Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận kinh tế công cộn vấn đề tăng học phí những giải pháp và biện pháp khắc phục đối với những sinh viên nghèo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.74 KB, 18 trang )

Môn: Kinh tế học công cộng

I.

Đại học Thương mại

LỜI MỞ ĐẦU

Hàng hóa công cộng là hàng hóa mang hai tính chất: không cạnh
tranh và không thể loại trừ. Đối lập với hàng hóa công cộng là hàng hóa tư
nhân không mang hai tính chất trên.
Giáo dục được coi là hàng hoá công cộng vì nó đáp ứng được cả hai
tính chất trên.
Mặc dù trong nền kinh tế thị trường sản phẩm của giáo dục cũng được
coi là một loại hàng hóa, nhưng tính chất đặc biệt của nó đã làm cho vấn đề
cung cấp và sử dụng hiệu quả đã trở nên phức tạp hơn nhiều so với các loại
hàng hóa thông thường. Điểm khác biệt của giáo dục ở chỗ, nó là một loại
hàng hóa công, mọi người đều có thể dùng chung một chương trình giáo
dục, - nhưng tri thức chung của nhân loại, và do vậy nhu cầu được hưởng
thụ ngày càng tăng. Giáo dục cũng có tính chất của phương tiện sản xuất, có
nhiều bất đối xứng thông tin, ngoại tác tích cực và còn có thuộc tính xã hội,
nhưng lại không bị tác động bởi năng suất lao động. Quan trọng hơn, giáo
dục là công cụ hữu ích để thực hiện phân phối lại thu nhập, và đây là chức
năng bao trùm, đảm bảo sự tồn tại và phát triển, hiện thực hóa quyền bình
đẳng về cơ hội vào đời và tạo dựng cuộc sống của mỗi cá nhân trong xã hội.
Người nghèo là khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập
bình quân trên đầu người hàng năm (Per Capita Incomme, PCI) của quốc
gia.
Xã hội càng phát triển thì sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày
càng lớn. Trong khi có những người mỗi tháng có thể bỏ ra 5-10 triệu đồng
để cho con học ở các trường dân lập, trường quốc tế từ cấp tiểu học và bỏ ra


vài trăm triệu tới vài tỉ đồng để cho con đi du học tự túc ở Singapore,
Australia, Mỹ, Pháp... thì với phần lớn người dân hiện nay, chi phí học hành
Nhóm 16 - Lớp K7HK12

1


Môn: Kinh tế học công cộng

Đại học Thương mại

của con em họ luôn là nỗi ám ảnh bởi đã chiếm một phần không nhỏ ngân
sách gia đình.
Ở Việt Nam, với hai vợ chồng sống bằng đồng lương công chức, để
nuôi được hai đứa con đi học đã phải thắt lưng buộc bụng mới có thể đảm
bảo được cuộc sống. Công chức còn như vậy thì với nông dân, nuôi được
một đứa con học đại học thực sự là một kỳ tích vì để học và sống được ở Hà
Nội cần ít nhất 1,5 triệu đồng/ tháng, mà số tiền ấy bằng nửa tấn thóc...
Vì vậy vấn đề tăng học phí hiện nay cần được nghiên cứu và xem xét
nhằm đảm bảo sự công bằng trong xã hội. đồng thời cần có những giải pháp
và biện pháp khắc phục đối với những sinh viên nghèo.

Nhóm 16 - Lớp K7HK12

2


Môn: Kinh tế học công cộng

Đại học Thương mại


II. QUAN ĐIỂM NHẬN ĐỊNH
Nâng chất lượng giáo dục, cần thiết phải tăng học phí, bên cạnh đó
cần có những chính sách đối với sinh viên nghèo.
Nếu muốn cải cách giáo dục thì nhất thiết phải tăng học phí cho phù
hợp. Rất nhiều người đã mâu thuẫn khi cho rằng thay vì tăng học phí nên
làm điều ngược lại nhưng chính họ cũng là người luôn phàn nàn về chất
lượng giáo dục của nước ta hiện nay. Chính vì vậy có rất nhiều câu hỏi khác
nhau được đặt ra cho ngành giáo dục hiện nay.
Ví dụ như: Có nâng cao chất lượng giáo dục được không nếu mãi duy
trì cách trả lương, trả công cho giảng viên, giáo viên theo kiểu xưa nay
chúng ta làm?
Có nâng cao chất lượng giáo dục được không khi mà trang thiết bị
phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu, học tập… của giảng viên lẫn học
sinh, sinh viên luôn thiếu và lạc hậu?
Có nâng cao chất lượng giáo dục được không khi mà các nhà trường
luôn không đủ khả năng tài chính để mời gọi các chuyên gia, các giáo sư bên
ngoài, các thầy cô giỏi, giảng viên giỏi về giảng dạy cho sinh viên mình?…
Chúng ta cần chất lượng hay số lượng sinh viên tốt nghiệp ngày càng
nhiều nhưng đa số không thể làm được việc gì nếu không được doanh
nghiệp đào tạo lại?
Rõ ràng là bất kỳ chính sách nào của Nhà nước khi ban hành luôn có
tác động tiêu cực nhất định đến một nhóm đối tượng nào đó trong xã hội.
Đối với người nghèo, Nhà nước ta cũng đã có nhiều chính sách quan tâm,
trong đó có cả chính sách đảm bảo cho họ được học hành.
Vấn đề ở đây là bên cạnh chính sách về tăng học phí, Nhà nước cần có
thêm chính sách khác để đảm bảo người nghèo nếu có khả năng học tập vẫn

