Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Thực trạng và thách thức của nông nghiệp việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.12 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
----------

BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: Thực Trạng Và Thách Thức Của Nông Nghiệp
Việt Nam Trong Bối Cảnh Hội Nhập Kinh Tế
Quốc Tế

Giáo viên:
Trần Đoàn Thanh Thanh

Nhóm sinh viên:
Nguyễn Thị Thúy(NT)
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Nguyễn Thị Thanh Vân
1


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là một trong những ngành đóng vai trò hết sức quan trọng trong
nền kinh tế của mọi quốc gia. Nó cung cấp lương thực thực phẩm cho toàn xã hội,
cung cấp yếu tố đầu và cho ngành công nghiệp và được coi là ngành đem lại nguồn
thu nhập ngoại tệ lớn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Hiện nay, Việt Nam là một nước có nền nông nghiệp lâu đời và vẫn là một nước
nông nghiệp. Do đó, bên cạnh mục tiêu đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ để
hiện đại hóa đất nước, chúng ta không thể quên tầm quan trọng của việc phát triển
nông nghiệp, vì đó là một trong những chìa khóa để phát triển kinh tế, ổn định xã hội
và nâng cao đời sống nhân dân. Để đạt được những mục tiêu này, Việt Nam đã tích cực


chủ động tham gia hội nhập vào nền kinh tế quốc tế như là thành viên của ASEAN,
AFTA, ASEM, WTO…Từ khi tham gia vào các tổ chức trên ngành nông nghiệp Việt
Nam đã được hưởng những quy chế đối xử bình đẳng của các Hiệp định, từ đó mở ra
nhiều cơ hội mở cửa thị trường và thu hút đầu tư nước ngoài nhưng đồng thời chúng ta
cũng phải chịu áp lực trên thị trường trong và ngoài nước do phải thực hiện lộ trình cắt
giảm thuế khi tính cạnh tranh của hàng nông sản nước nhà còn rất thấp…Từ khi hội
nhập vào nền kinh tế quốc tế, Việt Nam đã tận dụng các cơ hội và đối mặt với những
thách thức đó như thế nào?
Và các giải pháp để khắc phục những vấn đề còn tồn tại, giúp Việt Nam hội
nhập toàn diện vào nền kinh tế thế giới?. Đây là những vấn đề mang tính thời sự và thu
hút sự quan tâm toàn xã hội. Xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề này nhóm chúng tôi
chọn đề tài: “Thực trạng và thách thức của nền nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu, đánh giá thực trạng và thách thức của nền nông nghiệp Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, đưa ra một số giải pháp khắc phục
những thách thức đó.

PHẦN 2: NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Khái niệm về nông nghiệp
2


Nông nghiệp nếu hiểu theo nghĩa hẹp chỉ có ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi
và ngành dịch vụ trong nông nghiệp. Còn nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng nó còn
bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngành thủy sản.
2.1.2. Đặc điểm của sản xuất Nông nghiệp
Ngành sản xuất nông nghiệp có nhiều đặc điểm đa dạng, có thể tóm gọn trong
một số đặc điểm chính sau:

− Thứ nhất, Đó là một ngành có lịch sử phát triển lâu đời, được coi là nền kinh tế
truyền thống. Trong tiếng Pháp, nhắc đến những cái tên như là “ngành cơ bản” hay
“ngành ra đời đầu tiên”, “secteur premier”, người ta hiểu đó chính là những khái niệm
chỉ nông nghiệp. Từ những hoạt động sơ khai của con người như săn bắn, hái lượm,
họ đã phát minh nhu cầu muốn được chăn nuôi và trồng trọt. Nông nghiệp đã ra đời từ
những thời điểm đó. Các hoạt động nông nghiệp gắn bó với con người hàng nghìn năm
nay, và chính vì lẽ này, cho dù con người có thể áp dụng những máy móc hiện đại,
song họ vẫn có thói quen áp dụng những kỹ thuật cũ để trồng trọt cũng như chăn nuôi.
Do thế mà việc thay đổi xã hội hay thói quen ở nông thôn là khó hơn so với ở thành thị
Điều này càng đúng so với những nước đang phát triển, ở đó công nghệ chưa đạt đến
trình độ cao, chưa phổ biến được sâu rộng nên việc người dân thấy được lợi ích của nó
là còn khó hơn.
− Thứ hai, Nông nghiệp là một ngành tạo ra sản phẩm thiết yếu cho con người.
Lương thực, thực phẩm; là nhu cầu cơ bản nhất của con người. Cơm ăn cong đứng
trước áo mặc. Có thể không cần đến dầu mỏ, vàng, bạc, điện...mà con người vẫn có thể
tồn tại, nhưng không thể thiếu thức ăn. Ai cũng phải tiêu dùng lương thực. Và vì thế
mà nước nào cũng phải sản xuất lương thực, hoặc nếu không sản xuất lương thực thì
phải xuất khẩu những mặt hàng khác thu ngoại tệ để nhập khẩu lương thực.
− Thứ ba, Nông nghiệp là ngành phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách quan hơn
mọi ngành khác. Nó phụ thuộc vào đất đai. Lẽ tự nhiên là hoạt động sản xuất kinh
doanh nào cũng cần đất đai, thường là để xây dựng hệ thống công ty, nhà xưởng, nhà
kho, nhưng đối với nông nghiệp đất đai chính là công cụ lao động của họ, đóng vai trò
cơ bản, chủ đạo. Trong nông nghiệp, ruộng đất không chỉ là nền móng, là địa bàn trên
đó diễn ra quá trình sản xuất như đối với công nghiệp và nhiều lĩnh vực khác, mà còn
là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt không thể thay thế được. Ruộng đất là tư liệu sản
xuất vì đất vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động. Là tư liệu sản xuất đặc
biệt vì ruộng đất không giống với các tư liệu sản xuất khác ở chỗ: giới hạn về số lượng
diện tích, không đồng nhất về chất lượng giữa các thửa đất, nếu sử dụng hợp lý thì độ
phì nhiêu của đất không ngừng tăng lên. Vì vai trò quan trọng đối với sản xuất nông
nghiệp và đặc tính riêng của ruộng đất nên không có tư liệu sản xuất thông thường nào

