Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận các hình thức xử phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội Tâm lý tội phạm chưa thành niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.5 KB, 13 trang )

MỞ ĐẦU
Người chưa thành niên vi phạm pháp luật nói chung và phạm tội nói
riêng là một hiện tượng xã hội tiêu cực đã tồn tại từ lâu trong lịch sử. Ở mỗi
quốc gia, việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành
niên phạm tội là khác nhau. Ở Việt Nam, xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí của
người chưa thành niên và sự phát triển chưa hoàn thiện về thể chất và tinh thần
nên pháp luật quy định chính sách xử lí đối với người chưa thành niên phạm tội
luôn đề cao vấn đề giáo dục, giúp đỡ các em sửa chữa sai lầm, tạo điều kiện để
các em phát triển lành mạnh về cả thể chất và tinh thần. Đồng thời, hướng các
em trở thành một công dân có ích cho xã hội. Bằng những hiểu biết của bản
thân em xin nghiên cứu đề tài: “các hình thức xử phạt được áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội.”. trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, do
kiến thức còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai xót, em kính mong
thầy cô có thể góp ý đóng góp ý kiến giúp em hoàn thiện bài tốt hơn. Em xin
chân thành cảm ơn!


NỘI DUNG
I. Những khái niệm cơ bản về người chưa thành niên phạm tội
1. Khái niệm người chưa thành niên
Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ
về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật
ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em
có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em
có quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất
trong Hiến Pháp năm 2013, Bộ luật Hình sự năm 2015, , Bộ luật Lao động, Bộ
luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm
pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người


chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối
với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể.
Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1
Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt
Nam dưới 16 tuổi”.
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát
triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn
độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy
định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.
Như vậy, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi,
chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.
Tham khảo thêm các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến người chưa
thành niên gồm: Công ước về Quyền trẻ em (United Nations Convention on the
Rights of the Child) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20-111989; Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với
người chưa thành niên (United Nations Standard Minimum Rules for the
Administration of Juvenile Justice /Beijing Rules) ngày 29-11-1985; Hướng dẫn
của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên (United
Nations Guidelines for the Prevention of Juvenile delinquency/ Riyadh
Guidelines) ngày 14-12-1990. Theo quan niệm quốc tế thì trẻ em (Child) là
người dưới 18 tuổi, người chưa thành niên (Juvenile) là người từ 15 đến 18 tuổi,


thanh niên (Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi, người trẻ tuổi (Young persons)
bao gồm trẻ em, người chưa thành niên và thanh niên.
2. Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra
Điều 12 Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy
định tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.

2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng…”.
Như vậy, người chưa thành niên phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự
có thể là:
-Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý,
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
- Nguời từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm một tội được quy định trong
Bộ luật Hình sự.
Đối với người chưa thành niên, việc xác định một trường hợp cụ thể người
có hành vi phạm tội có trở thành tội phạm hay không còn căn cứ vào nguyên tắc
được quy định tại Điều 90 Bộ luật Hình sự:
“1. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội phải đảm bảo lợi ích tốt
nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Như vậy, tội phạm do người chưa thành niên gây ra chỉ xuất hiện (phát
sinh) khi có đầy đủ 3 điều kiện sau đây:
Một là, có hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện.
Hai là, người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự tương ứng với loại tội phạm và lỗi gây ra tội phạm.
Ba là, người đó thực tế phải chịu trách nhiệm hình sự sau khi các cơ quan
có thẩm quyền cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không thể áp
dụng các biện pháp tư pháp hoặc các biện pháp khác để quản lý, giáo dục và
phòng ngừa tội phạm.
Những điều kiện trên cũng cho thấy tầm quan trọng trong việc xác định tội
phạm do người chưa thành niên gây ra. Tội phạm do người chưa thành niên gây
ra bao giờ cũng gắn liền với một người chưa thành niên có hành vi phạm tội cụ


