhưng giá thành
tạo ra chúng cao hơn nhiều so với giá người mua sẵn sàng trả, cho nên,
nếu để cho thuận mua vừa bán trên thị trường, tức là người mua phải trả
chi phí bằng với chi phí xã hội, mà lợi ích cá nhân lại ít hơn thì có nhiều
người sẽ không mua chúng, hoặc mua ít hơn mức cần thiết của xã
hội. Nói theo ngôn ngữ kinh tế, ngoại tác tích cực trong trường hợp này
thì: lợi ích xã hội luôn luôn lớn hơn lợi ích cá nhân.
[Lợi ích xã hội] > [lợi ích cá nhân = chi phí cá nhân]
Do đó, tổng lợi ích xã hội sẽ tăng lên nếu như sản phẩm được sản xuất
nhiều hơn, như vậy đòi hỏi chi phí cao hơn, tức là ở điểm:

[Lợi ích xã hội] = [chi phí cá nhân (=lợi ích cá nhân) + bù lỗ của nhà
nước]
Đối với hàng hóa có ngoại tác tích cực như giáo dục, thị trường tự do sẽ
không tự nó cung cấp đủ nhu cầu cho xã hội. Để đáp ứng được nhu cầu
chung, khi mà lợi ích xã hội lớn hơn lợi ích cá nhân và do đó lớn hơn chi
phí cá nhân, Nhà nước cùng cộng đồng phải bù đắp thêm vào chi phí cá
nhân. Cho nên, nếu để cho thuận mua vừa bán trên thị trường, tức là
người mua phải trả chi phí bằng với chi phí xã hội, mà lợi ích cá nhân lại
ít hơn thì có nhiều người sẽ không mua chúng, sẵn sàng để con em họ vô
học, hoặc họ mua ít hơn mức cần thiết đối với xã hội Những ngoại tác
tích cực có thể kể ra là, với doanh nghiệp, khi sử dụng lao động có trình
độ cao thì sẽ có năng suất lao động cao, sản phẩm làm ra có chất lượng,
có sức cạnh tranh trên thị trường, tức là giá trị thặng dư của doanh nghiệp
sẽ tăng lên, cùng với lợi nhuận gia tăng. Những cá nhân được giáo dục
đào tạo tốt hơn sẽ, - có thông tin đầy đủ hơn, có thu nhập cao hơn và có
khả năng đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Nhà nước thu lợi từ giáo dục
cao hơn qua: chi phí ít hơn cho trợ cấp thất nghiệp và phúc lợi xã hội, chi
phí ít hơn cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe, thu được nhiều thuế thu nhập
hơn. Quan trọng hơn cả, giáo dục-đào tạo tốt hơn dẫn đến kinh tế tăng
trưởng cao hơn, phát triển xã hội bền vững hơn. Càng có nhiều người lao
động giỏi, càng có nhiều phát minh, sáng chế, sáng kiến và tác động lan
tỏa thì sẽ tạo ra càng nhiều sản phẩm mới với những tính năng, tác dụng
mới.Chính yếu tố lợi ích ngoại tác đem


10
đến cho cộng đồng của giáo dục đại học là một trong các yếu tố quan
trọng trong hình thành cơ sở cho việc Chính phủ tham gia vào đầu tư cho
giáo dục đại học. Hay nói một cách đầy đủ, điểm khác biệt cơ bản của
giáo dục (hàng hóa công) so với các loại hàng hóa cá nhân bình thường