3


khác có thể thay thế được. Do đó việc bảo tồn quỹ đất và không ngừng nâng cao độ
phì nhiêu của đất là vấn đề sống còn đối với sản xuất nông nghiệp.
− Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến yếu tố thời tiết. Hiệu quả hoạt động
của sản xuất nông nghiệp có tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Tuy nhiên
trong nông nghiệp, chỉ cần có sự di chuyển về địa lý, đồng nghĩa với việc thời tiết,
điều kiện đất đai hay nguồn nước sẵn có bị di chuyển, thì việc sản xuất các loại cây
cũng phải khác nhau, hay thậm chí việc sản xuất các loại cây giống nhau cũng phải có
những kỹ thuật canh tác khác nhau.
− Thứ tư, tỷ trọng lao động và sản phẩm trong nền kinh tế có xu hướng giảm dần.
Xã hội càng phát triển thì số người muốn làm nông dân càng ít. Bởi vì hoạt động nông
nghiệp quá không chắc chắn, lại đem lại giá trị không cao bằng với giá trị các sản
phẩm và đang phát triển là điều dễ hiểu.
2.2. Thực trạng và thách thức của nền nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế.
2.2.1. Thực trạng của nền nông nghiệp Việt Nam
2.2.1.1. Thuận lợi
− Khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt khi trở thành thành viên
chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, những lợi ích tiềm năng như mở
rộng thị trường cho những mặt hàng xuất khẩu truyền thống và thủy sản, đồng thời
chúng ta có cơ hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của hội nhập kinh tế quốc tế
giúp tránh được những vụ kiện vô lý như cá tra - cá ba sa giữa Việt Nam và Mỹ. Một
khi ngành nông nghiệp đứng vững trên sân chơi WTO thì kinh tế nông nghiệp trở
thành động lực chính thúc đẩy công cuộc xóa đói giảm nghèo. Lúc đó, nông nghiệp là
chìa khóa tạo ra sự ổn định và phát triển vùng nông thôn. Trong bối cảnh đó, ngành
nông nghiệp có thêm nhiều cơ hội phát triển.
− Việt Nam đã được tăng vốn đầu tư và chuyển giao công nghệ cao từ các quốc
gia khác. Tuân thủ các quy định luật lệ của WTO, Việt Nam đã xây dựng và củng cố

niềm tin của các quốc gia khác trong cơ chế chính sách của mình, do đó đã thu hút
được đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Giúp cho việc công nghiệp hóa – hiện đại hóa
nông nghiệp Việt Nam.
− Đồng thời Việt Nam đã có nhiều cơ hội thuận lợi để tiếp cận nguồn vay vốn,
các hình thức tín dụng và tài trợ của các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF…
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế Việt Nam.
− Nguồn vốn FDI tăng cao. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện
nay thì mối quan tâm chính được bàn thảo là nguồn vốn FDI chảy vào Việt Nam theo
chiều hướng nào? – Đánh giá về vấn đề này GS. Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội
4


doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phân tích, FDI nhiều năm qua đã trở thành
điểm sáng trong bức tranh kinh tế của Việt Nam. Riêng năm 2009, cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế xã hội của nước ta, trong đó có
FDI cả năm 2009 chỉ đạt 10 tỷ USD bằng 86% so với năm trước. Con số thống kê trên
nói lên tính hấp dẫn của Việt Nam đặc biệt trong tăng trưởng dài hạn, bên cạnh cải
cách của Việt Nam gắn với hội nhập thì các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước đều
nhìn thấy quá trình công khai minh bạch những chính sách của Việt Nam.
− Lao động nông nghiệp có thêm công ăn việc làm người tiêu dùng sẽ mua được
những sản phẩm nông nghiệp vừa rẻ vừa tốt hơn. Nông dân nghèo canh tác ở các vùng
khó khăn sẽ có cơ may phát triển nhờ có những giống mới do các công ty quốc tế áp
dụng công nghệ sinh học tạo ra.
− Cán cân thương mại nông lâm thủy sản của Việt Nam liên tục thặng dư. Trong
bối cảnh nền kinh tế suy giảm do khủng hoảng toàn cầu thì nông nghiệp đã đứng vững
và chứng tỏ vai trò trụ đỡ.
− Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng nể trong việc nâng cao rõ rệt vị
thế, mở rộng quan hệ kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài cả về gián tiếp và trực tiếp
liên tục tăng cao.

− Cắt giảm trợ cấp xuất khẩu và thuế quan.
2.2.1.2. Thành tựu
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vượt qua bao gian khó đến nay nền
nông nghiệp nước ta đã từng bước trưởng thành và đóng góp nhiều thành tựu vào sự
nghiệp phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là những vấn đề sau đây:
− Thành tựu nổi bật nhất là nông nghiệp Việt Nam đã tăng trưởng cao, liên tục,
đặc biệt là giải quyết được vấn đề lương thực cho đất nước. Tăng trưởng bình quân
hằng năm về nông lâm và ngư nghiệp thời kỳ 1991 - 2000 đạt 4,3% trong đó nông
nghiệp đạt 5,4% (riêng lương thực đạt 4,2%, cây công nghiệp đạt 10%, chăn nuôi đạt
5,4%) thủy sản tăng 9,1%, lâm nghiệp tăng 2,1%. Sản xuất lương thực nước ta đã đạt
kết quả to lớn từ 13,478 triệu tấn lương thực năm 1976 đã tăng lên 14,309 triệu tấn
năm 1980, lên 18,20 triệu tấn 1985, lên 21,488 triệu tấn 1990, lên 27,57 triệu tấn 1995
và lên 34,254 triệu tấn năm 1999, đáng chú ý là năm 1999 so với năm 1994 sản luợng
lương thực tăng 8,055 triệu tấn, hàng năm tăng bình quân 1,611 triệu tấn. Nếu so với
năm 1976 sản lượng lương thực năm 1999 tăng 154,41% trong đó lúa gạo tăng
133,75%. Tính bình quân lương thực trên đầu người từ 274,4 kg năm 1976 giảm
xuống 268,2 kg năm 1980, tăng lên 304 kg năm 1985, lên 324,4 kg năm 1990, lên
372,5 kg năm 1995, lên 407,9 kg năm 1998 và lên 443,9 kg năm 2000. Gía trị sản xuất
nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2010 theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 232,7
nghìn tỷ đồng, tăng 4,7% so với năm 2009, bao gồm nông nghiệp đạt 168,4 nghìn tỷ
5