thể nhưng không phải mọi trường hợp một người chưa thành niên thực hiện hành

vi phạm tội đều trở thành tội phạm.
Tội phạm do người chưa thành niên gây ra có những đặc điểm riêng so với
tội phạm do người đã thành niên gây ra. Tội phạm do người đã thành niên gây ra
là những hành vi nguy hiểm cho xã hội có đủ dấu hiệu tội phạm và đủ yếu tố cấu
thành tội phạm. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra ngoài những dấu hiệu
và yếu tố pháp lý còn được xác định bằng sự nhận định, cân nhắc cụ thể của cơ
quan có thẩm quyền khi quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội.
Từ những phân tích trên có thể khái niệm: Tội phạm do người chưa thành
niên gây ra là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bởi người dưới 18
tuổi và người đó phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với hành vi và lỗi của
mình theo phán xét của cơ quan tiến hành tố tụng...
Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra không đồng nhất với
khái niệm người chưa thành niên phạm tội nhưng hai khái niệm đó có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội là khái niệm
dùng để chỉ một dạng chủ thể đặc biệt (người chưa thành niên) thực hiện hành vi
phạm tội, còn khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra là khái niệm
dùng để chỉ tội phạm đã được thực hiện bởi một dạng chủ thể đặc biệt (người
chưa thành niên).
II. các hình thức xử phạt được áp dụng với người chưa thành niên
phạm tội.
1. Cảnh cáo
Điều 34 BLHS 2015 quy định về hình phạt cảnh cáo như sau: “Cảnh cáo
được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm
nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.”
Trong hệ thống các hình phạt chính của luật hình sự, cảnh cáo là hình phạt
nhẹ nhất và là loại hình phạt không tước tự do. Cảnh cáo là một hình thức khiển
trách công khai trước phiên tòa thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối
với người chưa thành niên đủ từ 16 đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng và
có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt nhằm giáo dục

các em ý thức tôn trọng pháp luật và răn đe các em không phạm tội mới.Hình
phạt cảnh cáo được quy định tại điều 34 BLHS 2015.


Việc thi hành hình phạt cảnh cáo được quy định tại điều 71 Luật thi hành
án hình sự năm 2010. Cụ thể như sau:
“1. Hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa do Tòa án tuyên.
2. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, Toà án
đã xét xử sơ thẩm phải gửi bản án cho người bị phạt cảnh cáo, cơ quan thi hành
án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu, Ủy
ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội nơi người bị phạt cảnh cáo cư trú hoặc
làm việc, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm có trụ sở.
3. Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án
hình sự cấp quân khu có trách nhiệm theo dõi, thống kê, báo cáo theo quy định
của Luật này.”
2. Phạt tiền
Hình phạt phạt tiền đối với người chưa thành niên được quy định tại điều
99 BLHS như sau:
“Điều 99. Phạt tiền
Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng.
Mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội
không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định.”
Hình phạt tiền thuộc loại hình phạt không tước tự do, nhẹ hơn hình phạt
cải tạo không giam giữ. Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với
người chưa thành niên phạm tội đủ từ 16 đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu
nhập hoặc có tài sản riêng và mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm
tội không vượt quá ½ mức tiền phạt mà điều luật quy định đối với người chưa
thành niên. Như vậy, trong mọi trường hợp hình phạt tiền không được áp dụng
đối với trẻ em phạm tội cũng như đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ

16 đến dưới 18 tuổi nhưng không có thu nhập hoặc có tài sản riêng ( điều 99
BLHS 2015).
3. Cải tạo không giam giữ
Hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội
được quy định tại điều 100 BLHS 2015 như sau:
“1. Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít


nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
phạm tội rất nghiêm trọng.
2. Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18
tuổi phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó.
Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định.”
Cải tạo không giam giữ là hình phạt không buộc người chưa thành niên
phạm tội phải cách ly khỏi môi trường sống bình thường, mà họ được giáo dục,
cải tạo ngoài xã hội với sự giám sát và giúp đỡ của gia đình và chính quyền địa
phương.
Hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính được quy định tại
điều 100 BLHS 2015 nặng hơn hình phạt tiền và hình phạt cảnh cáo nhưng lại
nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn. việc ra quy định hình phạt này trong hệ thống
hình phạt đã mở ra khả năng cho tòa án có thể lực chọn và áp dụng đối với
những trường hợp phạm tội mà nếu áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền thì
chưa đủ nghiêm khắc để giáo dục người phạm tội, đồng thời cũng chưa đủ
nghiêm khắc để răn đe những người “ không vững vàng” ngoài xã hội. Ngược
lại, nếu áp dụng hình phạt tù có thời hạn thì lại quá nghiêm khắc và thật sự
không cần thiết trong khi người phạm tội hoàn toàn không có khả năng tự cải
tạo, giáo dục trong mội trường sống bình thường với sự giúp đỡ của gia đình, cơ
quan, tổ chức, chính quyền địa phương mà không cần cách ly người chưa thành

niên phạm tội ra khỏi xã hội.
Hình phạt cải tạo không giam giữ áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội nhằm tạo điều kiện cho người bị kết án có cơ hội được học tập, lao
động tại cộng đồng dưới sự giám sát của cơ quan, tổ chức, chính quyền địa
phương nơi người bị kết án cư trú, qua đó các em có cơ hội để chứng tỏ sự hối
cải, hoàn lương của mình ngay tại môi trường xã hội mà trước khi phạm tội các
em đã sinh sống, học tập.