Nhóm 16 - Lớp K7HK12


3


Môn: Kinh tế học công cộng

Đại học Thương mại

có thể học thành tài như bao người khác trong xã hội. Có như thế, xã hội ta
mới có thể mong đuổi kịp các nước khác
Là sinh viên đại học, chắc hẳn bạn nào cũng muốn có một việc làm
như ý muốn. Thế nhưng, nhiều doanh nghiệp cho rằng trình độ của sinh viên
hiện nay không đủ đáp ứng yêu cầu công việc. Vì thế, một trong những biện
pháp nâng cao trình độ của sinh viên là cải cách, nâng cao chất lượng dạy và
học. Để làm được như vậy, cần phải có kinh phí lớn. Chính vì thế, việc tăng
học phí là một việc chấp nhận được.
Tăng học phí góp phần nâng cao chất lượng. Thêm vào đó, tăng học
phí khiến sinh viên biết quý trọng đồng tiền và ra sức học tập nhiều hơn.
Tăng học phí đại học cần tăng quỹ học bổng để khuyến khích sinh viên
nghèo học tập. Vì thế, một khi sinh viên đã ra sức học tập, có tài năng,
không bao giờ có chuyện làm giảm cơ hội học tập của sinh viên.
Tăng học phí là tăng nguồn lực cho giáo dục để đảm bảo lợi ích của
người học và xã hội về lâu dài là chính.
Mức học phí tăng đồng nghĩa với việc người học phải có sự lựa chọn
kỹ càng hơn, trách nhiệm và nghĩa vụ học tập cũng lớn hơn. Điều đó có
nghĩa họ phải “học sao cho xứng đáng với đồng tiền bát gạo” mà gia đình đã
đầu tư cho họ.
Nếu chỉ dựa vào khoản tiền đầu tư hạn hẹp của ngân sách nhà nước,
tiền học phí của sinh viên… thì thực sự là bài toán khó cho các trường ĐH
công lập.
Vậy nên tăng học phí thời điểm này là cần thiết. Lẽ ra trong nhiều

năm qua học phí giáo dục cũng phải tăng bám theo sự trượt giá chung của
nền kinh tế hoặc dựa trên mức lương tối thiểu.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm em đưa ra những đặc điểm
khác biệt của “hàng hóa giáo dục” đại học như sau:
Nhóm 16 - Lớp K7HK12

4


Môn: Kinh tế học công cộng

Đại học Thương mại

Thứ nhất, giáo dục là một loại hàng hóa công. Trong nền kinh tế thị
trường mọi sản phẩm đều được coi là hàng hóa. Những loại hàng hoá và
dịch vụ được cung cấp trong xã hội có thể chia ra làm hai loại là: hàng hoá
công cộng và hàng hoá tư nhân. Những hàng hoá tư nhân bình thường (ví
dụ như cái bánh, cái xe đạp, chiếc ti vi...) chỉ mang lợi cho người mua và sử
dụng chúng, tức là chi phí cá nhân bỏ ra bằng với lợi ích cá nhân nhận được.
Trong trường hợp này, lợi ích xã hội bằng với lợi ích cá nhân. Đó là những
sản phẩm thông thường hay sản phẩm cá nhân mà thị trường tự do có thể
hoàn toàn tự giải quyết bằng quan hệ cung - cầu một cách tối ưu, tức là sản
phẩm được sản xuất và sử dụng ở điểm mà chi phí biên bằng lợi ích biên.
Mặc dù, giáo dục trong thị trường cũng được cho là một loại hàng hóa,
nhưng không giống như những sản phẩm thông thường mà chúng ta vẫn
thấy. Đối với giáo dục, sự hưởng thụ của tập hợp những người dùng trước
không hề bị giảm đi hay bị tác động bởi những người dùng sau. Việc có
thêm nhiều người trong xã hội cùng thụ hưởng hàng hóa không làm cho lợi
ích của các cá nhân đang tiêu dùng bị ảnh hưởng mà trái lại, còn làm cho
tổng lợi ích của xã hội tăng lên. Thêm vào đó, trong giáo dục đại học, lợi ích

của nó không thể chia nhỏ cho mỗi người sử dụng, mà mọi người đều cùng
dùng chung một chương trình giáo dục, đó là tri thức của nhân loại và cùng
nhau khám phá ra những tri thức mới. Điểm khác biệt độc đáo này được các
nhà kinh tế học cho rằng, giáo dục là một loại hàng hóa công.
Thứ hai, nhu cầu hưởng thụ giáo dục ngày càng tăng. Một vấn đề
quan trọng của giáo dục đại học hiện nay là xu hướng của số đông thanh
niên học sinh muốn vào đại học, bởi vì, thứ nhất là ở thời đại toàn cầu hóa
ngày nay, thị trường luôn luôn biến đổi, kỹ thuật luôn luôn thay đổi, các đòi
hỏi về sản xuất hàng hóa ngày càng cao hơn buộc người lao động, càng ở
cấp bậc cao, càng phải biết cập nhật, mà sự cập nhật này đòi hỏi một kiến