đồng, tăng 4,2%; lâm nghiệp đạt 7,4 nghìn tỷ đồng, tăng 4,6%; thủy sản đạt 56,9 nghìn
tỷ đồng, tăng 6,1%.
− Trong hơn bốn thập kỷ, lương thực đối với nước ta luôn là vấn đề nóng bỏng,
tình trạng thiếu lương thực diễn ra triền miên. Tính riêng 13 năm (1976-1988) Việt
Nam đã nhập 8,5 triệu tấn gạo, hàng năm nhập 0,654 triệu tấn gạo, trong đó thời kỳ
1976 - 1980 bình quân hằng năm 1,12 triệu tấn gạo. thời kỳ 1981 - 1988 bình quân
hằng năm nhập 0,3625 triệu tấn. Song từ năm 1989 trở lại đây, sản xuất lương thực

nước ta chẳng những đã trang trải nhu cầu lương thực cho tiêu dùng, có dự trữ lương
thực cần thiết mà còn dư thừa để xuất khẩu, hằng năm xuất khẩu từ 1,5 - 2 triệu tấn
gạo thời kỳ 1989 - 1995 tăng lên 3 - 4,6 triệu tấn gạo thời kỳ 1996 - 2000. Sản lượng
lúa cả năm 2010 ước tính đạt gần 40 triệu tấn, tăng 1,04 triệu tấn so với năm 2009 do
cả diện tích và năng suất đều tăng, trong đó diện tích gieo trồng ước tính đạt 7513,7
nghìn ha, tăng 76,5 nghìn ha so với năm trước; năng suất đạt 53,2 tạ/ha, tăng 0,8 tạ/ha.
− Giải quyết tốt vấn đề lương thực là điều kiện quyết định để đa dạng hóa cây
trồng, vật nuôi. Trong một thời gian dài, nông nghiệp nước ta là nông nghiệp độc canh
lúa nứơc, từ khi giải quyết được vấn đề lương thực, mới có điều kiện đa dạng hóa theo
hướng giảm tỷ trọng cây lương thực, tăng tỷ trọng cây công nghiệp, cây ăn quả…Diện
tích cây lương thực năm 1976 chiếm 88%, trong đó lúa chiếm 75,2% tổng diện tích
gieo trồng, các loại cây khác chỉ chiếm tỷ trọng thấp, tỷ trọng cây công nghiệp chiếm
6%, cây ăn quả chiếm 25%. Đến năm 2000, tỷ trọng cây lương thực giảm xuống
67,11%, trong đó lúa chiếm 61,38%, tỷ trọng cây công nghiệp tăng lên 6,33%, riêng
cây công nghiệp lâu năm chiếm 11,21%, tỷ trọng cây ăn quả tăng lên4,34%, Lương
thực dồi dào, nguồn thức ăn phong phú đã tạo điều kiện để phát triển chăn nuôi. Đàn
trâu tăng từ 2,2565 triệu con năm 1976 tăng lên 2,5902 triệu con năm 1985 và lên
2,9773 triệu con năm 1994, từ năm 1995 trở đi đàn trâu giảm xuống, năm 2000 còn
2,8972 triệu con. Đàn bò năm 1976 số lượng đàn bò chỉ bằng 71,6% so với năm 1960.
Song từ năm 1981 trở lại đây con bò được xác định không chỉ cày kéo mà là nguồn
cung cấp thịt, sữa cho nhân dân, 11 đàn bò nước ta đã tăng lên nhanh chóng, năm 2000
đàn bò cả nước đã tăng lên 4,1279 triệu con tăng 152,21% so với năm 1976, trong đó
đàn bò miền Bắc gấp 3,12 lần. Hiện nay lợn là gia súc cung cấp nguồn thịt chủ yếu cho
nhân dân, số lượng đàn lợn từ 8,9581 triệu con năm 1976 tăng lên 12,2605 triệu con,
tăng 36,86%, đó là thời kỳ lương thực đang gặp khó khăn đàn lợn tăng chậm. Từ năm
1991 trở đi lương thực được giải quyết vững chắc, đàn lợn đã tăng nhanh từ 12,1404
triệu con tăng lên 17,6359 triệu con, chỉ trong vòng 7 năm số lượng đàn bò tăng thêm
nhiều hơn 2,29 lần của 15 năm trước đó. Điều đáng chú ý là số lượng đàn lợn năm
2000 tăng125,42% so với năm 1976, trong khi đó sản lượng thịt lợn hơi tăng 326,85%.
Đạt được kết quả đó là do chất lượng đàn bò tăng lên; biểu tăng ở tỷ lệ đàn lợn lai kinh