khác, là lợi ích ngoại sinh của nó.
Thứ tám, giáo dục là công cụ quan trọng để thực hiện phân phối lại thu
nhập. Thị trường không có trách nhiệm và không thể phân phối thu nhập
theo nguyên tắc công bằng cho tất cả mọi người. Khả năng tiếp cận giáo
dục đại học của từng cá nhân là không giống nhau, trong đó có tác động
từ yếu tố thu nhập cá nhân. Việc hình thành thị trường giáo dục hoàn toàn
vận động theo quy luật của thị trường sẽ làm cho số đông không thể tiếp
cận được với hàng hóa. Nhất là khi thị trường hoàn toàn tự quyết định vấn
đề cung cấp thì khả năng những cá nhân được học đại học chỉ là những
người có thu nhập cao và mới có thể chi trả hoàn toàn chi phí cho giáo
dục đại học. Yếu tố thu nhập của gia đình làm cho mỗi cá nhân có cơ hội
tiếp cận giáo dục sớm hay muộn, chất lượng của việc học tập ra sao, hay
trang thiết bị đồ dùng học tập khác nhau cũng ảnh hưởng đến lợi ích của
cá nhân đó nhận được từ nền giáo dục cũng khác nhau. Chính điều này
làm cho cơ hội tiếp cận được giáo dục đại học của cá nhân thu nhập thấp,
- ít hơn nhiều so với cá nhân có thu nhập cao. Để giảm thiểu tối đa mức
chênh lệch lợi ích thụ hưởng giữa người giàu và nghèo trong giáo dục, các
quốc gia khác nhau sẽ có những phương cách vận dụng khác nhau trong
trợ cấp cho giáo dục đại học nhằm tạo điều kiện cho sinh viên thuộc diện
nghèo khó khăn có thêm nhiều cơ hội nhận được chất lượng học tốt nhất
so với các sinh viên khá giả. Việc phân phối lại lợi ích trong giáo dục đại
học không thể do thị trường điều tiết mà phải có sự can thiệp của Chính
phủ. Điểm khác biệt nổi trội của giáo dục đại học so với các loại hàng hóa
cá nhân khác chính là ở chỗ, thực hiện được nhiệm vụ phân phối lại thu
nhập thông qua sản xuất và tiêu dùng.Đây là chức năng bao trùm của giáo
dục, mang một nhiệm vụ không kém phần quan trọng. Đó là đảm bảo sự
tồn tại và phát triển, hay cụ thể hơn là hiện thực hóa quyền bình đẳng về
cơ hội vào đời và tạo dựng cuộc sống của mỗi cá nhân trong xã hội. Bởi
vì, để đạt được điều đó thì họ phải có cơ hội, ai cũng như ai, tiếp thu
những giá trị, tri thức và kỹ năng mà nền giáo dục đã đem lại cho họ.

11


2.3 Vai trò của nhà nước trong cung cấp hàng hóa GDĐH:
Với bất kỳ loại hàng hóa nào được sản xuất trong nền kinh tế, dù là
công cộng hay tư nhân, thì Nhà nước phải có trách nhiệm kiểm soát chất
lượng, cũng như giá cả của nó. Để kiểm soát chất lượng các sản phẩm
thông thường, Chính phủ có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau như:
thông qua hệ thống pháp luật để bắt buộc các nhà sản xuất thực hiện cơ
chế tự đăng ký rồi kiểm soát, phải minh bạch hóa tất cả những thông tin
về đặc tính của sản phẩm khi giao dịch trên thị trường, thông qua các tổ
chức hiệp hội để bảo vệ lợi ích của cả nhà sản xuất và người tiêu dùng và
v.v. Tất cả những điều đó được tuân thủ thì lợi ích của người tiêu dùng,
cũng như của nhà sản xuất được thỏa mãn nhờ sức mạnh của thị trường.
Nhưng với những loại hàng hóa có nhiều bất đối xứng thông tin, có lợi ích
ngoại sinh, là công cụ điều tiết thu nhập như: giáo dục và y tế và v.v. thì
cơ chế kiểm soát chất lượng, cũng như giá cả của nó phức tạp hơn rất
nhiều. Khi ấy, Nhà nước sẽ, một mặt, khó khăn hơn trong nhiệm vụ quản
lý, và mặt khác, phải đồng thời trực tiếp tham gia thực hiện nhiệm vụ
cung cấp hàng hóa không chỉ để khắc phục sụp đổ của thị trường mà còn
là đối trọng để kiểm soát và định hướng cho khu vực ngoài nhà nước vì
khuôn khổ chung của cả hệ thống giáo dục quốc dân. Vấn đề quan trọng
hơn nữa, là tài chính cho đại học, vì sản phẩm có thuộc tính xã hội nên
Nhà nước có trách nhiệm không chỉ tạo điều kiện cho tất cả mọi người
dân đều có cơ hội bình đẳng như nhau trong giáo dục đại học, mà còn
phải xây dựng cả những cơ chế cho những tổ chức, các cá nhân có tâm
huyết được đóng góp trí tuệ và tài sản của mình cho sự nghiệp giáo dục.
Về mặt lý thuyết, trong vai trò sản xuất, Nhà nước luôn chịu trách nhiệm
thực hiện những dự ĩnh vực đầu tư mạo hiểm và khả năng đầu tư vốn ban
đầu lớn nhưng thu hồi chậm, mà kết quả gặt hái được phải tính bằng đơn

vị hàng chục năm, cho nên chỉ Nhà nước mới có thể đảm nhận, dù cho có
sự tham gia tài trợ của các thành phần kinh tế khác trong xã hội. Đó là
những đại học qui mô lớn, các đại học tinh hoa, đại học nghiên cứu, trong
các lĩnh vực khoa học cơ bản, những ngành chiến lược rất cần những đầu
tư lớn, mà chỉ có Nhà nước mới thực hiện được. Ngoài ra, những trường
học ở vùng sâu, vùng xa mà tư nhân không muốn mở vì tính rủi ro cao thì
bắt buộc Nhà nước phải có trách nhiệm tham gia mở trường. Sụp đổ của
thị trường trong lĩnh vực giáo dục, có thể dẫn đến phá sản cả một hệ thống