Nhóm 16 - Lớp K7HK12

5


Môn: Kinh tế học công cộng

Đại học Thương mại

thức cơ bản vững chắc. Thứ hai là, thị trường việc làm trong thế giới ngày
nay có đặc điểm là biến đổi liên tục, một con người trong suốt đời mình
thường thay đổi việc làm nhiều lần. Vì vậy, người lao động muốn thích ứng
với nền kinh tế tri thức, xã hội muốn đi tắt đón đầu thì thông qua giáo dục
đại học là con đường ngắn nhất, cho nên hầu hết các cá nhân đều mong
muốn được tiếp cận giáo dục đại học, còn Chính phủ thì không thể không
quan tâm đến vấn đề này.
Thứ ba, giáo dục đại học có tính chất của phương tiện sản xuất. Một
trong những chức năng quan trọng của giáo dục đại học là xác định năng lực
của các cá nhân khác nhau. Khác với hàng hóa cá nhân, giáo dục là dịch vụ

tác động thẳng từ nhà cung cấp (người dạy) đến người tiêu dùng (người
học), và người học có thể lưu giữ kiến thức, coi đó là hình thức tích lũy, là
phương tiện có khả năng tạo ra sức lao động có tri thức và hiệu quả cao hơn
so với trường hợp không có nó. Khả năng cao hơn này thể hiện qua thu nhập
cao hơn. Như vậy giáo dục đại học là phương tiện nâng cao năng suất của
người lao động trong tương lai. Tri thức được bồi đắp trong nhiều năm
tháng, tức là thông qua quá trình tích lũy, cho phép con người phát triển
thêm khả năng cá nhân cho đến ngày có thể sử dụng. Điểm giống với các
loại hàng hóa khác là, trong sản xuất có sự tiêu hao về tài sản vật chất, thiết
bị của nhà trường thì, điều quan trọng hơn giáo dục còn là sự tiêu hao phần
lớn về tâm huyết và tinh lực của những người được giáo dục. Đây chính là
sự khác biệt đáng kể mà không thể coi nhẹ về khả năng tích lũy trong giáo
dục đại học. Tuy nhiên, quá trình tích lũy này là lâu dài, không thể có tiền
mà mua ngay được, và không phải ai cũng mua được, bởi vậy, nên các nhà
kinh tế còn cho giáo dục đại học là phương tiện để sàng lọc.
Điều đó có nghĩa là, sản phẩm của giáo dục mang tính chuyên ngành,
người được giáo dục có quyền sở hữu về tri thức tích lũy của mình. Nền tảng

Nhóm 16 - Lớp K7HK12

6


Môn: Kinh tế học công cộng

Đại học Thương mại

ngành nghề trong giáo dục không chỉ ở trường sở và thiết bị, mà quan trọng
hơn là ở tư tưởng, tri thức, kỹ năng giáo dục và các tri thức, kỹ năng văn hóa
khoa học của người làm công tác giáo dục. Khác biệt về khả năng tích lũy tri

thức của chính bản thân người học đã tạo nên giá trị riêng của giáo dục. Hay
nói một cách đầy đủ, đầu tư cho giáo dục là đầu tư vào tương lai và giáo dục
là sản phẩm có giá trị tích lũy.
Thứ tư, giáo dục có thuộc tính xã hội. Với giáo dục đại học người
được hưởng không chỉ là người mua (sinh viên), mà còn cả gia đình họ cùng
với xã hội thông qua việc đóng góp vào tăng năng suất lao động xã hội. Cho
nên, vấn đề cung cấp hàng hóa, định hình chất lượng sản phẩm, cũng như
xác định giá cả của nó không chỉ do nhà sản xuất quyết định, mà còn phụ
thuộc vào khả năng tiếp nhận của người mua và nhu cầu sử dụng của xã hội.
Điểm đặc biệt nữa của giáo dục đại học là tính toàn vẹn của sản phẩm không
phải chỉ do người cung cấp (nhà trường) quyết định, mà bắt buộc phải có
khả năng tích lũy tri thức của người học và đánh giá chất lượng sản phẩm
thông qua tiêu dùng của xã hội. Tức là, sản phẩm của giáo dục có thuộc tính
xã hội. Điều này được thể hiện rất rõ ở chỗ, có nhiều yếu tố cùng cấu thành
giá thành của sản phẩm (chi phí đơn vị), cho nên giá bán (học phí) không
phải là tín hiệu đầy đủ của thị trường mà thường thường nhỏ hơn giá thành
sản phẩm. Bởi lẽ, trong giá thành sản phẩm luôn luôn có tài trợ của Chính
phủ và cộng đồng. Do vậy, khi nói đến chi phí cho giáo dục mà chỉ nói đến
học phí của người học là không đầy đủ, mà bắt buộc phải tính đến “chi phí
đơn vị” cho một người học.
Thứ năm, giáo dục là sản phẩm không bị tác động bởi năng suất lao
động. Đối với sản phẩm thông thường, công nghệ có thể làm tăng năng suất
lao động, người ta có thể sản xuất cùng một đơn vị sản phẩm với cùng chất
lượng nhưng chi phí lại thấp hơn. Ngược lại, trong giáo dục đại học, khó có