6


tế chiếm tỷ trọng cao 70-80% tổng đàn lợn, tổng lượng xuất chuồng bình quân cả nước
đạt 69,0kg/con. Ngoài lợn, trâu bò chăn nuôi gia cầm đang phát triển mạnh về số
lượng và chủng loại, cùng với phương thức chăn nuôi truyền thống, nông dân đã tiếp
thu phát triển chăn nuôi kiểu công nghiệp. Sản lượng thịt hơi gia cầm từ 167,9 ngàn
tấn năm 1990 tăng lên 226,1 ngàn tấn năn 1997. Năm 2010 đàn lợn cả nước có 27,37
triệu con, giảm 0,9% so với cùng thời điểm năm 2009. Đàn gia cầm có 300,5 triệu con,
tăng 7,3%. Đàn trâu có 2913,4 nghìn con, tăng 0,9%. Đàn bò có 5916,3 nghìn con,
giảm 3,1%. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng năm 2010 ước tính 84,2 nghìn tấn,
tăng 6,5% so với năm 2009. Sản lượng thịt bò 278,9 nghìn tấn, tăng 5,9%. Sản lượng
thịt lợn 3036,4 nghìn tấn, tăng 0,2%. Sản lượng thịt gia cầm 621,2 nghìn tấn, tăng
17,5%. Trứng gia cầm 6371,8 triệu quả, tăng16,5%.
− Những năm gần đây thủy sản đã có bước phát triển đáng kể, công tác nuôi trồng
thủy sản được coi trọng, nhất là vùng ven biển. Những cơ sở sản xuất giống và nuôi
tôm xuất khẩu được triển khai ven biển miền Trung. Việc đánh bắt hải sản đang phát
triển và khôi phục ở nhiều địa phương và lượng thủy sản năm 2010 ước tính đạt
5127,6 nghìn tấn, tăng 5,3% so với năm 2009, trong đó cá đạt 3847,7 nghìn tấn, tăng
4,8%; tôm 588,8 nghìn tấn, tăng 7,1%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng năm nay ước
tính đạt 2706,8 nghìn tấn, tăng 4,5% so với năm trước.
− Từng bước hình thành những vùng sản xuất chuyên môn hóa với quy mô lớn.
Từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp chuyển sang sản xuất nông sản hàng hóa, nông
nghiệp nước ta đã và đang từng bước hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hóa
với quy mô lớn. Hai vùng trọng điểm lúa của nước ta là đồng bằng sông Cửu Long và
đồng bằng sông Hồng, đó là hai vùng sản xuất lúa lớn nhất của đất nước. Ở đồng bằng
sông Cửu Long, năm 2000 diện tích gieo trồng lúa đạt 3,936 triệu ha, hàng năm diện
tích trồng lúa cần được mở rộng, trong đó có những tỉnh diện tích quy mô tương đối
lớn, như tỉnh Kiên Giang có gần 540 ngàn ha, An Giang có 464 ngàn ha, Cần Thơ có
413 ngàn ha…Sản lượng lúa đạt gần 16,69 triệu tấn, chiếm hơn 51,28% sản lượng lúa

cả nước và đạt trên 80% sản lượng lúa hàng hóa và hàng hóa xuất khẩu. Năng suất
bình quân toàn vùng đạt trên 42 tạ/ha, trong đó An Giang đạt 46,9 tạ/ha, Tiền Giang46,1 tạ/ha…Đồng bằng sông Hồng diện tích gieo trồng năm 2000 đạt 1,212 triệu ha,
diện tích lúa được ổn định trong nhiều năm trở lại đây, năng suất lúa của đồng bằng
sông Hông đạt cao hơn so với đồng bằng sông Cửu Long, năm 2000 đạt 53,3 tạ/ha và
có xu hướng tăng. Sản lượng lúa đạt 6,5948 triệu tấn, chiếm 20,26% tổng sản lượng
lúa cả nước. Trong nhiều năm lương thực vùng đồng bằng sông Hồng không đủ trang
trại nhu cầu trong vùng. Những năm gần đây đã có dư thừa, những năm gần đây thóc
hàng hóa hàng năm đã đạt trên 1 triệu tấn.

7


− Cà phê là sản phẩm hàng hóa xuất khẩu quan trọng sau lúa gạo, năm 2000 diện
tích cà phê cả nước đạt 516,7 ngàn ha với sản lượng hơn 698,2 ngàn tấn cà phê nhân.
Sản lượng cà phê xuất khẩu tăng nhanh từ 9000 tấn năm 1985 tăng lên 89.6000 tấn
năm 1990, lên 212,0 ngàn tấn năm 1995 và trên 694,0 ngàn tấn năm 2000. Năm 2010
diện tích cà phê cả nước 548,2 nghìn ha, tăng 9,7 nghìn ha, sản lượng cà phê ước tính
1105,7 nghìn tấn, tăng 4,6% so với năm 2009. Cà phê được phân bố tập trung nhất ở
Tây Nguyên chiếm 80,25% diện tích và 85,88 sản lượng, riêng tỉnh ĐăkLăk chiếm
48,93% diện tích và 64,73% sản lượng cà phê nhân cả nước…Ngoài vùng cà phê Tây
Nguyên, cà phê cũng phát triển mạnh ở các vùng Đông Nam Bộ, chiếm 71,14% diện
tích và 78,64% sản lượng cao su mủ khô cả nước, trong đó tập trung ở hai tỉnh Bình
Phước chiếm 44,39% diện tích và 42,44% sản lượng cao su cho cả nước. Cao su còn
được phát triển mạnh ở Tây Nguyên, chiếm 21,44% diện tích và 17,20% sản lượng mủ
cao su. Năm 2010 cao su ước tính đạt 754,5 nghìn tấn, tăng 6,1%.
− Hạt điều là sản phẩm có giá trị kinh tế cao, là một trong những cây xuất khẩu
quan trọng. Cây điều được trồng ở nước ta từ lâu, phân bố từ Quảng Nam trở vào, đến
năm 2000, cả nước có 195,3 ngàn ha diện tích với 70,1 ngàn tấn sản lượng, trong đó
vùng Đông Nam Bộ chiếm 69,4% về diện tích và 78,89% về sản lượng hạt điều cả
nước, tập trung nhiều nhất ở tỉnh Bình Phước và Đồng Nai. Cây điều gần đây được