12
kinh tế xã hội, vì vậy để tránh điều này các nước trên thế giới luôn luôn
có một hệ thống đại học công lập mạnh tồn tại song song cùng với các
trường tư thục, bởi các lý do sau:
Thứ nhất, chỉ có hệ thống trường công lập mới đảm bảo được tính độc
lập của hệ thống giáo dục. Giáo dục đại học cũng là một trong những vế
chính của nền độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của mỗi quốc gia bởi vì nó
tham gia vào hướng đi lên, bảo đảm chất lượng cũng như số lượng người
có trình độ hiểu biết, có chuyên môn, nghiệp vụ cao, nhất là trong những
lĩnh vực chiến lược. Giáo dục đại học là cái lò nung đúc trí tuệ của dân
tộc, chỉ có Nhà nước mới đảm nhiệm được sự liên tục và thừa kế, điều mà
cá nhân hay một tập thể, dù đầy thiện chí cũng không thể gánh vác được.
Khi nói về vấn đề này, TS. Drew G.Faust, hiệu trưởng Đại học Harvard
cho rằng: “Hệ thống giáo dục đại học phải chịu trách nhiệm với quá khứ
và tương lai của dân tộc, chứ không chỉ đơn giản với hiện tại. Một trường
đại học hoạt động không vì những kết quả của quý sắp tới, cũng không vì
việc sinh viên tốt nghiệp sẽ trở thành người nào. Nó hoạt động vì những
kiến thức sẽ định hình một đời người, những kiến thức truyền tải di sản
của nhiều thiên niên kỷ, những kiến thức quyết định tương lai. Cam kết
của đại học là vô thời hạn, thành tựu không tiên đoán được, không đo

lường được, nỗ lực làm việc không phải để tăng sức cạnh tranh mà là để
“định nghĩa cái gì đã làm chúng ta là người qua bao nhiêu thế kỷ”, cái gì
giúp ta “hiểu ta là ai, từ đâu đến, đi về đâu và tại sao”. Đi tìm ý nghĩa như
vậy là một hành trình bất tận, luôn luôn đặt lại vấn đề, luôn luôn gặp giải
thích mới, không bao giờ bằng lòng với những khám phá đã có, câu trả lời
này chỉ gợi lên câu hỏi tiếp theo. Đó là học. Học như vậy trong mọi
ngành, “trong khoa học tự nhiên cũng như trong khoa học xã hội, nhân
văn, và đó là cốt lõi đại học nhắm đến”. Hay nói cách khác, một đại học
có ba nhiệm vụ chính: là ký ức của xã hội, là mũi nhọn của xã hội, và là
tấm gương phê phán của xã hội.
Thứ hai, chỉ có hệ thống công lập mạnh mới thực hiện được nhiệm vụ
đảm bảo công bằng cho mọi người dân có khả năng học tập đều được đến
trường mà không phụ thuộc vào hoàn cảnh gia đình. Như đã phân tích
trên đây, chúng ta thấy rằng nếu Nhà nước không mở trường đại học, mà
chỉ dùng công cụ tài chính để điều tiết, thì sẽ dẫn đến kết quả: hoặc bao
cấp cho giáo dục đại học sẽ gây ra lãng phí trong “tiêu dùng”, bởi sẽ có