Theo quy định của BLHS thì hình phạt cải tạo không giam giữ được áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng.
Do đó, việc áp dụng hình phạt này chỉ được thực hiện với người chưa thành niên
phạm tội từ đủ 16 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi. Đối với người chưa thành
niên đủ từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với
tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng( điều 12 BLHS).
Người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam
giữ phải có nơi làm việc ổn định, có nơi thường trú rõ ràng hoặc có môi trường
sống thuận lợi cho việc giáo dục, cải tạo. Khi áp dụng hình phạt này, Tòa án gia
người bị kết án cho nhà trường, tổ chức nơi người đó học tập, làm việc hoặc
chính quyền địa phương nơi nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục. đồng
thời, gia đình và người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với nhà trường, cơ
quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
Việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng theo quy định tại
điều BLTTHS.
Thời hạn cải tạo không giam giữ áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội không quá ½ thời hạn mà điều luật quy định. Điều đó có nghĩa là thời
hạn cao nhất của hình phạt cải tạo không giam giữ áp dụng với người chưa thành
niên là một năm sáu tháng.
Để đảm bảo quyền lợi của người bị kết án là người chưa thành niên phạm
tội cũng như sự công bằng của pháp luật, BLHS quy định thời hạn tạm giam,

tạm giữ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử được tính vào thời gian chấp hành
hình phạt cải tạo không giam giữ theo nguyên tắc quy đổi cứ một ngày tạm giam
giữ bằng ba ngày cải tạo không giam giữ.
Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành
niên phạm tội thì không khấu trừ thu nhập của người đó. Việc pháp luật quy
định không khấu trừ thu nhập của người chưa thành niên phạm tội khi áp dụng
hình phạt cải tạo không giam giữ là xuất phát từ thực tế khách quan là: người ở
độ tuổi này thường là những người đang đi học còn phụ thuộc vào gia đình, các


em chưa có nghĩa vụ lao động hoạc nếu có tham gia lao động thì thu nhập của
các em cũng không đáng kể vì sức khỏe, tính chất và công việc của các em chủ
yếu là lao động giản đơn, phổ thông. Do đó, nếu khấu trừ thu nhập của người
chưa thành niên phạm tội thì quyết định của Tòa án sẽ không có tính khả thi,
đồng thời không đạt được mục đích của hình phạt khi xử lí người chưa thành
niên phạm tội theo mục đích của luật là việc xử lí người chưa thành niên phạm
tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở
thành công dân có ích cho xã hội.
Thời gian để được xét giảm thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam
giữ đối với người chưa thành niên là sớm hơn so với người thành niên. Đó là khi
người chưa thành niên đã chấp hành được ¼ thời hạn cải tạo không giam giữ thì
được xét giảm hình phạt. trong trường hợp người CTN lập công, có nhiều thành
tích hoặc mắc các bệnh hiểm nghèo thì được cơ quan nhà nước, tổ chức, chính
quyền địa phương nơi người đó cư trú xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt
ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại (nghị định số
60/200/NĐ-CP ngày 30/10/2010 của chính phủ quy định về việc thi hành hình
phạt cải tạo không giam giữ).
4. Tù có thời hạn
Tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại
Điều 101 Như sau:

Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được
quy định như sau:
“1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình
phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều
luật quy định;
2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật
được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt


cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình
phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật
quy định.”
Trong số hình phạt có thể áp dụng với người chưa thành niên phạm tội thì
hình phạt tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc nhất. tính nghiễm khắc của
hình phạt này thể hiện ở chỗ, buộc người chưa thành niên bị kết án phải cách li
khỏi xã hội, môi trường sống, học tập và hoạt động bình thường của họ trước khi
bị kết án trong một thời gian nhất định. Đồng thời, buộc họ phải lao động, học
tập và cải tạo trong trại giam theo chế độ lao động, cải tạo mà nhà nước đã quy
định để trở thành công dân có ích cho xã hội.
Hình phạt tù có thời hạn chỉ có thể áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội trong trường hợp thật sự cần thiết khi áp dụng các biện pháp khác tỏ ra
không hiệu quả. Trong thực tiễn xét xử,việc tòa án áp dụng hình phạt tù có thời
hạn đối với người chưa thành niên phạm tội phải căn cứ vào tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi , đặc điểm nhân thân của người phạm tội, những tình tiết
tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như môi trường sống có nhiều
ảnh hưởng xấu, bất lợi đến việc cải tạo, giáo dục người chưa thành niên phạm tội
thì nhất định phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với họ.
Một trong những chính sách hình sự nhân đạo của nhà nước Việt Nam là