phát triển mạnh ở các tỉnh Tây Nguyên.
− Năm 2010 sản lượng một số cây ăn quả cũng tăng khá, trong đó sản lượng cam,
quýt cả năm ước tính đạt 729,4% nghìn tấn, tăng 5,2% so với năm trước; dứa 502,7
nghìn tấn, tăng 3,8%; chuối 1,7 triệu tấn, tăng 3%; xoài 574 nghìn tấn, tăng 3,6%; bưởi
394,1 nghìn tấn, tăng 3,4%.
− Về chăn nuôi được phân bố đồng đều ở các vùng trong cả nước, tính tập chưa
cao, song bước đầu đã thể hiện sự hình thành vùng sản xuất hàng hóa tương đối rõ.
Lợn là vật nuôi quan trọng, cung cấp nguồn thực phẩm chủ yếu cho nhân dân nước ta,
sản lượng thịt hơi chiếm 76,8% tổng sản lượng thịt hơi.Tính bình quân cả nước trên
1ha đất canh tác hàng năm có 3,18 con lợn và sản xuất được 207,8kg thịt hơi, trong lúc
đó vùng đồng bằng sông Hồng là nơi chăn nuôi lợn khá tập trung, chiếm 22,19% tổng
đàn lợn và 26,41% tổng sản lượng thịt hơi sản xuất ra của cả nước tính trên ha đất
canh tác hàng năm có 6,2 con lợn, cao gấp hai lần bình quân chung cả nước và 503,9
kg thịt hơi, cao gấp 2,5 lần so với bình quân chung cả nước. Đàn bò cả nước có gần
4,0 triệu con năm 1997, tình bình quân trên 1ha đất nông nghiệp có 0,51 con và sản
xuất được 9,4 kg thịt hơi, trong đó vùng Duyên hải miền Trung đạt mức cao nhất –
1,83 con/ha và 33,63 kg thịt hơi/ha cao gấp ba lần bình quân chung cả nước. Tiếp đó là
vùng khu 4 đạt mức 1,29 con/ha và 13,48 kg thịt hơi/ha.

8


− Nhờ quá trình chuyển nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa theo hướng đa dạng
tạo điều kiện để từng bước hình thành những vùng sản xuất chuyên môn hóa, có quy
mô sản phẩm hàng hóa lớn.
− Nông nghiệp đã góp phần quan trọng trong việc tăng nguồn hàng xuất khẩu,
tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước. Với quan điểm xuất khẩu để tăng trưởng kinh tế,
nông nghiệp nước ta đã có những tiến bộ và chuyển biến tích cực. Năm 1986, giá trị
xuất khẩu nông, lâm thủy sản đạt 513 triệu đô la tăng lên 7168,3 triệu đô la năm 1996.
Sau 10 năm tổng kim ngạch xuất khẩu đã cao gấp hơn 6 lần. Đáng chú ý là thời kỳ

1991 – 1995 trong 10 năm hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn của cả nước thì nông lâm
thủy sản có 6 mặt hàng, đó là gạo, cà phê, cao su, hạt điều, lạc nhân và thủy sản.
− Năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm thủy sản đã đạt trên 18 tỷ
USD, đưa nước ta thành một trong những quốc gia xuất khẩu nông, lâm, thủy sản lớn
trên thế giới. Năng suất lúa năm 2010 đạt 53tạ/ha, gấp 4,4 lần năng suất năm 1945 và
gấp 2 lần năm 1985. Sản lượng lúa năm 2010 đạt gần 40 triệu tấn; sản lượng thịt tăng
gấp 5 lần so với năm 1985; độ che phủ của rừng tăng lên 39,5% vào năm 2010. Thủy
sản năm 2010 đạt tổng sản lượng 4,8 triệu tấn. Sản lượng muối đạt 1,1 triệu tấn. Nước
ta đã tham gia xuất khẩu gạo, cà phê, cao su, chè, điều, hồ tiêu, thủy sản, các loại lâm
sản với số lượng và chất lượng ngày càng tăng. Hạt điều và hạt tiêu có giá trị xuất
khẩu cao nhất thế giới và được đánh gía cao về chất lượng; gạo, cà phê đứng thứ hai,
cao su đứng thứ tư, thủy sản đứng thứ năm, chè đứng thứ bảy…Đã có năm mặt hàng
kim ngạch xuất khẩu từ 1tỷ USD trở lên là gạo, thủy sản, đồ gỗ, cà phê và cao su. Hệ
thống thủy lợi với hàng nghìn hồ đập, trạm bơm, hàng chục nghìn km kênh mương, đê
kè đã được hình thành.
− Trong sự phát triển nhanh chóng của ngành nông lâm nghiệp trong những năm
qua đã có sự đóng góp đáng kể của đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật thuộc các viện,
các trung tâm nghiên cứu các trường đại học và cán bộ khuyến nông, khuyến lâm ở
khắp mọi miền đất nước. Thành tựu nổi bật nhất của ngành nông nghiệp Việt Nam
hiện nay là GDP hàng năm tăng trưởng tương đối ổn định, bình quân từ 4,2% đến
4,5%/năm. Tổng giá trị nông, lâm và thủy sản năm sau thường cao hơn năm trước,
năm 2009 đã đạt khoảng 12,5 tỷ USD. Hiện nay, nhiều tiến bộ khoa học và công nghệ
áp dụng vào sản xuất nông nghiệp đã tạo ra giá trị gia tăng trong tăng trưởng nông
nghiệp khoảng 30%. Những năm qua, các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học Việt
Nam nghiên cứu thành công các quy trình công nghệ và chọn tạo được nhiều giống
cây trồng, gia súc…Những tiến bộ kỹ thuật đó đã được áp dụng vào sản xuất nông
nghiệp trên nhiều lĩnh vực như: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và chế biến
sau thu hoạch. Năm 2011 cũng là năm thứ 21, nước ta thực hiện kim ngạch xuất khẩu
gạo cao. Khả năng cả năm 2010, xuất khẩu đạt 6,5 triệu tấn, trong đó đến ngày 9 - 119