13
nhiều người không đủ khả năng tích lũy trong học tập, nhưng lại vẫn được
cung cấp, hoặc những người có khả năng chi trả cho giáo dục nhưng lại ỷ
lại vào trợ cấp. Kết quả là, chi phí xã hội bỏ ra có thể lớn hơn gấp nhiều
lần lợi ích xã hội nhận được. Ngược lại, nếu để người học trả toàn bộ chi
phí sẽ làm giảm tiêu dùng hàng hóa vì trong trường hợp này chi phí cá
nhân sẽ lớn hơn lợi ích cá nhân nhận được. Khi đó, chính Nhà nước đã
tước đi cơ hội được học đại học của những cá nhân có hoàn cảnh khó
khăn, bởi vì thị trường không có trách nhiệm và cũng không thể thực hiện
được nhiệm vụ này. Khác biệt về lý thuyết công bằng trong giáo dục đại
học so với giáo dục phổ thông là ở chỗ, trợ cấp của Nhà nước cần có sự
phân loại phù hợp để những ai có khả năng học đại học, đều được đến

trường mà không phụ thuộc vào gia cảnh của họ. Bởi vì, những người học
đại học đã bước vào tuổi thành niên, hoặc đã có đủ khả năng chi trả cho
học tập ở hiện tại (như vừa học, vừa làm) hoặc khả năng chi trả sẽ nằm
trong tương lai khi họ có việc làm.
Thứ ba, chỉ có hệ thống trường công lập mạnh mới đảm bảo được tính
ổn định của cả hệ thống giáo dục. Trường đại học là khuôn đúc ra những
sản phẩm đặc biệt có tri thức – đó là con người, là cả một thế hệ kế thừa
cho mỗi dân tộc, mà mỗi người lại không thể sống được hai lần trong
cuộc đời, vậy thì những thế hệ tiếp nối này sẽ được hình thành như thế
nào trong một khuôn đúc bất ổn định. Do vậy, bên cạnh hệ thống trường
đại học công lập, các nước trên thế giới còn tồn tại một khối lượng đáng
kể các trường đại học ngoài công lập mà chúng ta thường gọi là “đại học
tư thục”. Đại học tư thục, do phải tự hạch toán tài chính nên có khuynh
hướng chọn mở những ngành đầu tư nhẹ, mang tính thời thượng và có khả
năng sinh lời cao, thu hồi vốn nhanh, do đó trong một xã hội bình thường,
đại học tư thục chỉ có thể mang tính cách hỗ trợ, chứ không thể đảm
nhiệm hoàn toàn sứ mạng của nền giáo dục đại học cho cả một quốc gia.
Hay nói một cách khác, hiệu quả kinh tế là lợi thế của khu vực tư nhân,
nhưng chỉ dựa vào khu vực tư nhân để phát triển giáo dục, thì sự đánh đổi
là rất lớn. Kinh nghiệm thực tế chỉ ra rằng, đại học tư có thể mở ra, rồi tồn
tại hoặc phá sản, nhưng trên nguyên tắc phải đảm bảo rằng, không làm
xáo trộn lớn đến nền giáo dục đại học của quốc
14


gia. Tức là, khu vực tư nhân tham gia vào giáo dục đại học chỉ có thể chia
sẻ gánh nặng, chứ không thể thay thế được trách nhiệm ổn định hệ thống
của Nhà nước trong lĩnh vực này, dù được phân tích từ bất kỳ góc độ nào.
Thứ tư, hệ thống công lập mạnh sẽ đảm bảo chất lượng của nền giáo
dục. Qui mô của các đại học công lập và số lượng sinh viên theo học phụ

thuộc vào mức độ phát triển của nền kinh tế, nhưng chất lượng của hệ
thống giáo dục phải được đặt lên hàng đầu, không phải chỉ vì sự tồn tại
của nền giáo dục, mà còn vì nền độc lập tự chủ của quốc gia. Dựa vào khu
vực tư nhân cũng có thể giải quyết được bài toán chất lượng giáo dục đại
học, nhưng chỉ ở trong những lĩnh vực, ngành nghề đem lại lợi nhuận cao.
Như vậy, nếu đặt hy vọng chất lượng của nền giáo dục dựa vào tư nhân
cung cấp thì phải chấp nhận một hệ thống mất cân đối. Ngược lại, mất ổn
định của hệ thống thì sẽ không có cơ sở nào khẳng định chất lượng của nó
được đảm bảo. Không có sự đánh đổi nào giữa hai mục tiêu đó được chấp
nhận, và chỉ có một hệ thống công lập mạnh mới đáp ứng được đồng thời
các nhiệm vụ này.