Nhóm 16 - Lớp K7HK12

7



Môn: Kinh tế học công cộng

Đại học Thương mại

thể tăng năng suất lao động của người thầy giáo nhanh như tăng năng suất
của một cái máy và càng không thể mở rộng thị trường theo nghĩa tăng số
sinh viên trên đầu một thầy giáo nếu không muốn giảm chất lượng giáo dục.
Thậm chí phải nói ngược lại, muốn tăng chất lượng giảng dạy mà sự phát
triển kinh tế và khoa học ngày càng đòi hỏi ở mức cao hơn thì phải giảm số
học sinh trên một thầy giáo, tăng số lượng thầy giáo với chuyên ngành khác
nhau vì không thể có được một thầy giáo uyên bác có khả năng nắm bắt
được kiến thức trong mọi lĩnh vực, ngành nghề. Do vậy, để đáp ứng được
chất lượng giảng dạy, người thầy giáo đã phải tăng đầu tư về thời gian, tiền
bạc, vật chất, cũng như trí lực cho đào tạo và tự đào tạo vì tính phức tạp của
khoa học hiện nay đòi hỏi.
Không thể tăng nhanh năng suất của thầy giáo, nhưng lương của người
thầy giáo lại phải tăng theo với mức tăng mặt bằng năng suất lao động của
cả nền kinh tế nếu muốn giữ thầy giáo trong ngành giáo dục. Thêm vào đó,
các loại thiết bị, phương tiện, công cụ, sách vở cho việc dạy và học ngày
càng tinh vi hơn, nhiều hơn và do đó giáo dục sẽ tốn kém hơn trước. Nếu
như, hai thập kỷ trước đây, thầy giáo và sinh viên có thể gặp nhau trên giảng
đường chỉ bằng bảng đen và phấn trắng thì cũng có thể thực hiện được
nhiệm vụ dạy và học. Ngày nay, tài liệu học mở ngày càng nhiều sinh viên
cần phải biết, và phải có phương tiện để truy cập mạng internet để đáp ứng
nhu cầu học tập cao hơn, thầy giáo cũng cần phải biết sử dụng công cụ như
máy chiếu trong giảng dạy thì mới đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng
tăng. Từ đó, sẽ dẫn đến chi phí đơn vị cho một sinh viên ngày càng tăng.
Như vậy, nếu để cá nhân tự chi trả cho giáo dục thì sẽ có rất ít người sẵn
sàng mua và có đủ thu nhập để mua dịch vụ giáo dục. Tất cả những điều này
đưa đến một kết quả quan trọng là đầu tư vào giáo dục đại học cho một con

người ngày càng lớn, tức là chi phí bình quân cho một đơn vị sản phẩm

Nhóm 16 - Lớp K7HK12

8


Môn: Kinh tế học công cộng

Đại học Thương mại

trong giáo dục ngày càng tăng, chứ không phải ngược lại như đối với hàng
hóa thông thường, và do vậy không thể không có sự tài trợ của Nhà nước.
Thứ sáu, trong giáo dục có nhiều bất đối xứng thông tin. Bất đối xứng
thông tin hay tình trạng xuất hiện trên thị trường khi một bên nào đó tham
gia vào giao dịch có được thông tin đầy đủ hơn bên kia về các đặc tính của
sản phẩm. Giáo dục đại học là một loại hàng hóa có bất đối xứng thông tin
và được thể hiện cả từ phía nhà cung cấp và người tiêu dùng. Lựa chọn
nghịch và tâm lý ỷ lại xảy ra trong giáo dục đại học được thể hiện, ngay từ
khâu chọn trường, người học đã không có những cơ sở thông tin đầy đủ và
chính xác về chất lượng đào tạo, đội ngũ giáo viên giảng dạy, cũng như cơ
sở vật chất của trường có tương xứng với học phí mà họ phải trả hay không?
Do vậy, các trường đại học công lập luôn là sự lựa chọn hàng đầu của phần
lớn học sinh, không chỉ vì học phí thấp mà còn có lý do an toàn do thiếu
thông tin hoặc thông tin không đầy đủ. Thứ hai, bất đối xứng thông tin trong
lựa chọn ngành nghề đào tạo sẽ ảnh hưởng đến cơ hội tìm kiếm việc làm của
người tiêu dùng sau khi ra trường như: xác suất tìm kiếm được việc làm theo
ngành nghề, khả năng làm việc có hiệu quả, có năng suất, mức thu nhập có
thể đảm bảo bù đắp được những chi phí đầu tư cho học tập trong thời gian
bao nhiêu lâu? Thứ ba, ngay chính người tiêu dùng cũng không hiểu được

khả năng của mình có thể nội hóa được những tri thức ở bậc học, cấp học
cao hơn như thế nào. Cuối cùng, đầu tư vào hàng hóa này có tính rủi ro cao
vì không ai biết được mình sẽ sống được bao lâu, sức khoẻ tốt xấu như thế
nào và thu nhập sau này ra sao để đánh giá rõ được thu nhập trong tương lai
có đủ trang trải cho chi phí mà mình đã đầu tư vào giáo dục hiện tại hay
không. Tất cả những điều này, dẫn đến việc mua hàng có thể theo số đông,
theo xu thế của trào lưu, theo sở thích cá nhân khiến cho nhu cầu ảo tăng lên
và phí tổn xã hội rất lớn vì cùng xuất hiện cả lựa chọn nghịch và tâm lý ỷ lại.