2010 đã giao cho bạn hàng nước ngoài 5,9 triệu tấn gạo, với giá trị kim ngạch 2,5tỷ
USD (giá FOB) tăng 9% về số lượng và 14% giá trị kim ngạch. Giá gạo xuất khẩu
đang ngày càng tăng dần, bình quân đạt 424 USD/tấn, tăng 18,58 USD/tấn so cùng kỳ
năm 2009…Với sản lượng lúa chiếm hơn 90% số sản luợng các cây lương thực có hạt,
Việt Nam đang trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
− Nông nghiệp đã tạo ra nhiều việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo (tỷ lệ hộ
đói nghèo giảm 2%/năm). Trước đổi mới, số người sống dưới mức đói nghèo là 60%,
năm 2003 giảm xuống còn 29% và năm 2006 còn 19%. Mức giảm đói nghèo ấn tượng
này chỉ có ở Việt Nam và Trung Quốc đã đạt được trong thời gian qua, chủ yếu là nhờ
thành tựu to lớn trong lĩnh vực nông nghiệp, phát triển nông thôn. Trong khi công
nghiệp và dịch vụ còn đang lấy đà thì nông nghiệp và kinh tế nông thôn vẫn là nơi tạo
việc làm chính cho dân cư nông thôn.
− Môi trường được cải thiện một cách rõ rệt. Thập kỷ 90 của thế kỷ 20 chứng
kiến những bước ngoặt quan trọng về nhận thức và hành động của lâm nghiệp, chuyển
từ khai thác rừng tự nhiên sang bảo vệ rừng, tăng đầu tư trồng mới, khoanh nuôi; xã
hội hóa hoạt động trồng và bảo vệ rừng. Chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc
(327), chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng cùng các chính sách giao đất, giao rừng
và hạn chế khai thác gỗ đã góp phần tăng tỷ lệ che phủ rừng từ 33,2% (năm 1999) lên
38% (năm 2006), tăng lên 39,5% vào năm 2010.
− Công tác thủy lợi và phòng chống thiên tai có chuyển biến tích cực. Đến nay, cả
nước có 75 hệ thống thủy lợi lớn; gồm 800 hồ chứa lớn; 3.500 hồ chứa dung tích trên
1 triệu m3; trên 1.000 trạm bơm; hàng vạn công trình khác có khả năng tưới trực tiếp
cho 3,45 triệu ha, tiêu cho 1,7 triệu ha, ngăn mặn 0,87 triệu ha, cải tạo chua phèn 1,6
triệu ha và cấp hơn 5 tỷ m3/năm cho sinh hoạt và công nghiệp. Bên cạnh đó, hệ thống
đê điều đồ sộ với 5.700 km đê sông, 2.000 km đê biển, 23.000 km bờ bao làm nền cho
công tác phòng chống thiên tai.
− Đặc biệt năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO đã đánh dấu một bước chuyển
biến lớn của kinh tế cả nước nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng.
− Sau 3 năm gia nhập WTO, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những kết quả rõ

rệt. Giá trị xuất khẩu tiếp tục duy trì đà tăng. Nếu như năm 2007, giá trị xuất khẩu đạt
xấp xỉ 12,5 tỷ USD thì năm 2008, con số này là 16 tỷ USD và năm 2009 xuất khẩu đạt
15,4 tỷ USD. Cán cân thương mại nông lâm thủy sản năm 2007 xuất siêu 5,450 tỷ
USD. Năm 2008 tiếp tục tăng xuất siêu với mức 5,874 tỷ USD và năm 2009 là 7,3 tỷ
USD. Như vậy sau 4 năm hội nhập vào tổ chức WTO với ba cú sốc về giá lương thực,
giá xăng dần và khủng hoảng kinh tế toàn cầu phủ “bóng đen” lên Việt Nam, nhà nước
đã thể hiện được vai trò “trụ đỡ” trong việc chống chọi được với những khủng hoảng
kinh tế.
2.2.2. Khó khăn và thách thức
10


Bên cạnh những thành tựu đạt được nêu trên, nông nghiệp nước ta cũng còn
nhiều tồn tại và hạn chế đặc biệt khi gia nhập WTO cũng tạo ra cho nông nghiệp nhiều
thách thức:
− Bình quân đất nông nghiệp trên số dân làm nông ở Việt Nam là rất thấp, chỉ có
0.16ha/đầu người. Vấn đề đối với quy mô đất nhỏ của các nông hộ càng trầm trọng
hơn do tính xé lẻ, một kết quả của áp lực gia tăng dân số, và cụ thể ở miền Bắc là do
quá trình giao đất cho các nông hộ sau khi xóa bỏ hệ thống hợp tác xã kiểu cũ. Hơn
nữa, do những kiểm soát chặt chẽ của chính phỉ, thị trường quyền sử dụng đất vẫn
chưa rõ ràng và do đó vận hành chưa có hiệu quả.
− Vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn quá thấp, chỉ bằng 10% so với tổng đầu
tư ngân sách xã hội. Chính vì đầu tư thấp nên sản xuất nông nghiệp vẫn còn manh
mún, nhỏ lẻ, trình độ canh tác của nông dân lạc hậu, hệ thống hạ tầng phục vụ nông
nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu, tốc độ cơ giới hóa chậm, chất lượng nông sản
thấp, giá thành cao, khả năng cạnh tranh kém, luôn bị động trước những diễn biến thị
trường. Bên cạnh đó con số đầu tư 10% ngân sách cho nông nghiệp cũng chưa thực sự
hiệu quả bởi chúng ta chưa làm tốt công tác quy hoạch, xây dựng chiến lược và có
chính sách cụ thể, hợp lý.
− Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm, thiếu bền vững.

Ngành trồng trọt chiếm tỉ trọng lớn, trên 57%, các ngành chăn nuôi, lâm nghiệp chưa
phát huy hết tiềm năng, lợi thế và xu hướng phát triển không ổn định. Việc xây dựng
các vùng nguyên liệu lớn, tập trung cho các ngành công nghiệp chế biến tiến hành
chậm.
− Việc ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ vào quá trình sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp còn chậm. Hầu hết các loại cây trồng vật nuôi có năng suất, chất
lượng và khả năng cạnh tranh thấp. Năng suất cây trồng thường mới đạt từ 50% đến
70% mức bình quân chung của thế giới. Công tác nghiên cứu, chuyển giao khoa học –
kĩ thuật, công nghệ mới tồn tại nhiều bất cập. Hệ thống quản lý thủy nông, thú y, bảo
về thực vật, cung ứng giống, vật tư chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa nông
nghiệp.
− Công tác bảo về rừng và tuyên truyền phòng chống cháy rừng luôn được các địa
phương quan tâm và tổ chức triển khai đến các thôn, bản. Tuy nhiên, do thời tiết đầu
năm khô hạn kéo dài nên hiện tượng cháy rừng vẫn xảy ra tại một số địa phương. Tổng
diện tích rừng bị cháy và bị chặt phá năm 2010 là 7781 ha, trong đó diện tích rừng bị
cháy là 6723 ha; diện tích rừng bị chặt phá là 1058 ha. Các địa phương có diện tích
rừng bị cháy nhiều là: Hà Giang 842 ha, Lào Cai 795,5 ha, Yên Bái 740,5 ha, Sơn La
663 ha, Cao Bằng 232,3 ha, Quảng Trị 180 ha, Kom Tum 171 ha, Đồng Tháp 130,4 ha,
Nghệ An 115,3 ha.
11