 Một số tiêu chí đánh giá hiệu lực quản lý của nhà nước
về GDĐH
1. Năng lực xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia đáp ứng nhu cầu
xã hội,quy hoạch mạng lưới trường đh cđ bảo đảm cơ cấu trình độ ngành
nghề ,vùng miền phù hợp với với kế hoạch tổng quát phát triển KTXHcủa đất nước,
Bảo đảm tính mềm dẻo,linh hoạt của hệ thống(liên thông giữa các
chương trình đào tạo,các cấp,bậc học,phát triển các loại hình đào tạo và
hình thức học tập phù hợp với triết lý giáo dục giai đoạn phát triển). Có
các điều kiện cụ thể đảm bảo chất lượng ,chương trình đào tạo phải hiện
đại,cập nhật và gắn thực tiễn ,đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý đủ số
lượng,đảm bảo chât lượng cơ sở vật chất,phương pháp giảng dạy,học tập
tiên tiến;
Thực hiên phân cấp đối với cơ quan quản lý nhà nước và giao quyền tự
chủ tự chịu trách nhiệm của các cơ sở gíao dục đại học.
Công khai chất lượng đào tạo ,gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và
chuyển giao công nghệ.
15



2. Có chiến lược hội nhập quốc tế,xây dựng một số cơ sở gddh xuất
sắc và một số ngành mũi nhọn được thừa nhận trong khu vực và quốc tế .
3. Có cơ chế tài chính nhằm đa dạng hóa nguồn lực để phát triển
GDĐH
4. Bộ máy quản lý nhà nước về GDĐH phải phù hợp với chức năng
và đối tượng quản lý;
5. Có khả năng tổ chức thực hiện tốt các quy định của pháp luật về
GDĐH ,Người đứng đầu cơ sở GDĐH phải có kinh nghiệm ,có năng lực
quản lý và am hiểu GDĐH
6. Thực hiện tốt giám sát ,kiểm tra ,xử lý vi phạm pháp luật về
GDĐH.

Phần III :Thực trạng giáo dục đại học VN hiện nay
1.

Chất lượng các trường đại học:

Được sự đầu tư lớn của Nhà nước về tài chính, hàng loạt các trường
học đã được xây dựng, thành lập để đáp ứng nhu cầu giáo dục ngày càng
tăng lên của người dân. Tổng cục thống kế đã có số liệu thống kê về số
lượng trường công lập và trường ngoài công lập ở bậc cao đẳng và đại
học ở Việt Nam trong những năm từ 2010_2015 như sau:

201 201 201 201 201 201
0
1
2
3

4
5
Tổng số

414, 419 421 428, 436, 445,
0
,0 ,0 0
0
0

334, 337, 340 343, 347, 357,
Trường công lập 0
0
,0 0
0
0
Trường ngoài
công lập

81,
80,0 82,0 0
85,0 89,0 88,0
( Trích Bộ Thống kê)
16


Tốc độ tăng trưởng các trường rất nhanh từ năm 1987 cả nước có
101 trường đại học và cao đẳng (63 trường đại học, chiếm 62%; 38 trường
cao đẳng, chiếm 38%), nhưng đến tháng 9 năm 2015 đã có 445 trường đại
học và cao đẳng, tăng gấp 4,4 lần. Việc mở rộng quy mô không chỉ bó hẹp

trong các trường công lập mà cả loại hình dân lập. Với 101 trường đại học
và cao đẳng năm 1987 chúng ta chưa có trường ngoài công lập, đến năm
1997 cả nước đã có 15 trường đại học ngoài công lập và đến tháng 9 năm
2015 có 316 trường đại học, cao đẳng ngoài công lập, chiếm 42,25%. Đến
nay, đã có 40/63 tỉnh, thành phố có trường đại học (đạt tỷ lệ 63%); có
60/63 tỉnh, thành có trường cao đẳng (đạt tỷ lệ 95%) và có 62/63 tỉnh,
thành có ít nhất 1 trường cao đẳng hoặc đại học (đạt tỷ lệ 98%, trừ tỉnh
Đắk Nông chưa có trường đại học, cao đẳng nào). Và, 35/63 tỉnh có thêm
trường đại học mới, trong đó: 23 tỉnh có thêm 1 trường; 10 tỉnh có thêm 2
– 3 trường; riêng Thành phố Hồ Chí Minh có thêm 18 trường đại học và
Hà Nội (mở rộng) có thêm 23 trường, chiếm tỷ lệ 43% số trường đại học
thành lập mới và nâng cấp.
Cùng với tốc độ tăng của các trường đại hoc thì số lượng sinh viên
cũng ngày càng gia tăng
Sinh viên công lập và ngoài công lập