không xử phạt tù chung thân và tử hình đối với người CTN phạm tội, cũng như
khi xử phạt tù có thời hạn, tòa án cho người CTN phạm tội được hưởng mức án
nhẹ hơn mức án áp dụng với người đã thành niên phạm tội khi có các tình tiết
khác tương đương được quy định tại điều 101 BLHS 2015.
Luật thi hành án hình sự cũng có những quy định riêng đối với người chưa
thành niên phạm tội như sau:
- Phạm nhân là người chưa thành niên được giam giữ theo chế độ riêng
phù hợp với sức khỏe, giới tính và đặc điểm nhân thân.
- trai giam có trách nhiệm giáo dục phạm nhân là người CTN về văn hóa,
pháp luật và dạy nghề phù hợp với độ tuổi, trình độ văn hóa, giới tính và sức


khỏe, chuẩn bị điều kiện để họ hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án
phạt tù. Thực hiện bắt buộc học chương trình tiểu học, phổ cập trung học và cơ
sở học nghề.
- phạm nhân là người chưa thành niên được lao động ở khu vực riêng và
phù hợp với độ tuổi, không phải làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp
xúc với các chất độc hại.
Những quy định trên vừa thể hiện chính sách nhân đạo đối với phạm nhân
là người CTN, mặt khác còn nhằm bảo vệ, cách li các em với các phạm nhân đã
thành niên nhằm tránh khả năng bị ảnh hưởng xấu từ các đối tượng này.
Việc dạy văn hóa, dạy nghề cho các trẻ em CTN phạm tội là một trong những
chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước, với mục đích nhằm loại trừ các
nguyên nhân phạm tội cũng như tạo ra các điều kiện cần thiết để các em có thể
tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong hình phạt tù.
Ví dụ về hình thức xử phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
Vụ án Lê Văn Luyện
Lê Văn Luyện là một vụ án giết người cướp của xảy ra tại tiệm vàng Ngọc
Bích (Phương Sơn, Lục Nam) ngày 24 tháng 8 năm 2011. Trong vụ án này, sát
thủ Lê Văn Luyện đã giết chết cả vợ chồng chủ tiệm vàng cùng con 18 tháng

tuổi. Con gái lớn của họ 8 tuổi bị chém đứt tay. Đây là vụ án rất nghiêm trọng
gây xôn xao trong dư luận và ảnh hưởng đến trật tự an ninh tại địa phương cũng
như những ý kiến về cần sửa đổi luật phòng chống tội phạm. Lê Văn Luyện khét
tiếng vì phạm tội khi chưa đến 18 tuổi (17 tuổi, 10 tháng 6 ngày). Do vậy khi bị
kết án Luyện chỉ bị mức án nặng nhất là 18 năm tù theo luật pháp của Việt Nam
tại thời điểm đó. Theo quy định của Luật hình sự việt Nam hiện hành thì hành vi
giết người của Lê Văn Luyện là hành vi tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tuy
nhiên, hình thức xử phạt nặng nhất đối với người chưa thành niên phạm tội là 18
năm tù.có thể thấy, hành vi của Luyện và quyết định của tòa đã cho thấy nhiều ý
kiến trái chiều tới từ phía công chúng. Tuy nhiên, xét vào những yếu tố về tinh
thần, sự nhận thức của người chưa thành niên mà việc áp dụng hình phạt đối với


người chưa thành niên cũng có sự khoan hồng hơn nhằm giúp các em có thể có
cơ hội sửa chữa những sai lầm của mình.


KẾT LUẬN
Như vậy thông qua việc phân tích tìm hiểu về “các hình thức xử phạt
được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.” ta có thể thấy được vai
trò quan trọng của việc quy định các hình thức xử phạt đối với người chưa
thành niên, giúp các nhà làm luật phân tích, đánh giá hoàn thiện các quy định
của pháp luật liên quan đến các loại tội phạm do người chưa thành niên thực
hiện trong thực tiễn.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tập bài giảng môn học: Tư pháp đối với người chưa thành niên, Bộ Tư
Pháp, Trường Đại Học Luật Hà Nội.
2. Bộ luật hình sự 2015, NXB Lao động

3.Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, NXB Công An Nhân Dân, Trường
Đại Học Luật Hà Nội.
4. />5. />


×