− Nhiều hàng rào kỹ thuật sẽ được tạo lập khi thuế quan giảm nhằm hạn chế hàng
nhập khẩu bên ngoài vào.
− Những ngành có ít lợi thế so sánh sẽ bị sức ép nhiều hơn như: mía đường, sữa,
bông, chăn nuôi,…
− Nông sản chế biến chịu sức ép nhiều hơn so với nông sản thô. Một số ngành
hàng chăn nuôi, rau quả ôn đới chịu tác động của WTO.
− Năng suất lao động rất thấp.
− Chất lượng năng suất hàng hóa nhìn chung còn rất thấp không đồng đều.

− Việt Nam xuất khẩu nhất nhì thế giới về gạo, cà phê, hồ tiêu, điều nhân…nhưng
chỉ mới là xuất thô, hàm lượng chất xám trong nông sản xuất khẩu chưa nhiều.
− Giá thành cao, sản xuất manh mún là yếu tố khiến ngành nông nghiệp không
thể đáp ứng những đơn đặt hàng với số lượng lớn. Các giống cây con mới nhập vào
nước ta bán rất đắt, bà con lại không thể tùy tiện nhân giống vì vấn đề bản quyền là
những trở ngại lớn của ngành nông nghiệp. Nhiều mặt hàng nông sản của ta hiện nay
giá cao hơn nước ngoài, chất lượng không bảo đảm. Khả năng chuyển từ xuất khẩu thô
lên chế biến với thương hiệu riêng để tăng giá trị gia tăng của các doanh nghiệp đòi
hỏi cả một quá trình.
− Ngành chăn nuôi cơ bản vẫn là phân tán, trình độ thấp. Giá thành cao, chất
lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập. Hai mặt hàng
chiến lược là thịt heo và bò, dù năng suất được cải thiện nhưng so với hệ thống chăn
nuôi hiện đại, hiệu quả như Australia, New Zealand, trình độ vẫn còn thấp. Sản phẩm
chăn nuôi trong nước còn phải đối mặt với việc trợ cấp của các nước giàu. Một con bò
của EU được hưởng trợ cấp 2,62 USD/ngày.
− Khi Việt Nam mở cửa thị trường việc tăng các sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu
tác động đến giá các mặt hàng trong nước. Nhưng điều đáng lo ngại là những hộ nuôi
nhỏ lẻ ở Việt Nam còn chiếm một tỷ lệ khá lớn, sẽ khó cạnh tranh về giá cả nếu như
không có những thay đổi căn bản về sản xuất.
− Tổng vốn ngân sách tập trung mà Chính phủ giao cho Bộ NN&PTNT thực hiện
xây dựng cơ bản, chỉ dừng ở mức trên 3.672 tỷ đồng, trong đó có trên 1.519 tỷ đồng
vốn trong nước và 2.153 tỷ đồng vốn nước ngoài. Điều này gây khó khăn không nhỏ
cho việc đã gặp nhiều khó khăn trong việc bố trí kế hoạch và giải quyết các công việc
cấp bách của ngành, nhất là các công trình liên quan đến hoạt động sản xuất nông, lâm,
thủy sản.
− Sau hội nhập WTO xuất khẩu tiếp tục đối mặt với các rào cản kỹ thuật và áp lực
nhà sản xuất nước ngoài. Đã từng có một xu hướng ảo tưởng cho rằng khi hội nhập
WTO, cơ hội để hàng Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới sẽ trở nên dễ dàng. Điều
này có thể đúng trên bình diện xu thế, nhưng không hoàn toàn đúng trong ngắn hạn,
đặc biệt trong bối cảnh thị trường thế giới suy thoái.

12


− Chưa chuẩn bị tốt về năng lực bảo về người tiêu dùng nội địa. Sau 3 năm hội
nhập WTO, những hạn chế về chế tài, về phân định chức năng nhiệm vụ của bộ máy
triển khái, và năng lực con người và phương tiện của bộ máy triển khai đã làm cho
Việt Nam gặp phải những thách thức rất lớn đối với các vấn đề an toàn thực phẩm. Ở
thị trường nội địa vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm gặp nhiều vấn đề đối với cả sản
phẩm sản xuất trong nước và sản phẩm nhập khẩu. Thực tế hiện nay cho thấy tình
trạng tổn dư các chất có hại cho sức khỏe con người trong rau quả rất cao; gia súc, gia
cầm bệnh, chết vẫn được đưa vào các lò mổ lậu; sử dụng hóa chất cấm trong chăn nuôi
đang tái diễn.
− Thương mại các sản phẩm có mức giảm thuế nhập khẩu mạnh hơn cam kết
WTO. Việt Nam đã thực hiện cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu cao hơn cả mức cam
kết và nhanh hơn mức cam kết theo lộ trình cho dù trước đó khi đàm phán Việt Nam
đã nỗ lực để nâng được mức thuế suất lên cao cho nhóm mặt hàng thịt để bảo hộ
ngành chăn nuôi trong nước. Về phía các cơ quan đưa ra quyết định giảm thuế suất
thuế nhập khẩu này, các giải thích chính được đưa ra là nhằm đảm bảo nguồn cung thịt
và thực phẩm cho nhu cầu tiêu dùng trong nước được dự đoán là sẽ bị ảnh hưởng nặng
nề bở đợt rét đậm, rét hại cuối năm 2007 và đầu năm 2008. Tuy nhiên, ngay sau khi
mức thuế suất thuế nhập khẩu được giảm xuống nhanh và dưới cả mức cam kết, lượng
nhập khẩu các sản phẩm thịt gia cầm của Việt Nam đã tăng mạnh và gây áp lực mạnh
lên ngành chăn nuôi gia cầm trong nước, trong đó chủ yếu là các hộ gia đình, trang trại
chăn nuôi gia cầm ở khu vực nông thôn. Rất có thể, trong tương lai áp lực nhập khẩu
sẽ đặc biệt tăng mạnh khi các hãng bán lẻ nước ngoài thâm nhập ngày càng mạnh vào
thị trường Việt Nam.
− Nhiều nông sản của Việt Nam giá thành còn cao và chưa có thương hiệu uy tín
trên quốc tế. Do vậy, trong quá trình tự do hóa thương mại, một số lĩnh vực NN cạnh
tranh yếu sẽ bị thu hẹp, dẫn đến một bộ phận không nhỏ lao động nông thôn mất việc
làm, giảm thu nhập nhất là các nông hộ ở các xã nghèo, vùng dân tộc thiểu số.

