Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Chứng minh những phán quyết của tòa án công lý quốc tế có vai trò quan trọng trong việc hình thành và viện dẫn quy phạm điều ước và quy phạm tập quán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (37.44 KB, 3 trang )

A. Đặt vấn đề
B. Giải quyết vấn đề.

Toà án Công lý Quốc tế (International Court of Justice – ICJ) là một cơ quan trực
thuộc Liên Hợp quốc, được thành lập vào năm 1945 với tiền thân là Toà án Thường
trực Công lý Quốc tế (Permanent Court of International Justice) có từ năm 1922. Tòa
án Công lý quốc tế có 192 quốc gia thành viên. Toà án Công lý Quốc tế chỉ thụ lý các
vụ việc tranh chấp giữa các quốc gia và không có quyền xét xử cá nhân, vì việc này là
trách nhiệm của Tòa án Tội phạm Quốc tế. Tòa án Công lý Quốc tế tọa lạc tại cung
điện Hòa Bình, thành phố Hague, Hà Lan.
Toàn thể tòa gồm một hội đồng 15 thành viên thẩm phán độc lập, trong đó không
thể có 2 thành viên có cùng quốc tịch. Những thành viên được chọn sẽ trở thành đại
diện cho hệ thống pháp luật thế giới. Nhiệm kỳ của tòa là 9 năm, không hạn chế việc
tái đắc cử miễn là đảm bảo quy tắc không có hai thẩm phán cùng quốc tịch. Một phần
ba tòa được bầu lại mỗi 3 năm và trong 5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an
LHQ, mỗi nước luôn có một thẩm phán đại diện trong tòa. Vấn đề được quyết định
theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, và mọi phán quyết được đưa ra là phán
quyết cuối cùng, không phải phúc thẩm. Để bảo đảm tính công bằng trong xét xử,
Quy chế của ICJ có quy định về việc: nếu một bên tham gia tranh tụng có thẩm phán
của quốc gia mình là thành viên của Tòa thì bên kia có quyền chọn thêm một thẩm
phán ad-hoc. Trường hợp cả hai bên tranh tụng không có thẩm phán của quốc gia
mình thì mỗi bên sẽ được chọn thêm một thẩm phán ad-hoc cho mình. Thẩm phán adhoc tốt nhất nên chọn một trong những thẩm phán có tên trong danh sách ứng cử
thành viên của ICJ. Các thẩm phán ad-hoc trong quá trình xét xử có quyền và nghĩa
vụ như thẩm phán thành viên của ICJ.
Những vụ việc được đưa ra ICJ được giải quyết theo luật quốc tế. Luật áp dụng tại
Tòa được quy định tại điều 38(1) Quy chế Toà án Công lý quốc tế (Statute of
International Court of Justice). Theo đó, luật áp dụng gồm:
1


- Các công ước quốc tế qui định về những nguyên tắc được các bên tranh chấp thừa


nhận.
- Các tập quán quốc tế với tính chất là những chứng cứ thực tiễn chung được thừa
nhận như những qui phạm pháp luật.
- Các nguyên tắc đã được hình thành từ lâu đời được các quốc gia văn minh thừa
nhận.
- Các nghị quyết xét xử (mang tính chất án lệ quốc tế) và các học thuyết của các
chuyên gia có uy tín về luật pháp quốc tế của các nước khác nhau cũng có thể được
coi là nguồn bổ trợ để xác định các qui phạm pháp luật phục vụ cho công tác xét xử
của Tòa án quốc tế.
Các phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế chỉ mang ý nghĩa chính trị hơn là có
hiệu lực thi hành, và mọi việc đều tùy thuộc vào thiện chí của các nước. Theo lý
thuyết, nếu một bên từ chối thi hành phán quyết của tòa, vấn đề có thể được chuyển
lên cho Hội đồng Bảo an LHQ xử lý, nhưng việc này thường lâm vào bế tắc vì năm
thành viên thường trực thường xuyên sử dụng quyền phủ quyết.
Trong đời sống quốc tế, tồn tại nhiều loại tòa án khác nhau như: Tòa án công lý quốc
tế của Liên hợp quốc, Tòa án nhân quyền Châu Âu, Tòa án luật biển, Tòa án Châu
Âu… Tuy nhiên, khi nói đến phán quyết của tòa án với vai trò là nguồn bổ trợ của
Luật quốc tế chúng ta chủ yếu đề cập đến các phán quyết của tòa án công lý quốc tế.
Bản thân các phán quyết là kết quả của quá trình áp dụng pháp luật của tòa án trong
quá trình giải quyết tranh chấp quốc tê, và các quyết định tài phán này chỉ có giá trị
rành buộc đối với các bên tranh chấp. Điều 59 Quy chế Tòa án quy định “ Quyết định
của tòa án có giá trị bắt buộc chỉ đối với các bên tham gia vụ án và chỉ đối với các vụ
án cụ thể đó”. Sở dĩ các phán quyết này không thể trở thành nguồn cơ bản của Luật
quôc tế vì các nguồn cơ bản phải được hình thành trên cơ sở của sự thỏa thuận giữa
các chủ thể Luật quốc tế.
2


Vai trò của các phán quyết: Từ một quy tắc, quy phạm chưa được giải thích còn chung
chung, mơ hồ, khó hiểu, sau khi được các thẩm phán có trình độ và uy tín cao giải

thích, các quy tắc, quy phạm Luật quốc tế sẽ trở lên rõ ràng, sáng tỏ hơn. Đây là đóng
góp quan trọng của các phán quyết của tòa án quốc tế đối với quá trình giải thchs Luật
quốc tế và tạo tiền đề cho sự hình thành các quy phạm mới. (Ví dụ: Trong vụ tranh
chấp giữa Nauy và Anh, phán quyết của tòa trong trường hợp này đã tạo tiền đề cho
sự hình thành quy phạm về việc xác định đường cơ sở thẳng đối với các quốc gia có
đường bở biển khúc khuỷu trong quan hệ quốc tế liên quan đến biển)

3



×