17


Từ quy mô như trên chúng ta có thể thấy sự phân bố các cơ sở giáo
dục đại học đã dần rộng khắp trên phạm vi cả nước. Điều này là hết sức
quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ có chất lượng nhằm
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của từng
địa phương và cả nước. Tuy nhiên, sự phát triển như trên đang chứa đựng
nhiều bất ổn:
Thứ nhất, sự phân bố như thế sẽ khó để có điều kiện xây dựng một
trường đại học đạt đẳng cấp khu vực và quốc tế. Cái tin các trường đại
học ở Việt Nam không có, hoặc có vị trí rất khiêm tốn trong bảng xếp
hạng các trường đại học hàng đầu Châu Á, là nỗi buồn và thất vọng cho
không ít người. Bởi như thế là giáo dục đại học Việt Nam đã tụt hậu khá

xa so với khu vực, chứ chưa nói đến thế giới. Tuy nhiên, nếu bình tâm
nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, thì điều này cũng bình thường
thôi. Điều quan trọng là đừng lẫn lộn giữa thực tế và khát vọng. Nếu ai đó
đã có dịp đến thăm các trường đại học nước ngoài thì dễ thấy các trường
đại học của Việt Nam còn lạc hậu lắm, còn xa lắm mới sánh vai được với
các trường đại học châu lục. Chuyện một trường đại học lớn ở Việt Nam
không đủ phòng học, phải đi thuê, sinh viên phải học nhiều ca, không đủ
phòng bộ môn, máy móc, thiết bị vừa thiếu vừa quá lạc hậu, môi trường
cảnh quan quá chật hẹp, thiếu chỗ sinh hoạt văn hóa, thể thao cho sinh
viên (sân vận động, bể bơi, nhà văn hóa, công viên cây xanh…) là chuyện
quá bình thường và phổ biến ở Việt Nam. Trong khi tổng đầu tư cho một
trường đại học của thế giới có thể lên tới hàng tỉ đô la mỗi năm, còn cỡ
vài trăm triệu đô la là phổ biến, thì ở Việt Nam số trường đại học được
đầu tư khoảng 10 triệu đô la một năm, chỉ được đếm trên đầu ngón tay,
còn phổ biến chỉ ở mức vài ba triệu. Thu nhập và mức sống của giảng
viên và giáo sư đại học cũng quá chênh lệch. Ngay ở Đài Loan, một quốc
gia rất gần Việt Nam, lương giảng viên đại học khoảng 38 triệu, lương
giáo sư khoảng 45 triệu đồng VN/1tháng, ấy vậy mà nhiều giảng viên đại
học Đài Loan còn bỏ nghề đi làm việc khác, vì cho rằng thu nhập như vậy
là không đủ sống. Còn ở Việt Nam, lương và thu nhập của giảng viên đại
học phổ biến chỉ bằng 1/5 -1/6 lương của Đài Loan. Đương nhiên so với
lương giảng viên đại học ở các nước phát triển thì còn thấp hơn nhiều. Rất
nhiều giáo viên trẻ phải quá vất vả cho sự mưu sinh, lương thấp, phải đi
thuê nhà ở tạm, phải làm thêm đủ thứ nghề để sống… Ấy vậy mà họ vẫn
18


làm việc hết mình, vẫn dành cả tâm huyết cho sự nghiệp đào tạo các thế
hệ tương lai….Với một nguồn lực như thế, với thu nhập và đời sống dựa
trên cơ sở của một nền kinh tế như thế, mà đại học Việt Nam sánh vai

được với các trường đại học hàng đầu Châu Á, mới là chuyện lạ.
Thứ hai, tình trạng quá tải giờ dạy của đội ngũ GVĐH do việc thành
lập ồ ạt các cơ sở GDĐH cùng với sự gia tăng nhanh chóng về quy mô
đào tạo trong khi số lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy không tăng kịp theo
tốc độ tăng quy mô. Thực tế này diễn ra phổ biến, đặc biệt là đối với
giảng viên những môn chung như triết học, ngoại ngữ, kinh tế chính trị…
và giảng viên nhóm ngành hấp dẫn như công nghệ thông tin, ngân hàng,
tài chính kế toán... Có những giảng viên dạy 1.000 tiết/năm trong khi quy
định là 260 tiết/năm. Tình trạng quá tải giờ dạy diễn ra liên tục trong thời
gian dài khiến cho rất nhiều GVĐH không còn thời gian dành cho học tập
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không cập nhật được một cách
thường xuyên các kiến thức, kỹ năng mới khiến cho nội dung bài giảng
của họ nghèo nàn, lạc hậu và không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Phương pháp giảng dạy của một bộ phận không nhỏ GVĐH chậm được
đổi mới, chủ yếu vẫn là thuyết trình theo kiểu thầy đọc – trò chép. Trong
khi đó, công tác NCKH chưa được chú trọng; nội dung NCKH không có
chất lượng, hiệu quả, không có tính thực tiễn và khả năng ứng dụng mà
chỉ nhằm đối phó hoặc để chấm điểm bình xét thi đua, xét phong danh
hiệu.
Thứ ba chất lượng giáo dục đại học còn nhiều bất cập, Nhìn vào kết
quả tuyển sinh hàng năm của các trường đại học, cao đẳng, chúng ta thấy
rằng chỉ những trường thuộc loại “top” thì đầu vào tương đối cao, số còn
lại lấy trên điểm sàn, những trường mới thành lập thì tuyển sinh “xé rào”
quy chế của Bộ, thậm chí nhiều người không thi vẫn đậu, loạn giấy báo
nhập học . Nhìn chung, chất lượng đầu vào chưa cao, chỉ cần 4,5
điểm/môn là có thể trở thành sinh viên đại học, cao đẳng.