2.3. Giải pháp
Công cụ thuế quan nên được sử dụng mềm dẻo và phán ứng nhanh đảm bảo các
lợi ích ngắn hạn và dài hạn. Nên áp dụng mức cam kết và lộ trình thực hiện, có thể
điều chỉnh tùy theo tình hình, tuy nhiên cần có phân tích đánh giá ảnh hưởng trước khi
quyết định “vượt rào” và giám sát tình hình thực tiễn khi đang áp dụng để có điều
chỉnh kịp thời.
Các biện pháp phí thuế quan cần được sử dụng dựa trên cơ sở nghiên cứu kỹ
khối lượng hạn ngạch đảm bảo các mục tiêu như: Đảm bảo cân đối cung cầu; Điều
chỉnh linh họat tùy theo tình hình thị trường và Bảo hộ nhưng cần tăng cường cạnh
tranh của ngành nông nghiệp.
13


Tăng đầu tư dịch vụ công về thông tin giám sát thị trường (trong nước và quốc
tế) cho các nền nông nghiệp. Rất cần xây dựng đội ngũ tư vẫn về hội nhập để giúp cho
các chiến lược hội nhập dài hạn và cả các phản ứng chính sách trong ngắn hạn dựa trên
cơ sở khoa học, tránh các rủi ro và tổn thất không đáng có.
Phổ biến thông tin về WTO cho doanh nghiệp không chỉ các cam kết của Việt
Nam mà các dự báo tác động nhập khẩu nhập khẩu và cơ hội về mở rộng thị truờng –
giảm thuế thị trường nhập khẩu của các nước đối với hàng Việt Nam.
Cần có phân tích đánh giá về tác động của việc mở cửa mạng lưới bán lẻ sản
phẩm nông sản với tình hình nhập khẩu và sản xuất trong nước.
Nhà nước cần có ngay chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp phù hợp với
quy tắc chung của WTO; cần chăm lo phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp và nông
thôn, ứng dụng công nghệ mới, cung cấp thông tin thị trường, phát triển nguồn nhân
lực,…
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Qua đó ta thấy nền nông nghiệp Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được
nhiều thành tựu, tuy nhiên, nông nghiệp hiện vẫn rất khó khăn để tạo ra các thay đổi về
chất trong hoạt động. Dù đã tạo ra sản lượng lương thực đủ tiêu dùng trong nước và

xuất khẩu từ nhiều năm (riêng năm 2009 là gần 39 triệu tấn, xuất khẩu trên 6 triệu tấn,
kim ngạch 2,7 tỷ USD), nhưng những mâu thuẫn cơ bản của nông nghiệp Việt Nam rất
chậm được xử lý. Sự tác động của cơ chế, của khoa học, kỹ thuật đã làm tăng năng
suất trồng cấy, thúc đẩy tổng sản lượng tăng theo, nhưng phương thức canh tác, trồng
cấy của người nông dân vẫn thực hiện theo truyền thống, kinh nghiệm như hàng nghìn
năm qua. Sự thâm nhập của phương thức sản xuất mới, máy móc hiện đại vào nông
nghiệp có, nhưng kết quả thì vẫn hạn chế. Lý do là vì ruộng đất được chia nhỏ cho các
hộ gia đình ở nông thôn, bình quân diện tích nhỏ, manh mún và do đó lại hạn chế, triệt
tiêu nhu cầu ứng dụng công nghệ cao để gia tăng giá trị khai thác đất. Kết quả là tại
nhiều vùng, ruộng đất chỉ tạo ra sản lượng lương thực đủ ăn cho mỗi gia định sở hữu
ruộng, nhiều vùng khác thậm chí là không tạo ra sản lượng đủ ăn. Để gia tăng giá trị
khai thác từ nông nghiệp, một giải pháp đưa ra là khuyến khích tích tụ ruộng đất, hình
thành mô hình canh tác kiểu công nghiệp với sự tham gia của máy móc, khoa học,
công nghệ, hay mô hình trang trại có diện tích lớn, hoạt động khép kín. Tuy nhiên, tích
tụ ruộng đất lại làm nảy sinh vấn đề thừa lao động, thiếu ruộng tại nông thôn và từ đó
gây bất ổn xã hội… Hướng xử lý nữa là chủ trương hình thành các vùng sản xuất
chuyên canh lớn, tập trung như cà phê, chè, mía… Nhưng cũng lại là thực tế tại các
vùng sản xuất lớn này, cứ tăng được sản lượng thị lại giảm về giá bán, thậm chí nông
dân bị ép giá tới không còn lãi, hoặc lỗ nặng. Những câu chuyện về cá ba sa nguyên
liệu, hay hiện tại là giá lúa tại đồng bằng sông Cửu Long, cà phê tại Tây Nguyên là ví
dụ tiêu biểu cho những khiếm khuyết trong hình thanh các vùng sản xuất lớn. Nông
14


dân không có thu nhập ổn định từ đất đã hạn chế tốc độ ứng dụng khoa học, công
nghệ, kỹ thuật cao vào sản xuất. Vòng luẩn quẩn là ở chỗ, thiếu đột phá từ ứng dụng
khoa học, công nghệ lại không nâng cao được thu nhập của nông dân. Kết quả là nhà
nông chính là đối tượng có thu nhập bình quân tăng chậm nhất.

15




×