Nhóm 16 - Lớp K7HK12

9


Môn: Kinh tế học công cộng

Đại học Thương mại

Do vậy, các nhà kinh tế cho rằng, thị trường giáo dục là thị trường của niềm
tin.
Tâm lý ỷ lại trong giáo dục đại học còn thể hiện ở chỗ, khi người học
đã vào được đại học, nếu cơ chế sàng lọc của cơ sở đào tạo không hiệu quả,
nếu những tiêu cực và bất cập về quản lý khiến nhiều người nghĩ rằng vận
may hoặc tiền bạc có thể thay cho khả năng học tập và giúp họ vượt qua
được các kỳ sát hạch trong tích lũy tri thức thì nhu cầu ảo, chất lượng ảo
trong giáo dục đại học lại càng tăng lên. Nếu hệ thống giáo dục chỉ coi trọng
thi cử, quan tâm đến đầu vào mà không áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt
trong kiểm soát học tập thì tâm lý ỷ lại trong giáo dục đại học lại càng thể
hiện rõ, đây cũng là nguyên nhân có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng
của hàng hóa. Trong trường hợp này, chỉ có sự can thiệp tích cực của Nhà

nước mới là công cụ hiệu quả nhất khắc phục được những khiếm khuyết của
thị trường.
Thứ bẩy, hàng hóa giáo dục có ngoại tác tích cực. Việc nâng cao chất
lượng giáo dục không chỉ làm tăng lợi ích cho riêng một cá nhân hay một
nhóm người riêng lẻ mà điều đó còn làm tăng lợi ích cho cả cộng đồng xã
hội. Sáng tạo chính là đặc tính mới của giáo dục đại học. Như vậy, khi cá
nhân tham gia vào học đại học như công cụ đem lại lợi ích cho cá nhân thì
vô tình anh ta cũng đồng thời đáp ứng cho lợi ích xã hội. Nghĩa là lợi ích xã
hội do giáo dục tạo ra luôn luôn lớn hơn lợi ích cá nhân nhận được. Nhưng
giá thành tạo ra chúng cao hơn nhiều so với giá người mua sẵn sàng trả, cho
nên, nếu để cho thuận mua vừa bán trên thị trường, tức là người mua phải trả
chi phí bằng với chi phí xã hội, mà lợi ích cá nhân lại ít hơn thì có nhiều
người sẽ không mua chúng, hoặc mua ít hơn mức cần thiết của xã hội.
Nói theo ngôn ngữ kinh tế, ngoại tác tích cực trong trường hợp này thì:
lợi ích xã hội luôn luôn lớn hơn lợi ích cá nhân. Do đó, tổng lợi ích xã hội sẽ

Nhóm 16 - Lớp K7HK12

10


Môn: Kinh tế học công cộng

Đại học Thương mại

tăng lên nếu như sản phẩm được sản xuất nhiều hơn, như vậy đòi hỏi chi phí
cao hơn, tức là ở điểm: lợi ích xã hội bằng với chi phí cá nhân (bằng lợi ích
cá nhân) cộng với phần bù lỗ của Nhà nước. Đối với hàng hóa có ngoại tác
tích cực như giáo dục, thị trường tự do sẽ không tự nó cung cấp đủ nhu cầu
cho xã hội. Để đáp ứng được nhu cầu chung, khi mà lợi ích xã hội lớn hơn

lợi ích cá nhân và do đó lớn hơn chi phí cá nhân, Nhà nước cùng cộng đồng
phải bù đắp thêm vào chi phí cá nhân.
Những ngoại tác tích cực có thể kể ra là, với doanh nghiệp, khi sử
dụng lao động có trình độ cao thì sẽ có năng suất lao động cao, sản phẩm
làm ra có chất lượng, có sức cạnh tranh trên thị trường, tức là giá trị thặng
dư của doanh nghiệp sẽ tăng lên, cùng với lợi nhuận gia tăng. Những cá
nhân được giáo dục đào tạo tốt hơn sẽ, - có thông tin đầy đủ hơn, có thu
nhập cao hơn và có khả năng đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Nhà nước thu
lợi từ giáo dục cao hơn qua: chi phí ít hơn cho trợ cấp thất nghiệp và phúc
lợi xã hội, chi phí ít hơn cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe, thu được nhiều thuế
thu nhập hơn. Quan trọng hơn cả, giáo dục-đào tạo tốt hơn dẫn đến kinh tế
tăng trưởng cao hơn, phát triển xã hội bền vững hơn. Càng có nhiều người
lao động giỏi, càng có nhiều phát minh, sáng chế, sáng kiến và tác động lan
tỏa thì sẽ tạo ra càng nhiều sản phẩm mới với những tính năng, tác dụng
mới.
Như vậy, giống như những loại hàng hóa khác, sản phẩm của giáo dục
cũng còn có thể trao đổi theo nguyên tắc quan hệ thị trường, nghĩa là mang
tính kinh doanh. Nhưng, đối với giáo dục chuyên ngành thì, trường học là
một nhà sản xuất có “sản phẩm” của mình, đó là những con người có tố chất
và năng lực nhất định. Do đó, nó có thể thông qua những phương thức nhất
định để tiến hành kinh doanh, tự chủ để trao đổi với xã hội, thực hiện sự