19



Bảng số liệu sau đây cho ta thấy điều đó:

Bảng: Điểm sàn các khối thi đại học
Khối Khối
AA1 B
2013 13
14
2014 13
14
2015 15
15

Khối
C
14
14
15

Khối
D1
13,5
14
15

(Nguồn: dantri.com.vn) (trong đó năm 2014 có 3 mức điểm sàn)
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước, các trường
đại học Việt Nam chưa đào tạo được lực lượng lao động có trình độ
chuyên môn cao tương ứng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế và hội nhập
quốc tế.Nhiều cuộc điều tra, thăm dò gần đây cho thấy, có khoảng 50%
sinh viên tốt ngh. iệp đại học ở Việt Nam không tìm được việc làm đúng

chuyên môn, tỷ lệ sinh viên ra trương thất nghiệp gia tăng cao. Theo
Tổng cục thống kê, Quý III năm 2015, cả nước có hơn 340.000 người có
trình độ cao đẳng chuyên nghiệp, trình độ đại học trở lên thất nghiệp, và
con số này đang có xu hướng tiếp tục tăng, các nước có nền giáo dục tiên
tiến, sinh viên học đến đâu sẽ được thực hành ngay đến đó, nên sẽ nhớ rất
lâu. Nhiều vấn đề thay vì phải giảng giải lý thuyết như ở Việt Nam, thì
sinh viên nước ngoài được thực hành ngay. Mỗi khi thực tập, sinh viên
được đến các công ty và thực hành ngay tại đó, vì thế kỹ năng làm việc
của sinh viên được hình thành ngay từ khi bắt đầu vào học tại trường .Ở
Việt Nam hiện nay thì giáo dục không gắn liền giữa đào tạo và nhu cầu.
Chỉ tiêu tuyển sinh được mỗi trường tự đưa ra nhằm đáp ứng nhu cầu
giảng dạy mà chưa tiếp cận với nhu cầu việc làm thực tế theo từng ngành.
Chính vì thế, số lượng sinh viên ra trường hàng năm đều cao hơn rất
nhiều so với nhu cầu thực tế, số lượng sinh viên dư ra sẽ thất nghiệp. Chi
phí đào tạo một sinh viên để hoàn thành cả khóa học là không hề nhỏ, vì
thế, đặt trong hoàn cảnh sinh viên ra trường thất nghiệp một vài năm khi
20


kiến thức dần bị mai một, thì công sức, tiền bạc đầu tư cho việc học xem
như đổ sông, đổ biển.
Thứ tư là, chương trình học còn nặng với thời lượng lớn. Một thống
kê và so sánh cho thấy, thời gian học 4 năm ở một lớp đại học tại Việt
Nam là 2.138 giờ so với Mỹ là 1.380 giờ(4). Như vậy chương trình học ở
Việt Nam dài hơn 60% so với Mỹ. Thời gian học nhiều như vậy nên
người học khó tránh khỏi việc rơi vào trạng thái luôn bị áp lực hoàn thành
các chương trình môn học, ít có thời gian để tự học, tự nghiên cứu, hoặc
tham gia các hoạt động xã hội khác.Về phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học đại học, các trường đại học ở nước ta hiện nay nhìn chung chưa
tiếp cận với các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học đại học phổ

biến của thế giới. Nhằm mục tiêu “nhấn mạnh đến kỹ năng xử lý vấn đề
đặt ra trong cuộc sống hơn là tập trung vào việc làm đầy kiến thức đã có
sẵn”, việc áp dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học của các
trường đại học trên thế giới thường rất linh hoạt, dựa trên tinh thần đề cao
vai trò của người học, tạo điều kiện tối đa cho người học có thể tự học, tự
nghiên cứu. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay, do quan niệm “nền giáo
dục cần trang bị cho người học một lượng kiến thức càng nhiều càng tốt
để họ có thể có một nền tảng vững chãi khi ra trường”nên vai trò, vị trí
của người học chưa thực sự được quan tâm. Các phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học còn khá lạc hậu. Kết quả khảo sát thực địa của Viện
Hàn lâm quốc gia Hoa Kỳ năm 2006 có phần nhận xét về phương pháp
dạy và học đại học của Việt Nam như sau: “Phương pháp giảng dạy không
hiệu quả, quá phụ thuộc vào các bài thuyết trình và ít sử dụng các kỹ năng
học tích cực, kết quả là có ít sự tương tác giữa sinh viên và giảng viên
trong và ngoài lớp học; quá nhấn mạnh vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu
thuộc lòng mà không nhấn mạnh vào việc học khái niệm hoặc học ở cấp
độ cao (như phân tích và tổng hợp), dẫn đến hậu quả là học hời hợt thay
vì học chuyên sâu; sinh viên học một cách thụ động. Mặc dù, những năm
gần đây, theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhiều trường đại
học, cao đẳng trong cả nước đã bắt đầu áp dụng phương pháp giảng dạy
cho sinh viên theo phương thức tín chỉ, nhưng theo đánh giá của nhiều
chuyên gia, “Đào tạo tín chỉ ở Việt Nam hiện chưa thực sự đúng với tinh
thần của tín chỉ. Cách dạy, học vẫn còn chưa thoát khỏi tinh thần niên chế.
Tính chủ động của sinh viên còn yếu kém”. Sự đổi mới về phương
21


pháp giảng dạy trong các trường đại học ở nước ta hiện nay nhiều khi chỉ
mang tính hình thức. Các thiết bị giảng dạy, như máy chiếu, video... chỉ là
phương tiện hỗ trợ để nâng cao chất lượng giảng dạy, điều quan trọng hơn

cả là sự nhận thức rằng giáo dục phải mang tính sáng tạo, tinh thần trách
nhiệm thể hiện qua việc cải tiến về phương pháp và chương trình học vẫn
chưa được chú trọng.
Thứ năm, việc hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp ở
Việt Nam còn hạn chế về số lượng, chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa
học, chuyển giao công nghệ còn nhiều bất cập, chưa theo kịp sự thay đổi
của nền kinh tế. Trong khi đó, sự thiếu hụt thông tin từ cả hai phía, thiếu
đầu mối liên lạc trong việc hợp tác là rào cản không nhỏ của việc liên kết
này. Theo số liệu Vụ Giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và đào tạo), nghiên
cứu ở 8 trường đại học tham gia dự án (đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học
Bách khoa Hà Nội, Đại học Nông Lâm-Đại học Huế, Đại học Nông Lâm
TPHCM,…) giáo dục đại học theo định hướng nghề nghiệp ứng dụng do
Bộ Giáo dục và đào tạo triển khai cho thấy, việc hợp tác giữa các trường
đại học và doanh nghiệp là chưa nhiều. Phần lớn, các trường chủ yếu thiết
lập mang lưới khoản 10
doanh nghiệp đối tác chiến lược. Duy nhất, trường đại học Nông Lâm
TPHCM thiết lập được 120 doanh nghiệp có hợp tác lâu dài và chiến
lược. Số lượng doanh nghiệp hợp tác ngắn hạn, không thường xuyên có
sự khác biệt rõ rệt giữa các nhóm trường như: đại học Nông Lâm
TPHCM, Học viện Nông Nghiệp Việt Nam thuộc nhóm có hơn 100 đối
tác; nhóm trung bình như đại học Nông Lâm( đại học Huế), đại học Sư
phạm Kỹ thuật Hưng Yên, có 20-40 đối tác; nhóm ít như đại học Vinh chỉ
có 4 đối tác. Đáng chú ý, việc hợp tác giữa trường đại học và doanh
nghiệp có vai trò quan trọng đối với việc làm của sinh viên sau khi ra
trường. Khảo sát gần 1400 cựu sinh viên từng tham gia học tập theo
chương trình POHE (trường đại học Nông Lâm- đại học Huế) cho thấy:
72,8% cho rằng có thể đáp ứng được các nhu cầu của nhà tuyền dụng;
75,5% công việc thực tập thật sự có ích cho công việc đang làm; 71,3%
đánh giá công việc thực tập có liên quan nhiều đến công việc thực tế đang
làm. .


22


×