Nhóm 16 - Lớp K7HK12

11


Môn: Kinh tế học công cộng

Đại học Thương mại


chuyển hóa giá trị, từ đó phát triển và làm cho chính bản thân người được
giáo dục lớn mạnh không ngừng.
Khi nói rằng, giáo dục biến con người tự nhiên thành con người xã
hội, có tố chất và năng lực nhất định, thành con người tạo nên giá trị - yếu tố
của sức sản xuất. Hay nói cách khác, giáo dục đã hình thành nên “vốn nhân
lực”. Đặc biệt là trong nền sản xuất xã hội hiện đại, vốn nhân lực là nhân tố
cực kỳ quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế quốc dân. Đầu tư vào vốn con
người có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với việc đầu tư vốn cho sự
vật. Cho nên, đầu tư cho giáo dục không thể là một loại đầu tư mang tính
tiêu dùng thuần túy, mà là một loại đầu tư sản xuất tiềm tàng, tức chính là
đầu tư cho tương lai.
Xét trên bình diện quốc gia, giáo dục có một vai trò rất lớn, lớn tới
mức, nó có thể ảnh hưởng đến sự tồn vong của cả một dân tộc. Bởi vì, giáo
dục chính là trụ cột của một đất nước để tạo dựng, giữ gìn và phát triển hệ
giá trị xã hội. Nền giáo dục có tốt thì mới góp phần tạo dựng, bảo vệ được
một hệ giá trị nhân bản, phù hợp với đặc trưng tốt đẹp của dân tộc đó và vì
vậy mới có đủ sức mạnh làm nền tảng cho xã hội phát triển, hưng thịnh.
Ngược lại, với một nền giáo dục kém và hệ quả đi kèm với nó, hệ giá trị yếu
thì dân tộc đó khó có sức bật đi lên.
Chính vì vậy, trong quá trình toàn cầu hóa ngày nay, nhiều quốc gia
phát triển phương Tây lại càng chú trọng đến phát triển giáo dục, coi đấy
như một nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước trong việc giữ gìn bản sắc dân
tộc. Các quốc gia ý thức rất rõ rằng, trong thế giới ngày càng trở nên
“phẳng” và mọi thứ đều giống nhau, một dân tộc muốn “nhận diện” được so
với các dân tộc khác chỉ có thể dựa vào bản sắc dân tộc và nếu bản sắc dân
tộc không còn thì điều đó đồng nghĩa với thảm họa dân tộc ấy sẽ bị xóa sổ,
bị hòa tan.

Nhóm 16 - Lớp K7HK12


12


Môn: Kinh tế học công cộng

Đại học Thương mại

Chính yếu tố lợi ích ngoại tác đem đến cho cộng đồng của giáo dục
đại học là một trong các yếu tố quan trọng trong hình thành cơ sở cho việc
Chính phủ tham gia vào đầu tư cho giáo dục đại học. Hay nói một cách đầy
đủ, điểm khác biệt cơ bản của giáo dục (hàng hóa công) so với các loại hàng
hóa cá nhân bình thường khác, là lợi ích ngoại sinh của nó.
Thứ tám, giáo dục là công cụ quan trọng để thực hiện phân phối lại
thu nhập. Thị trường không có trách nhiệm và không thể phân phối thu nhập
theo nguyên tắc công bằng cho tất cả mọi người. Khả năng tiếp cận giáo dục
đại học của từng cá nhân là không giống nhau, trong đó có tác động từ yếu
tố thu nhập cá nhân. Việc hình thành thị trường giáo dục hoàn toàn vận động
theo quy luật của thị trường sẽ làm cho số đông không thể tiếp cận được với
hàng hóa. Nhất là khi thị trường hoàn toàn tự quyết định vấn đề cung cấp thì
khả năng những cá nhân được học đại học chỉ là những người có thu nhập
cao và mới có thể chi trả hoàn toàn chi phí cho giáo dục đại học. Yếu tố thu
nhập của gia đình làm cho mỗi cá nhân có cơ hội tiếp cận giáo dục sớm hay
muộn, chất lượng của việc học tập ra sao, hay trang thiết bị đồ dùng học tập
khác nhau cũng ảnh hưởng đến lợi ích của cá nhân đó nhận được từ nền giáo
dục cũng khác nhau. Chính điều này làm cho cơ hội tiếp cận được giáo dục
đại học của cá nhân thu nhập thấp, ít hơn nhiều so với cá nhân có thu nhập
cao. Để giảm thiểu tối đa mức chênh lệch lợi ích thụ hưởng giữa người giàu
và nghèo trong giáo dục, các quốc gia khác nhau sẽ có những phương cách
vận dụng khác nhau trong trợ cấp cho giáo dục đại học nhằm tạo điều kiện

cho sinh viên thuộc diện nghèo khó khăn có thêm nhiều cơ hội nhận được
chất lượng học tốt nhất so với các sinh viên khá giả. Việc phân phối lại lợi
ích trong giáo dục đại học không thể do thị trường điều tiết mà phải có sự
can thiệp của Chính phủ. Điểm khác biệt nổi trội của giáo dục đại học so với
các loại hàng hóa cá nhân khác chính là ở chỗ, thực hiện được nhiệm vụ
phân phối lại thu nhập thông qua sản xuất và tiêu dùng.
Nhóm 16 - Lớp K7HK12

13


Môn: Kinh tế học công cộng

Đại học Thương mại

Đây là chức năng bao trùm của giáo dục, mang một nhiệm vụ không
kém phần quan trọng. Đó là đảm bảo sự tồn tại và phát triển, hay cụ thể hơn
là hiện thực hóa quyền bình đẳng về cơ hội vào đời và tạo dựng cuộc sống
của mỗi cá nhân trong xã hội. Bởi vì, để đạt được điều đó thì họ phải có cơ
hội, ai cũng như ai, tiếp thu những giá trị, tri thức và kỹ năng mà nền giáo
dục đã đem lại cho họ.
Nếu có tăng thì nên tăng vừa phải, đồng thời minh bạch các khoản thuchi: Dự án sử dụng hết bao nhiêu tiền; sử dụng tài chính có hiệu quả không.
Ngoài ra, tăng học phí phải làm từ từ, có lộ trình hẳn hoi để người dân không
cảm thấy sốc với mức đóng mới. Chúng ta đừng tạo ra một thể chế chỉ có
người giàu mới học được, còn người nghèo thì không.
 Tuy nhiên đề án tăng học phí không có nghĩa là tất cả đều phải
tăng. Phải cân nhắc các mức độ cho phù hợp với xã hội, phù hợp với mức
sống hiện nay của nhân dân.Nếu được mở rộng khung học phí, thì có thể thu
được học phí cao của một số đối tượng có thu nhập cao, yêu cầu đào tạo chất
lượng cao. Làm như vậy, sẽ có điều kiện bù đắp cho những đối tượng nghèo.

Tăng học phí phải gắn với minh bạch hoá, công khai hoá việc thu chi
tài chính của các cấp quản lý giáo dục, cùng với đó là thay đổi cách làm giáo
dục, tư duy giáo dục. Chủ trương tăng học phí cần được sự đồng thuận, nhất
trí, tin tưởng từ phía người dân thì sự nghiệp giáo dục mới đạt được hiệu
quả.
Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, năm 2006, chi bình quân cho 1 học
sinh, sinh viên ở Việt Nam là 723 USD, bằng 1/4 của Thái Lan và chưa bằng
1/10 của Đức... Năm 2001, tổng thu học phí ở tất cả các cấp giáo dục công
lập từ mầm non đến đại học chiếm 8,2% tổng chi cho giáo dục (gồm chi từ
ngân sách và từ học phí), năm 2005 là 7,3%, năm 2006 là 6,7%, năm 2008 là

Nhóm 16 - Lớp K7HK12

14


Môn: Kinh tế học công cộng

Đại học Thương mại

5,5% và nếu khung học phí hiện nay vẫn giữ đến 2011 thì tỉ lệ này chỉ còn
4%.
Tức là càng ngày đóng góp của học phí vào tổng chi đào tạo ở các
trường càng giảm, năm 2011 chỉ bằng 1/2 năm 2001. Do mất giá đồng tiền,
nên học phí đại học 180.000đ/tháng năm 2008 chỉ có giá trị 90.000đ/tháng
so với năm 1998 khi khung học phí được ban hành.
Với giáo dục mầm non và phổ thông, thực tế trong các năm qua, phần
chi của Nhà nước giữ vai trò quyết định. Tại các trường công lập, phần đóng
góp của người dân qua học phí và chi phí khác chỉ chiếm 7,9% tổng chi phí
đào tạo, phần Nhà nước chi chiếm 92,1%. Nếu kể cả chi của người dân cho

giáo dục ở các trường ngoài công lập, thì tổng chi của người dân chiếm
21,8% tổng chi cho giáo dục ở các trường công lập và ngoài công lập, phần
Nhà nước chi chiếm 78,2%...

Nhóm 16 - Lớp K7HK12

15


Môn: Kinh tế học công cộng

Đại học Thương mại

III. GIẢI PHÁP VÀ KẾT LUẬN
1.

Giải Pháp

Tăng học phí phải đi cùng với chính sách cho vay
Áp dụng đề án đổi mới cơ chế tài chính sẽ có tác động tích cực, công
bằng xã hội cao hơn hẳn trước kia, người nghèo được đảm bảo cơ hội học
tập cho con em tốt hơn trước. Nếu định mức học phí đúng theo chất lượng
của từng trường thì người dân sẵn sàng bỏ tiền để được cung cấp dịch vụ
đào tạo chất lượng cao.
Chất lượng đào tạo được tăng thêm, từ đó làm cho hiệu quả lao động
của người tốt nghiệp cao hơn, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bởi với
việc tăng chi của Nhà nước cho đào tạo (nhất là dạy nghề), Nhà nước chi trả
phần học phí miễn giảm thay cho các đối tượng chính sách được miễn giảm
và học phí đào tạo được tăng thêm, các cơ sở đào tạo có điều kiện vừa đảm
bảo thu nhập của giáo viên, vừa tăng cường cơ sở vật chất, hoàn thiện

chương trình đào tạo, quản lý nhà trường. Đối với những SV nghèo, hoàn
toàn có thể cho vay vốn để học, sau khi ra trường có việc làm sẽ trả dần.
Như vậy sẽ rất công bằng vì với chính sách học phí mới, mọi người sẽ có cơ
hội thụ hưởng một nền giáo dục chất lượng cao hơn. Đại học là nơi đào tạo
để hành nghề, vì vậy, phải để người học có ý thức vay - trả.
Thông qua cơ chế học phí mới và các chính sách khuyến khích xã hội
hóa, sự đóng góp của xã hội cho giáo dục sẽ cao hơn, song luôn đảm bảo
yêu cầu phù hợp với khả năng đóng góp của nhân dân và các nhà đầu tư,
không gây gánh nặng về tài chính cho gia đình người học.
Với mức chi phí cho học phí không vượt quá 6% thu nhập của hộ gia
đình, các hộ có thu nhập khá có khả năng đóng học phí cao hơn trước kia

Nhóm 16 - Lớp K7HK12

16


Môn: Kinh tế học công cộng

Đại học Thương mại

(35.000 đồng/tháng), do đó góp phần tăng đóng góp của người dân vào hệ
thống giáo dục.
Để đảm bảo công bằng, đảm bảo người nghèo cũng được đi học thì
nhà nước nên dành nhiều ngân sách cho học sinh, sinh viên vùng sâu vùng
xa, vùng khó khăn để các em có thêm điều kiện đến trường. Những gia đình
có điều kiện thì có thể tự đóng góp các khoản chi phí cho việc đào tạo.
Trong bối cảnh kinh tế thị trường, đây là cách làm tốt để đáp ứng nhu cầu
cho một bộ phận học sinh có điều kiện có thể "du học" tại chỗ.
chính sách miễn giảm với SV nghèo

Với chủ trương tăng học phí lần này, Nhà nước nên có chính sách cho
những học sinh giỏi sẽ có học bổng cao. Với diện học sinh nghèo được miễn
giảm thì Nhà nước phải bỏ tiền ra cho họ và phải đích thân giám sát việc đó.

2. Kết Luận
Với bất kì quốc gia nào, nền giáo dục chính là bộ mặt thể hiện sự lớn
mạnh về trình độ dân trí của quốc gia đó bên cạnh sự phát triển kinh tế. Dân
trí có cao thì nhận thức mới cao, đồng nghĩa với việc ý thức xã hội sẽ tiến bộ
hơn rất nhiều. Vì vậy vấn đề tăng học phí hiện nay là cần thiết và cho sự
phát triển của xã hội nói chung và ngành giáo dục nói riêng. Bên cạnh đó
Nhà nước cần có những chính sách khác để đảm bảo người nghèo nếu có
khả năng học tập vẫn có thể học thành tài như bao người khác và đảm bảo sự
công bằng trong xã hội. Có như thế, xã hội ta mới có thể mong đuổi kịp các
nước khác.
.

Nhóm 16 - Lớp K7HK12

17


Môn: Kinh tế học công cộng

Đại học Thương mại

MỤC LỤC
Mặc dù trong nền kinh tế thị trường sản phẩm của giáo dục cũng được coi là một loại
hàng hóa, nhưng tính chất đặc biệt của nó đã làm cho vấn đề cung cấp và sử dụng hiệu
quả đã trở nên phức tạp hơn nhiều so với các loại hàng hóa thông thường. Điểm khác biệt
của giáo dục ở chỗ, nó là một loại hàng hóa công, mọi người đều có thể dùng chung một

chương trình giáo dục, - nhưng tri thức chung của nhân loại, và do vậy nhu cầu được
hưởng thụ ngày càng tăng. Giáo dục cũng có tính chất của phương tiện sản xuất, có nhiều
bất đối xứng thông tin, ngoại tác tích cực và còn có thuộc tính xã hội, nhưng lại không bị
tác động bởi năng suất lao động. Quan trọng hơn, giáo dục là công cụ hữu ích để thực
hiện phân phối lại thu nhập, và đây là chức năng bao trùm, đảm bảo sự tồn tại và phát
triển, hiện thực hóa quyền bình đẳng về cơ hội vào đời và tạo dựng cuộc sống của mỗi cá
nhân trong xã hội.................................................................................................................1
Người nghèo là khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu
người hàng năm (Per Capita Incomme, PCI) của quốc gia.................................................1

Nhóm 16 - Lớp K7HK12

18



×